Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ | Ngữ văn 8 Bài 7: Thơ đường luật sách Cánh Diều

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ | Ngữ văn 8 Bài 7: Thơ đường luật sách Cánh Diều được VietJack sưu tầm và soạn thảo để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ | Ngữ văn 8
1. Định hướng
1.1. Phân tích một tác phẩm thơ cũng như phân tích một tác phẩm truyện (Bài 6),
đều yêu cầu chung chỉ ra làm những điểm nổi bật (thành công, thể cả
hạn chế) trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Các em cũng thể đi sâu tìm
hiểu từng vấn đề, nêu những nhận xét riêng của bản thân về tác phẩm. Tác phẩm
thơ thể bài thơ hoặc tập thơ. Bài 7 tập trung vào việc rèn luyện phân tích một
bài thơ theo các yêu cầu nêu trên.
1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:
- Đọc tác phẩm, chú ý xác định nội dung các yếu tố hình thức nổi bật. Chỉ ra
giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm,
nhất các sáng tạo độc đáo của người viết.
- Xác định các luận điểm trong bài viết, lựa chọn các bằng chứng từ bài thơ cho mỗi
luận điểm.
- Liên hệ, so sánh với các bài thơ cùng đề tài, chủ đề, thể loại để làm sáng tỏ
thêm giá trị của bài thơ được phân tích.
- Suy nghĩ, nhận xét về những thành công hạn chế (nếu có) của bài thơ, về giá
trị, sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như bản thân em.
2. Thực hành
2.1 Thực hành viết theo các bước
Đề bài: Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Trần Tế Xương.
a) Chuẩn bị
Đọc đề bài, xác định yêu cầu cần thực hiện.
Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại bài thơ Vịnh khoa thi Hương, chú ý đến
đặc điểm của bài thơ thất ngôn bát Đường luật.
Lựa chọn một vài hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm để phân tích.
dụ: nghệ thuật trào phúng của bài Vịnh khoa thi Hương qua việc lựa chọn hình ảnh,
ngôn từ sử dụng phép đối.
b) Tìm ý lập dàn ý
Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt trả lời các câu hỏi:
+ Chủ đề của bài thơ gì?
+ Nghệ thuật trào phúng của bài thơ đặc sắc? dụ:
Trần Tế Xương đã chọn những hình ảnh nào của khoa thi Hương năm Đinh Dậu?
Hình ảnh đó đặc biệt?
Việc lựa chọn từ ngữ để khắc hoạ các hình ảnh trên độc đáo? thể thay
bằng các từ ngữ khác được không?
Tác giả đã vận dụng các phép đối như thế nào để nghệ thuật trào phúng được
phát huy triệt để?
Các hình thức nghệ thuật trên đã làm chủ đề của bài thơ như thế nào?
Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
Mở
bài
Giới thiệu khái quát về bài Vịnh khoa thi Hương, tác giả nghệ thuật
trào phúng của bài thơ.
Thân
bài
+ Nêu chủ đề bài thơ.
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn xây dựng hình ảnh. giải sao nhà
thơ lại lựa chọn các hình ảnh ấy phân tích để thấy được mục đích trào
phúng.
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn ngôn từ (thống các từ ngữ tác giả
lựa chọn chỉ ra tác dụng của chúng).
+ Chỉ ra phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả sử dụng
trong bài thơ.
+ Nêu lên những suy nghĩ cảm xúc của bản thân về nội dung nghệ
thuật của bài thơ.
Kết
bài
Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày: Nội dung một số
hình thức nghệ thuật của bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã cho thấy tài
năng trào phúng bậc thầy của Trần Tế Xương.
c. Viết
- Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài văn phân tích một bài thơ. Trong khi viết, chú ý
vận dụng cách phân tích các yếu tố hình thức của thơ.
Bài văn tham khảo
Xương một nhà thơ được sinh ra lớn lên trong giai đoạn thể nói bi
thương nhất của đất nước nước ta bị Pháp tấn công thống trị. Trước cảnh đất
nước bị đày ấy, thơ của ông một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của
một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân.
“Vịnh khoa thi hương” cũng một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ hai câu thơ giới thiệu thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất
thường của là, các thí sinh của trường Nội cũng bị dồn về trường Nam Định
để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp
nham của khoa thi Hương năm ấy.
đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của
các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều những người đọc sách, những
người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ
chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng,
nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã
trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước
nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành
câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi
thôi” trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ
những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng tài năng cũng chẳng thực quyền. Trước
mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì
luôn miệng hống hách, quát tháo, tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều
chõng lọ giấy đi thi. Thật đáng buồn đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách
hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, thi năm Đinh Dậu 1897 vợ chồng toàn quyền Pháp vợ
chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng,
vậy quan sứ vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”,
mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt
nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy
giờ một hội thực dân nắm quyền hội phong kiến chỉ làm nhìn.
đây, Xương dùng từ cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại
gọi vợ chúng “mụ đầm”. “Mụ” một từ để chỉ người đàn không ra gì, cách
gọi thô tục. Xương “chửi” một cách cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó
cũng vừa nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước
mất nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ trông cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa lời tự vấn bản thân, cũng tự vấn những người đồng cảnh ngộ.
mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, cùng nhau
đứng lên hành động? bao nhiêu người vẫn đang quáng tin vào nhà nước, tin
vào chính quyền không chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Xương, sự kết hợp của cả hiện thực trữ tình. Từ việc tả lại thi
Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị đày, đàn
áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất
nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.
-----------------------------------------------------------------------------------
| 1/3

Preview text:

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ | Ngữ văn 8 1. Định hướng
1.1. Phân tích một tác phẩm thơ cũng như phân tích một tác phẩm truyện (Bài 6),
đều có yêu cầu chung là chỉ ra và làm rõ những điểm nổi bật (thành công, có thể cả
hạn chế) trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Các em cũng có thể đi sâu tìm
hiểu từng vấn đề, nêu những nhận xét riêng của bản thân về tác phẩm. Tác phẩm
thơ có thể là bài thơ hoặc tập thơ. Bài 7 tập trung vào việc rèn luyện phân tích một
bài thơ theo các yêu cầu nêu trên.
1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:
- Đọc kĩ tác phẩm, chú ý xác định nội dung và các yếu tố hình thức nổi bật. Chỉ ra
giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm,
nhất là các sáng tạo độc đáo của người viết.
- Xác định các luận điểm trong bài viết, lựa chọn các bằng chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.
- Liên hệ, so sánh với các bài thơ có cùng đề tài, chủ đề, thể loại để làm sáng tỏ
thêm giá trị của bài thơ được phân tích.
- Suy nghĩ, nhận xét về những thành công và hạn chế (nếu có) của bài thơ, về giá
trị, sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như bản thân em. 2. Thực hành
2.1 Thực hành viết theo các bước
Đề bài:
Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Trần Tế Xương. a) Chuẩn bị
– Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu cần thực hiện.
– Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại bài thơ Vịnh khoa thi Hương, chú ý đến
đặc điểm của bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
– Lựa chọn một vài hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm để phân tích. Ví
dụ: nghệ thuật trào phúng của bài Vịnh khoa thi Hương qua việc lựa chọn hình ảnh,
ngôn từ và sử dụng phép đối.
b) Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi:
+ Chủ đề của bài thơ là gì?
+ Nghệ thuật trào phúng của bài thơ có gì đặc sắc? Ví dụ:
• Trần Tế Xương đã chọn những hình ảnh nào của khoa thi Hương năm Đinh Dậu?
Hình ảnh đó có gì đặc biệt?
• Việc lựa chọn từ ngữ để khắc hoạ các hình ảnh trên có gì độc đáo? Có thể thay
bằng các từ ngữ khác được không?
• Tác giả đã vận dụng các phép đối như thế nào để nghệ thuật trào phúng được phát huy triệt để?
• Các hình thức nghệ thuật trên đã làm rõ chủ đề của bài thơ như thế nào?
– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần: Mở
Giới thiệu khái quát về bài Vịnh khoa thi Hương, tác giả và nghệ thuật bài trào phúng của bài thơ. Thân + Nêu chủ đề bài thơ. bài
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao nhà
thơ lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng.
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn ngôn từ (thống kê các từ ngữ mà tác giả
lựa chọn và chỉ ra tác dụng của chúng).
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả sử dụng trong bài thơ.
+ Nêu lên những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Kết
Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày: Nội dung và một số bài
hình thức nghệ thuật của bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã cho thấy tài
năng trào phúng bậc thầy của Trần Tế Xương. c. Viết
- Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài văn phân tích một bài thơ. Trong khi viết, chú ý
vận dụng cách phân tích các yếu tố hình thức của thơ. Bài văn tham khảo
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi
thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất
nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của
một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và
“Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất
thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định
để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp
nham của khoa thi Hương năm ấy.
Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của
các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những
người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ
chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng,
nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã
trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước
nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành
câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi
thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là
những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước
mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì
luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều
chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ
chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng,
vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”,
mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt
nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy
giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở
đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại
gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách
gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó
cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ.
Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau
đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin
vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi
Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn
áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất
nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.
-----------------------------------------------------------------------------------