Sử dụng vốn kinh doanh - Kinh tế chính trị Mác-Lê nin | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Sử dụng vốn kinh doanh - Kinh tế chính trị Mác-Lê nin | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1
Luận
văn
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ở Xí
Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco
2
2
Phần mở đầu
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dưới hình thức kinh tế hội nào
vấn đề được nêu ra trước tiên cũng hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh mục tiêu
phấn đấu của một nền sản xuất, thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân
cũng như từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của mọi
doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, gía thành hợp lí,
doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải không
ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản và sử dụng vốn là vấn
đề quan trọng ý nghĩa quyết định kết quả hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong cơ chế bao cấp trước đây vốn sản xuất kinh doanh của c doanh nghiệp
Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng thời Nhà nước
quản v giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch lãi Nhà nước thu - lỗ Nhà nước bù,
do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan tâm đến hiệu quả sử dụng
của đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không bảo toàn phát triển được vốn, hiệu
quả sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả l thật ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến trong
các doanh nghiệp Nhà nước. Bước sang nền kinh tế thị trường sự quản điều
tiết của Nhà nước, nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cạnh tranh lẫn
nhau gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đứng vững trong cơ chế
mới là những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt.
Trước tình hình đó, Nghị quyết đại hội lần thứ VI BCH Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh " Các xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về
giá và vốn, phải chủ động kinh doanh, phải bảo đảm tự bù đắp chi phí, nộp đủ thuế và
lãi...". Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trường, bám sát thị
trường, tự chủ về vốn và tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nhất trong kinh doanh đường
biển không phải vấn đề mới mẻ. được hình thành ngay sau khi tài chính ra
đời, lĩnh vực rất rộng muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì phải có sự
đầu tư rất công phu. Trong thời gian thực tập tại Xí Nghiệp
Vận Tải Biển Vinafco, em chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco" m nội dung
nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát tình hình
thực tế của nghiệp qua các năm, kết hợp với lí luận kinh tế mà cụ thể là lí luận về
quản lí, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình thực tế của Xí nghiệp
, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí Nghiệp
Vận Tải Biển Vinafco .
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp bao gồm:
- Mở đầu.
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong
doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn Nghiệp Vận Tải
Biển Vinafco .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,sử dụng vốn sản
xuất kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
- Kết luận:
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các công ty Việt Nam, cùng với
việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề quản nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận và chỉ tiêu đánh
giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên cứu đề tài những sai
sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, rất mong sự đóng góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đàm Văn Huệ
các chú cán bộ Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đã giúp em hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I
Nhứng vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp.
1.1.KHáI NIệM Và PHÂN LOạI VốN KINH DOANH CủA DOANH NGHIệP.
1.1.1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh.
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn nhất định
để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây dựng khởi động
doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần được sử dụng có hiệu quả.
Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu mua sắm máy móc thiết bị, để
chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện nhiều hình thái vật chất
khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu
lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng
các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu.
Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp
có thể diễn tả như sau:
Tài sản thực tế
Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến
sốcuối kỳ lớn hơn số đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó nghĩa số
tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí
có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được
tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh
doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất
hữu hình, một số tài sản không hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng
một giá trị đầu nhất định như: Tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế
thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng giá trị như vốn. Những phân tích khái
quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn một phạm trù kinh tế
bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và các
nguồn lực
mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá
trị thặng dư".
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp hết sức
quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
1.1.2.Phân loại vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm: Vốn cố định và vốn lưu động
nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp định và vốn điều
lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ hình thành vốn lại thể hiện
vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn
tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan
điểm sử dụng. Với bài luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về
vốn qua con mắt quản trị vốn công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem
xét trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố
định và vốn lưu động.
1.1.2.1- Vốn cố định:
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn doanh
nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định phải đạt được cả
hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định (ví dụ
hiện nay giá trị của phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử
dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình
thường với đặc điểm hình thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian
dài. Tài sản cố định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất chỉ tăng lên khi xây dựng bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử
dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình. Hao mònhình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao
độnghội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng
khẩn trương tài sản cố định các điều kiện ảnh hưởng tới độ bền u của i sản cố
định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn
trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền
chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể
có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
b) Hình thái biểu hiện của vốn cố định:
cấu vốn c định tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong
tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng là cho
phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu
vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu
cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ: Nội dung cấu thành và mối quan hệ
tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải
xây dựng được một cấu hợp phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ
thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn
được sử dụng hợphiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong
cấu vốnchỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản phải không ngừng nghiên
cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành Vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình
thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý
3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải
8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng cơ cấu
vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất đặc điểm về kỹ
thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn
thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì vậy khi
nghiên cứu để xây dựng cải tiến cơ cấu Vốn cố định hợp cần chú ý xem xét
tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú
ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng máy móc thiết
bịbộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản
xuất.
1.1.2.2 - Vốn lưu động:
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu độngbiểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động vốn lưu thông. Đó
số vốn doanh nghiệp đầu để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất
tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hoàn toàn khách
quan không như vốn cố định, Vốn lưu động tham gia hoàn toàn vào quá trình sản
xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng
lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ
ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn
cố định, quá trình vận động của Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: Đó toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong
quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật giá trị của Vốn lưu động các doanh nghiệp
sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên Vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho
chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra,
việc bán được hàng tức được khách hàng chấp nhận doanh nghiệp nhận được
tiền doanh thu bán hàng dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra
một cách thức quản vốn lưu động tối ưu đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
b) Hình thái biểu hiện của vốn lưu động:
Xác định cơ cấu Vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng
hiệu quả vốn lưu động. đáp ng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm
bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý Vốn lưu động. Trên sở đó đáp ứng được phần
nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
cấu Vốn lưu động quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại nhóm đó so với
toàn bộ giá trị Vốn lưu động. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại nhóm trong toàn bộ Vốn
lưu động hợp lý thì chỉ hợp tại mỗi thời điểm naò đó tính hợp lý chỉ mang tính
nhất thời.vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cấu
hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ.
Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có s
phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn luân chuyển, Vốn lưu động chia
thành 3 loại:
+ Vốn trong dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay
thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất
như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự dùng.
+ Vốn trong lưu thông: bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông
như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, Vốn lưu động được chia thành Vốn lưu
động không định mức và Vốn lưu động định mức.
+ Vốn lưu động định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vậthàng hoávốn phi hàng
hoá.
+ Vốn lưu động không định mức số vốn lưu động thể phát sinh trong quá
trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính
toán được.
1.2. nguồn vốn,chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
a) Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như
tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương
cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của
doanh nghiệp.
- Vốn tự có bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: Chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp
cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do viên hợp tác
và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh
của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất các khoản chênh lệch
hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: Gồmcác khoản vốn của các đơn vị tham
gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ
lao động nhỏ v.v...
- Vốn coi như tự có: Được hình thành do phương pháp kết toán hiện
hành, một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng thể sử
dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn u động. Thuộc khoản này có:Tiền
thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả
thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: Nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng
chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay
nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ lãi
suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động vốn cố định như trên,
người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn theo các chỉ dẫn của
kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây trở thành nguồn vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính
khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành
tài sản của doanh nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định sau đó phải
hoàn trả cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. ý
10
nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về
phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
b) Cơ cấu vốn:
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông qua
cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ sử dụng vốn của
ban lãnh đạo doanh nghiệp tình hình sản xuất kinh doanh những yếu tố quan
trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng thời chính những yếu tố đó tạo
nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng
loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số
thể hiện ý chí của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ s đó cho ta biết trong tổng số vốn
doanh nghiệp đang sử dụng bao nhiêu đầu vào vốn lưu động, bao nhiêu
đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ, hợp
lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỉ trọng VCĐ
(Tỉ trọng TSCĐ)
=
TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tổng vốn
Tỉ trọng VLĐ
(Tỉ trọng TSLĐ và vốn
lưu thông)
1- Tỉ trọng vốn cố định
1.3. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động
1.3.1. Hoạt động quản lý vốn cố định :
Quản lý vốn cố định (VCĐ) nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc
quảnhoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan trọng
đến sự tồn tại hiệu quả sử dụng vốn. Quản VCĐ thành công đòi hỏi các nhà
quản phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái biểu hiện vật chất của
nó. Hơn thế nữa, để quản hiệu quả VCĐ trước hết cần nghiên cứu những tính
chất đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản
VCĐ thường đi vào những nội dung cụ thể sau:
1.3.1.1 Khấu hao tài sản cố định
- Khái niệm về khấu hao Tài sản cố định:
- Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần dần bị xuống cấp hoăch hư
hỏng – gọi là sự hao mòn.Sự hao mòn đó làm giảm giá trị của chúng một
cách tương đối. Do đó, Xí nghiệp phải xác định giá trị hao mòn trong từng
kỳ kế toán ( năm ,quý, tháng....) và hạch toán vàogiá thành sản phẩm. Trong
đó sía trị khấu hao đã được cộng dồn lại ( luỹ kế ) phản ánh lượng tiền (giá
trị) đã hao mòn của tài sản cố định.
- Quá trình hao mòn gồm hai hình thái:
+ Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị
của tài sản cố định do sự hao mòn, xúng cấp về mặt hiện vật gây ra. Các hao mòn
hữu hình có thể quan sát, nhận biết được bằng trực quan như sự han gỉ, hư hỏng các
chi tiết, hiệu suất hoạt động giảm,vv...Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào điều kiện
hoạt động , cường đọ khai thác, chế độ vận hành, bảo dưỡng và tuổi thọ của tài sản
cố định.
+ Hao mồn vô hình là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do tiến bộ
khoa học kỹ thuật,do thị hiếu hoặc do một số nhân tố khác.Sự giảm sút giá trị không
trực tiếp biểu hiện qua bề ngoài của máy móc.Do đó, có những thiết bị chỉ còn lại 30%
- 40% giá trị ban đầu; điều đó thể hiện sự lạc hậu về công nghệ. Trong mua sắm đầu tư
máy móc thiết bị cần lưu ý.
+ Các phương pháp xác định chi phí khấu hao có thể được lựa chọn để áp dụng phù
hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
a) Khấu hao đều theo thời gian:
Phương pháp này tính chi phí khấu hao phân chia đều cho các năm, tức mỗi năm tài
sản cố định được khấu hao một lượng nhất định và không thay đổi cho đến khi thu hồi
hoàn toàn giá trị nguyên của nó.
Chi phí khấu hao là số tiền xác định mức độ hao mòn hàng năm hay từng thời kỳ của
tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao cỏ bản ( K ) xác định theo công thức sau:
Ng+ Ctl - Gth
- K = ------------------- 100%
Ng T
Trong đó:
. K : Tỷ lệ khấu hao tính bằng bằng %
. Ng: Nguyên giá của tài sản cố định.
. Clt: Chi phí thanh lý thaó dỡ ,vv...khi bán thanh lý hoặc khi thải loại tài sản cố định (
dự tính ).
. Gth: Giá trị thu hồi ( dự tính của ) phế liệu hoặc giá trị thải loại của TSCĐ.
. T: Tuổi thọ kinh tế ( số năm tính khấu hao ) của tài sản cố định.
Trên thực tế, các yếu tố Ctl và Gth chỉ là số ước tính, kém chính xác. Do đó
công thức này được đơn giản hoá :
1
K =---- 100 %.
T
Trong một năm, tính chi phí khấu hao cho từng nhóm tài sản cố định sau đó cộng dồn
lại. Cũng có thể tính chung cho tất cả các tài sản cố định khi xác định được tỷ lệ khấu
hao bình quân. Tiền khấu hao một năm tính như sau:
_
T = K NG
Trong đó :
NG: Nguyên giá TSCĐ sử dụng bình quân trong năm.
- Tuy nhiên cũng có thể tính toán đơn giản hơn bằng cách sau:
+ Lập riêng các bảng theo dõi tình hình mua sắm, bàn giao đưa vào sử dụng của tài
sản cố định, tách riêng bảng theo dõi tình hình thanh lý,ngừng khai thác tài sản cố
định.
+ Việc tính toán chi tiết nguyên giá tài sản cố định tăng giảm bình quân cần tuân thủ
quy định của cơ quan có thẩm quyền(Bộ tài chính, cơ quan chủ quản ).
+ Cáh tính toán nói trên áp dụng cho các nhóm tài sản cố định khác nhau, sau đó tính
tổng chi phí khấu hao của các nhóm đó.Có thể áp dụng tỷ lệ khấu hao bình quân.
- Tỷ lệ khấu hao bình quân.
Thông thường, trong một doanh nghiệp có rất nhiều nhóm tài sản cố định khác
nhau. Mức độ hao mòn và tốc độ khấu hao của các tài sản cố định đó thường khác
nhau. Nếu tính toán riêng cho từng tài sản cố định hoặc từng nhóm tài sản cố định thì
khối lượng tính toán có thể rất lớn. Do vậy trong một số trường hợp như lập kế
hoạch khấu hao, dự tính luồng tiền, có thể áp dụng
cách tính tỷ lệ khấu hao bình quân ( K ).
K = K d Trong
công thức này :
. K: Tỷ lệ khấu hao riêng của một nhóm tài sản cố định.
. d : Tỷ trọng về nguyên giá tài sản cố định
Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tính khấu hao bình quân trong đó tách riêng khấu
hao cơ bẩn và khấu hao sữa chữa lớn. Tuy nhiên, có thể tính gộp lại thành một tỷ lệ
khấu hao bình quân chung và hiện nay hầu như không tính riêng khấu hao sữa chữa
lớn.
b) Phương pháp khấu hao gia tăng:
Dựa trên tỷ lệ khấu hao thông thường (K) , ban quản lý Công ty hoặc phòng tài chính
-kế toán có thể xây dưng phương án khấu hao nhanh nhằm đẩy mạnh tốc độ thu hồi
vốn và đổi mới công nghệ. Cần tìm ra một hệ số khấu hao phù hợp (H*).Dùng phương
pháp này làm tăng tốc độ thu hồi khấu hao cao hơn so với tốc độ hao mòn hữu hình
thực tế của tài sản cố định.
c) Phương pháp khấu hao tổng số:
Phương pháp này có thể hạn chế sự tổn thất vốn cố định do hao mòn vô hình và
tương đối dễ tính toán. Nó phù hợp với doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí khấu hao trong
giá thành nhỏ ( chẳng hạn ở mức 1%-2% trong giá thành ) và phản ánh cách tính toán
tiền khấu hao. Số tiền khấu hao mỗi kỳ năm được tính trên giá trị còn lại của tài sản
cố định ở đầu kỳ đó ( chứ không tính trên nguyên giá như trong phương pháp khấu
hao đều ). Giá trị còn lại của tài sản cố định ( số dư ) giảm dần qua các năm, do đó
chi phí khấu hao càng về sau càng giảm.Đôi khi, người ta nâng tỷ lệ khấu hao của các
năm cuối lên gấp đôi nhằm rút ngắn thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Tuy nhiên phương
pháp này được áp dụng rất hạn chế, không phổ biến. Nó chỉ tương đối phù hợp với
các nhóm tài sản cố định có tuổi thọ kinh tế khoảng 8- 10 năm và để bán dưới dạng “
second- hand “ khi chưa thu hồi hết khấu hao.
d ) Phương pháp khấu hao theo sản lượng :
Trong một số lĩnh vực kinh doanh ( như vận tải , xây dựng, nông nghiệp vv...) có thể
dựa vào sản lượng hay khối lượng hoạt động thực tế của tài sản cố định để xác định
chi phí khấu hao. Điều kiện để áp dụng có hiệu quả phương pháp này là:
- Việc xác định, thống kê theo dõi sản lượng tương đối dễ dàng và không tốn kém.
- Sự thay đổi mức độ hoạt động của tài sản cố định không gây đột biến
lớn trong giá thành bình quân của sản phẩm hay dịch vụ.
- Có thể kết hợp theo dõi sản lượng thực tế với mức tiêu hao một số vật tư ,
nhiên liệu, phụ liệu.
- Trước hết, cần biết mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng ( m ):
Nguyên giá TSCĐ ( hay giá trị phải thu hồi )
m =
Tổng khối lượng định mức của đồi thiết bị
Trong đó mẫu số là tổng khối lượng mà tài sản cố định ( hay một thiết bị nào
đó ) có thể thực hiện trong suốt đời hoạt động của nó.
1.3.2.1 Quản lý quỹ khấu hao:
Ngoài việc quản lý thuần tuý về mặt giá trị, rất cần lưu ý quản lý tài sản cố
định về mặt hiện vật nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.Tuỳ theo đặc điểm
quy mô và khả năng quản lý, có thể xây dựng chế độ quản lý tài sản cố định
một cách thích hợp với điều kiện cụ thể của công ty.Sau đây là một số điểm
cơ bản:
a) Doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống theo dõi và kiểm soát toàn bộ tài
sản cố định. Việc theo dõi tài sản cố định không tốn kém nhưng có khả
năng tăng hiệu quả sử dụng các trang thiết bị hiện có.Đơn giản nhất
lập các sổ theo dõi tổng hợp và chi tiết. Sổ tổng hợp phản ánh khái quát
tình hình quản lý sử dụng các nhóm tài sản cố định, các chủng loại thiết
bị, nhưng chỉ ghi các thông tin cơ bản nhất.
- Sổ chi tiết dùng để lưu trữ đầy đủ các thông tin về từng nhóm nhỏ hoặc
từng đối tượng thiết bị. Sổ này phải thường xuyên được cập nhật, tức là
ghi
ngay khi có những thay đổi về tài sản cố định. Các sổ này thường được sử
dụng nhằm mục đích quản lý chặt chẽ tài sản cố định trong từng doanh
nghiệp nên có thể thiết kế linh hoạt về khuôn mẫu của sổ.
- Biện pháp tốt nhất là áp dụng máy tính để theo dõi các sổ nói trên. Các
thông tin về tài sản cố định liên tục được cập nhật vào cơ sở dữ liệu trong
máy tính, khi cần biết chỉ cần dùng một lẹnh đơn giản để gọi ra màn hình
hoặc in ra giấy.
b) Phân định trách nhiệm.
Các nhóm máy móc thiết bị hoặc các tổ hợp dây truyền thiết bị nên được
giao cho từng nhóm hoặc cá nhân quản lý. Phải căn cứ vào quy trình công
nghệ, sự sáp xếp ca kíp và cách thức tổ chức phân xưởng để phân định
trách nhiệm. Không có mô hình nào chung cho mọi công ty, mọi doanh
nghiệp mà chỉ nên áp dụng sự phân cấp hoặc giao trách nhiệm quản lý vận
hành sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Chế độ phân định trách nhiệm nên gắn với chế độ bàn giao, theo dõi và
thưởng phạt nhằm khuyến khích mọi người có ý thức tốt hơn trong quản lý
tài sản. Nên quy định chế độ báo cáo định kỳ đối với các quản đốc phân
xưởng, trưởng ca, tổ trưởng, hoặc kỹ sư phụ trách dây truyền về tình hình
sử dụng tài sản cố định của từng bộ phận.
c) Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật.
Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật vô cùng quan trọng do vậy phần
lớn các thiết bị máy móc, hệ thống dây truyền công nghệ yêu cầu phải bảo
đảm nghiêm ngặt về mặt kỹ thuật.Cần lưu ý các điểm sau:
- Quy trình kỹ thuật, chế độ vận hành cần dược duy trì nghiêm ngặt với
kỷ luật chạt chẽ để hạn chế tổn thất về người và tài sản.
- Phải lập lịch trình vận hành và theo dõi cho từng hệ thống , thiết bị, có phân
định trách nhiệm rõ ràng.Lịch kiểm tra định kỳ, bảo dưỡng, duy tu máy móc
thiết bị là rất cần thiết. Khuyến khích cán bộ công nhân tích cực tham gia
giữ gìn máy móc, thông báo ngay các sự cố cho người quản lý để khắc phục
kịp thời.
- Đối với các loại thiết bị mới, hiện đại nên thực hiện học tập và nghiên cứu
để có thể bắt tay ngay vào sử dụng.
1.3.2 Quản lý vốn lưu động :
1.3.2.1 Quản lý dự trữ
Trong việc này quản lý dự trữ nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng (gọi chung vật tư)
không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh thì có thể xảy ra hai trường hợp :
Mức dự trữ quá lớn, dư thừa gây ứ đọng, lãng phí vốn và hiệu quả thấp. Mức dự
trữ quá nhỏ, thiếu vật tư, gây ra tình trạng căng thẳng hoặc thậm trí phải tạm
ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
Rõ ràng, cả hai thái cực nói trên đều không tốt, do đó người ta muốn xác
định mức dự trữ thích hợp nhất với công ty trong từng điều kiện cụ thể.
Phương pháp điều chỉnh : đơn giản theo phương pháp này, có thể dựa vào tình
hình tiêu hao vật tư của năm trước (hoặc kỳ trước) để ước tính số vật tư cần thiết cho
kỳ này. Tỷ lệ điều chỉnh dựa trên một số dữ liệu và thông tin như : Mức độ giảm tiêu
hao vật tư, sản lượng dự kiến, g vật vv.. Phương pháp này tính chất kinh
nghiệm nhưng dễ áp dụng tuy nhiên có thể sai số đáng kể. Phương pháp định mức :
Đây là phương pháp cũng được sử dụng rộng rãi, trong đó dựa trên c định mức hay
các tiêu chuẩn chi phí để xác định số vốn lưu động cần thiết
1.3.2.2 Quản lý tiền mặt :
Quản tiền mặt trong công ty cùng quan trọng, tất cả tiền mặt tại quỹ,
tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (kể cả nội tệ và ngoại tệ) đều là
thuộc nhóm tài sản bằng tiền. Do vậy cần phải tăng lượng tiền bằng cách đi vay hoặc
bổ sung. Việc đi vay để tăng thêm vốn bằng tiền trong những thời điểm nào đó là một
việc khá phổ biến. Khi vay tiền, điều bản nhất tính đến chi phí lãi vay tính
hiệu quả của đồng vốn. Phần này liên hệ với phần lãi xuất và phần giá trị hiện tại của
tiền.
1.3.2.3 Quản lý phải thu :
Quản việc thu tiền của công ty cho thấy rằng số tiền được phản ánh trên các
tài khoản công ty đang theo dõi không phải bao giờ cũng bằng số dư trên tài
khoản tại ngân hàng. Vì vậy sẽ đề cập đến nguyên nhân sau :
a. Tiền nổi
Các công ty kinh doanh rất chú ý đến ảnh hưởng của tiền nổi trong hoạt động thanh
toán. Tiền nổisố chênh lệch giữa số dư tiền tài khoản tại ngân hàngsố trên
tài khoản của công ty. Tiền nổi phản ánh sự chênh lệch tạm thời (trong một thời gian
ngắn) giữa hai hệ thống theo dõi tài chính nói trên. Tuy nhiên, do các nghiệp vụ thanh
toán lẫn nhau liên tục làm xuất hiện tiền nổi, nên trị số của tiền nổi có thể trở nên khá
lớn. Tiền nổi được tính như sau :
F = Số dư tài khoản tiền gửi tại NH – Số dư tài khoản tiền gửi tại công ty
Tiền nổi do việc thu tiền từ một người khác gây ra được gọi là tiền nổi thu nợ; nếu do
việc phát hành séc để chi trả thì gọi tiền nổi chi ra. Trong cùng một khoảng thời
gian công ty thể đồng thời được lợi nhờ tiền nổi chi ra và vừa bị thiệt thòi do có
tiền nổi thu nợ. Số tiền nổi ròng là tổng của tiền nổi chi ra và tiền nổi thu nợ.
Do vậy với một kỹ thuật quảnchặt chẽ, thể khai thác triệt để tiền nổi vào mục
tiêu đầu ngắn hạn cải thiện hệ số khả năng thanh toán trên tài khoản tại ngân
hàng.
b)Thu tiền qua hộp thư (lockbox)
Một công ty có thể sử dụng một mạng lưới hộp thư được một ngân hàng quản để
giúp công ty thu nợ nhanh hơn. Ngân hàng này sẽ thu nhận các c từ các hộp thư đó
trong vài lần trong một ngày. Sau đó, ngân hàng nhanh chóng chuyển các c đó vào
tài khoản của công ty.
Hệ thống hộp thư rút ngắn thời gian gửi séc và thanh toán vì công ty lựa chọn những
địa điểm gần khu vực nhiều khách hàng để đặt hộp thư. Nếu không hộp thư,
khách hàng sẽ gửi séc và hoá đơn đến thẳng trụ sở hoặc chi nhánh của công ty và như
vậy thường chậm hơn nhiều so với hệ thống hộp thư.
Mặc công ty phải trả phí dịch vụ cho ngân hàng về việc quản lý hộp thư, nhưng
với số tiền lớn, các công ty vẫn có lợi khi sử dụng phương pháp hộp thư (lockbox) để
đẩy nhanh quá trình thu tiền.
1.4. hiệu quả sử dụng vốn và hiệu qusử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.4.1. Quan điểm về hiệu quả:
Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung hoạt động kinh
doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt
được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của nhân
hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá nào là vấn đề cần được xem xét
phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của
con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người
cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có, thể làm ra được nhiều
sản phẩm nhất. Do đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được
hiệu quả lớn nhất. Chính thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử
dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó.Hiệu quả kinh tế một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất
với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính theo công thức sau:
Kết quả đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh
định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính là quan
hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là quan hệ giữa toàn
bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định
bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần
ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên
quan khác.
1.4.2. - Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ và VLĐ:
1.4.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
a) Sức sản xuất của TSCĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy
đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần).
Sức sản xuất của tài sản
=
cố định
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
b) Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân
TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
Sức sinh lợi của tài
sản cố định
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
c) Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần cần
có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Suất hao phí tài sản =
cố định
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần, lợi
nhuận thuần)
d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Hiệu quả sử dụng vốn
=
cố định
Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi nhuận)
Số vốn cố định
1.4.2.2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
a) Sức sản xuất của vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại mấy
đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng)
Sức sản xuất của vốn
lưu động
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Vốn lưu động bình quân
b) Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy
đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ.
Sức sinh lời của vốn
lưu động
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Vốn lưu động bình quân
c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển)
Số vòng quay của vốn
lưu động
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng
quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
d) Thời gian của một vòng luân chyyển
Thời gian một vòng
luân chuyển
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một
vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm
vốn lưu động
=
Vốn lưu động bình quân
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn
lưu động bình quân.
Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không hiệu quả,
cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Khi tính các chỉ
tiêu cần chú ý các nhân tố sau:
+ Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ (Thuế VAT hoặc-
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán +
doanh thu hàng đã bán bị trả lại).
+ Thời gian của kỳ phân tích: Quy định một tháng 30 ngày, một quý 90
ngày và một năm là 360 ngày.
+ Vốn lưu động bình quân
=
Tổng vốn lưu động 4 quý
4
Hoặc =
V
1/2
+ V + V ... + V
2 3 n/2
n-1
Với V , V , V ... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng,
1 2 3
n là số thứ tự các tháng.
1.4.2.3- Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán:
a) Phân tích tình hình thanh toán:
Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh mọi
doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả cần một thời
gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp về các khoản tiền mua bán ng, giữa các doanh nghiệp với ngân sách về các
khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với người lao động về tiền
lương... các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh
nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa
trả được hoặc chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một
mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để
thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều
đó làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vậy, phân
tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở n tối cần thiết nhằm xem xét mức
biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến
hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khỏan nợ đến hạn chưa trả
được.
20
b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :Khả ng thanh
toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp ảnh
hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau:
Số tiền có thể dùng để thanh toán
K =
Các khoản nợ phải trả
Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán
- Số tiền thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền
những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng.
- Các khoản nợ phải trả gồm phải trả người bán, người mua, nộp ngân
sách trả cho cán bộ CNV, vay ngắn hạn ngân hàng, phải trả khác.
Khi đã có được kết quả hệ số thanh toán.
- Nếu K 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình trạng
tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt.
- Nếu K < 1, chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công
nợ và tình trạng tài chính ở mức không bình thường hoặc xấu.
1.4.2.4 - Mức độ bảo toàn và phát triển vốn:
Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tếlạm phát,
giá cả biến động lớn nhằm quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, buộc doanh
nghiệp phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh
, tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá thành sản phẩm để bảo toàn được vốn.
Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn phải bảo toàn, đến cuối năm
số vốn thực tế bảo toàn được trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của
doanh nghiệp là bảo toàn cao hơn hay chưa bảo toàn đủ. Khi bảo toàn được cao hơn
nghĩa doanh nghiệp đã thành tích trong quản sử dụng vốn. Với kết quả
khả quan này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp vốn để dùng vào sản xuất kinh
doanh, phát triển được vốn. Ngược lại, chưa bảo toàn đủ so với số vốn phải bảo toàn
phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn.
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng:
1.4.3.1- Chu kì sản xuất:
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu
ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm i tạo, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại, nếu chu kì dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn
trả lãi các khoản vay hay các khoản phải trả.
1.4.3.2 - Kĩ thuật sản xuất:
Các đặc điểm riêng về thuật tác động liên tục với một số chỉ tiêu quan
trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi máy móc thiết bị, hệ số sử
dụng về thời gian, công suất.
Nếu kĩ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện, máy móc, thiết bị
nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và với yêu cầu của khách hàng
về chất lượng sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên
VCĐ nhưng khó gi được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu thuật sản xuất phức tạp, trình
độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh nghiệp lợi thế trong cạnh tranh, song đòi
hỏi tay nghề công nhân, chất lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận vốn cố
định.
1.4.3.3 - Đặc điểm về sản xuất:
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phícũng chứa đựng doanh
thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu
bia... thì sẽ vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi
vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá
trị thấp, do vậy dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài,
giá trị lớn, được sản xuất trên dây chuyền giá trị lớn như máy thu hình, ôtô, xe
máy... sẽ là tác nhân hạn chế doanh thu.
1.4.3.4. - Tác động của thị trường:
Tuỳ theo mỗi loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ tác động đến hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh theo những khía cạnh khác nhau. Nếu thị trường đó cạnh
tranh tự do, những sản phẩm của doanh nghiệp đã uy tín lâu đối với người tiêu
dùng thì sẽ tác nhân tích cực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường. Đối với
thị trường sản phẩm không ổn định (theo màu,
theo thời điểm, thị hiếu) thì hiệu quả sử dụng vốn cũng không ổn định qua việc
doanh thu biến động lớn qua các thời điểm này.
1.4.3.5 - Trình độ tổ chức quản, tổ chức sản xuất, hạch toán nội bộ
doanh nghiệp:
Để hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất phải gọn nhẹ,
trùng khớp nhịp nhàng với nhau, với mỗi phương thức sản xuất và loại hình sản xuất
sẽ những tác động khác nhau tới tiến độ sản xuất, phương pháp quy định vận
hành máy móc, số ca, số tổ sản xuất , số bộ phận phục vụ sản xuất ...
Mặt khác, đặc điểm của công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp (luôn
gắn với tính chất của tổ chức sản xuất quản trong cùng doanh nghiệp) tác
động không nhỏ. Công tác kế toán đã dùng những công cụ của mình để đo hiệu quả
sử dụng vốn... Kế toán phải nhiệm vụ phát hiện những tồn tại trong quá trình sử
dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải quyết.
1.4.3.6 - Trình độ lao động, chế khuyến khích trách nhiệm vật
chất trong doanh nghiệp:
Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ cao đủ để thích ứng với trình độ
công nghệ dây chuyền sản xuất thì các máy móc trong dây chuyền sẽ được sử dụng
tốt hơn năng suất chất lượng sẽ cao hơn. Song trình độ lao động phải được đặt
đúng chỗ, đúng lúc... thì hiệu quả công việc mới cao.
Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả cao nhất doanh nghiệp phải một
chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại,
nếu cơ chế khuyến khích không công bằng, quy định trách nhiệm khôngng, dứt
khoát sẽ làm cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.4.3.7 - Các nhân tố khác:
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác dụng một phần không nhỏ tới hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố
định, thuế vốn, thuế doanh thu... đến chính sách cho vay bảo hộ và khuyến khích một
số loại công nghệ nhất định đều thể làm tăng, giảm hiệu quả sử dụng TSCĐ,
TSLĐ của doanh nghiệp.
Mặt khác,chế chính sách cũng tác động đến kế hoạch mua sắm nguyên vật
liệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp được hưởng nguồn nguyên vật liệu, chọn
được người cung cấp tốt nhất. Doanh nghiệp phải kết hợp được yêu cầu của chính
sách này với yêu cầu của thị trường. Từ đó tác động tới hiệu quả sdụng vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.5. c giải pp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dng vốn
Các giải pháp nhằm quản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường các
công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn
vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động các lợi thế khác của
doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem
lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
1.5.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh
nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp khả năng sản xuất ra
sản phẩm được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình
thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất
cái gì, bao nhiêu , tiêu thụ đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào
hoạt động, được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế nghĩa việc lựa chọn
phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽý nghĩa quyết
định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng
vốn nói riêng.
Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản
phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm
ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường , được thị trường chấp nhận. Do vậy các
phương án kinh doanh , phương án sản phẩm doanh nghiệp lựa chọn, suy cho
cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu
cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán
sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biếtvận dụng
tốt phương pháp Marketing.
Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn
phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của
marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở
lại cũng trở lên có ý nghĩa.
1.5.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy
động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình
thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy hay đầu chiều sâu. Như đã
biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng
phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế . Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở
rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất , phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu
hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh
nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập
theo quy định (NĐ 59 và TT70) nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các
khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lạithể vay ngân hàng hoặc các
đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải sựn nhắc, lựa chọn
đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp,
bởi việc phải chịu lãi từ các khoản vay thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả
đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để
lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cận phải
thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm
bảo liên doanh hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn
chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán,
1.5.3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh .
Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động phát triển Xét
một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định.
Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường , một mặt đòi hỏi doanh
nghiệp phải tổ chức quản tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho nội
trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản
xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong
nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu t mang
tính tĩnh đó vận động phù hợp với s biến động, phát triển liên tục của thị trường.
Kết quả tốt của việc điều hành và quản
lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết
bị, đọng vật dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng
không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn . Để đạt được các
mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản từng yếu tố của quá trình
sản xuất .
Đối với quản lý TSCĐ, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống
các biện pháp. Một là phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý , khai thác hết công suất
thiết kế nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị, sử dụng triệt để diện
tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành phẩm. Hai , xử dứt điểm
những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa
sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh . Ba quy
định trách nhiệm vật chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, sử dụng,
bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ. Bốn là sự quan tâm thường xuyên đến bảo toàn vốn
cố định.
Đối với quản lý TSCĐ, vốn lưu động thì nguyên tắc chung phải sử dụng tiết
kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên đó
doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản . Một xác định đúng nhu cầu
vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý c
nguồn vốn bổ sung. Hai là tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo
hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng đọng vật dự trữ, dẫn đến kém
hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. Ba là quản lý chặt chẽ việc tiêu
dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành
sản phẩm. Bốn tổ chức hợp quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất
các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế
đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất
thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần. Năm tổ chức đa dạng các hình
thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều. Sáu là xây dựng quan hệ
bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến
thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn. Bảy là tiết kiệm các yếu tố chi phí quản
doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi
nhuận.
1.5.4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa
học, công nghệ. Nhưng một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật một giai
đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa
lại. Kỹ thuật tiến bộ công nghệ hiện đại nói chung điều kiện vật chất để doanh
nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời
thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm , giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng
loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành
sản phẩm . Chính vậy, trong điều kiện công nghệ đa số các doanh nghiệp của
nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ
cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản
phẩm sức cạnh tranh cả về chất ợng, kiểu dáng giá bán. Đạt được quá trình
này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên,
tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản
phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản
xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuấttiêu thụ được nhiều sản phẩm
chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh .
1.5.5. Tổ chức tốt côngc hạch toán kế toán phân tích hoạt động
kinh tế
Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh
doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị
hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm
vốn lưu động, tình hình khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc
tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp
cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đòi hỏi phải
thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài
chính hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành
tích để có biện pháp phát huy.
Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố ảnh hưởng mạnh
mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh
doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của
mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống.
Chương II
Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
ở xí nghiệp vận tải biển vinafco
I. Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp vận tải biển vinafco.
1.1. Lịch sử hình thành
Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ phần
Vinafco là doanh nghiệp được thành lập theo quyết định số
2125/TCCB – LĐ ngày 13/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
1.2.Nhiệm vụ khi thành lập
a) Liên doanh liên kết trên cơ sở hợp đồng kinh tế với các tổ chức vận
tải, các chủ hàng, các ga cảng các tổ chức dịch vụ giao nhận kho,
bãi...của Trung ương và địa phương để thực hiện liên hiệp vận chuyển
hàng hoá từ kho hàng Trung ương đến kho hàng cơ sở và chiều ngược
lại.
b) Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện
các dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc-Nam, hàng nặng, thiết bị
toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi hàng
trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
*Cuối năm 2000 thành lập Xí nghiệp Dịch vụ Container và vận tải biển
nay là Xí Nghiệp Vận Tải Biển để quản lý, khai thác đội tàu
Container.
- Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ
phần Dịch vụ Vận Tải Trung Ương, nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là
tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải giữa hai đầu cảng đi và cảng
đến.Do vậy, tất cả các bộ phận trong Xí nghiệp hoạt động như một dây
chuyền thống nhất liên tục.Mỗi phòng ban đại diện là một mắt xích
không thể tách rời. Vì vậy việc xây dựng chức năng nhiệm vụ của các
bộ phận cũng mang tính thống nhất, không thể tách rời.
- Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp được Bộ Giao thông
Vận tải phê duyệt theo Quyết định số 3757/2000/QĐ/ Bộ GTVT ngày
07/12/2000.
- Căn cứ số 40/QĐ/ TCCB-LĐ ngày 17/02/2001 của Hội đồng quản trị
Công ty Cổ phần Dịch Vụ Vận tải Trung Ương về việc thành lập và quy
định chức năng nhiệm vụ cho Xí nghiệp Vận tải Biển.
- Căn cứ vào yêu
- cầu sản xuất thực tế của Xí nghiệp.
1.3. Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
- Xí nghiệp vận tải biển Vinafco bao gồm các phòng sau:
+ Phòng giám đốc và phó giám đốc
+ Phòng tổ chức hành chính
Giám□
Giám□
Giám□
Giám□Giám□c
Ph ó Gi á m
Kh a i Th á c
K
□ t o á n
Nhân chí nh
Kế ho chạch t ng h ợp Tổ ức v n t i
đạ i di n sà i gòn
Đạ i di n h i phòng
+ Phòng Tài chính- Kế toán
+ Phòng Quản lý tàu
+ Phòng Kế hoạch khai thác
+ Phòng Tổ chức vận tải
- Mô hình tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
1.3.1. Giám đốc và phó giám đốc: Giám đốcngười đại diện pháp nhân của
nghiệp và là người có quyền điều hành cao nhất trong Xí nghiệp. Giám đốc
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Tổng giám đốc công ty
trước pháp luật về công tác điều hành hoạt động nghiệp. Phó giám đốc
người giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động theo sự phân công
của giám đốc chịu trách nhiệm trước giám đốc pháp luật về nhiệm vụ
được giao.
1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của phòng nhân chính:
- Tham mưu cho Giám đốc trên các mặt hoạt động về công tác tổ chức
cán bộ, lao động tiền lương, hành chính quản trị trong phạm vi toàn
Xí nghiệp.
30
- Xây dựng mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp phù hợp với điều
kiện thực tế trước mắt và tương lai, trình Giám đốc duyệt
- Tham mưu và dự thảo các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ .
- Xây dựng các các quy chế, các quy định liên quan đến công tác
nhân chính, hành chính của Xí nghiệp.
- Có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nghiệp vụ
phù hợp với ngành nghề đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài cho Xí
nghiệp.
- Theo dõi chế độ BHXH, BHYT, BHYT.
- Xây dựng phương án phân phối tiền lương, tiền thưởng công bằng
hợp lý
- Giải quyết các công việc của hành chính quản trị :Mua sắm các thiết
bị văn phòng, quản lý điều động xe con.
1.3.3.Chức năng nhiệm vụ của phòng quản lý tàu :
- Trực tiếp tham mưu và thực hiện việc quản lý tàu, khai thác đội tàu với
hiệu quả cao nhất, đáp ứng đầy đủ kế hoạch SXKD của Xí nghiệp đề ra.
- Xây dựng lịch chạy tàu ( thời gian và số chuyến ) hàng tháng, quý,
năm với hiệu quả cao
- Tổ chức quản lý theo dõi, điều hành mọi hoạt động của tàu theo đúng
lịch trình.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc quản lý khai thác tàu,
sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng định kỳ đảm bảo chất lượng .
- Theo dõi, quản lý đầy đủ các thủ tục hồ sơ, giấy phép hoạt động của
tàu.Tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động của thuyền viên trên
tàu theo quy định của Luật Hàng Hải.
1.3.4.Chức năng và nhiệm vụ của phòng kế hoạch tổng hợp:
- Tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch
chuyến, tháng, quý,năm và kế hoạch đầu tư dài hạn.Tổng hợp tình
hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn Xí
nghiệp .
- Tập hợp kế hoạch báo cáo của các Bộ phận để theo dõi và tham mưu
cho Giám đốc trong việc quyết định khối lượng hàng hoá chuyên
chở cho từng chuyến tàu.
1.3.5. Chức năng nhiệm vụ phòng khai thác vận tải:
- Trực tiếp khai thác hàng hoá vận chuyển cho tàuđem lại doanh thu cao
nhất
- Tham mưu cho lãnh đạo Xí nghiệp về chiến lược thị trường và xây
dựng các kế hoạch khai thác hàng theo hàng quý, năm.
- Chủ động khai thác hàng hoá từ khâu tìm kiếm đối tác cho đến khi
giành được hàng hoá.
- Đánh giá kết quả hoạt động tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh và thu thập thông tin, nghiên cứu giá cả.
- Chăm sóc khách hàng thường xuyên trước sau khi bán sản phẩm dịch
vụ vận chuyển
- Tổng hợp và cung cấp số liệu thực hiện cho phòng tài chính kế toán làm
cơ sở thu nợ khách hàng và cùng lãnh đạo Xí nghiệp có biện pháp thu
nợ hữu hiệu nhất.
1.3.6. Chức năng và nhiệm vụ của phòng tổ chức vận tải:
- Tham mưu và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến hoạt
động vận tải và giao nhận trên phạm vi toàn Xí nghiệp.
- Tham gia quản lý và điều hành các hoạt động vĩ mô liên quan đến công
tác vận tải và giao nhận.
- Lên phương án và tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc lựa
chọn và ký hợp đồng các đơn vị vận chuyển, xếp dỡ, cảng, bãi tại hai
khu vực Nam Bắc.
- Trực tiếp tổ chức thực hiện các nghiệp vụ giao nhận, kiểm đếm hàng
hoá ở khu vực phía Bắc.
- Chịu trách nhiệm quản lý báo cáo Giám đốc Xí nghiệp hoạt động của
Phòng các công việc tới mảng điều hành vận tải,giao nhận toàn
nghiệp.
1.3.7. Phòng Tài chính kế toán
* Ngành nghề kinh doanh:
- Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải
giữa hai đầu cảng đi và cảng đến.
- Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện các
- dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc- Nam, hàng nặng, thiết bị
toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi
hàng trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
- Kinh doanh các mặt hàng từ kho đến kho, từ kho đến cảng hoặc từ
cảng đến cảng với phương tiện vận chuyển chủ yếu là đường biển,
đường bộ và đường sắt. Kết hợp dịch vụ vận chuyển giữa hai đầu
Nam- Bắc , kinh doanh hàng hoá
- Trụ sở của Xí nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đặt tại 33C- Cát Linh -
Đống Đa- Hà Nội.
Toàn bộ cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp là 85 người , 95% là tốt nghiệp
Đại học.
+ Văn phòng Xí nghiệp 42 người
+ Đại diện Hải phòng 12 người
+ Đại diện Sài Gòn 18 người
+ Nhân viên trên tàu 13 người.
1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
1.4.1. Những thuận lợi và khó khăn của Xí nghiệp vận tải biển
Vinafco.
a) Những thuận lợi :
- Việt Nam một trong số ít nước được thiên nhiên ưu đãi để trở thành
một quốc gia kinh tế phát triển . Vị trí địa của Việt Nam chính sách mở
cửa hiện nay của Đảng nhà nước ta những yếu tố rất thuận lợi cho việc
xây dựng một ngành công nghiệp đường biển với chức năng không chỉ phục vụ
các nhu cầu phát triển kinh tế , hội đảm bảo an ninh quốc phòng của
chính mình còn tham gia cung cấp dịch vụ cho hoạt động đường biển.
Ngành đường biển Việt Nam đã tích luỹ được một số cơ sở vật chất , phương
tiện, lao động kỹ thuật kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh
ban đầu, rất giá trị để bước vào một giai đoạn phát triển mới theo hướng
"chuyên dùng hoá - hiện đại
b. Những khó khăn chủ yếu:
- Ngành đường biển một ngành kinh tế đặc thù, sản phẩm chủ yếu
dịch vụ , phụ thuộc nhiều vào biến động của thị trường cũng như các rủi
ro thiên nhiên. Mặt khác, s vật chất kỹ thuật luôn đòi hỏi nhu cầu
đầu vốn khá lớn nhưng thời hạn thu hồi vốn thường kéo dài hơn so
với nhiều ngành kinh doanh dịch vụ khác. Hiện nay, hai lĩnh vực hoạt
động kinh doanh quan trọng nhất vận tải đường biển lạc hậu về
công nghệrất thiếu vốn đầu cải tạo, nâng cấp đổi mới trang thiết
bị để đáp ứng kịp thời các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
- Về dịch vụ: Xu thế chung của các doanh nghiệp lớn là tổ chức kinh doanh trọn
gói, nghĩa là tổ chức riêng các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, bốc xếp, giao nhận
để phục vụ cho mình cạnh tranh lôi kéo khách hàng, việc làm của các doanh
nghiệp dịch vụ cùng thuộc nghiệp. Có thể nói, thị trường dịch vụ đã, đang bị cạnh
tranh khốc liệt ngày càng bị thu hẹp. Đây khó khăn lớn nhất của các doanh
nghiệp dịch vụ làm cho một số doanh nghiệp bị mất việc làm hoặc kinh doanh thua
lỗ.
- Mặc chính phủ các quan quản chuyên ngành đã quan tâm
tháo gỡ một số vướng mắc về chế chính sách, nhưng vẫn chưa một chế
độ ưu tiên bảo hộ thích đáng với ngành đường biển như một số nước khác vẫn
làm.
1.4.2. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
1.4.2.1. Những đặc thù của ngành:
Như chúng ta đã biết, nghiệp vận tải biển Vinafconhiệm vụ chính là thực
hiện nhiệm vụ kinh doanh về vận tải đường biển, khai thác hàng hoá giữa hai đầu
cảng đi cảng đến ,so với các ngành kinh doanh, dịch vụ khác thì nhu cầu vốn
đầu tư rất lớn, đặc biệt là vào tài sản cố định, nhưng thời hạn thu hồi vốn thường phải
kéo dài hơn.
1.4.2.2. Tổ chức quản lý Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
Xí nghiệp vận tải biển Vinafco là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh ,
có tư cách pháp nhân, có các quyền nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Tổng công ty quản
lý, con dấu, tài sản các quỹ tập trung, được mở tài khoản tại các ngân hàng
trong nước theo quy định của nhà nước, được tổ chức hoạt động theo điều lệ tổ
chức công ty.
Bộ máy tổ chức quảncủa Xí nghiệp vận tải biển Vinafcohình trực tuyến
chức năng, đứng đầu Giám đốcphó giám đốc, sau các phòng ban hai đại
diện ở Hà nội và Hải phòng.
Hội đồng quản trị Công ty thực hiện chức năng quản nghiệp vận tải biển
Vinafco chịu trách nhiệm về sự phát triển của theo nhiệm vụ nhà nước giao. Ban
kiểm soát tổ chức do Hội đồng quản trị quyết định thành lập theo luật, hoạt động
theo điều lệ về tổ chức và hoạt động củanghiệp và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của
Hội đồng quản trị.
Xí nghiệp vận tải biển Vinafco được tổ chức và quản lý theo sự thống nhất giữa
lãnh đạo về kinh tế và lãnh đạo về chính trị. Tập trung dân chủ, thực hiện triệt để chế
độ một thủ trưởng phát huy cao quyền làm chủ tập thể người lao động, phát huy
vai trò lãnh đạo tổ chức của giám đốc quyền hạn, trách nhiệm của tập thể công
nhân viên chức của hội đồng Xí nghiệp và tập thể. Xí nghiệp sử dụng đòn bẩy kinh tế
, tài chính, kết hợp hài hoà ba lợi ích trong đó lợi ích người lao động động lực
bản, trực tiếp. Đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ và quan hệ tài chính với ngân sách nhà
nước, cơ quan chủ quản và với khách hàng .
1.4.2.3. Đặc điểm về máy móc thiết bị và công nghệ:
Hệ thống máy móc thiết bị yếu tố rất quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của Xí nghiệp. Máy móc thiết bị thuộc ngành này là những loại có trọng
tải lớn, cồng kềnh, và có giá trị rất lớn. Các trang thiết bị liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh chủ yếu là các phương tiện vận tải (đường thuỷ, trên bộ) các phương
tiện bốc xếp, phương tiện bảo quản hàng hoá. Theo đánh giá một cách tổng quát thì
hệ thống trang thiết bị còn lạc hậu, bất hợp lý, tuổi khai thác khá lớn, khả năng
chuyên dùng hoá kém... số lượng các phương tiện vận chuyển còn ít, tổng trọng tải
còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm ng. Hiện nay Xí nghiệp đang nỗ lực và khuyến
khích đầu tư phát triển theo hướng nâng cao khả năng chuyên dùng hoá, hiện đại hoá
nhằm nâng cao năng lực khai thác và tránh tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh, tận
dụng khả năng thiết lập dây chuyền công nghệ khép kín; chú trọng việc cải tiến công
nghệ vận chuyển - bốc xếp - giao nhận theo phương thức, từ kho đến kho phân
công chuyên môn hoá cao, nâng cao hơn nữa năng lực của đội tàu biển thông qua
thuê mua và mua mới c tàu đi biển trọng tải phù hợp. Sau đây là một số số liệu
chủ yếu liên quan đến hệ thống trang thiết bị.
- Phương tiện vận tải thuỷ:
+ Tàu Vinafco 18: Trọng tải 4119 Tấn sức chở 240 Teu
+ Tàu Vinafco 25: Trọng tải 5778 Tấn sức chở 252 Teu
-Đây là hai con tàu container chuyên dụng của xí nghiệp
1.4.2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Bước sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện hạch toán kinh doanh độc lậ ,
cũng như nhiều doanh nghiệp nhà nước khác, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco với các
thành viên của nó đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt là về vốn sản xuất kinh doanh ,
máy móc thiết bị cũ, lạc hậu. Thị trường giờ đây ngày càng nhiều công ty vận tải
đườngbiển , dịch vụ Đường sông lớn nhỏ lần lượt trở thành những đối thủ cạnh tranh
gay gắt của Xí nghiệp.
Đánh giá đúng tình hình đó nghiệp đã kịp thời đầu thực hiện các phương án
sản xuất kinh doanh , quy hoạch phát triển đội tàu, đầu tư nâng cấp, cải tạo các cảng
trọng điểm.... phấn đấu xây dựng xí nghiệp thành tập đoàn kinh tế lớn Việt Nam.
Từ năm 2000 đến nay, chất lượng dịch vụ của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco không
ngừng tăng lên, mặc dù còn gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng sản phẩm dịch vụ của
nghiệp đã được nhiều khách hàng chấp nhận. Nhờ đó, trong những năm qua công
ty dần có ưu thế, cụ thể như khách hàng đã chủ động tìm đến với tổng công ty. Ta
thể thấy qua một số chỉ tiêu sau:
Biểu: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của
nghiệp vận tải biển Vinafco
TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001
1 Sản lượng tổng Tấn 18.425 20.940
hợp
- Loại container Tấn 14.286 15.588
20’
- Loại container Tấn 2.535 2.676
40’
- Hàng rời Tấn 1.604 2.681
2. Về tài chính
- Tổng doanh thu Triệu đồng 47.256.192 56.202.314
- Tổng lợi nhuận Triệu đồng 8.161.037 9.611.021
- Tổng nộp NSNN Triệu đồng 3.840.488 4.522.834
3 Vốn cố định Tỷ đồng 1.377.158 1.512.920
4 Vốn lưu động Triệu đồng 828.847 955.287
Trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá một cách khoa học, Xí nghiệp vận
tải biển Vinafcođã xác định được chiến lược phát triển, trong đó nhiệm vụ trọng
tâm trong giai đoạn hiện nay là tập trung xây dựng, phát triển nhanh đội tàu theo
hướng đi thẳng lên hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhằm từng bước giành
lại và tăng thêm thị phần vận tải hàng hoá của Việt Nam, tiến tới tham gia chia xẻ thị
phần của khu vực.
Thể hiện cho sự cố gắng đó cùng với việc thực hiện đề án phát triển và trẻ hoá
đội tàu , sản lượng vận tải đã tăng liên tục qua các năm, năm 2001 tăng2.515 tấn ,
doanh thu tăng 1.449.984 triệu VNĐ,nộp ngân sách tăng
682.346 triệu VNĐ so năm 2000.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh , được nâng lên, tốc độ tăng trưởng cao, có
đóng góp vào nguồn thu ngân sách. Sau 2 năm hoạt động với mô hình xí nghiệp độc
lập, những nỗ lực, sáng tạo mới cùng với sự chỉ đạo và hỗ trợ của Công ty cổ phần
Vinafco, các Bộ, các ngành có liên quan, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chẳng
những trụ vững trên thương trường mà còn từng bước giành giật thị phần vận tải
sông, khẳng định vai trò, vị trí của mình trên thị trường . Thể hiện ở các chỉ tiêu tài
chính tăng trưởng một cách ổn định, năm 2001 tổng doanh thu tăng8.946.122 triệu
VNĐ, lợi nhuận tăng , nộp ngân sách tăng 1.449.984 triệu VNĐ 682.346 triệu VNĐ
so với thực hiện năm 2000.Và tích t,ụ tập trung nguồn lực bị phân tán trước đây để
chi phối những lĩnh vực quan trọng, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp
trong nước .
ii.Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
2.1.Vốn và cách thức huy động của Xí nghiệp
2.1.1. Nhu cầu vốn của Xí nghiệp
Xuất phát điểm vớisở vật chất kỹ thuật trong hai lĩnh vực kinh doanh trọng
yếu nhất vận tải biển khai thác hàng hoá rất thiếu vốn đầu cải tạo, nâng
cấp đổi mới trang thiết bị để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường do vậy
nhu cầu vốn của xí nghiệp là cần thiết.
2.1.2. Phương thức huy động vốn của nghiệp vận tải biển Vinafco
Xuất phát từ nhu cầu về vốn của mình, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã xác định
sự sống còn của mình phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn. Các
nguồn vốn được huy động như sau:
- Vốn do ngân sách cấp bao gồm vốn cấp thẳng từ NSNN cho đầu ban
đầu, vốn rút ra từ doanh nghiệp nhà nước khác ( do giải thể, sát nhập...) để bổ
sung cho doanh nghiệp mới (doanh nghiệp được phép trực tiếp nhận để đầu tư)
(NĐ 388 - HĐBT). Từ khi đất nước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản
của Nhà nước, nguồn vốn huy động từ NSNN ngày càng giảm dần, do đó
nghiệpxác định đây không là nguồn vốn chính của mình.
- Vốn xí nghiệp huy động thêm để đầu tư phát triển sản xuất , kinh doanh
bao gồm:
+ Nhà nước cho vay từ ngân sách với lãi suất ưu đãi thời gian vay dài hạn.
Với hình thức này xí nghiệp có thể vay với số lượng lớn. Có nhiều khả năng kết hợp
với vốn vay từ các ngân hàng trong nước thì đó các nguồn vốn chủ yếu của
nghiệp trong thời gian tới .
+ Bên cạnh đó từ năm 2000 chuyển đổi thành công ty cổ phần, phát hành cổ
phiếu, huy động để cán bộ công nhân viên chức trong Công ty mua.
+Thực hiện chế độ đa sở hữu đội tàu bằng việc khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu hoặc góp vốn cổ phần, mua công trái, nhà nước phát hành tín phiếu,
góp vốn liên doanh giữa các tổ chức kinh tế nước ngoài để xây dựng kể cả đối với đội
tàu nòng cốt, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của nhiều đối tượng như doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức kinh tế , trong nước.
+Khuyến khích phát triển đội tàu bằng việc giảm thuế doanh thu, thuế trước bạ,
thuế thu nhập, thuế vốn đối với các đội tàu vận tải quy định các loại cước phí phù
hợp, giành lợi thế cho đội tàu và đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế hoạt động.
2.2. Phân tích tình hình quản lý vốn cố định
2.2.1. Cơ cấu vốn cố định, tình hình biến động của vốn cố định
Trong quá trình hình thành vốn cố định, tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh
của các ngành, tuỳ theo mức độ trang thiết bị cho mỗi bộ phận mà vốn cố định được
hình thành rất khác nhau. Hơn thế nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh do tác
động của nhiều nguyên nhân khách quan chủ quan khác nhau làm cho tài sản cố
định biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Nắm bắt được những nguyên lý đó
đòi hỏi việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải tiếp cận theo nguồn hình thành và cơ
cấu TSCĐ.
Thứ nhất: Là nghiên cứucấu vốn cố định theo nguồn hình thành sự biến
động của nó ở biểu sau:
Biểu . Cơ cấu vốn cố định và sự biến động của nó năm 2001
Đơn vị: 1.000.000VNĐ
Chỉ tiêu năm2000 năm 2001 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ% Số tiền Tỉ lệ % Số tiền
1. Ngân sách cấp 396.882 28,8 516.468 34,1 119.582
- Phương tiện thiết 57.326 4,1 87.316 5,8
bị
- Phương tiện vận tải 218.994 15,9 268.435 17,7
- Cơ sở hạ tầng 120.562 8,8 160.717 10,6
2. Vốn vay và tự bổ 980.276 71,2 996.452 65,9 16.176
sung
- Phương tiện thiết 130.230 9,5 149.530 9,9
bị
- Phương tiện vận tải 780.686 56,6 770.602 50,9
- Cơ sở hạ tầng 69.360 5,1 76.320 5,1
Tổng cộng VCĐ 1.377.15 100 1.512.92 100 135.762
8 0
+Tổng số vốn cố định của xí nghiệp năm 2000 là: 1.377.158 Tỷ VNĐ
+ Tổng số vốn cố định của xí nghiệp năm 2001 là: 1.512.920 Tỷ VNĐ
Qua biểu trên ta thấy thời điểm năm 2000 vốn ngân sách cấp với giá trị 396.882
triệu VNĐ chiếm 28,8% vốn cố định của xí nghiệp. Đến thời điểm năm 2001 về giá
trị tuyệt đối 516.468 triệu VNĐ (tăng 119.582 triệu VNĐ) giá trị tương đối
chiếm 34,1% (tăng 5,3% ). Trong khi đó vốn vay tự bổ sung năm 2000
980.276 triệu VNĐ, tăng 996.452 triệu VNĐtương ứng với tăng 1,6%. Như vậy với
những khả năng biến động của năm 2001, trong cấu vốn cố định của thì vốn vay
vốn t bổ sung chiếm tỉ lệ khá cao (trên 68%). Chứng tỏ rằng nghiệp sử dụng
đòn bẩy tài chính khá tốt. Tuy nhiên tỉ trọng đó có xu hướng giảm do khủng hoảng tài
chính, kinh doanh vay vốn rất khó khăn, nhưng đây các quan hệ tỉ trọng mang
tính động và với những triển vọng sáng sủa về khả năng phục hội kinh tế thế giới sau
khủng hoảng, Xí nghiệp có rất nhiều điều kiện thuận lợi để điều chỉnh.
Trong cơ cấu vốn do NSNN cấp, trọng điểm rót vốn vẫn là đội tàu vận tải tại
thời điểm năm 2000 chiếm 15,9% sau đó đến cơ sở hạ tầng 8,8%, phương tiện dành
cho bốc xếp thuỷ bộ chiếm 4,1%. Tuy nhiên, do đẩy nhanh việc thực hiện các dự án
nâng cấp, cải tạo, xây mới sở hạ tầng , mua sắm thiết bị vận tải nên vón góp của
NSNN có tăng so với đầu năm.
Trong cơ cấu vốn tự bổ sung và vốn vay, với việc thực hiện đề án xây dựng đội
tàu đến 2010, đầu tư cho đội tàu đã ngốn tới 71,2%thời điểm năm2000 và tiếp tục
đứng đầu với 72% ở thời điểm năm 2001 . Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất
khiêm tốn chỉ chiếm 5,1% năm 2000& 2001 Phần vốn lớn nhất dành cho
phương tiện vận tải , mua tàu, n đến 56,6 % năm 2000 có giảm năm 2001
50,9%.
Như thế trong năm qua, nghiệp đã sử dụng một nguồn vốn vay tuy đã suy
giảm nhưng còn rất lớn nguồn vốn tăng thêm từ vốn do các cổ đông đóng góp,
điều này đã làm cho VCĐ tăng thêm 135.762 triệu VNĐ. Sự tăng thêm về vốn cố
định này do rất nhiều nguyên nhân. Một phần rất nhỏ do sự biến động giá cả đối
với mua sắm thiết bị vận chuyển ,tư liệu sản xuất xảy ra tất yếu trong nền kinh tế thị
trường, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu, th hiếu, mức độ khan hiếm... phần lớn còn
lại là do bản thân xí nghiệp.
Một là, nghiệp đã mua thêm một s phương tiện dùng cho bốc, xếp nhằm
nâng số lượng hàng hoá thông qua các đại diện nội Hải phòng bằng nguồn
vốn do các cổ đông đóng góp và vốn vay của các ngân hàng.
Hai, xí nghiệp đã đẩy nhanh việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho hai đội tàu và cho
hai đại diện ở Hà nội và Hải phòng.
Ba là, các nhân tố mua sắm phương tiện vận tải vẫn chiếm lượng đầu tư
rất lớn năm 2000 lại suy giảm so năm2001.
Bên cạnh đó ta xemt cơ cấu TSCĐ để thấy rõ hơn mức độ trang thiết bị của
xí nghiệp cho hoạt động sản xuất kinh doanh . Chúng ta đều biết TSCĐ là bộ phận tài
sản chủ yếu phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh mà xí nghiệp hiện sử dụng, trình
độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của nghiệp. cũng rất cần thiết để giảm nhẹ sức
lao động và nâng cao trình độ của công nhân. Do đó TSCĐ có ý nghĩa quyết định đến
kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
40
TSCĐnghiệp vận tải biển Vinafco sử dụng3 loại chính : cơ sở hạ
tầng, phương tiện vận tải (tàu biển), phương tiện bốc xếp thuỷ bộvà vỏ container. Các
loại tài sản này được hình thành từ 3 nguồn chính là: nguồn NSNN cấp, nguồn vốn
vay và tự bổ sung. Và hiện tại chúng có tỉ trọng cơ cấu được phản ánh như sau.
a) Phương tiện vận tải
+ Tàu Vinafco 18: Trọng tải 4119 Tấn sức chở 240 Teu
+ Tàu Vinafco 25: Trọng tải 5778 Tấn sức chở 252 Teu.
b) Phương tiện thiết bị
c) Cơ sở hạ tầng
+ Vị trí làm hàng
+Kho hàng hoá
+ Trụ sở làm việc.
Qua số liệu trên biểu trên ta có một số đánh giá sau:
Để nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển hàng hoá , xí nghiệp đã đầu tư cơ
sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh bằng số vốn cố định của xí nghiệp.
Số vốn cố định giành cho cơ sở hạ tầng chỉ chiếm 8,8%, tuy nhiên trong vài năm
tới khi mà các đề án nâng cấp chất lượng dịch vụ vận tải hoàn thành đưa vào sử dụng
thì tỉ trọng của nhóm này sẽ thay đổi, đặc biệt với các dự án xây dựng trụ sở làm
việc, dự án vận tải đa phương thức.
Như vậy với việc phân tích cơ cấu vốn cố định cũng như tình hình biến động của
nó theo nguồn hình thành và theo mối quan hệ tỉ trọng trong TSCĐ, cho chúng ta thấy
với những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, trình độ phát
triển khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển của nghiệp thì cấu vốn cố định
khá hợp lý. Điều này đã được thể hiện không những thông qua các chỉ số cơ cấu hiện
tại mà ngay cả trong xu hướng đầu tư. Với thành quả này sẽ có tác động tốt đến hiệu
quả sử dụng vốn trong thời gian kế tiếp. Tuy nhiên yếu tố cơ cấu luôn biến động, chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan chủ quan, do vậy đòi hỏi ban lãnh đạo
phải có những chỉ đạo sát sao để thiết lập và duy trì cơ cấu vốn cố định hợp lý, tối ưu.
2.2.2. Khấu hao tài sản cố định
Như chúng ta đã biết, khấu hao tài sản cố định là một trong những biện pháp góp
phần bảo toàn và phát triển vốn cố định. Việc khấu hao đúng, khấu hao đủ theo quy
định về công tác khấu hao sẽ phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong quá trình quản sử dụng TSCĐ, TSCĐ luôn bị hao mòn dưới hai hình
thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Giá trị hao mòn được chuyển dịch vào
giá trị sản phẩm qua hình thức khấu hao. Sau khi sản phẩm tiêu thụ, số tiền khấu hao
được trích lại và lập thành quỹ khấu hao TSCĐ. Quỹ khấu hao này dùng để tái sản
xuất giản đơn TSCĐ (người ta gọi là quỹ khấu hao cơ bản). Nhưng trong điều kiện có
sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao bản còn khả năng tái sản xuất
mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách các doanh nghiệp sử dụng
linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho
các mục đích đầu phục vụ sản xuất kinh doanh được thu hồi doanh lợi (trên
nguyên tắc được hoàn quỹ) hoặc nh nguồn vốn này đơn vị thể đầu đổi mới
TSCĐ ở những năm sau lớn hơn, hiện đại hơn.
Để đạt được cả hai khả năng trên, ngay từ công tác khấu hao thì xí nghiệp
đã có những kết quả phản ánh trên biểu sau.
Biểu : Thực tế khấu hao TSCĐ của Xí nghiệp.
Đơn vị: 1.000.000VNĐ
Chỉ tiêu 2000 2001
1. Nguyên giá TSCĐ 3.216.786 3.475.125
2. Khấu hao trong năm 177.900 286.059
3. Tổng khấu hao 1.661.728 1.676.146
4. Giá trị còn lại 1.377.158 1.512.920
5. Tỉ lệ trích 5,5 8,2
Qua biểu trên ta thấy trích khấu hao trong năm ngày một tăng, năm 2000
177.900 triệu VNĐ nhưng đến năm 2001 286.059 triệu VNĐ,. Trong năm 2001,
nghiệp tiếp tục đầu thêm TSCĐ ( chủ yếu cho đội tàu) , mua mới một tàu biển
Vinafco 25 có trong tải lớn và mua hàng loạt vỏ container phục vụ cho sẩn xuất.
Như vậy trích khấu hao trong năm tăng không những do nguyên giá TSCĐ liên
tục tăng còn cả tỉ lệ trích khấu hao cũng tăng. Điều này đã gây ra trích khấu hao
trong năm tăng nhanh hơn việc tăng nguyên giá TSCĐ. Với thực tế trích khấu hao
trong năm tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến cước phí vận tải của nghiệp phải
đang giảm xuống nhằm cạnh tranh với các công ty vận tải khác ở trong nước và trong
khu vực trong cơn biến động khủng hoảng tài chính (đặc biệt giá cước vận tải nội địa
rất thấp, nhiều khi thấp hơn giá thành), điều này đòi hỏi phải những biện pháp để
giữ vững thế cạnh tranh trên thị trường. Bởi khấu hao tăng đồng nghĩa với lợi nhuận
giảm xuống khi giá cả khuynh hướng giảm như vậy chắc chắn sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động của xí nghiệp.
2.2.3. Tình hình bảo toàn và phát triển vốn cố định
Trước sự biến động thường xuyên của thị trường và trình độ quản lý sẽ làm phát
sinh khoảng cách giữa lượng vốn cố định hiện có của xí nghiệp và lượng vốn cố định
cần có trong tương lai đáp ứng yêu cầu sản xuất và kinh doanh , từ đó dẫn đến việc xí
nghiệp phải vừa bảo toàn vốn vừa phát triển vốn. Trên nguyên tắc đúng đó
nghiệp đã có những kết quả bảo toàn và phát triển vốn thể hiện ở biểu sau.
Biểu : Tình hình bảo toàn và phát triển VCĐ ở Xí nghiệp vận tải
biển Vinafco trong năm 2001.
Chỉ tiêu Tổng số
Trong đó
Ngân sách Bổ sung v
ay
- Số VCĐ phải bảo toàn đầu năm 1.377.158 396.882 980.276
- Số VCĐ phải bảo toàn cuối năm 1.512.920 516.468 996.452
- Số VCĐ thực tế đã bảo toàn 1.482.786 520.460 962.326
- Chênh lệch số vốn đã bảo toàn - 30.134 +3992 -34.126
với số vốn phải bảo toàn
Số liệu biểu trên cho ta thấy năm 2001, xí nghiệp chưa thực hiện được bảo toàn
vốn cố định. Theo kế hoạch tính toán, số VCĐ cần bảo toàn đến cuối năm
1.512.920 triệu VNĐ trong khi đó nghiệp mới thực hiện bảo toàn VCĐ
là1.482.786 triệu VNĐ, như vậy mức bảo toàn thiếu 30.134 triệu
VNĐ, trong đó vốn NSNN đã bảo toàn lớn hơn số phải bảo toàn là 3992 triệu
VNĐ, phần vốn bổ sung và vốn vay bảo toàn thiếu 34.126 triệu VNĐ.
Khuyết điểm này thuộc về nhiều nguyên nhân, có thể là do việc công tác quản lý
vốn cố định của doanh nghiệp chưa được tốt, do việc mua bán TSCĐ trong năm qua
của nghiệp, nhưng lẽ đáng chú ý hơn do tình trạng thiếu vốn trong kinh
doanh hiện nay kphổ biến , thêm nữa là những khó khăn của nền kinh tế khu vực
và thế giới làm cho việc vay nợ trở nên khó khăn, dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp
chiếm dụng vốn của nhau, nợ nần dây dưa làm cho các doanh nghiệp trong mặc
thiếu vốn, nhưng vốn vẫn bị đọng. Thực tế này làm cho vốn sau khi thu hồi không
còn đảm bảo sức mạnh ban đầu của đồng vốn. Như vậy đồng vốn chưa được bảo toàn
của xí nghiệp đã một mặt phản ánh được lợi nhuận tăng lên đó là chưa đúng thực chất
bởi vì nếu tính theo vốn cố định được bảo toàn thì lợi nhuận thực tế sẽ giảm xuống.
2.3. Tình hình quản lý vốn lưu động
Quản lý vốn lưu động cũng có nghĩa là quản lý bộ phận thứ hai của vốn và cũng
vai trò quan trọng không m vốn cố định. VLĐ chính biểu hiện bằng tiền
của tài sản lưu động vốn lưu thông được sử dụng vào quá trình tái sản xuất . Do
vậy để nghiên cứu tình hình quản lý vốn lưu động ta cần nghiên cứu các mặt sau:
2.3.1. Lập kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch VLĐ định mức:
Vốn lưu động định mức chính là số vốn lưu động có thể quy định mức tối thiểu,
cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Nó được sử
dụng cho việc chi phí dự trữ tài sản định mức cho của xí nghiệp. Khi số vốn lưu động
được đảm bảo đầy đủ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường
liên tục chủ động. Tuy nhiên nếu số vốn này không được tính chínhc thì sẽ
nguyên nhân gây khó khăn trở ngại cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trên sở số vốn lưu động định mức đã được tính toán, nghiệp sẽ căn cứ
vào đó để huy động, phân bổ nguồn vốn kịp thời cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Trong Xí nghiệp vận tải biển Vinafco, nhu cầu về vốn lưu động là tương đối lớn,
Xí nghiệp sau khi đã xác định được vốn lưu động định mức bằng cách dựa vào doanh
thu kế hoạch hàng năm, Xí nghiệp tiến hành huy động tối đa từ các nguồn: Vốn ngân
sách, tự bổ sung, số vốn thiếu thể huy động từ các nguồn, vay tín dụng, quỹ
nghiệp. Chúng ta thể thấy tình hình thực hiện kế hoạch vốn lưu động định mức
qua biểu sau.
Biểu : Kế hoạch nguồn vốn lưu động định mức vành hình thực hiện năm
2001
Đơn vị: 1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ % Số tiền Tỉ lệ % Số tiền Tỉ lệ
%
- Nguồn NSNN
cấp
- Nguồn tự bổ sung
- Nguồn vay tín
dụng
- Các quỹ xí
nghiệp
52.768 6,4 63.421 6,6 10.644 8,4
276.147 33,3 287.234 30,1 11.087 8,8
421.516 50,9 517.426 54,2 95.910 75,8
78.416 9,4 87.215 9,1 8799
7
Tổng cộng 828.847 100 955.287 100 126.440 100
Qua biểu trên ta thấy kế hoạch huy động vốn từ các nguồn và thực hiện
công tác huy động vốn cho sản xuất kinh doanh năm 2001 như sau:
- Nguồn NSNN cấp tăng 8,4% tương ứng với 10.644 triệu VNĐ có tỉ
trọng tương đối thấp.
- Nguồn tự bổ sung là nguồn đứng thứ hai cả về số tuyệt đối và số tương
đối, việc thực hiện cho với kế hoạch tăng 11.087 triệu VNĐ hay 8,8%.
- Nguồn vay tín dụng tỷ trọng đứng đầu trong kế hoạch 421.516
mức lập kế hoạch 517.426 triệu VNĐ tăng 95.910 triệu VNĐ hay
tăng đạt 75,8%.
- Nguồn quỹ xí nghiệp cũng đạt tăng so với kế hoạch 8799 triệu VNĐ
hay tăng 7 %.
Qua thực tế việc huy động vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh ta thấy kế
hoạch vốn lưu động định mức chưa sát thực tế là 955.287 triệu VNĐ, so với kế hoạch
tăng 126.440 triệu VNĐ trong đó.
Như vậy nhìn chung phương pháp xác định vốn lưu động định mức kế hoạch đã
những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên khả năng dự báo chỉ tương đối, phương
pháp xác định này không cụ thể cho từng khâu, từng bộ phận. Cho nênnghiệp cần
có phương pháp xác định hợp lý hơn nhằm làm giảm việc sử dụng vốn không có hiệu
quả, khâu thì quá nhiều vốn, khâu lại không vốn, việc này sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến tiến độ sản xuất kinh doanh và làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn.
2.3.2. Cơ cấu vốn lưu động:
Xuất phát từ những đặc điểm của vốn lưu động đòi hỏi việc nghiên cứu
cấu vốn lưu động trong thực tiễn khác so với vốn cố định. Việc nghiên cứu toàn
diện về cấu vốn lưu động cho ta một cái nhìn tổng quát về tình hình quản vốn
lưu động, hơn thế nữa kết quả nghiên cứu còn gợi mở cho các nhà lãnh đạo xí nghiệp
đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo sử dụng tiết kiệm hợp lý
vốn lưu động. Để đạt được những mục đích đó đòi hỏi phải xem xét cơ cấu vốn lưu
động theo hai nội dung là: Nguồn hình thành và quá trình luân chuyển tuần hoàn của
nó.
Thứ nhất là xét cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành cùng sự biến
động của nó ở biểu sau.
Biểu : Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn và sự biến động của nó năm
2001
Đơn vị 1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ( %) Số tiền Tỉ
lệ(%)
Số tiền Tỉ lệ
%
1.Nguồn NSNN cấp 68.768
8
71.623 7,9 2.837 5,8
2.Nguồn tự bổ xung 287.152 33,6 298.459 30 11.307 23,1
3. Nguồn tín dụng 415.716 48,7 437.816 48,5 22.100 45,5
4. Quỹ xí nghiệp 82.767 9,7 95.520 10,6 12.753 26
Tổng cộng 854.421 100 903.418 100 48.997 100
Vậy cơ cấu nguồn hình thành của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco trong năm 2000 &
2001 như sau.
- Nguồn vốn tín dụng đang là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về số tuyệt đối
tương đối với giá trị năm 2000 là 415.716 triệu VNĐ chiếm 48,7% đến năm 2001
là 437.816 triệu VNĐ chiếm 48,5% có giảm so với đầu năm 2000
- Nguồn quỹ xí nghiệp mặc dù về số tuyệt đối có tăng hơn một chút
nhưng tỉ trọng của nó trong cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình
thành vẫn còn thấpchiếm tỷ trọng 9,7năm 2000 và 10,6% năm 2001.
- Nguồn NSNN cấp so với cơ cấu VCĐ ở Xí nghiệp là ít nhất chiếm tỷ
trọng rất nhỏ năm 2000 là 68.786 chiếm 8%, năm 2001 là 71.623
chiếm 7,9%.
- Nguồn tự bổ sung mặc dù về số tuyệt đối có tăng hơn một chút nhưng tỷ
trọng của nó trong cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành vẫn suy giảm 3,6% so
với năm 2000, bởi tổng vốn lưu động tăng với tốc độ nhanh hơn
Như vậy trong năm 2001, Xí nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc huy động
vốn từ các nguồn thể hiện ở lượng vốn lưu động cuối năm tăng so với đầu năm là
48.997 triệu VNĐ. Tuy nhiên xí nghiệp cần cải thiện việc huy động vốn để tỷ trọng
cuối năm được cân bằng so với đầu năm và không gây ảng hưởng đến hoạt động kinh
doanh của xí nghiệp.
Thứ hai là xét cơ cấu vốn lưu động theo quá trình luân chuyển tuần hoàn của
nó ở biểu sau:
Biểu : Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình luân chuyển tuần hoàn
Đơn vị: 1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ% Số tiền Tỉ
lệ%
Số
tiền
Tỉ
lệ%
1. Vốn dự trữ 256.751 30 267.675 29 10.924 22,2
2. Vốn trong sản xuất 179.587 21 181.706 20 2.119 4,3
3. Vốn trong lưu 418.083 49 454.037 51 35.954 73,5
thông
- Tiền mặt 97.712 108.216 10.495
- Thành phẩm 8.756 9.986
- Hàng hoá 26.410 19.320
- Phải thu 285.196 33,4 296.515 33
Tổng cộng 854.421 100 903.418 100 48.997 100
Ngành Vận tải đường biển một ngành kinh tế đặc thù sản phẩm chủ yếu
dịch vụ nên vốn lưu động tập trung chủ yếu vào hai khâu dự trữ lưu thông. Qua
biểu trên ta thấy nổi lên các vấn đề sau:
Một vốn lưu động trong khâu lưu thông chiếm tỉ trọng chủ yếu, cụ thể năm
2000 418.083 triệu VNĐ chiếm tới 49%, năm2001 tuy tỉ trọng tăng lên
454.037 triệu VNĐ chiếm 51% nhưng số tuyệt đối tăng thêm 35.954 triệu VNĐ.
Trong đó số vốn bị chiếm dụng chiếm tỉ lệ rất cao chiếm 33,4% n bởi tổng vốn lưu
động tăng nhanh hơn. Đây là tình trạng gây ra bởi việc khó vay vốn nói chung trong
nền kinh tế năm 2001. Một điều đáng lưu ý nữa lượng tiền mặt với trị số đã lớn
nhưng năm 2001 lại tăng thêm 10.495 triệu VNĐ sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng
sinh lời của đồng vốn bởi vì đây là lượng tiền không có khả năng sinh lãi mà chỉ đáp
ứng những nhu cầu thanh toán bức thiết của xí nghiệp. Như vậy trong thời gian của xí
nghiệp tới cần có những tính toán cụ thể để làm giảm lượng tiền này xuống mức hợp
lý nhất.
Hai là, vốn dự tr chiếm tỉ trọngtương đối, năm 2000 256.751 triệu VNĐ
chiếm 30%, năm 2001 trị số tuyệt đối tăng lên 267.675 triệu VNĐ nhưng tỉ trọng
giảm 29% do tổng vốn lưu động năm 2001 tăng nhanh hơn. Tuy nhiên vốn lưu động
dự trữ không những nằm ở các yếu tố đầu vào mà còn cả ở các yếu tố đầu ra và trong
sản xuất . Vốn lưu động cho dự trữ này nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh diễn ra đều đặn và liên tục nhưng phải bảo đảm hợp bởi vì thừa hoặc thiếu
đều gây ra kết quả không tốt. Về tình hình vốn lưu động cho dự trữ tathể thấy
biểu sau.
Biểu . Tình hình vốn lưu động cho dự trữ của xí nghiệp.
Đơn vị :1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ
%
Số tiền Tỉ lệ
%
Số
tiền
Tỉ lệ
%
1.Nguyên vật liệu 158.725 54.4 176.253 59 17.528
2. Công cụ lao động
3. Chi phí SXKD
4. Thành phẩm, hàng
hoá
98.026
8.756
26.410
33,6
3
9
91.422
9.986
19.320
30,8
3,4
6,5
-6.604
1.230
-7090
Tổng cộng 291.917 100 296.981 100 5.064 1,7
Qua biểu trên ta thấy:Vốn lưu động dự trữ năm 2001 của nghiệp 296.981
triệu VNĐ tăng so với năm 2000 291.917 triệu VNĐ hay 1,7%, sự biến động này
do các nhân số sau:
- Nguyên vật liệu năm 2001 dự trữ tăng so với năm 2000 17.528 triệu
VNĐ.
- Công cụ lao động năm 2000 dự trữ là 98.026 triệu VNĐ, năm 2001
91.422 giảm 6.604 triệu VNĐ.
- Chi phí sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng so với năm 2000 là 1.230
triệu VNĐ.
- Thành phẩm hàng hoá giảm , nghĩa công tác tiêu thụ thành
phẩm và hàng hoá của xí nghiệp trong năm 2001 bị chậm lại, đặc biệt là thành
phẩm. Tuy nhiên điều này ảnh hưởng ít đến hoạt động kinh doanh của
nghiệp do số vốn dành cho thành phẩm và hàng hoá rất ít.
2.3.3. Tình hình bảo toàn vốn lưu động
Có lẽ bảo toàn vốn lưu động sẽ khó khăn hơn bảo toàn vốn cố định bởi chính sự
tham gia luân chuyển toàn bộ giá trị của vốn lưu động. Việc chu chuyển toàn bộ, một
lần của vốn lưu động qua nhiều hình thái khác nhau thường gây ra những biến đổi rắc
rối ảnh hưởng tới giá trị sức mua của đồng vốn khi thu về. Chính vậy mà đòi hỏi
trong công tác quản cũng như tính toán phải những điểm khác so với bảo toàn
vốn cố định. Những đặc điểm này đã được Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chú ý trong
công tác bảo toàn vốn lưu động của mình, thể hiện trên biểu sau.
Biểu : Tình hình bảo toàn vốn lưu động của xí nghiệp .
Đơn vị: 1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu Tổng số
Trong đó
NSNN cấp Bổ sung
- Số vốn lưu động phải bảo toàn 854.421 68.786 785.635
năm 2000
- Số vốn lưu động phải bảo toàn 903.418 71.623 831.795
năm 2001
- Chênh lệch 48.997 2.837 46.160
Thông qua hệ số quy đổi cách tính số vốn phải bảo toàn đầu kỳ số vốn
phải bảo toàn cuối kỳ, thực tế cách xác định của nghiệp theo biến động tại thời
điểm năm 2001 tình hình bảo toàn VLĐ của nghiệp phản ánh biểu trên. Mặc
số thực tế đã bảo toàn tăng hơn so với số phải bảo toàn đầu năm. Trong kết quả
không bảo toàn được này cả về phía NSNN nguồn tbổ sung, trong đó chủ
yếu là nguồn tự bổ sung chiếm tới hơn 68%.
2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
2.4.1.Tình hình sử dụng vốn ở nghiệp vận tải biển Vinafco
qua một số chỉ tiêu cơ bản.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của xí nghiệp
trong nền kinh tế thị trường. Do vậy để đạt tới lợi nhuận tối đa thì nghiệp phải
không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử
dụng vốn bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh
doanh , đặc biệt khi nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng
vốn, trách nhiệm bảo toàn phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên,
nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy
được chất lượng quản sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn
có, biết được mình
không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý sử
dụng vốn là bộ phận rất quan trọng, ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh
doanh , đặc biệt khi xí nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng
vốn, trách nhiệm bảo toàn phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên,
nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy
được chất lượng quản sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn
có, biết được mình đang cung đoạn nào trong quá trình phát triển , đang vị thế
cạnh tranh như thế nào với các doanh nghiệp khác... nhằm biện pháp tăng cường
quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở kết
quả kinh doanh của xí nghiệp trong 2 năm trở lại đây sẽ cho ta thấy một số vấn đề:
50
a) Cơ cấu vốn
1.377.158
Năm 2000 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 61,7%
2.231.579
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 61,7% = 38,3%
1.512.920
Năm 2001 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 62,6%
2.416.338
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 62,6% = 37,4 %
Mặc trị số tuyệt đối của vốn cố định tăng liên tục trong 2năm qua nhưng tỉ
trọng vốn lưu động trong tổng số vốn lại xu hướng giảm xuống bởi tổng số vốn
tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của vốn lưu động cồn vốn cố định thì ngược
lại. Tới năm 2001 thì cứ đầu 1 đồng vào vốn của nghiệp thì phải đầu 0,626
đồng vốn cố định còn vốn lưu động chiếm 0,374đồng. Tỉ trọng vốn cố định luôn gấp
khoảng trên 2lần tỉ trọng vốn lưu động cũng thể hiện đặc thù của ngành kinh tế
Đường biển sản phẩm dịch vụ là chủ yếu.
b) Vòng quay toàn bộ vốn
6.375.921
Năm 2000 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 2,9 (vòng)
2.231.579
8.268.590
Năm 2001 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 3,4 (vòng)
2.416.338
Như vậy vòng quay toàn bộ vốn luôn tăng qua các năm. Năm 2000 Xí nghiệp bỏ
ra một đồng vốn thì thu được 2,98 đồng doanh thu, năm 2001 là 3,4 đồng doanh thu.
Vòng quay vốn tăng chứng tỏ hiệu quả sdụng vốn của nghiệp khá tốt nhưng
năm 2001.
vậy, qua việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta thấynghiệp vận
tải biển Vinafco đãkết quả tương đối tốt trong 2 năm tr lại đây, thể hiện ở các
chỉ tiêu đánh giá luôn tăng. Tuy nhiên kết quả này sẽ trở lên không mấy thuyết phục
khi số vốn lưu động của chưa bảo toàn được. Như vậy
về thực chất nếu tính theo số vốn lưu động được bảo toàn thì hiệu quả sử dụng
vốn lưu động sẽ giảm xuống.
2.4.2.Đánh giá chung công tác quản lý hiệu quả sử dụng vốn
nghiệp vận tải biển Vinafco.
2.4.2.1.Kết quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vận tải biển
Vinafcotrong quản lý và sử dụng vốn.
Với chủ trương thành lập doanh nghiệp kinh doanh của Nhà nước, ngày
31/10/2000 nghiệp vận tải biển Vinafco đã chính thức đi vào hoạt động. Sau 2
năm hoạt động, xí nghiệp đã gặt hái được những thành công có ý nghĩa.
Trong thời gian qua, trên sở phân tích, đánh giá, nhận định một cách khoa
học, thực tế đã roi sáng cho Xí nghiệp vận tải biển Vinafco tập trung vào xây dựng và
phát triển nhanh chóng đội tàu, khai thác hàng hoá, dịch vụ vận chuyển theo hướng
tiến lên hiện đại bằng cách tiếp cận ngay với khoa học, công nghệ và thị trường. Xuất
phát từ chiến lược đó, trong 2 năm qua bằng nguồn vốn vay vốn tự bổ sung,
nghiệp vận tải biển Vinafco đã mua tàu chở hàng hoá cỡ lớn, trọng tải hơn 4000 tấn ,
sức chở hơn 200 Teu với trang thiết bị hiện đại phù hợp tiêu chuẩn, làm thay đổi một
bước quan trọng cơ cấu của đội tàu biển Việt Nam. Hơn thế nữa, thực tiễn này còn
thể hiện khả năng nắm bắt thời cơ cũng như quyết định đầu tư, xu hướng đầucủa
Xí nghiệp đang đi theo hướng đúng đắn.
Như vậy, tuy khó khăn chồng chất khó khăn trong việc tạo vốn, vay vốn cho
phát triển, nhưng với sự năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, Xí nghiệp
vận tải biển Vinafco đã nhanh chóng, kịp thời huy động vốn từ các nguồn khác nhau,
đặc biệt đã phát huy nội lực, tự chịu trách nhiệm vay vốn để đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục đều đặn. Trong
công tác huy động vốn nghiệp đã không quá phụ thuộc vào kế hoạch đã
những biện pháp thay đổi cấu vốn giữa các nguồn. Do vậy trong năm qua
nghiệp vận tải biển Vinafco đã tạo được một số cơ sở vật chất vừa đáp ứng yêu cầu
khai thác hiện tại vừa đón hướng phát triển trong tương lai.
2.4.2.2. Những tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn
Bên cạnh những điều đã đạt được thì trong quản sử dụng vốn nghiệp
cũng có những tồn tại, thể hiện ở mấy điểm sau:
Một là, do việc sử dụng mua sắm tàu trọng tải lớn nên dẫn đến việc sử dụng
vốn cố định nhiều.
Hai là, trong công tác khấu hao, xí nghiệp áp dụng phương pháp trích khấu hao
bản không trích khấu hao sửa chữa lớn một hạn chế bởi khi chưa phát
sinh khấu hao sửa chữa lớn thì giá thành sản phẩm nhỏ hơn thực tế, khi phát sinh
sửa chữa lớn thì nó sẽ làm giá thành tăng lên một cách giả tạo, không phản ánh đúng
tình hình thực tế, do đó cách tính này chưa sát thực.
Ba là, công tác lập kế hoạch vốn lưu động định mức chưa chính xác. Với cách
tính của nghiệp chỉ mang tính khái quát, cho phép nhanh chóng xác lập kế hoạch
để huy động vốn kịp thời. Song thực tế không tính được vốn định mức cho từng
khâu, điều này làm cho kế hoạch xác định vốn lưu động sai lệch, không phù hợp với
thực tế.
Bốn là, cả trong cơ cấu vốn lưu động vốn cố định, tỉ lệ vốn chiếm dụng đã gi
tỉ phần tương đối. Điều này làm giảm khả năng tài chính của doanh nghiệp, gây ảnh
hưởng đến quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả kinh doanh của xí nghiệp.
Năm là, việc bảo toàn vốn xí nghiệp chỉ tương đối, chưa cao .Những kết quả
này vừa thể hiện ảnh hưởng khách quan của nền kinh tế đến nghiệp vừa thể hiện
kết quả quản lý và sử dụng vốn cố định cũng như vốn lưu động chưa phát huy hết khả
năng, chưa huy động được tổng lực nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ
đến tính chân thực, đến các kết qủa kinh doanh khác của doanh nghiệp.
Sáu là, trong cấu vốn lưu động thực tế đã ấn định lượng tiền mặt khoản
phải thu chiếm tỉ lệ khá lớn. Kết quả này chứng tỏ việc quản tiền mặt khoản
phải thu là chưa hợp lý.
2.4.2.3. Nguyên nhân của những tồn tạiXí nghiệp vận tải biển Vinafco
Hoạt động sản xuất kinh doanh của nghiệp vận tải biển Vinafco chịu sự tác
động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng. Việc phát huy tốt hay không công tác quản
sử dụng vốn phụ thuộc nhiều, thậm chí đến mức quyết định bởi ảnh hưởng của
chính các nhân tố đó. Các nhân tố này bao gồm cả những nhân
tố khách quan lẫn nhân tố chủ quan, nguyên nhân thì bắt nguồn từ những nhân tố
khách quan, chủ quan có tác động tiêu cực.
Trước hết những nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ nguyên tắc "tôn trọng
tối đa quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp Và trực
tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy lượng vốn cố
định Xí nghiệp bỏ ra mua sắm phương tiện vận tải quá lớn mà tời hạn thu hồi vốn kéo
dài nên việc quay nhanh vòng vốn Xí nghiệp là rất lâu.
Tiếp theo là những nguyên nhân khách quan: Khó khăn nhìn thấy đầu tiên
tình hình suy thoái kinh tế trong khu vực và ảnh hưởng của đất ớc. Do vậy việc tìm
kiếm nguồn vốn trong thời kỳ đang khát vốn lại càng trở lên khó khăn. Bên cạnh đó,
nhà nước vẫn duy trì duy trì nhiều quyết định về chế độ thu thuế, lệ phí, quản lý đầu
tư, bảo vệ thị trường không còn phù hợp với điều kiện thị trường và tính đặc thù riêng
của các hoạt động Đường biển, cũng chưa có một chính sách bảo vệ hợp lý như nhiều
nước khác trong khu vực, tạo điều kiện b ảo vệ thị trường Đường biển trong nước
chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng nước ngoài giúp c doanh nghiệp
Đường biển Việt nam tái đầu tư phát triển sản xuất.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận
tải biển Vinafco
Xuất phát từ những phân tích đánh giá trên, nghiệp vận tải biển
Vinafco có thể áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử
dụng vốn. Mỗi giải pháp tập trung vào một khía cạnh cụ thể đều có thể phát huy
được vai trò tích cực của mình, tuy nhiên nên áp dụng các biện pháp một cách đồng
bộ, có hệ thống để cộng hưởng kết quả của chúng.
Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
I/ Những giải pháp cơ bản củaXí nghiệp vận tải biển Vinafco
1.1. Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong xí nghiệp.
Điều dám khẳng định đầu tiên là vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sản xuất
kinh doanh, không vốn thì nghiệp không thể hoạt động nhưng quan trọng hơn
cả khi đã liên kết hình thành độc lập của Công ty cổ phần Vinafco là vấn đềxí nghiệp
điều hoà vốn. Điều hoà vốn yêu cầu hết sức khách quan, trong quá trình điều hành
sản xuất kinh doanh luôn phải bố trí sắp xếp điều chỉnh lại i sản, máy móc, thiết bị,
vật tư, tiền vốn, lao động... giữa các phòng ban và các đại diện của xí nghiệp cho phù
hợp với tình hình trong từng thời điểm cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả nhất
nhiệm vụ đặt ra cho .Toàn bộ quá trình sắp xếp nêu trên suy cho cùng là sắpxí nghiệp
xếp về vốn, như vậy muốn điều chỉnh máy móc thiết bị, hay lao động vậttừ đơn vị
này sang đơn vị khác thì cơ chế vốn phải cho phép điều hoà thì kế hoạch điều phốii
sản, vật, lao động mới có thể thực hiện được. Muốn vậy, xí nghiệp phải thực hiện
vai trò điều hoà vốn, không chế điều hoà vốn thì vai trò quan trọng trước hết
nêu trên của sẽ trở lên vô hiệu.xí nghiệp
Như thế, nếu không phát huy vai trò điều hoà vốn của mình, không nghiệp
giúp đỡ được các đơn vị thành viên và chính mình thì s đi ngược lại logic tự nhiên.
ràng nhận vốn của Nhà nướcvốn của Công ty, do đó nghiệp nghiệp
phải chịu trách nhiệm trước nhà ớc công ty về hiệu quả sử dụng vốn. Trong
trường hợp quản lýsử dụng vốn kém hiệu quả, hoặc bị mất mát hao hụt thì người
phải giải thích trước nhà nước và công ty về vấn đềy, đầu tiên phải là xí nghiệp.Xí
nghiệp đứng ra nhận vốn của nhà nước
của Công ty chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. Việc phân công, phân cấp cụ
thể trong công tác quản vốn được giao chuyện nội bộ của nghiệp, do
nghiệp quyết định. Trong việc phân cấp quản lý này, mức độ phân cấp cho các đơn vị
thành viên nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Tuy nhiên xí nghiệp phải gi
quyền quyết định những vấn đề then chốt. Do vậy, nếu nghiệp chỉ thực hiện vay
quỹ phát triển sản xuất kinh doanh của ngân hàng (tức là phải trả cả gốc lãi) chứ
không thực hiện điều hoà, không phát huy vai trò điều hoà thì nghiệp cần xem xét
lại, bởi lẽ xét đến cùng quỹ phát triển sản xuất của các xí nghiệp chính là bộ phận tích
luỹ chung mới được làm ra của xí nghiệp.
Do vậy giải pháp hợp đây là: Các doanh nghiệp của Công ty cổ phần
Vinafco trong đó nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ được giữ laị một số phần quỹ
phát triển sản xuất kinh doanh, một phần phải đựơc tập trung về công ty. Điều này
hoàn toàn phù hợp với chủ trương phân định ranh giới giữa quản Nhà nước
quản lý kinh doanh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ nhiều năm nay.
Một vấn đề khác liên quan đến điều hoà vốn doanh nghiệp thành viên hạch
toán độc lập trong của Công ty cổ phần Vinafco phải khác so vói doanh nghiệp hạch
toán độc lập đứng một mình. Một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình chỉ
hoạt động theo điều lệ của công ty đó, còn một doanh nghiệp trong tổ chức công ty
không những hoạt động theo điều lệ của công ty còn tuân thủ theo điều lệ của
công ty mà nó là thành viên. Mọi sự coi trọng quá mức đến tính độc lập của xí nghiệp
như một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình đều dẫn đến xem nhẹ vai trò
của công ty, đã doanh nghiệp thành viên của công ty thì không còn được hoạt
động theo cơ chế như một doanh nghiệp hạch toán độc lập nữa.xác định rõ ràng
như vậy thì việc thực hiện vai trò điều hoà vốn của xí nghiệp trong công ty mới được
phát huy, tập trung được tiềm lực đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu. Nếu không phát
huy được vai trò đó, xí nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ còn là hình thức và trung gian.
1.2. Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định
Như chúng ta đã biết những năm qua công ty đã thực hiện trích khấu hao cơ bản
theo tỉ lệ quy định của Nhà ớc. Với tỉ lệ này công ty phải mất một thời gian dài
mới thực hiện khấu hao hết tài sản cố định và thực hiện đổi mới
tài sản cố định. Làm như vậy là không thích hợp, nhất là trong gian đoạn hiện nay khi
khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, có nhiều máy móc mới ra đời, tài sản cố định
không những dễ bị hao mòn còn hao mòn rất nhanh chóng. Do vậy, để đảm bảo
có quỹ khấu hao đủ để thực hiện tái đầu tư tài sản cố định, nhanh chóng đổi mới thiết
bị, đưa kỹ thuật vào sản xuất thì trong trích khấu hao tài sản cố định cần tính đến các
yếu tố như: khoa học kỹ thuật, giá cả, xu hướng thị trường thì công ty nên theo
"phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần..." .
1.2.1. Cơ sở của phương pháp
Phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần dựa trên các cơ sở : Khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ, tài sản cố định dễ bị hao mòn vô hình. Để hạn chế hao mòn
hình trong thời gian sử dụng đòi hỏi phải khấu hao nhanh (trên cơ sở tận dụng tối
đa công suất máy móc thiết bị). Nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới trang thiết bị,
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, trên thị trường giá cả luôn biến
động, tài sản của xí nghiệp cũng chịu sự biến động này đó chính là nguyên nhân
làm giảm giá trị của tài sản cố định. Do vậy cần tiến hành khấu hao nhanh để bảo toàn
vốn đã đầu tư vào tài sản cố định, đồng thời cũng phù hợp với thực tế là công suất làm
việc của máy móc thiết bị giảm dần theo thời gian.
1.2.2. Nội dung của phương pháp
Theo phương pháp này, trích khấu hao hàng năm dựa vào tỉ lệ khấu hao luỹ
thoái giảm dần so với nguyên giá tài sản cố định.
Tỉ lệ khấu hao giảm dần đựơc xác định theo công thức:
2 (T - t + 1)
TK
t
=
T(T + 1)
Trong đó: TK : tỉ lệ khấu hao năm t
t
T: Tổng thời gian hoạt động máy móc
t: Số năm trích khấu hao (t = 1:T)
dụ: Một máy nguyên giá 78.000.000 VNĐ, thời gian sử dụng 6
năm, áp dụng công thức trên ta tỉ lệ trích mức trích khấu hao trong 6 năm sử
dụng như sau:
Năm thứ nhất T = 6 , t = 1 , thay vào công thức ta có
TK
1
=
2 ( 6 - 1 + 1) 6
=
6 ( 6 + 1) 21
Mức trích khấu hao : =
6
x 621.000.000 = 18.000.000 VNĐ
21
Các năm còn lại được thể hiện qua biểu đồ dưới:
Biểu 16: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ quy định của Nhà nước
Số năm trích (t)
1 2 3 4 5 6
Tổng
Tỉ lệ khấu hao (TK) 6/21 5/21 4/21 3/21 2/21 1/21 21/21
Mức trích
18.00 16.00 14.00
12.000
10.00
8.000 78.000
0 0 0 0
1.2.3. áp dụng phương pháp này cho Xí nghiệp
Do việc mua sắm tài sản cố định của tại các thời điểm khác nhau nghiệp
nhiều loại khác nhau, vì thế cần áp dụng phương pháp khấu hao tỉ lệ giảmXí nghiệp
dần tính cho từng loại tài sản cố định hoặc tài sản cố định mua cùng một đợt có chức
năng tương tự nhau.
Nguyên giá của chiếc tàu: 65.750 triệu VNĐ
Theo công thức trên thì mức khấu hao trong các năm: 2000, 2001, của chiếc tàu
này:
Biểu : Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ giảm dần
Đơn vị : 1.000.000 VNĐ
Số năm trích
1 2 3 4 5
Tổng
Mức trích
17.72
5
15.43
7
13.15
0
10.863 8.575 65.750
Như vậy, nếu tính theo cách tính của đang áp dụng,với phương pháp tính mới,
sau 5 năm sử dụng xí nghiệp mới có thể thu hồi được vốn đầu tư cho chiếc tàu trên.
Điều này hạn chế được hao mòn vô hình và sự tác động của giá cả tới vốn cố định.
1.3. Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với
yêu cầu của khách hàng.
Đổi mới để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng luôn là vấn đề thường xuyên
đối với đội ngũ tàu của công ty. Trong khi đó, ngoài những chiếc tàu mà công ty đã
mua. Trong 2 năm hoạt động vừa qua, nghiệp đã mua mới tàu trọng tải lớn
bán các tầu đã cũ và lạc hậu đápứng được với nhu cầu tất yếu của thị trường.
Tuy nhiên Việt Nam khoảng 10 hãng được cấp giấy phép hoạt động trên
tuyến Bắc- nam đang cạnh tranh quyết liệt, trên các tuyến nội địa Việt Nam
xưa nay vốn vị trí độc tôn của các hãng tàu trong nước.Tình trạng như vậy xuất
pháp từ nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là trong nhiều năm qua chưa xây dựng được
một quy hoạch phát triển đội tàu hợp phạm vi quốc gia, đầu manh mún trên
một diện rộng và không kịp chủ động thay đổi cơ cấu đội tàu cho phù hợp với xu thế
phát triển công nghệ vận tải theo các phương thức mới trên thế giới mà suy cho cùng
là xu thế yêu cầu thực tế của khách hàng.
Khắc phục tình trạng đó, bước đi chiến lược bản của nghiệp tập trung
xây dựng phát triển đội tàu, khai thác các khách hàng trọngđiểm làm việc uy tín
với khách hàng theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh, từng bước giành lại tăng thêm thị phần, tiến tới chia sẻ thị phần của khu
vực. Để làm được điều này, nghiệp cần chủ trương tận dụng hội tạo ra những
đột khởi, trước hết phải ưu tiên tìm mọi cách hiện đại hoá ngay đội tàu chuyên dụng
container, bằng các phương thức mua, thuê mua và đóng mới.
Một, đối với những con tàu thì giảm chi phí ,chi phí sửa chữa cũng quá cao
(bình quân một tàu hàng năm chi phí sửa chữa là 1 tỉ đến 1,5 tỉ VNĐ), không đảm bảo
an toàn trong qúa trình vận tải, dẫn đến giá thành cao giá cước cũng tăng theo.
Trong khi đó trên thực tế giá cước đang ngày càng có xu
hướng giảm do khủng hoảng của ngành Đường biển Việt nam và trên thế giới.
Đây là một điều mà tự bản thân xí nghiệp thấy cần hạn chế và khác phục.
Hai , nghiệp cũng cần những biện pháp xây dựng kế hoạch lâu dài để
chăm sóc tạo niềm tin tưởng cho khách hàng giúp họ tin tưởng vào nghiệp
dịch vụ vận tải của xí nghiệp.
1.4. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng
vòng quay của vốn.
Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp
có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong tình hình chung đó, số vốn bị chiếm dụng của
xí nghiệp chiếm tỉ lệ không nhỏ chiếm khoảng 30%.
Lượng vốn bị chiếm dụng này không những không sinh lãi còn làm giảm
vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của nghiệp. Do vậy cần thực
hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông.
Thứ nhất: Trước khi hợp đồng, nghiệp cần nắm tình hình tín dụng của
các khách hàng về các mặt sau:
- Báo cáo tài chính: nghiệp có thể đề nghị khách hàng cung cấp thông
tin tài chính như bảng tổng kết tài sản, o cáo thu nhập, một số tỉ lệ như lợi
nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
- Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng với các doanh
nghiệp khác để xem xét lịch sử thanh toán của doanh nghiệp với các khách
hàng khác, trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần gây rắc rối trong việc
trả tiền...
- Quan hệ tín dụng với các ngân hàng của doanh nghiệp
Thứ hai: khi kết hợp đồng, nghiệp cần thoả thuật trong hợp đồng
phần phạt hành chính nếu khách hàng trả tiền chậm tuỳ vào giá trị lô hàng, thời gian
khách hàng trả chậm. Làm như vậy sẽ đảm bảo cả hai bên đều trách nhiệm hơn
nữa trong vấn đề thanh toán của mình.
Thứ ba: Là khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, cả nghiệp khách hàng cần
phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm không để xảy ra tình trạng chi phí cho việc
giải quyết tranh chấp lớn hơn cả giá trị hợp đồng hoặc dễ
| 1/68

Preview text:

Luận văn
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ở Xí
Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco 1 2 Phần mở đầu
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức kinh tế xã hội nào
vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu
phấn đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân
cũng như từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của mọi
doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, gía thành hợp lí,
doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải không
ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lí và sử dụng vốn là vấn
đề quan trọng có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế bao cấp trước đây vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng thời Nhà nước
quản lí về giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch lãi Nhà nước thu - lỗ Nhà nước bù,
do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan tâm đến hiệu quả sử dụng
của đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không bảo toàn và phát triển được vốn, hiệu
quả sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến trong
các doanh nghiệp Nhà nước. Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí và điều
tiết vĩ mô của Nhà nước, nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cạnh tranh lẫn
nhau gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đứng vững trong cơ chế
mới là những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt.
Trước tình hình đó, Nghị quyết đại hội lần thứ VI BCH Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh " Các xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về
giá và vốn, phải chủ động kinh doanh, phải bảo đảm tự bù đắp chi phí, nộp đủ thuế và
có lãi...". Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trường, bám sát thị
trường, tự chủ về vốn và tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nhất là trong kinh doanh đường
biển không phải là vấn đề mới mẻ. Nó được hình thành ngay sau khi tài chính ra
đời, nó là lĩnh vực rất rộng và muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì phải có sự
đầu tư rất công phu. Trong thời gian thực tập tại Xí Nghiệp 2
Vận Tải Biển Vinafco, em chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco
" làm nội dung
nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát tình hình
thực tế của Xí nghiệp qua các năm, kết hợp với lí luận kinh tế mà cụ thể là lí luận về
quản lí, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình thực tế của Xí nghiệp
, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp bao gồm: - Mở đầu.
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,sử dụng vốn sản
xuất kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco . - Kết luận:
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các công ty Việt Nam, cùng với
việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề quản lí và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận và chỉ tiêu đánh
giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên cứu đề tài và những sai
sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, rất mong sự đóng góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đàm Văn Huệ
và các cô chú cán bộ ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đã giúp em hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG I
Nhứng vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.1.KHáI NIệM Và PHÂN LOạI VốN KINH DOANH CủA DOANH NGHIệP.
1.1.1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh.
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn nhất định
để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây dựng và khởi động
doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần được sử dụng có hiệu quả.
Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để
chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất
khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu
lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng
các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu.
Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp
có thể diễn tả như sau: Tài sản thực tế Tiền
Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến
số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là số
tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí và
có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được
tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh
doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất
hữu hình, mà một số tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng
một giá trị đầu tư nhất định như: Tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế
thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những phân tích khái
quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một phạm trù kinh tế cơ
bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và các nguồn lực
mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư".
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là hết sức
quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
1.1.2.Phân loại vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm: Vốn cố định và vốn lưu động
Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp định và vốn điều
lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ hình thành vốn lại thể hiện
vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn
tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan
điểm sử dụng. Với bài luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về
vốn qua con mắt quản trị vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem
xét trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố
định và vốn lưu động.
1.1.2.1- Vốn cố định:
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn doanh
nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định phải đạt được cả
hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định (ví dụ
hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử
dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình
thường với đặc điểm hình thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian
dài. Tài sản cố định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất và chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử
dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao
động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng
khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng tới độ bền lâu của tài sản cố
định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn
trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền
chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể
có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
b) Hình thái biểu hiện của vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong
tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng là cho
phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu tư
vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ
cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ: Nội dung cấu thành và mối quan hệ
tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải
là xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ
thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn
được sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ
cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nghiên
cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành Vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình
thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý 3) Thiết bị động lực 4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải 8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng cơ cấu
vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là đặc điểm về kỹ
thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn
thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì vậy khi
nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu Vốn cố định hợp lý cần chú ý xem xét
tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú
ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng máy móc thiết
bị và bộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất.
1.1.2.2 - Vốn lưu động:
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Đó
là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hoàn toàn khách
quan không như vốn cố định, Vốn lưu động tham gia hoàn toàn vào quá trình sản
xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng
lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ
ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn
cố định, quá trình vận động của Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: Là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong
quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của Vốn lưu động ở các doanh nghiệp
sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung: T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên Vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho
chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra,
việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được
tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra
một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b) Hình thái biểu hiện của vốn lưu động:
Xác định cơ cấu Vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng
hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm
bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý Vốn lưu động. Trên cơ sở đó đáp ứng được phần
nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
Cơ cấu Vốn lưu động là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với
toàn bộ giá trị Vốn lưu động. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ Vốn
lưu động hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính
nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu
hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ.
Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có sự
phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, Vốn lưu động chia thành 3 loại:
+ Vốn trong dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay
thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất
như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự dùng.
+ Vốn trong lưu thông: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông
như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, Vốn lưu động được chia thành Vốn lưu
động không định mức và Vốn lưu động định mức.
+ Vốn lưu động định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi hàng hoá.
+ Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá
trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được.
1.2. nguồn vốn,chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
a) Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như
tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương
cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của doanh nghiệp. - Vốn tự có bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: Chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp
cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã viên hợp tác xã
và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh
của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khoản chênh lệch
hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: Gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham
gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ v.v...
- Vốn coi như tự có: Được hình thành do phương pháp kết toán hiện
hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử
dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có:Tiền
thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có
thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: Nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng
chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là
nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ lãi
suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định như trên,
người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn theo các chỉ dẫn của
kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây trở thành nguồn vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính là
khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành
tài sản của doanh nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải
hoàn trả cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. ý
nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về
phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
b) Cơ cấu vốn:
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông qua cơ
cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ sử dụng vốn của
ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh là những yếu tố quan
trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng thời chính những yếu tố đó tạo
nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng
loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số
thể hiện ý chí của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn
ở doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao nhiêu
đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ, hợp lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau: Tỉ trọng VCĐ =
TSCĐ và đầu tư dài hạn (Tỉ trọng TSCĐ) Tổng vốn Tỉ trọng VLĐ (Tỉ trọng TSLĐ và vốn
1- Tỉ trọng vốn cố định lưu thông)
1.3. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động
1.3.1. Hoạt động quản lý vốn cố định :
Quản lý vốn cố định (VCĐ) nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc
quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan trọng
đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành công đòi hỏi các nhà
quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái biểu hiện vật chất của
nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ trước hết cần nghiên cứu những tính
chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý
VCĐ thường đi vào những nội dung cụ thể sau: 10
1.3.1.1 Khấu hao tài sản cố định
- Khái niệm về khấu hao Tài sản cố định:
- Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần dần bị xuống cấp hoăch hư
hỏng – gọi là sự hao mòn.Sự hao mòn đó làm giảm giá trị của chúng một
cách tương đối. Do đó, Xí nghiệp phải xác định giá trị hao mòn trong từng
kỳ kế toán ( năm ,quý, tháng....) và hạch toán vàogiá thành sản phẩm. Trong
đó sía trị khấu hao đã được cộng dồn lại ( luỹ kế ) phản ánh lượng tiền (giá
trị) đã hao mòn của tài sản cố định.
- Quá trình hao mòn gồm hai hình thái:
+ Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị
của tài sản cố định do sự hao mòn, xúng cấp về mặt hiện vật gây ra. Các hao mòn
hữu hình có thể quan sát, nhận biết được bằng trực quan như sự han gỉ, hư hỏng các
chi tiết, hiệu suất hoạt động giảm,vv...Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào điều kiện
hoạt động , cường đọ khai thác, chế độ vận hành, bảo dưỡng và tuổi thọ của tài sản cố định.
+ Hao mồn vô hình là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do tiến bộ
khoa học kỹ thuật,do thị hiếu hoặc do một số nhân tố khác.Sự giảm sút giá trị không
trực tiếp biểu hiện qua bề ngoài của máy móc.Do đó, có những thiết bị chỉ còn lại 30%
- 40% giá trị ban đầu; điều đó thể hiện sự lạc hậu về công nghệ. Trong mua sắm đầu tư
máy móc thiết bị cần lưu ý.
+ Các phương pháp xác định chi phí khấu hao có thể được lựa chọn để áp dụng phù
hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
a) Khấu hao đều theo thời gian:
Phương pháp này tính chi phí khấu hao phân chia đều cho các năm, tức mỗi năm tài
sản cố định được khấu hao một lượng nhất định và không thay đổi cho đến khi thu hồi
hoàn toàn giá trị nguyên của nó.
Chi phí khấu hao là số tiền xác định mức độ hao mòn hàng năm hay từng thời kỳ của
tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao cỏ bản ( K ) xác định theo công thức sau: Ng+ Ctl - Gth - K = ------------------- 100% Ng T Trong đó:
. K : Tỷ lệ khấu hao tính bằng bằng %
. Ng: Nguyên giá của tài sản cố định.
. Clt: Chi phí thanh lý thaó dỡ ,vv...khi bán thanh lý hoặc khi thải loại tài sản cố định ( dự tính ).
. Gth: Giá trị thu hồi ( dự tính của ) phế liệu hoặc giá trị thải loại của TSCĐ.
. T: Tuổi thọ kinh tế ( số năm tính khấu hao ) của tài sản cố định.
Trên thực tế, các yếu tố Ctl và Gth chỉ là số ước tính, kém chính xác. Do đó
công thức này được đơn giản hoá : 1 K =---- 100 %. T
Trong một năm, tính chi phí khấu hao cho từng nhóm tài sản cố định sau đó cộng dồn
lại. Cũng có thể tính chung cho tất cả các tài sản cố định khi xác định được tỷ lệ khấu
hao bình quân. Tiền khấu hao một năm tính như sau: _ T = K NG Trong đó :
NG: Nguyên giá TSCĐ sử dụng bình quân trong năm.
- Tuy nhiên cũng có thể tính toán đơn giản hơn bằng cách sau:
+ Lập riêng các bảng theo dõi tình hình mua sắm, bàn giao đưa vào sử dụng của tài
sản cố định, tách riêng bảng theo dõi tình hình thanh lý,ngừng khai thác tài sản cố định.
+ Việc tính toán chi tiết nguyên giá tài sản cố định tăng giảm bình quân cần tuân thủ
quy định của cơ quan có thẩm quyền(Bộ tài chính, cơ quan chủ quản ).
+ Cáh tính toán nói trên áp dụng cho các nhóm tài sản cố định khác nhau, sau đó tính
tổng chi phí khấu hao của các nhóm đó.Có thể áp dụng tỷ lệ khấu hao bình quân.
- Tỷ lệ khấu hao bình quân.
Thông thường, trong một doanh nghiệp có rất nhiều nhóm tài sản cố định khác
nhau. Mức độ hao mòn và tốc độ khấu hao của các tài sản cố định đó thường khác
nhau. Nếu tính toán riêng cho từng tài sản cố định hoặc từng nhóm tài sản cố định thì
khối lượng tính toán có thể rất lớn. Do vậy trong một số trường hợp như lập kế
hoạch khấu hao, dự tính luồng tiền, có thể áp dụng
cách tính tỷ lệ khấu hao bình quân ( K ). K = K d Trong công thức này :
. K: Tỷ lệ khấu hao riêng của một nhóm tài sản cố định.
. d : Tỷ trọng về nguyên giá tài sản cố định
Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tính khấu hao bình quân trong đó tách riêng khấu
hao cơ bẩn và khấu hao sữa chữa lớn. Tuy nhiên, có thể tính gộp lại thành một tỷ lệ
khấu hao bình quân chung và hiện nay hầu như không tính riêng khấu hao sữa chữa lớn.
b) Phương pháp khấu hao gia tăng:
Dựa trên tỷ lệ khấu hao thông thường (K) , ban quản lý Công ty hoặc phòng tài chính
-kế toán có thể xây dưng phương án khấu hao nhanh nhằm đẩy mạnh tốc độ thu hồi
vốn và đổi mới công nghệ. Cần tìm ra một hệ số khấu hao phù hợp (H*).Dùng phương
pháp này làm tăng tốc độ thu hồi khấu hao cao hơn so với tốc độ hao mòn hữu hình
thực tế của tài sản cố định.
c) Phương pháp khấu hao tổng số:
Phương pháp này có thể hạn chế sự tổn thất vốn cố định do hao mòn vô hình và
tương đối dễ tính toán. Nó phù hợp với doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí khấu hao trong
giá thành nhỏ ( chẳng hạn ở mức 1%-2% trong giá thành ) và phản ánh cách tính toán
tiền khấu hao. Số tiền khấu hao mỗi kỳ năm được tính trên giá trị còn lại của tài sản
cố định ở đầu kỳ đó ( chứ không tính trên nguyên giá như trong phương pháp khấu
hao đều ). Giá trị còn lại của tài sản cố định ( số dư ) giảm dần qua các năm, do đó
chi phí khấu hao càng về sau càng giảm.Đôi khi, người ta nâng tỷ lệ khấu hao của các
năm cuối lên gấp đôi nhằm rút ngắn thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Tuy nhiên phương
pháp này được áp dụng rất hạn chế, không phổ biến. Nó chỉ tương đối phù hợp với
các nhóm tài sản cố định có tuổi thọ kinh tế khoảng 8- 10 năm và để bán dưới dạng “
second- hand “ khi chưa thu hồi hết khấu hao.
d ) Phương pháp khấu hao theo sản lượng :
Trong một số lĩnh vực kinh doanh ( như vận tải , xây dựng, nông nghiệp vv...) có thể
dựa vào sản lượng hay khối lượng hoạt động thực tế của tài sản cố định để xác định
chi phí khấu hao. Điều kiện để áp dụng có hiệu quả phương pháp này là:
- Việc xác định, thống kê theo dõi sản lượng tương đối dễ dàng và không tốn kém.
- Sự thay đổi mức độ hoạt động của tài sản cố định không gây đột biến
lớn trong giá thành bình quân của sản phẩm hay dịch vụ.
- Có thể kết hợp theo dõi sản lượng thực tế với mức tiêu hao một số vật tư , nhiên liệu, phụ liệu.
- Trước hết, cần biết mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng ( m ):
Nguyên giá TSCĐ ( hay giá trị phải thu hồi ) m =
Tổng khối lượng định mức của đồi thiết bị
Trong đó mẫu số là tổng khối lượng mà tài sản cố định ( hay một thiết bị nào
đó ) có thể thực hiện trong suốt đời hoạt động của nó.
1.3.2.1 Quản lý quỹ khấu hao:
Ngoài việc quản lý thuần tuý về mặt giá trị, rất cần lưu ý quản lý tài sản cố
định về mặt hiện vật nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.Tuỳ theo đặc điểm
quy mô và khả năng quản lý, có thể xây dựng chế độ quản lý tài sản cố định
một cách thích hợp với điều kiện cụ thể của công ty.Sau đây là một số điểm cơ bản:
a) Doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống theo dõi và kiểm soát toàn bộ tài
sản cố định. Việc theo dõi tài sản cố định không tốn kém nhưng có khả
năng tăng hiệu quả sử dụng các trang thiết bị hiện có.Đơn giản nhất là
lập các sổ theo dõi tổng hợp và chi tiết. Sổ tổng hợp phản ánh khái quát
tình hình quản lý sử dụng các nhóm tài sản cố định, các chủng loại thiết
bị, nhưng chỉ ghi các thông tin cơ bản nhất.
- Sổ chi tiết dùng để lưu trữ đầy đủ các thông tin về từng nhóm nhỏ hoặc
từng đối tượng thiết bị. Sổ này phải thường xuyên được cập nhật, tức là ghi
ngay khi có những thay đổi về tài sản cố định. Các sổ này thường được sử
dụng nhằm mục đích quản lý chặt chẽ tài sản cố định trong từng doanh
nghiệp nên có thể thiết kế linh hoạt về khuôn mẫu của sổ.
- Biện pháp tốt nhất là áp dụng máy tính để theo dõi các sổ nói trên. Các
thông tin về tài sản cố định liên tục được cập nhật vào cơ sở dữ liệu trong
máy tính, khi cần biết chỉ cần dùng một lẹnh đơn giản để gọi ra màn hình hoặc in ra giấy.
b) Phân định trách nhiệm.
Các nhóm máy móc thiết bị hoặc các tổ hợp dây truyền thiết bị nên được
giao cho từng nhóm hoặc cá nhân quản lý. Phải căn cứ vào quy trình công
nghệ, sự sáp xếp ca kíp và cách thức tổ chức phân xưởng để phân định
trách nhiệm. Không có mô hình nào chung cho mọi công ty, mọi doanh
nghiệp mà chỉ nên áp dụng sự phân cấp hoặc giao trách nhiệm quản lý vận
hành sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Chế độ phân định trách nhiệm nên gắn với chế độ bàn giao, theo dõi và
thưởng phạt nhằm khuyến khích mọi người có ý thức tốt hơn trong quản lý
tài sản. Nên quy định chế độ báo cáo định kỳ đối với các quản đốc phân
xưởng, trưởng ca, tổ trưởng, hoặc kỹ sư phụ trách dây truyền về tình hình
sử dụng tài sản cố định của từng bộ phận.
c) Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật.
Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật vô cùng quan trọng do vậy phần
lớn các thiết bị máy móc, hệ thống dây truyền công nghệ yêu cầu phải bảo
đảm nghiêm ngặt về mặt kỹ thuật.Cần lưu ý các điểm sau:
- Quy trình kỹ thuật, chế độ vận hành cần dược duy trì nghiêm ngặt với
kỷ luật chạt chẽ để hạn chế tổn thất về người và tài sản.
- Phải lập lịch trình vận hành và theo dõi cho từng hệ thống , thiết bị, có phân
định trách nhiệm rõ ràng.Lịch kiểm tra định kỳ, bảo dưỡng, duy tu máy móc
thiết bị là rất cần thiết. Khuyến khích cán bộ công nhân tích cực tham gia
giữ gìn máy móc, thông báo ngay các sự cố cho người quản lý để khắc phục kịp thời.
- Đối với các loại thiết bị mới, hiện đại nên thực hiện học tập và nghiên cứu
để có thể bắt tay ngay vào sử dụng.
1.3.2 Quản lý vốn lưu động : 1.3.2.1 Quản lý dự trữ
Trong việc này quản lý dự trữ nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng (gọi chung là vật tư)
không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh thì có thể xảy ra hai trường hợp :
Mức dự trữ quá lớn, dư thừa gây ứ đọng, lãng phí vốn và hiệu quả thấp. Mức dự
trữ quá nhỏ, thiếu vật tư, gây ra tình trạng căng thẳng hoặc thậm trí phải tạm
ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
Rõ ràng, cả hai thái cực nói trên đều không tốt, do đó người ta muốn xác
định mức dự trữ thích hợp nhất với công ty trong từng điều kiện cụ thể.
Phương pháp điều chỉnh : đơn giản theo phương pháp này, có thể dựa vào tình
hình tiêu hao vật tư của năm trước (hoặc kỳ trước) để ước tính số vật tư cần thiết cho
kỳ này. Tỷ lệ điều chỉnh dựa trên một số dữ liệu và thông tin như : Mức độ giảm tiêu
hao vật tư, sản lượng dự kiến, giá vật tư vv.. Phương pháp này có tính chất kinh
nghiệm nhưng dễ áp dụng tuy nhiên có thể sai số đáng kể. Phương pháp định mức :
Đây là phương pháp cũng được sử dụng rộng rãi, trong đó dựa trên các định mức hay
các tiêu chuẩn chi phí để xác định số vốn lưu động cần thiết
1.3.2.2 Quản lý tiền mặt :
Quản lý tiền mặt trong công ty là vô cùng quan trọng, tất cả tiền mặt tại quỹ,
tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (kể cả nội tệ và ngoại tệ) đều là
thuộc nhóm tài sản bằng tiền. Do vậy cần phải tăng lượng tiền bằng cách đi vay hoặc
bổ sung. Việc đi vay để tăng thêm vốn bằng tiền trong những thời điểm nào đó là một
việc khá phổ biến. Khi vay tiền, điều cơ bản nhất là tính đến chi phí lãi vay và tính
hiệu quả của đồng vốn. Phần này liên hệ với phần lãi xuất và phần giá trị hiện tại của tiền.
1.3.2.3 Quản lý phải thu :
Quản lý việc thu tiền của công ty cho thấy rằng số tiền được phản ánh trên các
tài khoản mà công ty đang theo dõi không phải bao giờ cũng bằng số dư có trên tài
khoản tại ngân hàng. Vì vậy sẽ đề cập đến nguyên nhân sau : a. Tiền nổi
Các công ty kinh doanh rất chú ý đến ảnh hưởng của tiền nổi trong hoạt động thanh
toán. Tiền nổi là số chênh lệch giữa số dư tiền tài khoản tại ngân hàng và số dư trên
tài khoản của công ty. Tiền nổi phản ánh sự chênh lệch tạm thời (trong một thời gian
ngắn) giữa hai hệ thống theo dõi tài chính nói trên. Tuy nhiên, do các nghiệp vụ thanh
toán lẫn nhau liên tục làm xuất hiện tiền nổi, nên trị số của tiền nổi có thể trở nên khá
lớn. Tiền nổi được tính như sau :
F = Số dư tài khoản tiền gửi tại NH – Số dư tài khoản tiền gửi tại công ty
Tiền nổi do việc thu tiền từ một người khác gây ra được gọi là tiền nổi thu nợ; nếu do
việc phát hành séc để chi trả thì gọi là tiền nổi chi ra. Trong cùng một khoảng thời
gian công ty có thể đồng thời được lợi nhờ tiền nổi chi ra và vừa bị thiệt thòi do có
tiền nổi thu nợ. Số tiền nổi ròng là tổng của tiền nổi chi ra và tiền nổi thu nợ.
Do vậy với một kỹ thuật quản lý chặt chẽ, có thể khai thác triệt để tiền nổi vào mục
tiêu đầu tư ngắn hạn và cải thiện hệ số khả năng thanh toán trên tài khoản tại ngân hàng.
b)Thu tiền qua hộp thư (lockbox)
Một công ty có thể sử dụng một mạng lưới hộp thư được một ngân hàng quản lý để
giúp công ty thu nợ nhanh hơn. Ngân hàng này sẽ thu nhận các séc từ các hộp thư đó
trong vài lần trong một ngày. Sau đó, ngân hàng nhanh chóng chuyển các séc đó vào tài khoản của công ty.
Hệ thống hộp thư rút ngắn thời gian gửi séc và thanh toán vì công ty lựa chọn những
địa điểm gần khu vực có nhiều khách hàng để đặt hộp thư. Nếu không có hộp thư,
khách hàng sẽ gửi séc và hoá đơn đến thẳng trụ sở hoặc chi nhánh của công ty và như
vậy thường chậm hơn nhiều so với hệ thống hộp thư.
Mặc dù công ty phải trả phí dịch vụ cho ngân hàng về việc quản lý hộp thư, nhưng
với số tiền lớn, các công ty vẫn có lợi khi sử dụng phương pháp hộp thư (lockbox) để
đẩy nhanh quá trình thu tiền.
1.4. hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.4.1. Quan điểm về hiệu quả:
Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động kinh
doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt
được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của cá nhân và xã
hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá nào là vấn đề cần được xem xét
vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của
con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người
cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều
sản phẩm nhất. Do đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được
hiệu quả lớn nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử
dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó.Hiệu quả kinh tế là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất
với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính theo công thức sau: Kết quả đầu vào Hiệu quả kinh tế = Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh
định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính là quan
hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là quan hệ giữa toàn
bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định
bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần
ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác.
1.4.2. - Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ và VLĐ:
1.4.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
a) Sức sản xuất của TSCĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy
đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần).
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Sức sản xuất của tài sản = cố định Nguyên giá bình quân TSCĐ
b) Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân
TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp. Sức sinh lợi của tài sản cố định =
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp) Nguyên giá bình quân TSCĐ
c) Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần cần
có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ Nguyên giá bình quân TSCĐ Suất hao phí tài sản =
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần, lợi cố định nhuận thuần)
d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Hiệu quả sử dụng vốn =
Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi nhuận) cố định Số vốn cố định
1.4.2.2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
a) Sức sản xuất của vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại mấy
đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng) Sức sản xuất của vốn =
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng) lưu động Vốn lưu động bình quân
b) Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy
đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ. Sức sinh lời của vốn =
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp) lưu động Vốn lưu động bình quân
c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển) Số vòng quay của vốn = Tổng doanh thu thuần lưu động Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng
quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
d) Thời gian của một vòng luân chyyển Thời gian một vòng =
Thời gian của kỳ phân tích luân chuyển
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một
vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm = Vốn lưu động bình quân vốn lưu động Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn lưu động bình quân.
Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không hiệu quả,
cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Khi tính các chỉ
tiêu cần chú ý các nhân tố sau:
+ Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ - (Thuế VAT hoặc
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán +
doanh thu hàng đã bán bị trả lại).
+ Thời gian của kỳ phân tích: Quy định một tháng là 30 ngày, một quý là 90
ngày và một năm là 360 ngày.
Tổng vốn lưu động 4 quý
+ Vốn lưu động bình quân = 4 V1/2 + V + V 2 3 ... + Vn/2 Hoặc = n-1
Với V1, V2, V3... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng,
n là số thứ tự các tháng.
1.4.2.3- Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán:
a) Phân tích tình hình thanh toán:
Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi
doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả và cần một thời
gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa các doanh nghiệp với ngân sách về các
khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với người lao động về tiền
lương... là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh
nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa
trả được hoặc chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một
mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để
thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều
đó làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vì vậy, phân
tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở lên tối cần thiết nhằm xem xét mức
biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến
hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khỏan nợ đến hạn chưa trả được.
b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :Khả năng thanh
toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và có ảnh
hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau:
Số tiền có thể dùng để thanh toán K = Các khoản nợ phải trả
Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán
- Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền và
những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng.
- Các khoản nợ phải trả gồm phải trả người bán, người mua, nộp ngân
sách trả cho cán bộ CNV, vay ngắn hạn ngân hàng, phải trả khác.
Khi đã có được kết quả hệ số thanh toán.
- Nếu K 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình trạng
tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt.
- Nếu K < 1, chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công
nợ và tình trạng tài chính ở mức không bình thường hoặc xấu.
1.4.2.4 - Mức độ bảo toàn và phát triển vốn:
Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát,
giá cả biến động lớn nhằm quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, buộc doanh
nghiệp phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh
, tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá thành sản phẩm để bảo toàn được vốn.
Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn phải bảo toàn, đến cuối năm
và số vốn thực tế bảo toàn được trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của
doanh nghiệp là bảo toàn cao hơn hay chưa bảo toàn đủ. Khi bảo toàn được cao hơn
có nghĩa doanh nghiệp đã có thành tích trong quản lý và sử dụng vốn. Với kết quả
khả quan này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn để dùng vào sản xuất kinh
doanh, phát triển được vốn. Ngược lại, chưa bảo toàn đủ so với số vốn phải bảo toàn
phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn. 20
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng:
1.4.3.1- Chu kì sản xuất:
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu
kì ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại, nếu chu kì dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và
trả lãi các khoản vay hay các khoản phải trả.
1.4.3.2 - Kĩ thuật sản xuất:
Các đặc điểm riêng có về kĩ thuật tác động liên tục với một số chỉ tiêu quan
trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi máy móc thiết bị, hệ số sử
dụng về thời gian, công suất.
Nếu kĩ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện, máy móc, thiết bị
nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và với yêu cầu của khách hàng
về chất lượng sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên
VCĐ nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu kĩ thuật sản xuất phức tạp, trình
độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh, song đòi
hỏi tay nghề công nhân, chất lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận vốn cố định.
1.4.3.3 - Đặc điểm về sản xuất:
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và cũng chứa đựng doanh
thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu
bia... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi
vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá
trị thấp, do vậy dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, có
giá trị lớn, được sản xuất trên dây chuyền có giá trị lớn như máy thu hình, ôtô, xe
máy... sẽ là tác nhân hạn chế doanh thu.
1.4.3.4. - Tác động của thị trường:
Tuỳ theo mỗi loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ tác động đến hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh theo những khía cạnh khác nhau. Nếu thị trường đó là cạnh
tranh tự do, những sản phẩm của doanh nghiệp đã có uy tín lâu đối với người tiêu
dùng thì sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường. Đối với
thị trường sản phẩm không ổn định (theo màu,
theo thời điểm, thị hiếu) thì hiệu quả sử dụng vốn cũng không ổn định qua việc
doanh thu biến động lớn qua các thời điểm này.
1.4.3.5 - Trình độ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, hạch toán nội bộ doanh nghiệp:
Để có hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất phải gọn nhẹ,
trùng khớp nhịp nhàng với nhau, với mỗi phương thức sản xuất và loại hình sản xuất
sẽ có những tác động khác nhau tới tiến độ sản xuất, phương pháp và quy định vận
hành máy móc, số ca, số tổ sản xuất , số bộ phận phục vụ sản xuất ...
Mặt khác, đặc điểm của công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp (luôn
gắn với tính chất của tổ chức sản xuất và quản lí trong cùng doanh nghiệp) có tác
động không nhỏ. Công tác kế toán đã dùng những công cụ của mình để đo hiệu quả
sử dụng vốn... Kế toán phải có nhiệm vụ phát hiện những tồn tại trong quá trình sử
dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải quyết.
1.4.3.6 - Trình độ lao động, cơ chế khuyến khích và trách nhiệm vật
chất trong doanh nghiệp:
Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ cao đủ để thích ứng với trình độ
công nghệ dây chuyền sản xuất thì các máy móc trong dây chuyền sẽ được sử dụng
tốt hơn và năng suất chất lượng sẽ cao hơn. Song trình độ lao động phải được đặt
đúng chỗ, đúng lúc... thì hiệu quả công việc mới cao.
Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả cao nhất doanh nghiệp phải có một
cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại,
nếu cơ chế khuyến khích không công bằng, quy định trách nhiệm không rõ ràng, dứt
khoát sẽ làm cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.4.3.7 - Các nhân tố khác:
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác dụng một phần không nhỏ tới hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố
định, thuế vốn, thuế doanh thu... đến chính sách cho vay bảo hộ và khuyến khích một
số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng, giảm hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ của doanh nghiệp.
Mặt khác, cơ chế chính sách cũng tác động đến kế hoạch mua sắm nguyên vật
liệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp được hưởng nguồn nguyên vật liệu, chọn
được người cung cấp tốt nhất. Doanh nghiệp phải kết hợp được yêu cầu của chính
sách này với yêu cầu của thị trường. Từ đó tác động tới hiệu quả sử dụng vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.5. Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường là các
công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn
vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động và các lợi thế khác của
doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem
lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
1.5.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh
nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra
sản phẩm và được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình
thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất
cái gì, bao nhiêu , tiêu thụ ở đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào
hoạt động, có được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế có nghĩa là việc lựa chọn
phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽ có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản
phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm
ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường , được thị trường chấp nhận. Do vậy các
phương án kinh doanh , phương án sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn, suy cho
cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu
cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán
sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng
tốt phương pháp Marketing.
Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn
phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của
marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở
lại cũng trở lên có ý nghĩa.
1.5.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy
động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình
thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu. Như đã
biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng
và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế . Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở
rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất , phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu
hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh
nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập
theo quy định (NĐ 59 và TT70) nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các
khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các
đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và
đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp,
bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả
đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để
lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cận phải
thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm
bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn
chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán,
1.5.3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh .
Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động và phát triển Xét
một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định.
Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường , một mặt đòi hỏi doanh
nghiệp phải tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho nội
trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản
xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong
nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu tố mang
tính tĩnh đó vận động phù hợp với sự biến động, phát triển liên tục của thị trường.
Kết quả tốt của việc điều hành và quản
lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết
bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng
không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn . Để đạt được các
mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất .
Đối với quản lý TSCĐ, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống
các biện pháp. Một là phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý , khai thác hết công suất
thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị, sử dụng triệt để diện
tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành phẩm. Hai là , xử lý dứt điểm
những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa
sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh . Ba là quy
định rõ trách nhiệm vật chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, sử dụng,
bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ. Bốn là có sự quan tâm thường xuyên đến bảo toàn vốn cố định.
Đối với quản lý TSCĐ, vốn lưu động thì nguyên tắc chung là phải sử dụng tiết
kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên lý đó
doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản lý. Một là xác định đúng nhu cầu
vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các
nguồn vốn bổ sung. Hai là tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo
hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém
hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. Ba là quản lý chặt chẽ việc tiêu
dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành
sản phẩm. Bốn là tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và
các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế
đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất
thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần. Năm là tổ chức đa dạng các hình
thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều. Sáu là xây dựng quan hệ
bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến
thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn. Bảy là tiết kiệm các yếu tố chi phí quản
lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận.
1.5.4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa
học, công nghệ. Nhưng ở một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một giai
đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn có thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa
lại. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói chung là điều kiện vật chất để doanh
nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời có
thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm , giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng
loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành
sản phẩm . Chính vì vậy, trong điều kiện công nghệ ở đa số các doanh nghiệp của
nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ
cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản
phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Đạt được quá trình
này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên,
tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản
phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản
xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm
chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh .
1.5.5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế
Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh
doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị
và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm
vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc
tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp
cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mà đòi hỏi phải
thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài
chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành
tích để có biện pháp phát huy.
Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh
doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của
mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống. Chương II
Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
ở xí nghiệp vận tải biển vinafco
I. Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp vận tải biển vinafco.
1.1. Lịch sử hình thành
Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ phần
Vinafco là doanh nghiệp được thành lập theo quyết định số
2125/TCCB – LĐ ngày 13/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
1.2.Nhiệm vụ khi thành lập
a) Liên doanh liên kết trên cơ sở hợp đồng kinh tế với các tổ chức vận
tải, các chủ hàng, các ga cảng các tổ chức dịch vụ giao nhận kho,
bãi...của Trung ương và địa phương để thực hiện liên hiệp vận chuyển
hàng hoá từ kho hàng Trung ương đến kho hàng cơ sở và chiều ngược lại.
b) Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện
các dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc-Nam, hàng nặng, thiết bị
toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi hàng
trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
*Cuối năm 2000 thành lập Xí nghiệp Dịch vụ Container và vận tải biển
nay là Xí Nghiệp Vận Tải Biển để quản lý, khai thác đội tàu Container
.
- Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ
phần Dịch vụ Vận Tải Trung Ương, nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là
tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải giữa hai đầu cảng đi và cảng
đến.Do vậy, tất cả các bộ phận trong Xí nghiệp hoạt động như một dây
chuyền thống nhất liên tục.Mỗi phòng ban đại diện là một mắt xích
không thể tách rời. Vì vậy việc xây dựng chức năng nhiệm vụ của các
bộ phận cũng mang tính thống nhất, không thể tách rời.
- Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp được Bộ Giao thông
Vận tải phê duyệt theo Quyết định số 3757/2000/QĐ/ Bộ GTVT ngày 07/12/2000.
- Căn cứ số 40/QĐ/ TCCB-LĐ ngày 17/02/2001 của Hội đồng quản trị
Công ty Cổ phần Dịch Vụ Vận tải Trung Ương về việc thành lập và quy
định chức năng nhiệm vụ cho Xí nghiệp Vận tải Biển. - Căn cứ vào yêu -
cầu sản xuất thực tế của Xí nghiệp.
1.3. Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
- Xí nghiệp vận tải biển Vinafco bao gồm các phòng sau:
+ Phòng giám đốc và phó giám đốc
+ Phòng tổ chức hành chính
+ Phòng Tài chính- Kế toán + Phòng Quản lý tàu
+ Phòng Kế hoạch khai thác
+ Phòng Tổ chức vận tải
- Mô hình tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco Giám□c Ph ó Gi á m Kế hoạch t ng h ổ ợp T ch ổ ức vận tải Kh a i Th á c K□ t o á n Nhân chí nh đại diện sà i gòn Đại diệ ả n h i phòng
1.3.1. Giám đốc và phó giám đốc: Giám đốc là người đại diện pháp nhân của
Xí nghiệp và là người có quyền điều hành cao nhất trong Xí nghiệp. Giám đốc
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Tổng giám đốc công ty và
trước pháp luật về công tác điều hành hoạt động Xí nghiệp. Phó giám đốc là
người giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động theo sự phân công
của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giao.
1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của phòng nhân chính:
- Tham mưu cho Giám đốc trên các mặt hoạt động về công tác tổ chức
cán bộ, lao động tiền lương, hành chính quản trị trong phạm vi toàn Xí nghiệp.
- Xây dựng mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp phù hợp với điều
kiện thực tế trước mắt và tương lai, trình Giám đốc duyệt
- Tham mưu và dự thảo các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ .
- Xây dựng các các quy chế, các quy định liên quan đến công tác
nhân chính, hành chính của Xí nghiệp.
- Có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nghiệp vụ
phù hợp với ngành nghề đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài cho Xí nghiệp.
- Theo dõi chế độ BHXH, BHYT, BHYT.
- Xây dựng phương án phân phối tiền lương, tiền thưởng công bằng hợp lý
- Giải quyết các công việc của hành chính quản trị :Mua sắm các thiết
bị văn phòng, quản lý điều động xe con.
1.3.3.Chức năng nhiệm vụ của phòng quản lý tàu :
- Trực tiếp tham mưu và thực hiện việc quản lý tàu, khai thác đội tàu với
hiệu quả cao nhất, đáp ứng đầy đủ kế hoạch SXKD của Xí nghiệp đề ra.
- Xây dựng lịch chạy tàu ( thời gian và số chuyến ) hàng tháng, quý, năm với hiệu quả cao
- Tổ chức quản lý theo dõi, điều hành mọi hoạt động của tàu theo đúng lịch trình.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc quản lý khai thác tàu,
sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng định kỳ đảm bảo chất lượng .
- Theo dõi, quản lý đầy đủ các thủ tục hồ sơ, giấy phép hoạt động của
tàu.Tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động của thuyền viên trên
tàu theo quy định của Luật Hàng Hải.
1.3.4.Chức năng và nhiệm vụ của phòng kế hoạch tổng hợp:
- Tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch
chuyến, tháng, quý,năm và kế hoạch đầu tư dài hạn.Tổng hợp tình
hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn Xí nghiệp .
- Tập hợp kế hoạch báo cáo của các Bộ phận để theo dõi và tham mưu
cho Giám đốc trong việc quyết định khối lượng hàng hoá chuyên
chở cho từng chuyến tàu.
1.3.5. Chức năng nhiệm vụ phòng khai thác vận tải:
- Trực tiếp khai thác hàng hoá vận chuyển cho tàuđem lại doanh thu cao nhất
- Tham mưu cho lãnh đạo Xí nghiệp về chiến lược thị trường và xây
dựng các kế hoạch khai thác hàng theo hàng quý, năm.
- Chủ động khai thác hàng hoá từ khâu tìm kiếm đối tác cho đến khi giành được hàng hoá.
- Đánh giá kết quả hoạt động tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh và thu thập thông tin, nghiên cứu giá cả.
- Chăm sóc khách hàng thường xuyên trước và sau khi bán sản phẩm dịch vụ vận chuyển 30
- Tổng hợp và cung cấp số liệu thực hiện cho phòng tài chính kế toán làm
cơ sở thu nợ khách hàng và cùng lãnh đạo Xí nghiệp có biện pháp thu nợ hữu hiệu nhất.
1.3.6. Chức năng và nhiệm vụ của phòng tổ chức vận tải:
- Tham mưu và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến hoạt
động vận tải và giao nhận trên phạm vi toàn Xí nghiệp.
- Tham gia quản lý và điều hành các hoạt động vĩ mô liên quan đến công
tác vận tải và giao nhận.
- Lên phương án và tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc lựa
chọn và ký hợp đồng các đơn vị vận chuyển, xếp dỡ, cảng, bãi tại hai khu vực Nam Bắc.
- Trực tiếp tổ chức thực hiện các nghiệp vụ giao nhận, kiểm đếm hàng
hoá ở khu vực phía Bắc.
- Chịu trách nhiệm quản lý báo cáo Giám đốc Xí nghiệp hoạt động của
Phòng và các công việc tới mảng điều hành vận tải,giao nhận toàn Xí nghiệp.
1.3.7. Phòng Tài chính kế toán * Ngành nghề kinh doanh:
- Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải
giữa hai đầu cảng đi và cảng đến.
- Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện các
- dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc- Nam, hàng nặng, thiết bị
toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi
hàng trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
- Kinh doanh các mặt hàng từ kho đến kho, từ kho đến cảng hoặc từ
cảng đến cảng với phương tiện vận chuyển chủ yếu là đường biển,
đường bộ và đường sắt. Kết hợp dịch vụ vận chuyển giữa hai đầu
Nam- Bắc , kinh doanh hàng hoá
- Trụ sở của Xí nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đặt tại 33C- Cát Linh - Đống Đa- Hà Nội.
Toàn bộ cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp là 85 người , 95% là tốt nghiệp Đại học.
+ Văn phòng Xí nghiệp 42 người
+ Đại diện Hải phòng 12 người
+ Đại diện Sài Gòn 18 người
+ Nhân viên trên tàu 13 người.
1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
1.4.1. Những thuận lợi và khó khăn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
a) Những thuận lợi :
- Việt Nam là một trong số ít nước được thiên nhiên ưu đãi để trở thành
một quốc gia kinh tế phát triển . Vị trí địa lý của Việt Nam và chính sách mở
cửa hiện nay của Đảng và nhà nước ta là những yếu tố rất thuận lợi cho việc
xây dựng một ngành công nghiệp đường biển với chức năng không chỉ phục vụ
các nhu cầu phát triển kinh tế , xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của
chính mình mà còn tham gia cung cấp dịch vụ cho hoạt động đường biển.
Ngành đường biển Việt Nam đã tích luỹ được một số cơ sở vật chất , phương
tiện, lao động kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh
ban đầu, rất có giá trị để bước vào một giai đoạn phát triển mới theo hướng
"chuyên dùng hoá - hiện đại
b. Những khó khăn chủ yếu:
- Ngành đường biển là một ngành kinh tế đặc thù, sản phẩm chủ yếu là
dịch vụ , phụ thuộc nhiều vào biến động của thị trường cũng như các rủi
ro thiên nhiên. Mặt khác, cơ sở vật chất kỹ thuật luôn đòi hỏi nhu cầu
đầu tư vốn khá lớn nhưng thời hạn thu hồi vốn thường kéo dài hơn so
với nhiều ngành kinh doanh dịch vụ khác. Hiện nay, hai lĩnh vực hoạt
động kinh doanh quan trọng nhất là vận tải đường biển và lạc hậu về
công nghệ và rất thiếu vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp đổi mới trang thiết
bị để đáp ứng kịp thời các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
- Về dịch vụ: Xu thế chung của các doanh nghiệp lớn là tổ chức kinh doanh trọn
gói, nghĩa là tổ chức riêng các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, bốc xếp, giao nhận
để phục vụ cho mình và cạnh tranh lôi kéo khách hàng, việc làm của các doanh
nghiệp dịch vụ cùng thuộc xí nghiệp. Có thể nói, thị trường dịch vụ đã, đang bị cạnh
tranh khốc liệt và ngày càng bị thu hẹp. Đây là khó khăn lớn nhất của các doanh
nghiệp dịch vụ làm cho một số doanh nghiệp bị mất việc làm hoặc kinh doanh thua lỗ.
- Mặc dù chính phủ và các cơ quan quản lý chuyên ngành đã quan tâm
tháo gỡ một số vướng mắc về cơ chế chính sách, nhưng vẫn chưa có một chế
độ ưu tiên bảo hộ thích đáng với ngành đường biển như một số nước khác vẫn làm.
1.4.2. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
1.4.2.1. Những đặc thù của ngành:
Như chúng ta đã biết, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco có nhiệm vụ chính là thực
hiện nhiệm vụ kinh doanh về vận tải đường biển, khai thác hàng hoá giữa hai đầu
cảng đi và cảng đến , và so với các ngành kinh doanh, dịch vụ khác thì nhu cầu vốn
đầu tư rất lớn, đặc biệt là vào tài sản cố định, nhưng thời hạn thu hồi vốn thường phải kéo dài hơn.
1.4.2.2. Tổ chức quản lý Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
Xí nghiệp vận tải biển Vinafco là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh ,
có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Tổng công ty quản
lý, có con dấu, tài sản và các quỹ tập trung, được mở tài khoản tại các ngân hàng
trong nước theo quy định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ tổ chức công ty.
Bộ máy tổ chức quản lý của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco mô hình trực tuyến
chức năng, đứng đầu là Giám đốc và phó giám đốc, sau là các phòng ban và hai đại
diện ở Hà nội và Hải phòng.
Hội đồng quản trị Công ty thực hiện chức năng quản lý Xí nghiệp vận tải biển
Vinafco chịu trách nhiệm về sự phát triển của theo nhiệm vụ nhà nước giao. Ban
kiểm soát là tổ chức do Hội đồng quản trị quyết định thành lập theo luật, hoạt động
theo điều lệ về tổ chức và hoạt động của Xí nghiệp và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng quản trị.
Xí nghiệp vận tải biển Vinafco được tổ chức và quản lý theo sự thống nhất giữa
lãnh đạo về kinh tế và lãnh đạo về chính trị. Tập trung dân chủ, thực hiện triệt để chế
độ một thủ trưởng và phát huy cao quyền làm chủ tập thể người lao động, phát huy
vai trò lãnh đạo tổ chức của giám đốc và quyền hạn, trách nhiệm của tập thể công
nhân viên chức của hội đồng Xí nghiệp và tập thể. Xí nghiệp sử dụng đòn bẩy kinh tế
, tài chính, kết hợp hài hoà ba lợi ích trong đó lợi ích người lao động là động lực cơ
bản, trực tiếp. Đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ và quan hệ tài chính với ngân sách nhà
nước, cơ quan chủ quản và với khách hàng .
1.4.2.3. Đặc điểm về máy móc thiết bị và công nghệ:
Hệ thống máy móc thiết bị là yếu tố rất quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của Xí nghiệp. Máy móc thiết bị thuộc ngành này là những loại có trọng
tải lớn, cồng kềnh, và có giá trị rất lớn. Các trang thiết bị liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh chủ yếu là các phương tiện vận tải (đường thuỷ, trên bộ) các phương
tiện bốc xếp, phương tiện bảo quản hàng hoá. Theo đánh giá một cách tổng quát thì
hệ thống trang thiết bị còn lạc hậu, bất hợp lý, tuổi khai thác khá lớn, khả năng
chuyên dùng hoá kém... số lượng các phương tiện vận chuyển còn ít, tổng trọng tải
còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng. Hiện nay Xí nghiệp đang nỗ lực và khuyến
khích đầu tư phát triển theo hướng nâng cao khả năng chuyên dùng hoá, hiện đại hoá
nhằm nâng cao năng lực khai thác và tránh tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh, tận
dụng khả năng thiết lập dây chuyền công nghệ khép kín; chú trọng việc cải tiến công
nghệ vận chuyển - bốc xếp - giao nhận theo phương thức, từ kho đến kho và phân
công chuyên môn hoá cao, nâng cao hơn nữa năng lực của đội tàu biển thông qua
thuê mua và mua mới các tàu đi biển có trọng tải phù hợp. Sau đây là một số số liệu
chủ yếu liên quan đến hệ thống trang thiết bị.
- Phương tiện vận tải thuỷ:
+ Tàu Vinafco 18: Trọng tải 4119 Tấn sức chở 240 Teu
+ Tàu Vinafco 25: Trọng tải 5778 Tấn sức chở 252 Teu
-Đây là hai con tàu container chuyên dụng của xí nghiệp
1.4.2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Bước sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện hạch toán kinh doanh độc lậ ,
cũng như nhiều doanh nghiệp nhà nước khác, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco với các
thành viên của nó đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt là về vốn sản xuất kinh doanh ,
máy móc thiết bị cũ, lạc hậu. Thị trường giờ đây ngày càng nhiều công ty vận tải
đườngbiển , dịch vụ Đường sông lớn nhỏ lần lượt trở thành những đối thủ cạnh tranh gay gắt của Xí nghiệp.
Đánh giá đúng tình hình đó xí nghiệp đã kịp thời đầu tư thực hiện các phương án
sản xuất kinh doanh , quy hoạch phát triển đội tàu, đầu tư nâng cấp, cải tạo các cảng
trọng điểm.... phấn đấu xây dựng xí nghiệp thành tập đoàn kinh tế lớn Việt Nam.
Từ năm 2000 đến nay, chất lượng dịch vụ của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco không
ngừng tăng lên, mặc dù còn gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng sản phẩm dịch vụ của
Xí nghiệp đã được nhiều khách hàng chấp nhận. Nhờ đó, trong những năm qua công
ty dần có ưu thế, cụ thể như khách hàng đã chủ động tìm đến với tổng công ty. Ta có
thể thấy qua một số chỉ tiêu sau:
Biểu: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của Xí
nghiệp vận tải biển Vinafco TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 1 Sản lượng tổng Tấn 18.425 20.940 hợp - Loại container Tấn 14.286 15.588 20’ - Loại container Tấn 2.535 2.676 40’ - Hàng rời Tấn 1.604 2.681 2. Về tài chính - Tổng doanh thu
Triệu đồng 47.256.192 56.202.314 - Tổng lợi nhuận Triệu đồng 8.161.037 9.611.021 - Tổng nộp NSNN Triệu đồng 3.840.488 4.522.834 3 Vốn cố định Tỷ đồng 1.377.158 1.512.920 4 Vốn lưu động Triệu đồng 828.847 955.287
Trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá một cách khoa học, Xí nghiệp vận
tải biển Vinafcođã xác định được chiến lược phát triển, trong đó nhiệm vụ trọng
tâm trong giai đoạn hiện nay là tập trung xây dựng, phát triển nhanh đội tàu theo
hướng đi thẳng lên hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhằm từng bước giành
lại và tăng thêm thị phần vận tải hàng hoá của Việt Nam, tiến tới tham gia chia xẻ thị phần của khu vực.
Thể hiện cho sự cố gắng đó cùng với việc thực hiện đề án phát triển và trẻ hoá
đội tàu , sản lượng vận tải đã tăng liên tục qua các năm, năm 2001 tăng2.515 tấn ,
doanh thu tăng 1.449.984 triệu VNĐ,nộp ngân sách tăng
682.346 triệu VNĐ so năm 2000.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh , được nâng lên, tốc độ tăng trưởng cao, có
đóng góp vào nguồn thu ngân sách. Sau 2 năm hoạt động với mô hình xí nghiệp độc
lập, những nỗ lực, sáng tạo mới cùng với sự chỉ đạo và hỗ trợ của Công ty cổ phần
Vinafco, các Bộ, các ngành có liên quan, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chẳng
những trụ vững trên thương trường mà còn từng bước giành giật thị phần vận tải
sông, khẳng định vai trò, vị trí của mình trên thị trường . Thể hiện ở các chỉ tiêu tài
chính tăng trưởng một cách ổn định, năm 2001 tổng doanh thu tăng8.946.122 triệu
VNĐ, lợi nhuận tăng 1.449.984 triệu VNĐ, nộp ngân sách tăng 682.346 triệu VNĐ
so với thực hiện năm 2000.Và tích t,ụ tập trung nguồn lực bị phân tán trước đây để
chi phối những lĩnh vực quan trọng, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước .
ii.Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
2.1.Vốn và cách thức huy động của Xí nghiệp
2.1.1. Nhu cầu vốn của Xí nghiệp
Xuất phát điểm với cơ sở vật chất kỹ thuật trong hai lĩnh vực kinh doanh trọng
yếu nhất là vận tải biển và khai thác hàng hoá và rất thiếu vốn đầu tư cải tạo, nâng
cấp đổi mới trang thiết bị để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường do vậy
nhu cầu vốn của xí nghiệp là cần thiết.
2.1.2. Phương thức huy động vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Xuất phát từ nhu cầu về vốn của mình, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã xác định
sự sống còn của mình phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn. Các
nguồn vốn được huy động như sau:
- Vốn do ngân sách cấp bao gồm vốn cấp thẳng từ NSNN cho đầu tư ban
đầu, vốn rút ra từ doanh nghiệp nhà nước khác ( do giải thể, sát nhập...) để bổ
sung cho doanh nghiệp mới (doanh nghiệp được phép trực tiếp nhận để đầu tư)
(NĐ 388 - HĐBT). Từ khi đất nước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, nguồn vốn huy động từ NSNN ngày càng giảm dần, do đó xí
nghiệpxác định đây không là nguồn vốn chính của mình.
- Vốn xí nghiệp huy động thêm để đầu tư phát triển sản xuất , kinh doanh bao gồm:
+ Nhà nước cho vay từ ngân sách với lãi suất ưu đãi và thời gian vay dài hạn.
Với hình thức này xí nghiệp có thể vay với số lượng lớn. Có nhiều khả năng kết hợp
với vốn vay từ các ngân hàng trong nước thì đó là các nguồn vốn chủ yếu của xí
nghiệp trong thời gian tới .
+ Bên cạnh đó từ năm 2000 chuyển đổi thành công ty cổ phần, phát hành cổ
phiếu, huy động để cán bộ công nhân viên chức trong Công ty mua.
+Thực hiện chế độ đa sở hữu đội tàu bằng việc khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư hoặc góp vốn cổ phần, mua công trái, nhà nước phát hành tín phiếu,
góp vốn liên doanh giữa các tổ chức kinh tế nước ngoài để xây dựng kể cả đối với đội
tàu nòng cốt, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của nhiều đối tượng như doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức kinh tế , trong nước.
+Khuyến khích phát triển đội tàu bằng việc giảm thuế doanh thu, thuế trước bạ,
thuế thu nhập, thuế vốn đối với các đội tàu vận tải quy định các loại cước phí phù
hợp, giành lợi thế cho đội tàu và đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế hoạt động.
2.2. Phân tích tình hình quản lý vốn cố định
2.2.1. Cơ cấu vốn cố định, tình hình biến động của vốn cố định
Trong quá trình hình thành vốn cố định, tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh
của các ngành, tuỳ theo mức độ trang thiết bị cho mỗi bộ phận mà vốn cố định được
hình thành rất khác nhau. Hơn thế nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh do tác
động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau làm cho tài sản cố
định biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Nắm bắt được những nguyên lý đó
đòi hỏi việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải tiếp cận theo nguồn hình thành và cơ cấu TSCĐ.
Thứ nhất: Là nghiên cứu cơ cấu vốn cố định theo nguồn hình thành và sự biến
động của nó ở biểu sau:
Biểu . Cơ cấu vốn cố định và sự biến động của nó năm 2001 Đơn vị: 1.000.000VNĐ Chỉ tiêu năm2000 năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tỉ lệ% Số tiền Tỉ lệ % Số tiền 1. Ngân sách cấp 396.882 28,8 516.468 34,1 119.582 - Phương tiện thiết 57.326 4,1 87.316 5,8 bị
- Phương tiện vận tải 218.994 15,9 268.435 17,7 - Cơ sở hạ tầng 120.562 8,8 160.717 10,6
2. Vốn vay và tự bổ 980.276 71,2 996.452 65,9 16.176 sung - Phương tiện thiết 130.230 9,5 149.530 9,9 bị
- Phương tiện vận tải 780.686 56,6 770.602 50,9 - Cơ sở hạ tầng 69.360 5,1 76.320 5,1 Tổng cộng VCĐ 1.377.15 100 1.512.92 100 135.762 8 0
+Tổng số vốn cố định của xí nghiệp năm 2000 là: 1.377.158 Tỷ VNĐ
+ Tổng số vốn cố định của xí nghiệp năm 2001 là: 1.512.920 Tỷ VNĐ
Qua biểu trên ta thấy thời điểm năm 2000 vốn ngân sách cấp với giá trị 396.882
triệu VNĐ chiếm 28,8% vốn cố định của xí nghiệp. Đến thời điểm năm 2001 về giá
trị tuyệt đối là 516.468 triệu VNĐ (tăng 119.582 triệu VNĐ) và giá trị tương đối
chiếm 34,1% (tăng 5,3% ). Trong khi đó vốn vay và tự bổ sung ở năm 2000 là
980.276 triệu VNĐ, tăng 996.452 triệu VNĐtương ứng với tăng 1,6%. Như vậy với
những khả năng biến động của năm 2001, trong cơ cấu vốn cố định của thì vốn vay
và vốn tự bổ sung chiếm tỉ lệ khá cao (trên 68%). Chứng tỏ rằng Xí nghiệp sử dụng
đòn bẩy tài chính khá tốt. Tuy nhiên tỉ trọng đó có xu hướng giảm do khủng hoảng tài
chính, kinh doanh và vay vốn rất khó khăn, nhưng đây là các quan hệ tỉ trọng mang
tính động và với những triển vọng sáng sủa về khả năng phục hội kinh tế thế giới sau
khủng hoảng, Xí nghiệp có rất nhiều điều kiện thuận lợi để điều chỉnh.
Trong cơ cấu vốn do NSNN cấp, trọng điểm rót vốn vẫn là đội tàu vận tải tại
thời điểm năm 2000 chiếm 15,9% sau đó đến cơ sở hạ tầng 8,8%, phương tiện dành
cho bốc xếp thuỷ bộ chiếm 4,1%. Tuy nhiên, do đẩy nhanh việc thực hiện các dự án
nâng cấp, cải tạo, xây mới cơ sở hạ tầng , mua sắm thiết bị vận tải nên vón góp của
NSNN có tăng so với đầu năm.
Trong cơ cấu vốn tự bổ sung và vốn vay, với việc thực hiện đề án xây dựng đội
tàu đến 2010, đầu tư cho đội tàu đã ngốn tới 71,2% ở thời điểm năm2000 và tiếp tục
đứng đầu với 72% ở thời điểm năm 2001 . Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất
khiêm tốn chỉ chiếm 5,1% ở năm 2000& 2001 Phần vốn lớn nhất là dành cho
phương tiện vận tải , mua tàu, lên đến 56,6 % năm 2000 và có giảm ở năm 2001 là 50,9%.
Như thế trong năm qua, xí nghiệp đã sử dụng một nguồn vốn vay tuy đã suy
giảm nhưng còn rất lớn và nguồn vốn tăng thêm từ vốn do các cổ đông đóng góp,
điều này đã làm cho VCĐ tăng thêm 135.762 triệu VNĐ. Sự tăng thêm về vốn cố
định này do rất nhiều nguyên nhân. Một phần rất nhỏ là do sự biến động giá cả đối
với mua sắm thiết bị vận chuyển ,tư liệu sản xuất xảy ra tất yếu trong nền kinh tế thị
trường, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu, thị hiếu, mức độ khan hiếm... phần lớn còn
lại là do bản thân xí nghiệp.
Một là, xí nghiệp đã mua thêm một số phương tiện dùng cho bốc, xếp nhằm
nâng số lượng hàng hoá thông qua các đại diện ở Hà nội và Hải phòng bằng nguồn
vốn do các cổ đông đóng góp và vốn vay của các ngân hàng.
Hai là, xí nghiệp đã đẩy nhanh việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho hai đội tàu và cho
hai đại diện ở Hà nội và Hải phòng.
Ba là, các nhân tố mua sắm phương tiện vận tải vẫn chiếm lượng đầu tư
rất lớn năm 2000 lại suy giảm so năm2001.
Bên cạnh đó ta xem xét cơ cấu TSCĐ để thấy rõ hơn mức độ trang thiết bị của
xí nghiệp cho hoạt động sản xuất kinh doanh . Chúng ta đều biết TSCĐ là bộ phận tài
sản chủ yếu phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh mà xí nghiệp hiện sử dụng, trình
độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của xí nghiệp. Nó cũng rất cần thiết để giảm nhẹ sức
lao động và nâng cao trình độ của công nhân. Do đó TSCĐ có ý nghĩa quyết định đến
kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
TSCĐ mà Xí nghiệp vận tải biển Vinafco sử dụng có 3 loại chính là : cơ sở hạ
tầng, phương tiện vận tải (tàu biển), phương tiện bốc xếp thuỷ bộvà vỏ container. Các
loại tài sản này được hình thành từ 3 nguồn chính là: nguồn NSNN cấp, nguồn vốn
vay và tự bổ sung. Và hiện tại chúng có tỉ trọng cơ cấu được phản ánh như sau. a) Phương tiện vận tải
+ Tàu Vinafco 18: Trọng tải 4119 Tấn sức chở 240 Teu
+ Tàu Vinafco 25: Trọng tải 5778 Tấn sức chở 252 Teu.
b) Phương tiện thiết bị c) Cơ sở hạ tầng + Vị trí làm hàng +Kho hàng hoá + Trụ sở làm việc.
Qua số liệu trên biểu trên ta có một số đánh giá sau:
Để nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển hàng hoá , xí nghiệp đã đầu tư cơ
sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh bằng số vốn cố định của xí nghiệp.
Số vốn cố định giành cho cơ sở hạ tầng chỉ chiếm 8,8%, tuy nhiên trong vài năm
tới khi mà các đề án nâng cấp chất lượng dịch vụ vận tải hoàn thành đưa vào sử dụng
thì tỉ trọng của nhóm này sẽ thay đổi, đặc biệt với các dự án xây dựng trụ sở làm
việc, dự án vận tải đa phương thức.
Như vậy với việc phân tích cơ cấu vốn cố định cũng như tình hình biến động của
nó theo nguồn hình thành và theo mối quan hệ tỉ trọng trong TSCĐ, cho chúng ta thấy
với những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, trình độ phát
triển khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển của xí nghiệp thì cơ cấu vốn cố định
khá hợp lý. Điều này đã được thể hiện không những thông qua các chỉ số cơ cấu hiện
tại mà ngay cả trong xu hướng đầu tư. Với thành quả này sẽ có tác động tốt đến hiệu
quả sử dụng vốn trong thời gian kế tiếp. Tuy nhiên yếu tố cơ cấu luôn biến động, chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, do vậy đòi hỏi ban lãnh đạo
phải có những chỉ đạo sát sao để thiết lập và duy trì cơ cấu vốn cố định hợp lý, tối ưu.
2.2.2. Khấu hao tài sản cố định 40
Như chúng ta đã biết, khấu hao tài sản cố định là một trong những biện pháp góp
phần bảo toàn và phát triển vốn cố định. Việc khấu hao đúng, khấu hao đủ theo quy
định về công tác khấu hao sẽ phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong quá trình quản lý và sử dụng TSCĐ, TSCĐ luôn bị hao mòn dưới hai hình
thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Giá trị hao mòn được chuyển dịch vào
giá trị sản phẩm qua hình thức khấu hao. Sau khi sản phẩm tiêu thụ, số tiền khấu hao
được trích lại và lập thành quỹ khấu hao TSCĐ. Quỹ khấu hao này dùng để tái sản
xuất giản đơn TSCĐ (người ta gọi là quỹ khấu hao cơ bản). Nhưng trong điều kiện có
sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao cơ bản còn có khả năng tái sản xuất
mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách các doanh nghiệp sử dụng
linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho
các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh và được thu hồi doanh lợi (trên
nguyên tắc được hoàn quỹ) hoặc nhờ nguồn vốn này đơn vị có thể đầu tư đổi mới
TSCĐ ở những năm sau lớn hơn, hiện đại hơn.
Để đạt được cả hai khả năng trên, ngay từ công tác khấu hao thì xí nghiệp
đã có những kết quả phản ánh trên biểu sau.
Biểu : Thực tế khấu hao TSCĐ của Xí nghiệp. Đơn vị: 1.000.000VNĐ Chỉ tiêu 2000 2001 1. Nguyên giá TSCĐ 3.216.786 3.475.125 2. Khấu hao trong năm 177.900 286.059 3. Tổng khấu hao 1.661.728 1.676.146 4. Giá trị còn lại 1.377.158 1.512.920 5. Tỉ lệ trích 5,5 8,2
Qua biểu trên ta thấy trích khấu hao trong năm ngày một tăng, năm 2000 là
177.900 triệu VNĐ nhưng đến năm 2001 là 286.059 triệu VNĐ,. Trong năm 2001, xí
nghiệp tiếp tục đầu tư thêm TSCĐ ( chủ yếu cho đội tàu) , mua mới một tàu biển
Vinafco 25 có trong tải lớn và mua hàng loạt vỏ container phục vụ cho sẩn xuất.
Như vậy trích khấu hao trong năm tăng không những do nguyên giá TSCĐ liên
tục tăng mà còn cả tỉ lệ trích khấu hao cũng tăng. Điều này đã gây ra trích khấu hao
trong năm tăng nhanh hơn việc tăng nguyên giá TSCĐ. Với thực tế trích khấu hao
trong năm tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến cước phí vận tải của xí nghiệp phải
đang giảm xuống nhằm cạnh tranh với các công ty vận tải khác ở trong nước và trong
khu vực trong cơn biến động khủng hoảng tài chính (đặc biệt giá cước vận tải nội địa
rất thấp, nhiều khi thấp hơn giá thành), điều này đòi hỏi phải có những biện pháp để
giữ vững thế cạnh tranh trên thị trường. Bởi khấu hao tăng đồng nghĩa với lợi nhuận
giảm xuống khi mà giá cả có khuynh hướng giảm và như vậy chắc chắn sẽ có ảnh
hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động của xí nghiệp.
2.2.3. Tình hình bảo toàn và phát triển vốn cố định
Trước sự biến động thường xuyên của thị trường và trình độ quản lý sẽ làm phát
sinh khoảng cách giữa lượng vốn cố định hiện có của xí nghiệp và lượng vốn cố định
cần có trong tương lai đáp ứng yêu cầu sản xuất và kinh doanh , từ đó dẫn đến việc xí
nghiệp phải vừa bảo toàn vốn và vừa phát triển vốn. Trên nguyên tắc đúng đó xí
nghiệp đã có những kết quả bảo toàn và phát triển vốn thể hiện ở biểu sau.
Biểu : Tình hình bảo toàn và phát triển VCĐ ở Xí nghiệp vận tải
biển Vinafco trong năm 2001. Trong đó Chỉ tiêu Tổng số Ngân sách Bổ sung v ay
- Số VCĐ phải bảo toàn đầu năm 1.377.158 396.882 980.276
- Số VCĐ phải bảo toàn cuối năm 1.512.920 516.468 996.452
- Số VCĐ thực tế đã bảo toàn 1.482.786 520.460 962.326
- Chênh lệch số vốn đã bảo toàn - 30.134 +3992 -34.126
với số vốn phải bảo toàn
Số liệu biểu trên cho ta thấy năm 2001, xí nghiệp chưa thực hiện được bảo toàn
vốn cố định. Theo kế hoạch tính toán, số VCĐ cần bảo toàn đến cuối năm là
1.512.920 triệu VNĐ trong khi đó xí nghiệp mới thực hiện bảo toàn VCĐ
là1.482.786 triệu VNĐ, như vậy mức bảo toàn thiếu là 30.134 triệu
VNĐ, trong đó vốn NSNN đã bảo toàn lớn hơn số phải bảo toàn là 3992 triệu
VNĐ, phần vốn bổ sung và vốn vay bảo toàn thiếu 34.126 triệu VNĐ.
Khuyết điểm này thuộc về nhiều nguyên nhân, có thể là do việc công tác quản lý
vốn cố định của doanh nghiệp chưa được tốt, do việc mua bán TSCĐ trong năm qua
của xí nghiệp, nhưng có lẽ đáng chú ý hơn là do tình trạng thiếu vốn trong kinh
doanh hiện nay khá phổ biến , thêm nữa là những khó khăn của nền kinh tế khu vực
và thế giới làm cho việc vay nợ trở nên khó khăn, dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp
chiếm dụng vốn của nhau, nợ nần dây dưa làm cho các doanh nghiệp trong mặc dù
thiếu vốn, nhưng vốn vẫn bị ứ đọng. Thực tế này làm cho vốn sau khi thu hồi không
còn đảm bảo sức mạnh ban đầu của đồng vốn. Như vậy đồng vốn chưa được bảo toàn
của xí nghiệp đã một mặt phản ánh được lợi nhuận tăng lên đó là chưa đúng thực chất
bởi vì nếu tính theo vốn cố định được bảo toàn thì lợi nhuận thực tế sẽ giảm xuống.
2.3. Tình hình quản lý vốn lưu động
Quản lý vốn lưu động cũng có nghĩa là quản lý bộ phận thứ hai của vốn và cũng
có vai trò quan trọng không kém gì vốn cố định. VLĐ chính là biểu hiện bằng tiền
của tài sản lưu động và vốn lưu thông được sử dụng vào quá trình tái sản xuất . Do
vậy để nghiên cứu tình hình quản lý vốn lưu động ta cần nghiên cứu các mặt sau:
2.3.1. Lập kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch VLĐ định mức:
Vốn lưu động định mức chính là số vốn lưu động có thể quy định mức tối thiểu,
cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Nó được sử
dụng cho việc chi phí dự trữ tài sản định mức cho của xí nghiệp. Khi số vốn lưu động
được đảm bảo đầy đủ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường
liên tục và chủ động. Tuy nhiên nếu số vốn này không được tính chính xác thì sẽ là
nguyên nhân gây khó khăn trở ngại cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trên cơ sở số vốn lưu động định mức đã được tính toán, xí nghiệp sẽ căn cứ
vào đó để huy động, phân bổ nguồn vốn kịp thời cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong Xí nghiệp vận tải biển Vinafco, nhu cầu về vốn lưu động là tương đối lớn,
Xí nghiệp sau khi đã xác định được vốn lưu động định mức bằng cách dựa vào doanh
thu kế hoạch hàng năm, Xí nghiệp tiến hành huy động tối đa từ các nguồn: Vốn ngân
sách, tự bổ sung, số vốn thiếu có thể huy động từ các nguồn, vay tín dụng, quỹ xí
nghiệp. Chúng ta có thể thấy tình hình thực hiện kế hoạch vốn lưu động định mức qua biểu sau.
Biểu : Kế hoạch nguồn vốn lưu động định mức và tình hình thực hiện năm 2001 Đơn vị: 1.000.000 VNĐ Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch Số tiền Tỉ lệ % Số tiền Tỉ lệ % Số tiền Tỉ lệ % - Nguồn NSNN 52.768 6,4 63.421 6,6 10.644 8,4 cấp - Nguồn tự bổ sung 276.147 33,3 287.234 30,1 11.087 8,8 - Nguồn vay tín 421.516 50,9 517.426 54,2 95.910 75,8 dụng - Các quỹ xí 78.416 9,4 87.215 9,1 8799 7 nghiệp Tổng cộng 828.847 100 955.287 100 126.440 100
Qua biểu trên ta thấy kế hoạch huy động vốn từ các nguồn và thực hiện
công tác huy động vốn cho sản xuất kinh doanh năm 2001 như sau:
- Nguồn NSNN cấp tăng 8,4% tương ứng với 10.644 triệu VNĐ và có tỉ trọng tương đối thấp.
- Nguồn tự bổ sung là nguồn đứng thứ hai cả về số tuyệt đối và số tương
đối, việc thực hiện cho với kế hoạch tăng 11.087 triệu VNĐ hay 8,8%.
- Nguồn vay tín dụng có tỷ trọng đứng đầu trong kế hoạch là 421.516
mức lập kế hoạch là 517.426 triệu VNĐ tăng 95.910 triệu VNĐ hay tăng đạt 75,8%.
- Nguồn quỹ xí nghiệp cũng đạt tăng so với kế hoạch 8799 triệu VNĐ hay tăng 7 %.
Qua thực tế việc huy động vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh ta thấy kế
hoạch vốn lưu động định mức chưa sát thực tế là 955.287 triệu VNĐ, so với kế hoạch
tăng 126.440 triệu VNĐ trong đó.
Như vậy nhìn chung phương pháp xác định vốn lưu động định mức kế hoạch đã
có những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên khả năng dự báo chỉ tương đối, phương
pháp xác định này không cụ thể cho từng khâu, từng bộ phận. Cho nên xí nghiệp cần
có phương pháp xác định hợp lý hơn nhằm làm giảm việc sử dụng vốn không có hiệu
quả, khâu thì quá nhiều vốn, khâu lại không có vốn, việc này sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến tiến độ sản xuất kinh doanh và làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn.
2.3.2. Cơ cấu vốn lưu động:
Xuất phát từ những đặc điểm của vốn lưu động mà đòi hỏi việc nghiên cứu cơ
cấu vốn lưu động trong thực tiễn có khác so với vốn cố định. Việc nghiên cứu toàn
diện về cơ cấu vốn lưu động cho ta một cái nhìn tổng quát về tình hình quản lý vốn
lưu động, hơn thế nữa kết quả nghiên cứu còn gợi mở cho các nhà lãnh đạo xí nghiệp
đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo sử dụng tiết kiệm hợp lý
vốn lưu động. Để đạt được những mục đích đó đòi hỏi phải xem xét cơ cấu vốn lưu
động theo hai nội dung là: Nguồn hình thành và quá trình luân chuyển tuần hoàn của nó.
Thứ nhất là xét cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành cùng sự biến
động của nó ở biểu sau.
Biểu : Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn và sự biến động của nó năm 2001 Đơn vị 1.000.000 VNĐ Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Chỉ tiêu Số tiền Tỉ lệ( %) Số tiền Tỉ Số tiền Tỉ lệ lệ(%) % 1.Nguồn NSNN cấp 68.768 8 71.623 7,9 2.837 5,8 2.Nguồn tự bổ xung 287.152 33,6 298.459 30 11.307 23,1 3. Nguồn tín dụng 415.716 48,7 437.816 48,5 22.100 45,5 4. Quỹ xí nghiệp 82.767 9,7 95.520 10,6 12.753 26 Tổng cộng 854.421 100 903.418 100 48.997 100
Vậy cơ cấu nguồn hình thành của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco trong năm 2000 & 2001 như sau.
- Nguồn vốn tín dụng đang là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về số tuyệt đối
và tương đối với giá trị năm 2000 là 415.716 triệu VNĐ chiếm 48,7% đến năm 2001
là 437.816 triệu VNĐ chiếm 48,5% có giảm so với đầu năm 2000
- Nguồn quỹ xí nghiệp mặc dù về số tuyệt đối có tăng hơn một chút
nhưng tỉ trọng của nó trong cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình
thành vẫn còn thấpchiếm tỷ trọng 9,7năm 2000 và 10,6% năm 2001.
- Nguồn NSNN cấp so với cơ cấu VCĐ ở Xí nghiệp là ít nhất chiếm tỷ
trọng rất nhỏ năm 2000 là 68.786 chiếm 8%, năm 2001 là 71.623 chiếm 7,9%.
- Nguồn tự bổ sung mặc dù về số tuyệt đối có tăng hơn một chút nhưng tỷ
trọng của nó trong cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành vẫn suy giảm 3,6% so
với năm 2000, bởi tổng vốn lưu động tăng với tốc độ nhanh hơn
Như vậy trong năm 2001, Xí nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc huy động
vốn từ các nguồn thể hiện ở lượng vốn lưu động cuối năm tăng so với đầu năm là
48.997 triệu VNĐ. Tuy nhiên xí nghiệp cần cải thiện việc huy động vốn để tỷ trọng
cuối năm được cân bằng so với đầu năm và không gây ảng hưởng đến hoạt động kinh doanh của xí nghiệp.
Thứ hai là xét cơ cấu vốn lưu động theo quá trình luân chuyển tuần hoàn của nó ở biểu sau:
Biểu : Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình luân chuyển tuần hoàn Đơn vị: 1.000.000 VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tỉ lệ% Số tiền Tỉ Số Tỉ lệ% tiền lệ% 1. Vốn dự trữ 256.751 30 267.675 29 10.924 22,2
2. Vốn trong sản xuất 179.587 21 181.706 20 2.119 4,3 3. Vốn trong lưu 418.083 49 454.037 51 35.954 73,5 thông - Tiền mặt 97.712 108.216 10.495 - Thành phẩm 8.756 9.986 - Hàng hoá 26.410 19.320 - Phải thu 285.196 33,4 296.515 33 Tổng cộng 854.421 100 903.418 100 48.997 100
Ngành Vận tải đường biển là một ngành kinh tế đặc thù sản phẩm chủ yếu là
dịch vụ nên vốn lưu động tập trung chủ yếu vào hai khâu dự trữ và lưu thông. Qua
biểu trên ta thấy nổi lên các vấn đề sau:
Một là vốn lưu động trong khâu lưu thông chiếm tỉ trọng chủ yếu, cụ thể năm
2000 là 418.083 triệu VNĐ chiếm tới 49%, năm2001 tuy tỉ trọng có tăng lên là
454.037 triệu VNĐ chiếm 51% nhưng số tuyệt đối tăng thêm là 35.954 triệu VNĐ.
Trong đó số vốn bị chiếm dụng chiếm tỉ lệ rất cao chiếm 33,4% n bởi tổng vốn lưu
động tăng nhanh hơn. Đây là tình trạng gây ra bởi việc khó vay vốn nói chung trong
nền kinh tế năm 2001. Một điều đáng lưu ý nữa là lượng tiền mặt với trị số đã lớn
nhưng năm 2001 lại tăng thêm 10.495 triệu VNĐ sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng
sinh lời của đồng vốn bởi vì đây là lượng tiền không có khả năng sinh lãi mà chỉ đáp
ứng những nhu cầu thanh toán bức thiết của xí nghiệp. Như vậy trong thời gian của xí
nghiệp tới cần có những tính toán cụ thể để làm giảm lượng tiền này xuống mức hợp lý nhất.
Hai là, vốn dự trữ chiếm tỉ trọngtương đối, năm 2000 là 256.751 triệu VNĐ
chiếm 30%, năm 2001 trị số tuyệt đối tăng lên 267.675 triệu VNĐ nhưng tỉ trọng
giảm 29% do tổng vốn lưu động năm 2001 tăng nhanh hơn. Tuy nhiên vốn lưu động
dự trữ không những nằm ở các yếu tố đầu vào mà còn cả ở các yếu tố đầu ra và trong
sản xuất . Vốn lưu động cho dự trữ này nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh diễn ra đều đặn và liên tục nhưng phải bảo đảm hợp lý bởi vì thừa hoặc thiếu
đều gây ra kết quả không tốt. Về tình hình vốn lưu động cho dự trữ ta có thể thấy ở biểu sau.
Biểu . Tình hình vốn lưu động cho dự trữ của xí nghiệp. Đơn vị :1.000.000 VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tỉ lệ Số tiền Tỉ lệ Số Tỉ lệ % % tiền % 1.Nguyên vật liệu 158.725 54.4 176.253 59 17.528 2. Công cụ lao động 98.026 33,6 91.422 30,8 -6.604 3. Chi phí SXKD 8.756 3 9.986 3,4 1.230 4. Thành phẩm, hàng 26.410 9 19.320 6,5 -7090 hoá Tổng cộng 291.917 100 296.981 100 5.064 1,7
Qua biểu trên ta thấy:Vốn lưu động dự trữ năm 2001 của xí nghiệp là 296.981
triệu VNĐ tăng so với năm 2000 là 291.917 triệu VNĐ hay 1,7%, sự biến động này do các nhân số sau:
- Nguyên vật liệu năm 2001 dự trữ tăng so với năm 2000 là 17.528 triệu VNĐ.
- Công cụ lao động năm 2000 dự trữ là 98.026 triệu VNĐ, năm 2001 là
91.422 giảm 6.604 triệu VNĐ.
- Chi phí sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng so với năm 2000 là 1.230 triệu VNĐ.
- Thành phẩm và hàng hoá giảm , có nghĩa là công tác tiêu thụ thành
phẩm và hàng hoá của xí nghiệp trong năm 2001 bị chậm lại, đặc biệt là thành
phẩm. Tuy nhiên điều này ảnh hưởng ít đến hoạt động kinh doanh của xí
nghiệp do số vốn dành cho thành phẩm và hàng hoá rất ít.
2.3.3. Tình hình bảo toàn vốn lưu động
Có lẽ bảo toàn vốn lưu động sẽ khó khăn hơn bảo toàn vốn cố định bởi chính sự
tham gia luân chuyển toàn bộ giá trị của vốn lưu động. Việc chu chuyển toàn bộ, một
lần của vốn lưu động qua nhiều hình thái khác nhau thường gây ra những biến đổi rắc
rối ảnh hưởng tới giá trị sức mua của đồng vốn khi thu về. Chính vì vậy mà đòi hỏi
trong công tác quản lý cũng như tính toán phải có những điểm khác so với bảo toàn
vốn cố định. Những đặc điểm này đã được Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chú ý trong
công tác bảo toàn vốn lưu động của mình, thể hiện trên biểu sau.
Biểu : Tình hình bảo toàn vốn lưu động của xí nghiệp . Đơn vị: 1.000.000 VNĐ Trong đó Chỉ tiêu Tổng số NSNN cấp Bổ sung
- Số vốn lưu động phải bảo toàn 854.421 68.786 785.635 năm 2000
- Số vốn lưu động phải bảo toàn 903.418 71.623 831.795 năm 2001 - Chênh lệch 48.997 2.837 46.160
Thông qua hệ số quy đổi và cách tính số vốn phải bảo toàn đầu kỳ và số vốn
phải bảo toàn cuối kỳ, thực tế cách xác định của xí nghiệp theo biến động tại thời
điểm năm 2001 tình hình bảo toàn VLĐ của xí nghiệp phản ánh ở biểu trên. Mặc
dù số thực tế đã bảo toàn tăng hơn so với số phải bảo toàn đầu năm. Trong kết quả
không bảo toàn được này có cả về phía NSNN và nguồn tự bổ sung, trong đó chủ
yếu là nguồn tự bổ sung chiếm tới hơn 68%.
2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
2.4.1. Tình hình sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
qua một số chỉ tiêu cơ bản.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của xí nghiệp
trong nền kinh tế thị trường. Do vậy để đạt tới lợi nhuận tối đa thì xí nghiệp phải
không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử
dụng vốn là bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh
doanh , đặc biệt khi mà xí nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng
vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên,
xí nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy
được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình
không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử
dụng vốn là bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh
doanh , đặc biệt khi mà xí nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng
vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên,
xí nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy
được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn
có, biết được mình đang ở cung đoạn nào trong quá trình phát triển , đang ở vị thế
cạnh tranh như thế nào với các doanh nghiệp khác... nhằm có biện pháp tăng cường
quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở kết
quả kinh doanh của xí nghiệp trong 2 năm trở lại đây sẽ cho ta thấy một số vấn đề:
a) Cơ cấu vốn 1.377.158
Năm 2000 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 61,7% 2.231.579
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 61,7% = 38,3% 1.512.920
Năm 2001 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 62,6% 2.416.338
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 62,6% = 37,4 %
Mặc dù trị số tuyệt đối của vốn cố định tăng liên tục trong 2năm qua nhưng tỉ
trọng vốn lưu động trong tổng số vốn lại có xu hướng giảm xuống bởi tổng số vốn
tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của vốn lưu động cồn vốn cố định thì ngược
lại. Tới năm 2001 thì cứ đầu tư 1 đồng vào vốn của xí nghiệp thì phải đầu tư 0,626
đồng vốn cố định còn vốn lưu động chiếm 0,374đồng. Tỉ trọng vốn cố định luôn gấp
khoảng trên 2lần tỉ trọng vốn lưu động cũng là thể hiện đặc thù của ngành kinh tế
Đường biển sản phẩm dịch vụ là chủ yếu.
b) Vòng quay toàn bộ vốn 6.375.921
Năm 2000 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 2,9 (vòng) 2.231.579 8.268.590
Năm 2001 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 3,4 (vòng) 2.416.338
Như vậy vòng quay toàn bộ vốn luôn tăng qua các năm. Năm 2000 Xí nghiệp bỏ
ra một đồng vốn thì thu được 2,98 đồng doanh thu, năm 2001 là 3,4 đồng doanh thu.
Vòng quay vốn tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp khá tốt nhưng năm 2001.
Vì vậy, qua việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta thấy Xí nghiệp vận
tải biển Vinafco đã có kết quả tương đối tốt trong 2 năm trở lại đây, thể hiện ở các
chỉ tiêu đánh giá luôn tăng. Tuy nhiên kết quả này sẽ trở lên không mấy thuyết phục
khi số vốn lưu động của chưa bảo toàn được. Như vậy 50
về thực chất nếu tính theo số vốn lưu động được bảo toàn thì hiệu quả sử dụng
vốn lưu động sẽ giảm xuống.
2.4.2.Đánh giá chung công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Xí
nghiệp vận tải biển Vinafco.
2.4.2.1.Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển
Vinafcotrong quản lý và sử dụng vốn.
Với chủ trương thành lập doanh nghiệp kinh doanh của Nhà nước, ngày
31/10/2000 Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã chính thức đi vào hoạt động. Sau 2
năm hoạt động, xí nghiệp đã gặt hái được những thành công có ý nghĩa.
Trong thời gian qua, trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định một cách khoa
học, thực tế đã roi sáng cho Xí nghiệp vận tải biển Vinafco tập trung vào xây dựng và
phát triển nhanh chóng đội tàu, khai thác hàng hoá, dịch vụ vận chuyển theo hướng
tiến lên hiện đại bằng cách tiếp cận ngay với khoa học, công nghệ và thị trường. Xuất
phát từ chiến lược đó, trong 2 năm qua bằng nguồn vốn vay và vốn tự bổ sung, Xí
nghiệp vận tải biển Vinafco đã mua tàu chở hàng hoá cỡ lớn, trọng tải hơn 4000 tấn ,
sức chở hơn 200 Teu với trang thiết bị hiện đại phù hợp tiêu chuẩn, làm thay đổi một
bước quan trọng cơ cấu của đội tàu biển Việt Nam. Hơn thế nữa, thực tiễn này còn
thể hiện khả năng nắm bắt thời cơ cũng như quyết định đầu tư, xu hướng đầu tư của
Xí nghiệp đang đi theo hướng đúng đắn.
Như vậy, tuy khó khăn chồng chất khó khăn trong việc tạo vốn, vay vốn cho
phát triển, nhưng với sự năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, Xí nghiệp
vận tải biển Vinafco đã nhanh chóng, kịp thời huy động vốn từ các nguồn khác nhau,
đặc biệt đã phát huy nội lực, tự chịu trách nhiệm vay vốn để đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục đều đặn. Trong
công tác huy động vốn xí nghiệp đã không quá phụ thuộc vào kế hoạch mà đã có
những biện pháp thay đổi cơ cấu vốn giữa các nguồn. Do vậy trong năm qua Xí
nghiệp vận tải biển Vinafco đã tạo được một số cơ sở vật chất vừa đáp ứng yêu cầu
khai thác hiện tại vừa đón hướng phát triển trong tương lai.
2.4.2.2. Những tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn
Bên cạnh những điều đã đạt được thì trong quản lý và sử dụng vốn Xí nghiệp
cũng có những tồn tại, thể hiện ở mấy điểm sau:
Một là, do việc sử dụng mua sắm tàu có trọng tải lớn nên dẫn đến việc sử dụng vốn cố định nhiều.
Hai là, trong công tác khấu hao, xí nghiệp áp dụng phương pháp trích khấu hao
cơ bản mà không trích khấu hao sửa chữa lớn là một hạn chế bởi vì khi chưa phát
sinh khấu hao sửa chữa lớn thì giá thành sản phẩm nhỏ hơn thực tế, khi có phát sinh
sửa chữa lớn thì nó sẽ làm giá thành tăng lên một cách giả tạo, không phản ánh đúng
tình hình thực tế, do đó cách tính này chưa sát thực.
Ba là, công tác lập kế hoạch vốn lưu động định mức chưa chính xác. Với cách
tính của xí nghiệp chỉ mang tính khái quát, cho phép nhanh chóng xác lập kế hoạch
để huy động vốn kịp thời. Song thực tế không tính được vốn định mức cho từng
khâu, điều này làm cho kế hoạch xác định vốn lưu động sai lệch, không phù hợp với thực tế.
Bốn là, cả trong cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định, tỉ lệ vốn chiếm dụng đã giữ
tỉ phần tương đối. Điều này làm giảm khả năng tài chính của doanh nghiệp, gây ảnh
hưởng đến quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả kinh doanh của xí nghiệp.
Năm là, việc bảo toàn vốn ở xí nghiệp chỉ tương đối, chưa cao .Những kết quả
này vừa thể hiện ảnh hưởng khách quan của nền kinh tế đến xí nghiệp vừa thể hiện
kết quả quản lý và sử dụng vốn cố định cũng như vốn lưu động chưa phát huy hết khả
năng, chưa huy động được tổng lực xí nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ
đến tính chân thực, đến các kết qủa kinh doanh khác của doanh nghiệp.
Sáu là, trong cơ cấu vốn lưu động thực tế đã ấn định lượng tiền mặt và khoản
phải thu chiếm tỉ lệ khá lớn. Kết quả này chứng tỏ việc quản lý tiền mặt và khoản
phải thu là chưa hợp lý.
2.4.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chịu sự tác
động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng. Việc phát huy tốt hay không công tác quản lý
và sử dụng vốn phụ thuộc nhiều, thậm chí đến mức quyết định bởi ảnh hưởng của
chính các nhân tố đó. Các nhân tố này bao gồm cả những nhân
tố khách quan lẫn nhân tố chủ quan, nguyên nhân thì bắt nguồn từ những nhân tố
khách quan, chủ quan có tác động tiêu cực.
Trước hết là những nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ nguyên tắc "tôn trọng
tối đa quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp Và trực
tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy lượng vốn cố
định Xí nghiệp bỏ ra mua sắm phương tiện vận tải quá lớn mà tời hạn thu hồi vốn kéo
dài nên việc quay nhanh vòng vốn Xí nghiệp là rất lâu.
Tiếp theo là những nguyên nhân khách quan: Khó khăn nhìn thấy đầu tiên là
tình hình suy thoái kinh tế trong khu vực và ảnh hưởng của đất nước. Do vậy việc tìm
kiếm nguồn vốn trong thời kỳ đang khát vốn lại càng trở lên khó khăn. Bên cạnh đó,
nhà nước vẫn duy trì duy trì nhiều quyết định về chế độ thu thuế, lệ phí, quản lý đầu
tư, bảo vệ thị trường không còn phù hợp với điều kiện thị trường và tính đặc thù riêng
của các hoạt động Đường biển, cũng chưa có một chính sách bảo vệ hợp lý như nhiều
nước khác trong khu vực, tạo điều kiện b ảo vệ thị trường Đường biển trong nước
chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng nước ngoài và giúp các doanh nghiệp
Đường biển Việt nam tái đầu tư phát triển sản xuất. Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Xuất phát từ những phân tích và đánh giá ở trên, Xí nghiệp vận tải biển
Vinafco có thể áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử
dụng vốn. Mỗi giải pháp tập trung vào một khía cạnh cụ thể và đều có thể phát huy
được vai trò tích cực của mình, tuy nhiên nên áp dụng các biện pháp một cách đồng
bộ, có hệ thống để cộng hưởng kết quả của chúng.
Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
I/ Những giải pháp cơ bản củaXí nghiệp vận tải biển Vinafco
1.1. Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong xí nghiệp.
Điều dám khẳng định đầu tiên là vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sản xuất
kinh doanh, không có vốn thì xí nghiệp không thể hoạt động nhưng quan trọng hơn
cả khi đã liên kết hình thành xí nghiệp độc lập của Công ty cổ phần Vinafco là vấn đề
điều hoà vốn. Điều hoà vốn là yêu cầu hết sức khách quan, trong quá trình điều hành
sản xuất kinh doanh luôn phải bố trí sắp xếp điều chỉnh lại tài sản, máy móc, thiết bị,
vật tư, tiền vốn, lao động... giữa các phòng ban và các đại diện của xí nghiệp cho phù
hợp với tình hình ở trong từng thời điểm cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả nhất
nhiệm vụ đặt ra cho xí nghiệp.Toàn bộ quá trình sắp xếp nêu trên suy cho cùng là sắp
xếp về vốn, như vậy muốn điều chỉnh máy móc thiết bị, hay lao động vật tư từ đơn vị
này sang đơn vị khác thì cơ chế vốn phải cho phép điều hoà thì kế hoạch điều phối tài
sản, vật tư, lao động mới có thể thực hiện được. Muốn vậy, xí nghiệp phải thực hiện
vai trò điều hoà vốn, không có cơ chế điều hoà vốn thì vai trò quan trọng trước hết
nêu trên của xí nghiệp sẽ trở lên vô hiệu.
Như thế, nếu xí nghiệp không phát huy vai trò điều hoà vốn của mình, không
giúp đỡ được các đơn vị thành viên và chính mình thì sẽ đi ngược lại logic tự nhiên.
Rõ ràng là xí nghiệp nhận vốn của Nhà nước và vốn của Công ty, do đó xí nghiệp
phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và công ty về hiệu quả sử dụng vốn. Trong
trường hợp quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả, hoặc bị mất mát hao hụt thì người
phải giải thích trước nhà nước và công ty về vấn đề này, đầu tiên phải là xí nghiệp.Xí
nghiệp đứng ra nhận vốn của nhà nước và
của Công ty chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. Việc phân công, phân cấp cụ
thể trong công tác quản lý vốn được giao là chuyện nội bộ của xí nghiệp, do xí
nghiệp quyết định. Trong việc phân cấp quản lý này, mức độ phân cấp cho các đơn vị
thành viên nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Tuy nhiên xí nghiệp phải giữ
quyền quyết định những vấn đề then chốt. Do vậy, nếu xí nghiệp chỉ thực hiện vay
quỹ phát triển sản xuất kinh doanh của ngân hàng (tức là phải trả cả gốc và lãi) chứ
không thực hiện điều hoà, không phát huy vai trò điều hoà thì xí nghiệp cần xem xét
lại, bởi lẽ xét đến cùng quỹ phát triển sản xuất của các xí nghiệp chính là bộ phận tích
luỹ chung mới được làm ra của xí nghiệp.
Do vậy giải pháp hợp lý ở đây là: Các doanh nghiệp của Công ty cổ phần
Vinafco trong đó có xí nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ được giữ laị một số phần quỹ
phát triển sản xuất kinh doanh, một phần phải đựơc tập trung về công ty. Điều này
hoàn toàn phù hợp với chủ trương phân định rõ ranh giới giữa quản lý Nhà nước và
quản lý kinh doanh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ nhiều năm nay.
Một vấn đề khác liên quan đến điều hoà vốn là doanh nghiệp thành viên hạch
toán độc lập trong của Công ty cổ phần Vinafco phải khác so vói doanh nghiệp hạch
toán độc lập đứng một mình. Một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình chỉ
hoạt động theo điều lệ của công ty đó, còn một doanh nghiệp trong tổ chức công ty
không những hoạt động theo điều lệ của công ty mà còn tuân thủ theo điều lệ của
công ty mà nó là thành viên. Mọi sự coi trọng quá mức đến tính độc lập của xí nghiệp
như một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình đều dẫn đến xem nhẹ vai trò
của công ty, mà đã là doanh nghiệp thành viên của công ty thì không còn được hoạt
động theo cơ chế như một doanh nghiệp hạch toán độc lập nữa. Có xác định rõ ràng
như vậy thì việc thực hiện vai trò điều hoà vốn của xí nghiệp trong công ty mới được
phát huy, tập trung được tiềm lực đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu. Nếu không phát
huy được vai trò đó, xí nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ còn là hình thức và trung gian.
1.2. Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định
Như chúng ta đã biết những năm qua công ty đã thực hiện trích khấu hao cơ bản
theo tỉ lệ quy định của Nhà nước. Với tỉ lệ này công ty phải mất một thời gian dài
mới thực hiện khấu hao hết tài sản cố định và thực hiện đổi mới
tài sản cố định. Làm như vậy là không thích hợp, nhất là trong gian đoạn hiện nay khi
khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, có nhiều máy móc mới ra đời, tài sản cố định
không những dễ bị hao mòn mà còn hao mòn rất nhanh chóng. Do vậy, để đảm bảo
có quỹ khấu hao đủ để thực hiện tái đầu tư tài sản cố định, nhanh chóng đổi mới thiết
bị, đưa kỹ thuật vào sản xuất thì trong trích khấu hao tài sản cố định cần tính đến các
yếu tố như: khoa học kỹ thuật, giá cả, xu hướng thị trường thì công ty nên theo
"phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần..." .
1.2.1. Cơ sở của phương pháp
Phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần dựa trên các cơ sở : Khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ, tài sản cố định dễ bị hao mòn vô hình. Để hạn chế hao mòn
vô hình trong thời gian sử dụng đòi hỏi phải khấu hao nhanh (trên cơ sở tận dụng tối
đa công suất máy móc thiết bị). Nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới trang thiết bị,
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, trên thị trường giá cả luôn biến
động, tài sản của xí nghiệp cũng chịu sự biến động này và đó chính là nguyên nhân
làm giảm giá trị của tài sản cố định. Do vậy cần tiến hành khấu hao nhanh để bảo toàn
vốn đã đầu tư vào tài sản cố định, đồng thời cũng phù hợp với thực tế là công suất làm
việc của máy móc thiết bị giảm dần theo thời gian.
1.2.2. Nội dung của phương pháp
Theo phương pháp này, trích khấu hao hàng năm dựa vào tỉ lệ khấu hao luỹ
thoái giảm dần so với nguyên giá tài sản cố định.
Tỉ lệ khấu hao giảm dần đựơc xác định theo công thức: 2 (T - t + 1) TK = t T(T + 1) Trong đó:
TKt : tỉ lệ khấu hao năm t
T: Tổng thời gian hoạt động máy móc
t: Số năm trích khấu hao (t = 1:T)
Ví dụ: Một máy có nguyên giá là 78.000.000 VNĐ, thời gian sử dụng là 6
năm, áp dụng công thức trên ta có tỉ lệ trích và mức trích khấu hao trong 6 năm sử dụng như sau:
Năm thứ nhất T = 6 , t = 1 , thay vào công thức ta có TK = 1 2 ( 6 - 1 + 1) 6 = 6 ( 6 + 1) 21 Mức trích khấu hao : =
6 x 621.000.000 = 18.000.000 VNĐ 21
Các năm còn lại được thể hiện qua biểu đồ dưới:
Biểu 16: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ quy định của Nhà nước Số năm trích (t) 1 2 3 4 5 6 Tổng Tỉ lệ khấu hao (TK) 6/21 5/21 4/21 3/21 2/21 1/21 21/21 Mức trích 18.00 16.00 14.00 12.000 10.00 8.000 78.000 0 0 0 0
1.2.3. áp dụng phương pháp này cho Xí nghiệp
Do việc mua sắm tài sản cố định của Xí nghiệp tại các thời điểm khác nhau có
nhiều loại khác nhau, vì thế Xí nghiệp cần áp dụng phương pháp khấu hao tỉ lệ giảm
dần tính cho từng loại tài sản cố định hoặc tài sản cố định mua cùng một đợt có chức năng tương tự nhau.
Nguyên giá của chiếc tàu: 65.750 triệu VNĐ
Theo công thức trên thì mức khấu hao trong các năm: 2000, 2001, của chiếc tàu này:
Biểu : Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ giảm dần Đơn vị : 1.000.000 VNĐ Số năm trích 1 2 3 4 5 Tổng Mức trích 17.72 15.43 13.15 10.863 8.575 65.750 5 7 0
Như vậy, nếu tính theo cách tính của đang áp dụng,với phương pháp tính mới,
sau 5 năm sử dụng xí nghiệp mới có thể thu hồi được vốn đầu tư cho chiếc tàu trên.
Điều này hạn chế được hao mòn vô hình và sự tác động của giá cả tới vốn cố định.
1.3. Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với
yêu cầu của khách hàng.
Đổi mới để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng luôn là vấn đề thường xuyên
đối với đội ngũ tàu của công ty. Trong khi đó, ngoài những chiếc tàu mà công ty đã
mua. Trong 2 năm hoạt động vừa qua, Xí nghiệp đã mua mới tàu có trọng tải lớn và
bán các tầu đã cũ và lạc hậu đápứng được với nhu cầu tất yếu của thị trường.
Tuy nhiên ở Việt Nam có khoảng 10 hãng được cấp giấy phép hoạt động trên
tuyến Bắc- nam và đang cạnh tranh quyết liệt, trên các tuyến nội địa Việt Nam mà
xưa nay vốn là vị trí độc tôn của các hãng tàu trong nước.Tình trạng như vậy xuất
pháp từ nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là trong nhiều năm qua chưa xây dựng được
một quy hoạch phát triển đội tàu hợp lý ở phạm vi quốc gia, đầu tư manh mún trên
một diện rộng và không kịp chủ động thay đổi cơ cấu đội tàu cho phù hợp với xu thế
phát triển công nghệ vận tải theo các phương thức mới trên thế giới mà suy cho cùng
là xu thế yêu cầu thực tế của khách hàng.
Khắc phục tình trạng đó, bước đi chiến lược cơ bản của Xí nghiệp là tập trung
xây dựng phát triển đội tàu, khai thác các khách hàng trọngđiểm làm việc có uy tín
với khách hàng và theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh, từng bước giành lại và tăng thêm thị phần, tiến tới chia sẻ thị phần của khu
vực. Để làm được điều này, Xí nghiệp cần chủ trương tận dụng cơ hội tạo ra những
đột khởi, trước hết phải ưu tiên tìm mọi cách hiện đại hoá ngay đội tàu chuyên dụng
container, bằng các phương thức mua, thuê mua và đóng mới.
Một là, đối với những con tàu thì giảm chi phí ,chi phí sửa chữa cũng quá cao
(bình quân một tàu hàng năm chi phí sửa chữa là 1 tỉ đến 1,5 tỉ VNĐ), không đảm bảo
an toàn trong qúa trình vận tải, dẫn đến giá thành cao và giá cước cũng tăng theo.
Trong khi đó trên thực tế giá cước đang ngày càng có xu
hướng giảm do khủng hoảng của ngành Đường biển Việt nam và trên thế giới.
Đây là một điều mà tự bản thân xí nghiệp thấy cần hạn chế và khác phục.
Hai là , xí nghiệp cũng cần có những biện pháp xây dựng kế hoạch lâu dài để
chăm sóc và tạo niềm tin tưởng cho khách hàng giúp họ tin tưởng vào xí nghiệp và
dịch vụ vận tải của xí nghiệp.
1.4. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn.
Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp
có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong tình hình chung đó, số vốn bị chiếm dụng của
xí nghiệp chiếm tỉ lệ không nhỏ chiếm khoảng 30%.
Lượng vốn bị chiếm dụng này không những không sinh lãi mà còn làm giảm
vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp. Do vậy cần thực
hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông.
Thứ nhất: Trước khi ký hợp đồng, Xí nghiệp cần nắm tình hình tín dụng của
các khách hàng về các mặt sau:
- Báo cáo tài chính: Xí nghiệp có thể đề nghị khách hàng cung cấp thông
tin tài chính như bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, một số tỉ lệ như lợi
nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
- Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng với các doanh
nghiệp khác để xem xét lịch sử thanh toán của doanh nghiệp với các khách
hàng khác, trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần gây rắc rối trong việc trả tiền...
- Quan hệ tín dụng với các ngân hàng của doanh nghiệp
Thứ hai: Là khi ký kết hợp đồng, Xí nghiệp cần thoả thuật trong hợp đồng có
phần phạt hành chính nếu khách hàng trả tiền chậm tuỳ vào giá trị lô hàng, thời gian
khách hàng trả chậm. Làm như vậy sẽ đảm bảo cả hai bên đều có trách nhiệm hơn
nữa trong vấn đề thanh toán của mình.
Thứ ba: Là khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, cả Xí nghiệp và khách hàng cần
phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm không để xảy ra tình trạng chi phí cho việc
giải quyết tranh chấp lớn hơn cả giá trị hợp đồng hoặc dễ