Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí | Ngữ văn 11 Kết nối tri thức

Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí Kết nối tri thức được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn môn Văn 11 Kết nối tri thức nhé. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Trước khi đọc
Câu hỏi 1. Kể tên một vài tác phẩm văn chương Việt Nam viết về thân
phận bất hạnh của người phụ nữ mà em biết.
Bài làm
Một số tác phẩm như: Chuyện người con gái Nam Xương, Tự tình, Bánh
trôi nước, Chinh phụ ngâm,....
Câu hỏi 2. Qua nhân vật Thúy Kiều, hãy chia sẻ cảm nghĩ của bạn về số
phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Bài làm
Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn
trường" như Vương Thuý Kiều trong “Truyện Kiều”. Ngay từ đầu tác
phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"
đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm,
mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được
sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị
bán đi với cái giá ngoài bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho
hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường
để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình
nhưng cả một kiếp người trôi nỗi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một
trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh
viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích,
những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy
của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ
chảy quanh thân Kiều". Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng
nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi
vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là
quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình.
Những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều
bị trừng trị một cách nghiêm khắc. Số phận vương Thuý Kiều là một tấn
bi kịch, bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ. Nàng phải bán mình chuộc
cha, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần
phải vào lầu xanh, hai lần làm con ở quyền sống và quyền hạnh phúc bị
cướp đoạt nhiều lần. Tấm lòng trong trắng, trinh bạch của người con gái
tài sắc vẹn toàn như bèo dạt mây trôi. Suốt mười lăm năm đoạn trường
lưu lạc, nàng Kiều đã phải chịu biết bao nhiêu cay đắng, tủi nhục dày vò
bản thân. Nỗi đau đớn nhất của nàng là nỗi đau khi phẩm giá của con
người bị chà đạp, lòng tự trọng bị sỉ nhục:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa.
Như cánh bèo trôi trên ngọn sóng, như cánh buồm trôi dạt trên biển
khơi, cuộc đời Kiều trôi dạt, lênh đênh đến tận cùng của bến bờ khổ ải.
Giữa trời cao bể rộng không có chỗ dung thân cho một con người. Dù
con người ấy chỉ có một nguyện vọng đơn giản là được sống bình yên
bên cạnh cha mẹ, được yêu thương chung thủy với người mình yêu.
Kiều là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, xét về nhan sắc. Trong nhân gian
chỉ có Kiều là nhất, còn về tài năng thì ngoài nàng ra may ra có người
thứ hai là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ viết về Kiều có lẽ đã đạt đến
độ cực đỉnh, không còn có một từ ngữ nào có thể miêu tả được về tài sắc
của nàng nữa. Bên cạnh cái tài, cái sắc, Nguyễn Du còn ca ngợi Kiều là
một người có tình có nghĩa. Kiều là một người phụ nữ thủy chung, bị
bán vào lầu xanh nhưng nguyện lấy cái chết để bảo vệ danh tiết cho
mình. Nàng là một người con có hiếu, khi không hề nghĩ đến hạnh phúc
riêng của bản thân mình, sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp gia đình
thoát khỏi cơn hoạn nạn. Kiều làm tròn đạo hiếu, báo đáp công ơn sinh
thành dưỡng dục của mẹ cha. Trong suốt quãng đời lưu lạc dài dằng
dẵng, Kiều không bao giờ cam chịu, không bao giờ chịu khuất phục,
trong ý thức, nàng luôn là “con người chống đối”, là “kẻ nổi loạn”. Nàng
vượt ra khỏi chốn lầu xanh ô nhục của Tú Bà, Bạc Bà, trốn khỏi chốn
“hang hùm nọc rắn” của nhà quý tộc họ Hoạn, cuối cùng đến được với
người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng nàng đã đền ơn, trả oán, minh
bạch, công khai. Kiều là hiện thân của người phụ nữ có khát vọng tự do,
công lý và chính nghĩa.
Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Du đã miêu tả chân
thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về
những người đàn bà bất hạnh, đẹp người đẹp nết này, c nhà văn, nhà
thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm
nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ
hết.
Sau khi đọc
Câu hỏi 1. Theo bạn, nội dung câu 1 và câu 2 của bài thơ có mối quan
hệ logic với nhau như thế nào?
Bài làm
Hình ảnh thơ đối lập giữ quá khứ và hiện tại: Tây Hồ hoa uyển(vườn
hoa bên Tây Hồ) – thành khư (gò hoang).
→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh
cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một
kiếp cô đơn bất hạnh
Hai câu thơ diễn tả tâm trạng của Nguyễn Du trước cảnh hoang tàn,
đó cũng chính là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho số phận của nàng Tiểu
Thanh.
Câu hỏi 2. Chỉ ra và nhận xét mối quan hệ về ý trong hai câu thực
Bài làm
→ Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc
mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị
vùi dập.
→ Hai câu thơ cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh
đồng thời cũng là tấm lòng trân trọng, ngợi ca nhan sắc và đề cao tài
năng trí tuệ của Tiểu Thanh; đồng thời có sức tố cáo mạnh mẽ.
Câu hỏi 3. Phân tích những cảm xúc và suy ngẫm của tác giả được thể
hiện qua hai câu luận.
Bài làm
- “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận
truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.
- Thiên nan vấn: khó mà hỏi trời được.
→ Câu thơ mang tính khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận
của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người
tài hoa trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện sự đau đớn phẫn uất
cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài
thường cô độc.
- Kì oan: nỗi oan lạ lùng
- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du
sống). Nguyễn Du kng đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa mà giờ đây
ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.
Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn
ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ.
Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”
Câu hỏi 4. Chia sẻ suy nghĩ của bạn về tâm sự của Nguyễn Du ở hai câu
kết.
Bài làm
Thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu
khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy
được một người tri kỉ ở quá khư nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng
trong tương lai.
Câu hỏi 5. Qua bài thơ, tác giả đã khái quát về bi kịch chung của những
người tài hoa, phong nhã trong xã hội phong kiến như thế nào?
Bài làm
Bi kịch chung của những người tài hoa, phong nhã trong xã hội phong
kiến là Tài hoa bạc mệnh
Câu hỏi 6. Hãy tìm đọc và giới thiệu một vài tác phẩm viết về đề tài
người phụ nữ của Nguyễn Du.
Bài làm
Một số tác phẩm như: Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh kí, Sở
kiến hành,.....
Kết nối Đọc - Viết
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) so sánh nội dung hai câu luận
của Độc Tiểu Thanh ký với nội dung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Bài làm
Đau đớn thay phận đàn
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Hai câu thơ này được Nguyễn Du viết - lời cảm thán của Kiều khi đứng
trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một người kĩ nữ. Hai câu thơ bật
lên như một lời than thở của Kiều hay cũng chính là của Nguyễn Du
trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng. Lời thơ
như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả, chính Nguyễn Du cũng đã
có những năm tháng phiêu bạt phải chịu cảnh đói, cnahr nghèo, có lẽ vì
thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ
của những người phụ nữ xưa. Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là
tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của ông dành cho những người phụ nữ
Việt Nam xưa - những thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong
kiến đương thời. Hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký, nhà thơ muốn an
ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài
hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều, việc đó chỉ có trời mới hiểu.
Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét
của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã
của người có tài. Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh
mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản
thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm
tri kỉ”.
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Độc Tiểu Thanh
ký (Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
Bài làm
1. Giá trị nội dung:
Bài thơ có sự vận động, phát triển trong mạch cảm xúc từ việc đọc
truyện "xót xa, thương tiếc cho nàng Tiểu Thanh tài sắc mà bạc
mệnh" mà tác giả đã suy nghĩ, tri âm với số phận những người tài
hoa, tài tử và thương cho số phận của chính bản thân mình. Bởi ông
cũng nhìn thấy được tương lai của mình - một con người tài hoa
nhưng cuộc đời chông chênh, gập ghềnh, vất vả.
Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, Nguyễn Du đã đặt ra
vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ. Những con người ấy cần
phải được trân trọng, tôn vinh vì chính những giá trị tinh thần lớn lao
mà họ đã mang đến cho nhân loại chứ không phải là sự chà đạp, vùi
dập cho đến chết.
2. Giá trị nghệ thuật:
Ngôn ngữ trữ tình đậm chất triết lí kết hợp với giọng điệu buồn
thương, cảm thông, chia sẻ đã khiến cho bài thơ không chỉ là sự đồng
cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh nói riêng, những con người tài
hoa, tài tử mà bất hạnh nói chung mà đó còn là lời tâm sự của chính
Nguyễn Du về cuộc đời của mình.
Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối
lập trong hình ảnh, ngôn từ.
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Độc Tiểu Thanh ký
(Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
Câu 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Độc Tiểu Thanh ký
(Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
Câu 4. Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh ký (Đọc truyện Tiểu Thanh -
Nguyễn Du).
---------------------------------
| 1/8

Preview text:

Trước khi đọc
Câu hỏi 1. Kể tên một vài tác phẩm văn chương Việt Nam viết về thân
phận bất hạnh của người phụ nữ mà em biết. Bài làm
Một số tác phẩm như: Chuyện người con gái Nam Xương, Tự tình, Bánh
trôi nước, Chinh phụ ngâm,....
Câu hỏi 2. Qua nhân vật Thúy Kiều, hãy chia sẻ cảm nghĩ của bạn về số
phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài làm
Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn
trường" như Vương Thuý Kiều trong “Truyện Kiều”. Ngay từ đầu tác
phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"
đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm,
mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được
sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị
bán đi với cái giá ngoài bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho
hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường
để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình
nhưng cả một kiếp người trôi nỗi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một
trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh
viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích,
những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy
của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ
chảy quanh thân Kiều". Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng
nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi
vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là
quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình.
Những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều
bị trừng trị một cách nghiêm khắc. Số phận vương Thuý Kiều là một tấn
bi kịch, bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ. Nàng phải bán mình chuộc
cha, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần
phải vào lầu xanh, hai lần làm con ở quyền sống và quyền hạnh phúc bị
cướp đoạt nhiều lần. Tấm lòng trong trắng, trinh bạch của người con gái
tài sắc vẹn toàn như bèo dạt mây trôi. Suốt mười lăm năm đoạn trường
lưu lạc, nàng Kiều đã phải chịu biết bao nhiêu cay đắng, tủi nhục dày vò
bản thân. Nỗi đau đớn nhất của nàng là nỗi đau khi phẩm giá của con
người bị chà đạp, lòng tự trọng bị sỉ nhục:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa.
Như cánh bèo trôi trên ngọn sóng, như cánh buồm trôi dạt trên biển
khơi, cuộc đời Kiều trôi dạt, lênh đênh đến tận cùng của bến bờ khổ ải.
Giữa trời cao bể rộng không có chỗ dung thân cho một con người. Dù
con người ấy chỉ có một nguyện vọng đơn giản là được sống bình yên
bên cạnh cha mẹ, được yêu thương chung thủy với người mình yêu.
Kiều là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, xét về nhan sắc. Trong nhân gian
chỉ có Kiều là nhất, còn về tài năng thì ngoài nàng ra may ra có người
thứ hai là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ viết về Kiều có lẽ đã đạt đến
độ cực đỉnh, không còn có một từ ngữ nào có thể miêu tả được về tài sắc
của nàng nữa. Bên cạnh cái tài, cái sắc, Nguyễn Du còn ca ngợi Kiều là
một người có tình có nghĩa. Kiều là một người phụ nữ thủy chung, bị
bán vào lầu xanh nhưng nguyện lấy cái chết để bảo vệ danh tiết cho
mình. Nàng là một người con có hiếu, khi không hề nghĩ đến hạnh phúc
riêng của bản thân mình, sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp gia đình
thoát khỏi cơn hoạn nạn. Kiều làm tròn đạo hiếu, báo đáp công ơn sinh
thành dưỡng dục của mẹ cha. Trong suốt quãng đời lưu lạc dài dằng
dẵng, Kiều không bao giờ cam chịu, không bao giờ chịu khuất phục,
trong ý thức, nàng luôn là “con người chống đối”, là “kẻ nổi loạn”. Nàng
vượt ra khỏi chốn lầu xanh ô nhục của Tú Bà, Bạc Bà, trốn khỏi chốn
“hang hùm nọc rắn” của nhà quý tộc họ Hoạn, cuối cùng đến được với
người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng nàng đã đền ơn, trả oán, minh
bạch, công khai. Kiều là hiện thân của người phụ nữ có khát vọng tự do, công lý và chính nghĩa.
Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Du đã miêu tả chân
thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về
những người đàn bà bất hạnh, đẹp người đẹp nết này, các nhà văn, nhà
thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm
nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ hết. Sau khi đọc
Câu hỏi 1. Theo bạn, nội dung câu 1 và câu 2 của bài thơ có mối quan
hệ logic với nhau như thế nào? Bài làm
Hình ảnh thơ đối lập giữ quá khứ và hiện tại: Tây Hồ hoa uyển(vườn
hoa bên Tây Hồ) – thành khư (gò hoang).
→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh
cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh
⇒ Hai câu thơ diễn tả tâm trạng của Nguyễn Du trước cảnh hoang tàn,
đó cũng chính là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho số phận của nàng Tiểu Thanh.
Câu hỏi 2. Chỉ ra và nhận xét mối quan hệ về ý trong hai câu thực Bài làm
→ Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc
mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
→ Hai câu thơ cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh
đồng thời cũng là tấm lòng trân trọng, ngợi ca nhan sắc và đề cao tài
năng trí tuệ của Tiểu Thanh; đồng thời có sức tố cáo mạnh mẽ.
Câu hỏi 3. Phân tích những cảm xúc và suy ngẫm của tác giả được thể hiện qua hai câu luận. Bài làm
- “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận
truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.
- Thiên nan vấn: khó mà hỏi trời được.
→ Câu thơ mang tính khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận
của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người
tài hoa trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện sự đau đớn phẫn uất
cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.
- Kì oan: nỗi oan lạ lùng
- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du
sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa mà giờ đây
ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.
⇒ Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn
ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ.
Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”
Câu hỏi 4. Chia sẻ suy nghĩ của bạn về tâm sự của Nguyễn Du ở hai câu kết. Bài làm
Thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu
khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy
được một người tri kỉ ở quá khư nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.
Câu hỏi 5. Qua bài thơ, tác giả đã khái quát về bi kịch chung của những
người tài hoa, phong nhã trong xã hội phong kiến như thế nào? Bài làm
Bi kịch chung của những người tài hoa, phong nhã trong xã hội phong
kiến là Tài hoa bạc mệnh
Câu hỏi 6. Hãy tìm đọc và giới thiệu một vài tác phẩm viết về đề tài
người phụ nữ của Nguyễn Du. Bài làm
Một số tác phẩm như: Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh kí, Sở kiến hành,.....
Kết nối Đọc - Viết
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) so sánh nội dung hai câu luận
của Độc Tiểu Thanh ký với nội dung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Bài làm
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Hai câu thơ này được Nguyễn Du viết - lời cảm thán của Kiều khi đứng
trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một người kĩ nữ. Hai câu thơ bật
lên như một lời than thở của Kiều hay cũng chính là của Nguyễn Du
trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng. Lời thơ
như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả, chính Nguyễn Du cũng đã
có những năm tháng phiêu bạt phải chịu cảnh đói, cnahr nghèo, có lẽ vì
thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ
của những người phụ nữ xưa. Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là
tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của ông dành cho những người phụ nữ
Việt Nam xưa - những thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong
kiến đương thời. Hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký, nhà thơ muốn an
ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài
hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều, việc đó chỉ có trời mới hiểu.
Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét
của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã
của người có tài. Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh
mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản
thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”.
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Độc Tiểu Thanh
ký (Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du). Bài làm 1. Giá trị nội dung:
 Bài thơ có sự vận động, phát triển trong mạch cảm xúc từ việc đọc
truyện "xót xa, thương tiếc cho nàng Tiểu Thanh tài sắc mà bạc
mệnh" mà tác giả đã suy nghĩ, tri âm với số phận những người tài
hoa, tài tử và thương cho số phận của chính bản thân mình. Bởi ông
cũng nhìn thấy được tương lai của mình - một con người tài hoa
nhưng cuộc đời chông chênh, gập ghềnh, vất vả.
 Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, Nguyễn Du đã đặt ra
vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ. Những con người ấy cần
phải được trân trọng, tôn vinh vì chính những giá trị tinh thần lớn lao
mà họ đã mang đến cho nhân loại chứ không phải là sự chà đạp, vùi dập cho đến chết. 2. Giá trị nghệ thuật:
 Ngôn ngữ trữ tình đậm chất triết lí kết hợp với giọng điệu buồn
thương, cảm thông, chia sẻ đã khiến cho bài thơ không chỉ là sự đồng
cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh nói riêng, những con người tài
hoa, tài tử mà bất hạnh nói chung mà đó còn là lời tâm sự của chính
Nguyễn Du về cuộc đời của mình.
 Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối
lập trong hình ảnh, ngôn từ.
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Độc Tiểu Thanh ký
(Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
Câu 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Độc Tiểu Thanh ký
(Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
Câu 4. Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh ký (Đọc truyện Tiểu Thanh - Nguyễn Du).
---------------------------------