Sự cạnh tranh cùng ngành và khác ngành - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Sự cạnh tranh cùng ngành và khác ngành - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (DC102EL01)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MẮC – LÊNIN Học kỳ 2131
Chủ đề 2
CẠNH TRANH CÙNG NGÀNH VÀ CẠNH TRANH KHÁC NGÀNH.
TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ Ở V Ệ I T NAM
Giảng viên hướng dẫn: Dương Hoành Oanh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Minh Thư
Lớp: DC102EL01 – 4732
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2021 1
I. Định nghĩa và lí do xuất hiện cạnh tranh
Cạnh tranh bắt đầu xuất hiện khi nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa
phát triển. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, thể
hiện tiềm lực phát triển của nền kinh tế thị trường và quyết định sự sống còn của
mỗi doanh nghiệp. Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Trong môi trường làm việc và trong cuộc sống, ai cũng muốn có một công
việc tốt lương cao nhưng không phải ai cũng có được điều đó và vì thế họ cạnh
tranh, ai cũng muốn thu được nhiều lợi nhuận trong quá trình làm ăn nên ở đâu
có lợi nhuận cao thì họ sẽ đầu tư vào môi trường có tiềm năng đó. Ngoài ra,
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời những thành tựu về khoa
học kĩ thuật,… đã góp phần vào sự xuất hiện của cạnh tranh.
II. Các loại hình cơ bản của cạnh tranh
1. Cạnh tranh cùng ngành:
“Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
trong cùng một ngành hàng hóa.”1 Sự cạnh tranh này được thể hiện ở nhiều mặt như giá cả, ị
đ a điểm kinh doanh, dịch vụ, tính năng cụ thể và các mặt khác. Một
ví dụ điển hình có thể nói đến là sự cạnh tranh giữa McDonald’s và Burger
King. Cả hai công ty này đều có những điểm giống nhau là cùng hoạt động
trong một ngành, cung cấp những mặt hàng giống nhau, nhắm vào cùng đối
tượng và dùng các kênh phân phối giống nhau. Kết quả là nếu một trong hai
công ty trở nên yếu thế thì sẽ bị đào thải. Quá trình này xảy ra không phải vì lí
do nào khác mà là do quy luật cạnh tranh đ
ã tác động, yêu cầu họ phải đề ra
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.73. 2
được những chiến lược kinh doanh nổi bật để tạo nên hình ản h độc quyền, thu
hút khách hàng về cho mình và tạo ra lợi nhuận.
Bên cạnh đó, cạnh tranh cùng ngành chỉ chấm dứt khi có sự xuất hiện của
sản phẩm độc quyền vì lúc này một doanh nghiệp có được sản phẩm độc quyền
cũng đồng nghĩa với việc họ có quyền lợi độc nhất trong việc cung cấp một mặt
hàng nhất định nào đó, họ có khả năng kiểm soát giá cả sản phẩm và thu được
lợi nhuận tối đa cũng như tránh được việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, điều kiện này không duy trì liên tục mà sẽ bị thay đổi nếu doanh
nghiệp không biết đổi mới, nâng cấp và không đáp ứng được nhu cầu của thị
trường. Vì thế điều này yêu cầu chúng ta phải nắm bắt được xu hướng hợp thời
đại và tâm lí khách hàng, luôn sáng tạo và liên tục học hỏi thêm nhiều kiến thức mới.
Từ đó, chúng ta có thể thấy cạnh tranh cùng ngành là một quá trình đào
thải liên tục và yêu cầu các chủ thể kinh tế phải không ngừng đổi mới đa dạng
các yếu tố. Hơn nữa, phải bảo đảm cạnh tranh một cách lành mạnh, khi chúng ta
có đủ kiến thức, trình độ và kinh nghiệm thì khi đó áp lực cạnh tranh của chúng
ta cũng sẽ giảm bớt. Cái gốc vấn đề nằm ở chỗ ngay từ đầu chúng ta nên chú
trọng vào việc trau dồi kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm khi có cơ hội – đó là
làm tăng giá trị sử dụng của mình và từ đó biến những gì chúng ta đã học và trải
nghiệm được thành lợi thế để cạnh tranh, tạo ra giá trị.
2. Cạnh tranh khác ngành:
“Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh
doanh giữa các ngành khác nhau. Vì vậy, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở
thành phương thức để thực hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất
khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường.”2 Lí do cho việc cạnh tranh khác
2 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.74. 3
ngành là vì có những ngành cung cấp cho ta rất nhiều lợi ích và vì nó có tiềm
năng phát triển, lương cao và được vị trí tốt. Ví dụ như theo báo Tuổi trẻ, ngành
Công nghệ thông tin hiện nay cần khoảng 80.000 nhân lực/năm. Tốt nghiệp
ngành này chỉ khoảng 32.000 sinh viên và chỉ khoảng 15% trong đó ra trường
đáp ứng được yêu cầu công việc. Chính vì thế, Công nghệ thông tin sẽ trở thành
ngành nghề dẫn đầu xu hướng. Thông tin trên đã khẳng định Công nghệ thông
tin trong tương lai sẽ là ngành nghề được săn đón nhiệt tình, nó thu hút được
những nhà đầu tư và vô số học sinh sinh viên theo học. Thế nhưng, việc này
cũng sẽ dẫn đến tình trạng một khi ngành đã dư số nhân lực cần thiết thì đầu ra
sẽ bị bão hòa. Hơn nữa, khi một ngành này dư thì trong khi đó ngành khác lại
thiếu, thế là quá trình trên sẽ lại là một vòng tuần hoàn.
Một điểm đáng lưu ý nữa là cạnh tranh giữa các ngành khác nhau chỉ dẫn
đến sự hình thành lợi nhuận bình quân, bởi vì một khi lợi nhuận bình quân hình
thành thì cạnh tranh khác ngành sẽ tạm dừng. Lúc này tất cả ngành khác nhau
trong thị trường tạo ra một nguồn thu nhập mà không có ngành nào quá chênh
nhau, dẫn đến việc các doanh nghiệp không dám mạo hiểm đổi ngành vì dù có
chuyển sang ngành khác thì lợi nhuận thu về cũng không khác nhau quá lớn.
Từ những thông tin trên chúng ta rút ra được một bài học thực tiễn rất hữu
dụng. Nếu ta đang bị dao động, bị áp lực vì thu nhập không như mong nuốn thì
hãy xem xét lại là bản thân mình. Lí do cần nhìn nhận ở đây là do chúng ta chưa
đủ đầu tư cho nghề vì công sức mà ta bỏ ra sẽ được phản ánh lại bằng mức độ
thành công trong nghề. Cái mà ta muốn là thu nhập siêu ngạch chứ không phải
thu nhập bình quân, vì vậy thay vì đổi sang một ngành nào khác, hãy đầu tư
nhiều hơn vào ngành nghề hiện tại. Chúng ta bỏ ra bốn năm đại học không phải
để chỉ vì lương không cao mà đổi nghề mà chúng ta học bốn năm để có được cái
nhìn cho tương lai, để đột phá bản thân và để có được những kinh nghiệm tri
thức quý báu. Hãy tưởng tượng rằng khi chúng ta chuyển sang một ngành khác
liệu ta có thể cạnh tranh được với những người đã có thâm niên trong nghề
không. Vì thế thay vì phải bắt đầu lại như một người mới tại sao ta không đầu tư 4
chắc hơn, sâu hơn vào những gì mình đang có, một khi chúng ta đã giỏi thì sẽ
không sợ bị sự cạnh tranh ảnh hưởng nữa.
III. Những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam
1. Tác động tích cực:
Thứ nhất, cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất là một yếu tố không thể
thiếu cũng như đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh
nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, việc đầu tư phát triển vào máy móc
thiết bị, kỹ thuật, phương pháp làm việc là rất cần thiết. Một khi những yếu tố
này phát triển thì kéo theo đó sẽ là sự tăng lên về kỹ năng cũng như trình độ của
công nhân. Hơn nữa, đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo thành động
lực phát triển bản thân, vì nếu như không bắt kịp được những thay đổi của yếu
tố kỹ thuật và những xu hướng công nghệ mới, người lao động sẽ rất khó nắm
bắt và thực hiện công việc. Đây là thời đại công nghệ 4.0 nên trình độ của người
lao động yêu cầu phải hiểu biết và cập nhật những thông tin bổ ích. Nói cách
khác, nếu không chủ động thu nạp và nâng cao năng lực ủa mignh thì nguy cơ bị đào thải rất cao.
Thứ hai, cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.
Để tồn tại được trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể
không cạnh tranh. Nhờ có sự cạnh tranh tác động, các doanh nghiệp không
ngừng đổi mới phương thức làm việc, sản xuất, thay đổi đa dạng các mặt hàng
và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh là một quá trình khốc liệt đồng
thời cũng là một người trợ giúp tuyệt vời. Thông qua quá trình này sẽ có doanh
nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn nhưng cũng sẽ có doanh nghiệp vì không tìm
được hướng đi phù hợp mà phá sản.
Thứ ba, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Mục đích của các chủ thể kinh tế là đạt được lợi nhuận tối đa thông qua
việc bán các sản phẩm, vì thế các công ty phải biết nắm bắt được xu hướng thị 5
trường, nhu cầu khách hàng cũng như cải thiện chất lượng sản phẩm, đa dạn hóa
mặt hàng để thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng.
Thứ tư, cạnh tranh là nền tảng để phân bố nguồn lực hiệu quả.
Theo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: “Tại Diễn đàn, TS. Nguyễn
Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng cạnh tranh là nền tảng, là linh hồn của
kinh tế thị trường, mức độ cạnh tranh càng lớn, càng công bằng càng thể hiện
cấp độ phát triển của thị trường. Đây là động lực của những người tham gia thị
trường, kể cả người tiêu dùng. Cạnh tranh cũng là nền tảng để thúc đẩy phân bố
nguồn lực hiệu quả.” Ngoài những điều kiện yếu tố kỹ thuật quan trọng, việc lựa
chọn vị trí, tài nguyên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, hệ thống
chính trị xã hội, thị trường cũng là những nhân tố rất quan trọng. Vì vậy, để có
được những cơ hộ tốt về nguồn lực trên thì các doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh.
2. Tác động tiêu cực:
Thứ nhất, cạnh tranh dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Vì cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường tự do nên ngành có thu
nhập cao sẽ được đầu tư nhiều hơn, nhưng việc quá nhiều doanh nghiệp đầu tư
vào cùng một ngành sẽ dẫn đến mất cân đối cung cầu. Do đó, cung bị dư thừa và
hàng hóa bị tồn đọng, hai ví dụ điển hình là cuộc khủng hoảng kinh tế năm
1929-1933 và năm 2008. Mặt khác, khi khủng hoảng kinh tế xảy ra thì những
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ bị phá sản, hệ quả dẫn đến là khủng hoảng thiếu, vì
khi này số lượng cung bị giảm và không đủ đáp ứng cho nhu cầu xã hội. Khủng
hoảng thừa và thiếu là nguồn cơn gây nên khủng hoảng kinh tế và cần rất nhiều
thời gian để khắc phục.
Thứ hai, cạnh tranh tác động tiêu cực đến môi trường.
“Theo WWF, nhân loại hiện đang sử dụng vượt quá 50% nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà Trái Đất có thể cung cấp. Từ năm 2008, nhân loại đã cần
tới 18,2 tỷ héc ta đất nhưng Trái Đất chỉ có 12 tỷ héc ta đất có thể canh tác. Nếu 6
thế giới không nhanh chóng thay đổi cách thức sử dụng tài nguyên thì vào năm
2030, ngay cả 2 Trái Đất như hiện nay cũng không thể đáp ứng được nhu cầu.”
Tài nguyên môi trường rất quan trọng đối với việc sản xuất và thu lợi nhuận.
Thế nhưng, để đạt lợi nhuận càng cao thì lượng tài nguyên cần khai thác càng
nhiều, hậu quả gây ra là môi trường không thể phục hồi kịp so với tốc độ khai
thác để tiếp tục sản xuất.
Thêm vào đó, cạnh tranh cũng dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Theo
Bộ Công thương Việt Nam: “Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến
phức tạp, với nhiều điểm nóng, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh.
Đáng lo ngại, các sự cố môi trường tiếp tục gia tăng nghiêm trọng, nhiều vụ ảnh
hưởng trên phạm vi rộng, diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý
và khắc phục hậu quả. Hầu hết các sự cố môi trường xảy ra do chủ cơ sở sản
xuất, kinh doanh đổ thải trộm hoặc do công trình xử lý, lưu trữ chất thải gặp sự
cố, cháy nổ, rò rỉ hóa chất, tràn dầu… dẫn đến lượng lớn chất thải chưa qua xử
lý xả thải ra môi trường.” Những sự cố có thể kể đến như ô nhiễm môi trường
biển ở 4 tỉnh ven biển miền Trung, sự cố Formosa, xác cá chết gây mùi hôi xung
quanh Hồ Tây và nhiều hơn thế nữa. Điều này không chỉ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường, sức khỏe con người mà còn đe dọa trật tự an ninh xã hội. 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.73, 74.
2. Cạnh tranh là nền tảng phân bổ nguồn lực hiệu quả. (2017, ngày 3 tháng 10).
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/kinh-te/canh-tranh-la-nen-tang-phan-b - o nguon-luc-hieu- qua-456392.html
3. Lợi ích của doanh nghiệp và trách nhiệm với môi trường. (2020, ngày 12
tháng 6). Tạp chí Bộ Công thương. Truy xuất từ
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/loi-ich-doanh-nghiep-va-trach-nhiem-vo - i moi-truong-72511.htm
4. 10 sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong năm 2016. (2016, ngày 15
tháng 12). Tạp chí điện tử Môi trường và cuộc sống. Truy xuất từ
https://moitruong.net.vn/10-su-co-o-nhiem-moi-truong-nghiem-trong-nam-2016/ 8