Soạn bài Bài ca ngất ngưởng | Ngữ văn 11 Kết nối tri thức
Xin gửi tới bạn đọc bài viết Soạn văn Bài ca ngất ngưởng Kết nối tri thức để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu soạn văn 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây.
Chủ đề: Bài 9: Lựa chọn và hành động
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Soạn bài Bài ca ngất ngưởng Kết nối tri thức Trước khi đọc
Câu hỏi 1. Theo quan sát của bạn, hiện nay vấn đề "cá tính" được giới trẻ nhìn nhận như thế nào? Bài làm
Cá tính là một phong cách, lối sống khác với mọi người. Cá tính được thể hiện trên
nhiều phương diện như: ăn uống, trang phục,... Con người muốn tồn tại thì nhu cầu
cơm ăn, áo mặc là nhu cầu vô cùng cần thiết. Ăn cho mình, ăn để duy trì sự sống, do
đó ăn trước hết là vì nhu cầu của chính mình. Còn mặc cho người tức là trang phục
trên người mình nhưng lại để cho người khác ngắm nhìn, thậm chí có thể làm khuôn
mẫu cho những người xung quanh học tập.
Mặc đẹp không chỉ làm đẹp cho bản thân mà còn đem đến sự say mê, thích thú tạo
nên thiện cảm cho người khác. Đồng thời thể hiện sự tôn trọng bản thân và mọi
người xung quanh. Cũng chính vì thế mà dân gian có câu "ăn cho mình, mặc cho người".
Nhưng mặc cũng không hẳn là cho người, vì mặc trước hết là cho chính mình, mặc
để bảo vệ cơ thể, để làm đẹp cho bản thân, một người mặc đẹp bao giờ cũng được
người khác ngưỡng mộ. Nó thể hiện gu thẩm mỹ và trình độ văn hóa của mỗi người,
do đó nên hiểu mặc cho mình mà còn cho mọi người. Vì thế mặc sao cho đẹp, sang
trọng, đứng đắn, đúng với điều kiện, hoàn cảnh làm việc. Và điều quan trọng là mặc
thế nào để hòa vào lối sống cộng đồng, làm đẹp cùng cộng đồng, xã hội và dân tộc,
phù hợp với xu thế thời đại. Hiện nay, giới trẻ là đối tượng nhạy bén thời trang nhất,
nó là phần không thể thiếu đối với cuộc sống của họ. Nhưng thời trang của đối
tượng này còn hay bị đưa ra tranh cãi. Với phong cách thời trang hài hòa, phù hợp
giới tính, độ tuổi, và hoàn cảnh giao tiếp thường được mọi người ưa chuộng, được
hưởng ứng, tán đồng. Có phong cách thời trang ăn mặc ấn tượng, bắt chước những
thần tượng của mình, gây sự chú ý, làm nổi bật cá tính.
Tuy nhiên, hiện nay còn tồn tại phong cách ăn mặc thiếu văn hóa, bụi bặm, lập dị,
hoặc quá hở hang khi ra đường, tới những nơi công cộng, công sở gây sự phản cảm,
và đáng chú ý là phong cách này đang chiếm số lượng không nhỏ trong giới trẻ.
Cách mặc thể hiện trình độ văn hóa của mỗi người. Mặc là để làm đẹp cho xã hội,
đường phố. Có ý kiến cho rằng: Nhìn người dân đi trên đường người ta có thể hiểu
nền văn hóa, giáo dục của một đất nước, điều đó hoàn toàn đúng. Qua phong cách
ăn mặc thời trang của giới trẻ, người ta có thể hiểu đất nước đó đang phát triển ở mức độ nào.
Do vậy khi lựa chọn thời trang cần chú ý tới phong cách thời trang sao cho phù hợp
với hoàn cảnh, vóc dáng. Sao cho toát lên vẻ đẹp, sự trẻ trung năng động, cá tính,
phù hợp với xu thế thời đại nhưng không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Câu hỏi 2. Nêu ý nghĩa của bạn khi nghe nhận xét về một người nào đó có "vị trí
cao ngất ngưởng" và khi nghe đánh giá về một ai đó có "thái độ ngất ngưởng". Từ
"ngất ngưởng" trong hai trường hợp trên có giống nhau không? Bài làm
Vị trí cao ngất ngưởng: là một vị trí cao trong xã hội có quyền thế.
Thái độ ngất ngưởng: là một thái độ ngang tàng, vượt thế tục của con người. Trong khi đọc
Câu hỏi 1. Tự thuật của tác giả về hành trang cuộc đời mình:
- "Ngất ngưởng" trên đường công danh;
- "Ngất ngưởng" khi rời chốn quan trường. Bài làm
"Ngất ngưởng" trên đường công danh: chỉ sự thao lược, tài năng, phong cách ngạo
nghễ khi làm quan của tác giả.
"Ngất ngưởng" khi rời chốn quan trường: chỉ sự ngang tàng của ông khi làm dân thường.
Câu hỏi 2. Thái độ, cảm xúc của tác giả khi "tổng kết" về cuộc đời mình. Bài làm
Nguyễn Công Trứ đã tự kể về mình, tự thuật, tự đánh giá về bản thân
+ Giọng điệu tự thuật khảng khái, đầy cá tính
+ Ông ý thức được rõ ràng tài năng, phong cách sống của bản thân
+ Ông tự hào vì có cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội
+ Ông tự hào vì dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễ và danh giáo Sau khi đọc
Câu hỏi 1. Liệt kê những từ ngữ mang tính chất tự xưng của tác giả trong bài hát
nói. Những từ ngữ ấy đã thể hiện được điều gì về phong cách, tư tưởng của Nguyễn
Công Trứ khi tự nhìn nhận về mình? Bài làm
Trong bài thơ tác giả đã sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất tự xưng, đó là: Ông
Hi Văn tài bộ, tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng, phường Hàn Phú. Những cách tự
xưng này đã góp phần thể hiện cái ngất ngưởng, thái độ tự tôn, sự ngông ngạo của
Nguyễn Công Trứ, làm nổi bật hình ảnh cái tôi cá nhân cao ngạo của tác giả.
Câu hỏi 2. Căn cứ vào mạch ý của bài thơ, có thể chia bố cục tác phẩm thành mấy
phần? Nêu ý chính của mỗi phần. Bài làm
- Phần 1 (6 câu thơ đầu): quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan
- Phần 2 (10 câu thơ tiếp): quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu
- Phần 3 (còn lại): quãng đời khi cáo quan về hưu
Câu hỏi 3. Tra từ điển và chỉ ra những nét nghĩa khác nhau của từ "ngất ngưởng".
Căn cứ vào mạch ý của văn bản để xác định ý nghĩa của từ này ở từng trường hợp xuất hiện. Bài làm HS tự làm
Câu hỏi 4. Thái độ sống, phong cách sống "ngất ngưỡng" đã được tác giả thể hiện ở
những phương diện, khía cạnh cụ thể nào? Suy nghĩ của bạn về cách lựa chọn lối
sống, cách ứng xử cũng như cá tính của tác giả. Bài làm
- Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan: đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều
bài thơ, cho rằng con người sinh ra do "ý của trời đất", nên phải có trách nhiệm,
phải gánh vác việc đời.
- Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu: tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”,
tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.
→ Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả
Câu hỏi 5. Nêu nhận xét về phong cách ngôn ngữ của tác giả thể hiện trong bài hát
nói (chú ý các phương diện: cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh; các biện pháp tu từ; vần và nhịp điệu). Bài làm
Ngôn ngữ hát nói của Nguyễn Công Trứ cũng rất đa dạng về nhạc điệu, màu sắc,
đường nét. Nhà thơ sử dụng tiếng Việt hết sức uyển chuyển để khai thác tối đa sức
biểu hiện, biểu cảm của câu thơ quốc âm. Vì vậy, cảm nhận thơ Nguyễn Công Trứ
không nên chỉ bằng ngữ nghĩa, mà còn phải chú ý nhiều phương diện khác như âm điệu, âm hưởng.
Nguyễn Công Trứ sáng tạo ra nhiều câu thơ có chức năng cú pháp như một loại câu
mang tính định nghĩa về chính bản thân. Bài ca ngất ngưởng là một điển hình: Ông
Hy Văn tài bộ… (là vị đã từng): khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…
Khi ca, khi tửu, khi cắc khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục (vậy
cho nên): Trong triều ai ngất ngưởng như ông, (thế mà lại phải)… đã vào lồng.
Hoặc: “Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần/ Bởi vì nhà khó hóa bần thân” (Vịnh cảnh nghèo).
Với thể loại hát nói, ngôn ngữ thơ Nguyễn Công Trứ như phơi bày tất cả con người
ông. Ngôn ngữ ấy có khi cứng rắn, cương nghị, quả quyết, dứt khoát; có khi vui
nhộn; có khi lại tâm tình, buồn rầu, động viên; có khi thô tục; có khi rất “sex”; có
khi lại bình dị đến không ngờ… Tất cả, ở chiều hướng nào, cũng đầy ấn tượng, tràn trề sức sống…
Câu hỏi 6. Trình bày suy nghĩ của bạn về sự hội tụ những yếu tố đối lập trong
phong cách hành xử của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở bài hát nói. Ngoài chủ
đề chính, Bài ca ngất ngưởng còn có chủ đề nào khác? Bài làm
Điệp từ “khi” kết hợp với thủ pháp liệt kê tạo nhịp điệu dồn dập, hứng khởi. Lần
lượt từng học vị hay những chiến tích vang dội được nêu ra đã góp phần vẽ nên
chân dung của một con người tài năng trên nhiều lĩnh vực. Qua sáu câu thơ đầu, nhà
thơ hiện lên với một quan niệm sống đầy cá tính, bản lĩnh mà nền tảng là ý thức,
trách nhiệm và tài năng hơn người.
Bên cạnh đó, lối sống “ngất ngưởng” còn được ông thể hiện khi cáo quan về quê.
Với ông, cáo quan về quê là một sự kiện trọng đại:
“Đô môn giải tổ chi niên”.
Khi nghỉ hưu, người đời thường cưỡi ngựa, còn ông lại cưỡi bò, vừa đeo đạc, vừa
cao ngạo với đời. Từ giã chốn kinh kì, ông ngao du sơn thủy, trút sạch bụi trần. Nhà
thơ đã tự phác họa chân dung mình một cách đầy hài hước:
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Đó đều là những việc làm khác người, khẳng định phong cách sống độc đáo. Bản
lĩnh Nguyễn Công Trứ được thể hiện ngay trong thái độ sống của ông:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc. khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục”.
Hình ảnh “người thái thượng”, “ngọn đông phong” kết hợp với phép đối
“được-mất”, “khen-chê”thể hiện thái độ sống bỏ qua mọi lời đàm tiếu, coi thường
được, mất. Phép liệt kê với điệp từ “khi”, “không” tạo nhịp ngắt linh hoạt. Ông
không tu theo Tiên, nhưng cũng không vướng tục. Tóm lại, Nguyễn Công Trứ tiếp
tục làm rõ bản lĩnh, cá tính qua hình ảnh một con người không đạo mạo, nghiêm
nghị, không rơi vào vòng phàm tục.
Cuối cùng, lối sống ngất ngưởng được thể hiện khi ông tổng kết về cuộc đời mình:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Nguyễn Công Trứ hoàn toàn tự tin khi đã hoàn thành 2 nhiệm vụ quan trọng nhất
của kẻ sĩ: cống hiến tài trí, vẹn đạo vua tôi. Nhà thơ tự đề cao mình qua phép so
sánh đầy ngạo nghễ. Với cổ nhân, ông ngang hàng Trái, Nhạc, Hàn, Phú. Còn với
người đương thời, trong triều, ông là duy nhất. Nhà thơ đã bộc lộ thái độ cao ngạo
đầy ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ hiện ra với tư thế đĩnh đạc, ý thức về bản thân
và giá trị của những hành động do mình làm.
Bài ca ngất ngưởng tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn,
thế thái nhân tình đen bạc.
Câu hỏi 7. Theo bạn, hình ảnh con người nhà Nho nhập thế - hành đạo và hình ảnh
con người phóng túng - tài tử trong bài thơ có tạo nên sự đối lập về nhân cách không? Vì sao? Bài làm
Hình ảnh con người Nho nhập thế - hành đạo và hình ảnh con người phóng túng –
tài tử trong bài thơ không tạo nên sự đối lập về nhân cách mà ngược lại nó còn kết
hợp hài hòa, khẳng định khí khái của một người nam tử.
Một nhà Nho nhập thế - hành đạo nghĩa là họ hòa mình vào thế sự đời, giúp đỡ và
tận hưởng cuộc sống của một người bình thường nhưng mang trong mình những
hiểu biết uyên thâm. Và hình ảnh con người phóng túng – tài tử chính là một phần
của một nhà Nho nhập thế. Họ vào đời bằng cách riêng của mình, vẫn mang theo
những kiến thức uyên bác, thâm sâu ấy, giúp đỡ mọi người xung quanh, tận hưởng
cuộc sống của mình một cách tự do, phóng khoáng. Sự biểu lộ tính cách, suy nghĩ ra
bên ngoài là một phần của cuộc sống và mọi người đều nên như vậy. Nguyễn Công
Trứ là một nhà Nho chính gốc tài giỏi nhưng ông mang trong mình một thói sống
phóng túng, yêu tự do, ghét sự trói buộc… nhưng ẩn sâu trong tâm hồn ông, những
giá trị Nho học luôn hiện hữu, bao gồm cả tinh thần trung quân ái quốc, yêu nước thương dân.
Kết nối Đọc - Viết
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) bàn về cách ứng xử trước sự được mất,
khen chê, may rủi,... mà tác giả đã thể hiện trong Bài ca ngất ngưởng. Bài làm
Trong chúng ta khi sinh ra cũng đều phải học hỏi rất nhiều kiến thức trong cuộc
sống để hoàn thiện mình trong mọi mặt. Trong đó, cách ứng xử là điều vô cùng
quan trọng, nó thể hiện con người chúng ta có phải là người có tri thức, được người
khác tôn trọng và kính nể cũng do cách cư xử của con người mà ra. Cách cư xử
được thể hiện ra bên ngoài bằng những lời nói hành động, cử chỉ, thái độ của chúng
ta với những người xung quanh. Nó thể hiện hành vi trong giao tiếp. Thông qua
cách cư xử trong giao tiếp con người ta có thể đoán được tính cách, đạo đức lối sống
của một con người. Từ đó, có thể có những cái nhìn thiện cảm hoặc không thiện
cảm với một ai đó. Cách ứng xử khôn khéo hòa nhã, sẽ được nhiều người yêu quý,
kính nể tôn trọng. Trong công việc làm ăn kinh doanh bạn dễ dàng thiết lập được
các quan hệ tốt với đối tác. Trong cuộc sống bạn dễ dàng tạo mối quan hệ thân thiết
với những người xung quanh mình, tạo được uy tín, tiếng nói riêng. Trong học tập
khi bạn biết cách cư xử, thì được bạn bè nể phục yêu mến. Giỏi mà không kiêu căng
tự phụ, biết giúp đỡ bạn bè cùng tiến bộ, đó mới là điều đáng trân trọng. Trong xã
hội rất nhiều người thiếu may mắn hơn chúng ta, cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Nhiều người gặp hoàn cảnh khó khăn bần cùng phải đi ăn xin, ăn mày sống cảnh
lang thang đầu đường, nhưng không ít nhà hảo tâm đã giúp đỡ họ tạo cho họ những
mái nhà chung, những nơi che nắng che mưa, tạo công ăn việc làm cho họ.