









Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740153
A, LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
B, NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
Chương 1 : Những biến đổi giai cấp công nhân hiện đại so với thế kỷ XIX ........... 2
1. Khái niệm giai cấp công nhân ....................................................................... 2
2. Biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ 19 .......... 3
Chương 2. Sự biến đổi giai cấp công nhân tại Việt Nam 1. Phát triển về số lượng,
đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trong các thành phần ............................................. 4
kinh tế ................................................................................................................ 4
2. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng được nâng cao ...................... 5
3. Ngày càng khẳng định địa vị chính trị, kinh tế, xã hộii ................................. 6
4. Việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ................................................ 7
5. Sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc,
ảnh hưởng đến tính thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân .................... 9
C, PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 9 lOMoAR cPSD| 45740153 A, LỜI MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về
số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội”. Quá trình đổi mới đất nước đã và đang thúc đẩy nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Hiện nay, hội nhập quốc tế trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc
đến sự phát triển của nhiều nước. Điều đó đã và đang tác động đến sự chuyển biến mọi
mặt của đời sống kinh tế, xã hội nước ta, trong đó giai cấp công nhân có sự biến đổi
nhanh trên nhiều phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực. Giai cấp công nhân nước ta phát
triển nhanh về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, đời sống vật chất và tinh thần
ngày càng được cải thiện. Mặt khác, hội nhậpquốc tế cũng đang làm cho giai cấp công
nhân nước ta có nhiều biến động, không còn thuần nhất. Sự phân tầng, phân hoá trong
nội bộ giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc và có những biểu hiện phức tạp. Địa vị
chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện đầy đủ. Sự giác ngộ giai cấp và bản
lĩnh chính trị của công nhân không đều, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều
hạn chế… Sự biến đổi đó của giai cấp công nhân nước ta trong điều kiện hội nhập quốc
tế đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Trong
đó, việc nghiên cứu làm rõ những biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của giai cấp
công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế, từ đó đưa ra định hướng và giải
pháp xây dựng, phát triển giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là vấn đề
vừa mang tính cấp thiết trước mắt vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Xuất phát từ yêu
cầu đó, chúng em lựa chọn nghiên cứu đề tài : Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. B, NỘI DUNG
Chương 1 : Những biến đổi giai cấp công nhân hiện đại so với thế kỷ XIX
1. Khái niệm giai cấp công nhân
C. Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản,
giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm lOMoAR cPSD| 45740153
thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công
nhân đại công nghiệp… như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm
giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.Dù khái niệm giai
cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C. Mác và Ph.
Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:– Về phương thức lao động, phương thức
sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản
xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. C. Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”1; “Công nhân cũng là một phát minhcủa thời đại mới, giống như máy móc
vậy… Công nhân Anh là đứa con đầulòng của nền công nghiệp hiện đại”.– Về vị trí
trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng
dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công
nhân dưới chếđộ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản.
2. Biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ 19
a) Về nguồn gốc xuất thân từ đô thị của giai cấp công nhân hiện nay
Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn.
Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông
đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân.
b) Cơ cấu đa dạng của giai cấp công nhân hiện đại cũng làm nảy sinh những
nhu cầu bổ sung nhận thức mới
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại
cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó
liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp - nông nghiệp
- dịch vụ) theo trình độ công nghệ. lOMoAR cPSD| 45740153
Phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp
lao động tại nhà để sống và, không có cổ phần). Phân loại công nhân theo chế độ chính
trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ở các nước G7,
ở các nước đang phát triển)...
Chương 2. Sự biến đổi giai cấp công nhân tại Việt Nam 1. Phát triển về số
lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trong các thành phần kinh tế
theo quy mô nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc CNH, HĐH, đội ngũcông nhân
nước ta có khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số lượngcông nhân trong các
doanh nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phầnkinh tế ở nước ta là 11,3 triệu
người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lựclượng lao động xã hội. Trong đó, 1,84 triệu
công nhân thuộc các doanhnghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước, 1,21triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu trong các cơ sở kinh tế cá
thể.So với năm 1995, tổng số công nhân tăng 2,14 lần, trong đó doanh nghiệpnhà nước
tăng 1,03 lần, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần,doanh nghiệp FDI tăng 12,3
lần, các cơ sở kinh tế cá thể tăng 1,63 lần(1).Hiện nay, cả nước có hơn 12,3 triệu công
nhân trực tiếp làm việc trong cácdoanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinhtế. Công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm
dosự sắp xếp lại cơ cấu. Năm 1986, có 14 nghìn doanh nghiệp với 3 triệucông nhân;
năm 1995 tương ứng là 7.090 và 1,77 triệu; năm 2005 là3.935 và 1,84 triệu; năm 2009
là 3.369 và 1,74 triệu(2). Mặc dù đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có
xu hướng giảm, nhưng đây làlực lượng nòng cốt của GCCN nước ta. Công nhân
thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và cácdoanh nghiệp có vốn FDI tăng
mạnh do số lượng các doanh nghiệp nàytăng nhanh. Năm 1991, khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước mới cókhoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995 đã tăng lên 17.143
doanhnghiệp với hơn 430 nghìn công nhân. Năm 2009, con số này lên tới238.932
với 5.266,5 nghìn công nhân, trong đó kinh tế tập thể 261,4nghìn, kinh tế tư nhân
571,6 nghìn; các loại khác 4.433,5 nghìn(3). Sốlượng công nhân khu vực ngoài nhà
nước chủ yếu tăng ở các tỉnh, thànhphố phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ như lOMoAR cPSD| 45740153
Thành phố Hồ Chí Minh,Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng.
Trong khu vực có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có
1.919,6 nghìnngười đang làm việc trong 6.546 doanh nghiệp. Tính đến hết năm
2011,cả nước có 283 khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) được thành lậptại 158
tỉnh, thành phố, thu hút khoảng 1,6 triệu lao động(4).Ngoài ra, lực lượng lao động ở
nước ngoài cũng là bộ phận quantrọng tạo nên sự lớn mạnh của GCCN Việt Nam. Theo
số liệu thống kê củaBộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 62008, tổng
số laođộng và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài trên 500 nghìnngười.
Bộ phận này được tiếp xúc và làm việc trong môi trường côngnghiệp hiện đại, có điều
kiện học tập, rèn luyện chuyên môn, tay nghề,nâng cao tác phong công nghiệp. Công
nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựngchiếm 70,9%, ngành dịch vụ
và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khácchiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá
thể, công nhân chủ yếu làm việctrong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,7%,
33,33% làm việctrong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp(5). Hiện tượng
thay đổi việc làm, nghề nghiệp của công nhân nước tacũng có chiều hướng gia tăng.
Sự thay đổi nơi làm việc cũng diễn rathường xuyên ở tất cả các thành phần kinh tế.
Đặc biệt, công nhân laođộng khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tỷ lệ thay đổi nơi làm
việc rấtlớn. GCCN Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước
nhưnghằng năm đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn60% ngân sách nhà nước.
2. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng được nâng cao
Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm côngnhân từ
18 đến 30 tuổi chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầutư nước ngoài công
nhân dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%.
Hầu hết công nhân được tiếp cận vớikinh tế thị trường nên năng động, thích ứng nhanh
với công nghệ hiện đại.Tuổi nghề của công nhân: dưới 1 năm chiếm 6,9%, từ 1-5
năm:30,6%, từ 6-10 năm: 16,4%, từ 11-15 năm: 10,5%, 16-20 năm: 16,8%, 21-25 năm:
13,3%, trên 25 năm: 5,5%. Trình độ học vấn của công nhân trong tất cả các khu
vực kinh tế cóxu hướng được nâng lên: năm 1985, tỷ lệ công nhân có học vấn trung
họcphổ thông là 42,5% thì năm 2003 tăng lên 62,2%, năm 2005 tăng lên 69,3%(6).
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và so vớitrình độ công nhân ở lOMoAR cPSD| 45740153
các nước trong khu vực và thế giới thì trình độ họcvấn của công nhân nước ta còn thấp.
Mặt khác, lực lượng công nhân cótrình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường
tập trung ở một sốthành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn. Trình độ
nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao, nhưngnhìn chung chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra. Năm 1996, số công nhânchưa qua đào tạo 1
nghề là 45,7%, năm 2005 là 25,1%. Trình độ chuyênmôn, tay nghề của công nhân
các loại hình doanh nghiệp năm 2005 nhưsau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên
chiếm 16,1%, lao động cótrình độ trung cấp chiếm14,6%, công nhân kỹ thuật chiếm
28,1%, laođộng không được đào tạo chiếm 41,2%. Năm 2010, số lao động có trìnhđộ
đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạynghề 3,8 %(7). Tình
trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khálớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết
bị công nghệ cao nhưng lại thiếu côngnhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công
nhân đang làm những côngviệc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏtới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.
3. Ngày càng khẳng định địa vị chính trị, kinh tế, xã hội
Xét về cả mặt lý luận và thực tiễn, khi trình độ công nhân lao động được nâng
lên thì ý thức, bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm trong lao động sản xuất của họ
cũng ngày càng được nâng cao. Đồng thời thông qua yêu cầu công việc cũng hình thành
và rèn luyện cho họ tác phong công nghiệp, năng động hơn, sáng tạo hơn, cùng với ý
thức xây dựng và tuân thủ kỷ luật lao động theo hướng tự giác hơn, minh bạch hơn.
Công nhân trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà
nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị hiện đại, làm
việc với các chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn
luyện tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được
đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có tri thức, nắm vững khoa học công
nghệ tiên tiến, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại,… dần khẳng định là lực
lượng lao động chủ đạo trong xã hội, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá
trị sản phẩm công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai. lOMoAR cPSD| 45740153
Trong công cuộc đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân có vai trò đặc biệt quan trọng.
Đảng đã khẳng định, giai cấp công nhân nước ta là “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”5. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ trên 14% dân số, 27% lực lượng lao
động xã hội, song hằng năm giai cấp công nhân nước ta đã tạo ra trên 65% giá trị tổng
sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước.
4. Việc làm và đời sống của giai cấp công nhân
a) Việc làm cho người lao động.
Trong những năm qua, Đảng và Nhànước đã có nhiều chủ trương, giải pháp
đầu tư phát triển sản xuất, giảiquyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, do quy
mô nền kinh tế nhỏ,trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu
so vớikhu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao. Theo số liệu củaTổng
Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2009, cả nước có 83% số côngnhân có việc làm
thường xuyên ổn định, còn 12% việc làm không ổn địnhvà 2,7% thường xuyên thiếu
việc làm. Chỉ có khoảng 21% doanh nghiệpngoài nhà nước đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế cho công nhân vàtrích nộp kinh phí công đoàn.
b) Thu nhập của người lao động.
Mức lương của người lao độnghiện nay về cơ bản không đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt tối thiểu củabản thân, chứ chưa nói đến việc tích lũy hay chăm lo cho con
cái... Nhànước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm chí có quyđịnh
về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm ở các loạihình doanh nghiệp
(Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ). Tuy nhiên, mức tăngthường không theo kịp tốc độ tăng
giá của thị trường. Chẳng hạn, năm2010, tiền lương của người lao động trong các loại
hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%,
nên việc tăng lương không có tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống côngnhân,
đặc biệt là công nhân ở các KCN, KCX. Trong khi đó, phần lớn cácchủ doanh nghiệp
vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho người lao động, chưa thật sự quan
tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra, các chủ doanh nghiệp còn bớt một lOMoAR cPSD| 45740153
phần lương của người laođộng chi cho các khoản phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
b) Nhà ở của người lao động. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầuhết các
tỉnh, thành phố lớn, các KCN, KCX không xây nhà lưu trú cho côngnhân. Số người lao
động trong các KCN khoảng 1,6 triệu người, trong đó,chỉ có 20% số người có chỗ ở ổn
định(8). Đa số người lao động ngoại tỉnhlàm việc tại các KCN đều phải thuê nhà trọ,
với điều kiện vệ sinh, môitrường không bảo đảm.
Thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24-4-2009 của Thủtướng
Chính phủ về Cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người laođộng trong các khu
công nghiệp, các tỉnh, thành phố đã đăng ký 110 dựán nhà ở cho người lao động tại các
khu công nghiệp giai đoạn 2010 -2015. Tuy nhiên, theo Thanh tra Chính phủ, đến nay,
các dự án nhà ở chocông nhân tại các KCN đều chậm tiến độ so với yêu cầu, trong số
27 dự ánđã được khởi công xây dựng mới có 9 dự án hoàn thành. Trong quy hoạch phát
triển các KCN, KCX, phần lớn chưa tính tớinhu cầu về chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho
gia đình người lao động. Một sốnơi xây nhà ở cho người lao động thì lại thiếu đồng bộ
với việc xây dựngkết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy, gây khó khăn không nhỏ đối với người
laođộng trong sinh hoạt, làm việc...
c) Đời sống văn hóa của công nhân. Những năm gần đây, cácdoanh nghiệp
đã từng bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của ngườilao động. Tuy nhiên, ở hầu
hết các KCN, KCX chưa tạo ra những điều kiệnbảo đảm sinh hoạt văn hóa cho công
nhân. Theo kết quả điều tra xã hộihọc tại Bình Dương, có đến 71,8% công nhân không
có điều kiện để đếnrạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem
thi đấuthể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% khôngbao giờ
đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, vănhóa tinh thần, 89% giải
trí bằng tivi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sửdụng internet. Nguyên nhân của tình
trạng trên là do công nhân không cóthời gian, kinh phí và các KCN cũng không có cơ
sở vật chất để đáp ứngnhu cầu sinh hoạt tinh thần của họ.
d) Điều kiện làm việc.
Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhânchưa được bảo đảm. Nhiều công
nhân phải làm việc trong môi trường bị ônhiễm nặng như nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung lOMoAR cPSD| 45740153
vượt tiêu chuẩn cho phép.Điều đó đã tác động xấu đến sức khoẻ người lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp
5. Sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc,
ảnh hưởng đến tính thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân.
Cơ cấu xã hội của giai cấp công nhân nước ta rất đa dạng. Công nhân làm việc
trong các thành phần, ngành nghề kinh tế khác nhau, lợi ích mang lại cho họ cũng khác
nhau. Trong đó công nhân lao động trong thành phần kinh tế nhà nước, do đặc thù sở
hữu, dường như được ưu đãi hơn, thu nhập ổn định, người công nhân được đảm bảo về
các chế độ chính sách. Ngược lại, công nhân làm việc trong các thành phần kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nhìn chung người công nhân vẫn phải chịu
lương thấp, trong khi các chế độ, chính sách không được bảo đảm, điều kiện lao động
không tốt, người sử dụng lao động còn vi phạm pháp luật trên một số lĩnh vực đối với
người lao động, khối lượng công việc và tính chất lao động nhiều và vất vả hơn, quan
hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động theo mệnh lệnh và chấp hành, tính
chất bóc lột sức lao động và sự vi phạm đối với lợi ích của người lao động được thể hiện rõ.
Người công nhân có cổ phần nhiều sẽ có cổ tức lớn, dẫn đến điều kiện sinh
hoạt tốt hơn những người không có cổ phần hoặc có ít cổ phần. Bộ phận công nhân có
trình độ chuyên môn, tay nghề cao (công nhân trí thức) được làm việc trong những môi
trường tốt, thu nhập cao, ổn định, các phúc lợi xã hội được đảm bảo đầy đủ. Còn bộ
phận công nhân trình độ thấp (công nhân phổ thông) gắn trực tiếp với quá trình sản xuất,
làm việc ở những môi trường độc hại, thu nhập thấp, phúc lợi xã hội không được bảo đảm đầy đủ. C, PHẦN KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân là phạm trù lịch sử, có quá trình ra đời, tồn tại và phát triển.
Những luận giải của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay vẫn còn nguyên
ý nghĩa. Hiện nay, hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng và toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốcphòng - an ninh. Trong đó
trọng tâm vẫn là hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập các lĩnh vực khác phải tạo điều kiện
thuận lợi cho hội nhập kinh tế phát triển. Trong quá trình đó đã và đang tác động đến sự lOMoAR cPSD| 45740153
chuyển biến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có sự biến đổi của giai cấp
công nhân nước ta. Quá trình hội nhập quốc tế nó đã và đang tác động làm giai cấp công
nhân nước ta biến đổi nhanh trên nhiều phương diện, có những biến đổi tích cực, đồng
thời cũng có những biến đổi tiêu cực về số lượng và cơ cấu; chất lượng; đời sống và
việc làm của công nhân. Từ sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta dưới tác động
của hội nhập quốc tế đang đặt ra một số vấn đề như: sự sụt giảm về số lượng của đội
ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước; Nguy cơ thất nghiệp gia tăng đối với
một bộ phân công nhân khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; Công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân còn nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập.Để
phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công
nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần phải nhận
thức và triển khai đồng bộ những phương hướng và giải pháp đưa ra trên đây, nhằm xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. i