Sức mạnh thiểu số | Tâm lý học đại cương | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cung cấp nhiều môn học phong phú như Ngôn ngữ học đối chiếu, Phong cách học, Kinh tế học Vi mô, Lịch sử Việt Nam, Xã hội học, Tâm lý học, Văn hóa học và Ngữ văn Trung Quốc. Các môn học này giúp sinh viên phát triển kiến thức chuyên môn, kỹ năng phân tích và nghiên cứu, chuẩn bịa tốt cho công việc và nghiên cứu sau khi ra trường.

lOMoARcPSD| 40749825
Ảnh hưởng từ thiểu số: Sức mạnh của số ít
Các 11 thành viên còn lại của ban họp của "Mười Hai Người Đàn Ông Tức Giận" không
ngừng áp lực lên Thẩm phán số 8 để thay đổi quyết định của ông thành tội, nhưng ông từ
chối đầu hàng. Mặc bị áp lực từ các quyền lực tôn giáo, Galileo vẫn kiên quyết cho
rằng các hành tinh quay quanh Mặt Trời chứ không phải Trái Đất. Nhiều người trong
phong trào dân quyền vào những m 1960 ủng hộ việc sử dụng bạo lực, nếu cần thiết,
để vượt qua sự phân biệt đối xử phân biệt chủng tộc, nhưng Tiến Martin Luther
King Jr. đảm bảo rằng phong trào đạt được thành công thông qua việc áp dụng các
phương pháp phi bạo lực. Sigmund Freud đã tích cực phản đối những người chỉ trích
thuyết về m trí tiềm thức của ông cho đến khi được chấp nhận một cách khó khăn
bởi nhiều nhà tâm học. Nhạc Igor Stravinsky đã bị lên án một kẻ thất thoát âm
nhạc khi "Lễ Mùa Xuân" lần đầu được biểu diễn, nhưng ông từ chối thay đổi bất kỳ nốt
nào. Các ví dụ lịch sử này cho thấy rằng đa số không luôn luôn áp đảo những người phản
đối, bởi đôi khi đó thiểu số người ảnh hưởng đa số người bị ảnh ởng. Asch
đã phát hiện rằng đa số thể tạo ra sức ép mạnh có khả năng áp đảo thiểu số, nhưng
các nghiên cứu khác đã cho thấy rằng thiểu số có thể đối đầu bằng áp lực của riêng họ.
Lý thuyết chuyển đổi của ảnh hưởng từ thiểu số
Serge Moscovici và các đồng nghiệp của ông cũng nhấn mạnh sức mạnh của thiểu số.
Ông nhận định rằng trong thời gian dài, các nhà lý thuyết, nghiên cứu đã nhận định:
- Sự thay đổi xuất phát từ bên trong các hệ thống xã hội, không phải từ các yếu tố
bên ngoài
- Chiến thắng của đa số có tính dân chủ hơn so với thiểu số
- Sự đổi mới là kết quả sự tương tác trực tiếp của đa số - thiểu số, không phải gián
tiếp
Là sự ảnh hưởng của Mô hình ảnh hưởng xã hội bởi đa số (majority-rules model
of social influence)
thuyết chuyển đổi của Moscovici: sự phân tích khái niệm của các quá trình nhận
thức tương tác liên nhân, giúp giải thích cho các tác động trực tiếp gián tiếp của
nhóm thiểu số lên đa số.
Moscovici đưa ra lí thuyết chuyển đổi: Sự bất đồng nhóm -> Xung đột -> các thành viên
giải quyết để giảm xung đột (thay đổi quan điểm của người khác hoặc của chính mình)
(Moscovici, 1976, 1980, 1985)
lOMoARcPSD| 40749825
Lý thuyết chuyển đổi cho thấy rằng thiểu số ảnh hưởng theo một cách khác với đa số.
Nhóm thiểu số ảnh hưởng thông qua 1 quá trình xác nhận (validation process):
- Khi ai đó phá vỡ sự nhất trí của nhóm. Đa số sẽ chú ý tới hành vi, biểu hiện đáng
quan tâm của thiểu số
- Đa số không tin nhưng họ sẽ xem xét lại lập luận của họ
- Thông điệp của đa số ít hấp dẫn hơn so với thiểu số
- Quá trình so sánh: Họ sẽ nhìn nhận xem nhóm đa số đang vị trí nào kiểm tra
thông qua quan sát liệu họ trong nhóm đa số không. trong đa số thường
có lợi hơn so với thiếu số:
o Kiểm soát được nhiều tài nguyên hơn, thiểu số ít có tiếng nói hơn
o Con người dễ tuân theo theo quyết định của nhóm, tuân thủ này phản ánh
mong muốn được tham gia vào nhóm của con người, hơn là các phân tích
chuyên sâu về những lý lẽ của nhóm đa số về vị trí, quan điểm của họ
o Sự thay đổi này thường nông cạn và có thể biến mất khi thành viên rời nhóm
Ông khẳng định:
- Quá trình xác minh của thiểu số khởi xướng thường lâu hơn các quá trình so sánh
bởi sự ảnh hưởng của đa số.
- Kết quả của quá trình so sánh sẽ ảnh hưởng trực tiếp khi các thành viên tuân theo
1 cách công khai (public)
- Quá trình xác minh lại dẫn đến sự chấp nhận nhân (private), do đó thường
ý kiến thiểu số sẽ trở thành nguồn cơn đổi mới cho nhóm. Chúng làm lung lay
quan điểm của đa số thúc đẩy nhóm phải tìm kiếm thông tin mới về tình huống
họ gặp phải.
- Quá trình chuyển đổi tốn thời gian hơn quá trình tuân thủ và do đó sự ảnh hưởng
của thiểu số lên đa số cũng cần thời gian để xuất hiện
- Trong một số trường hợp, ảnh hưởng của thiểu số chỉ trở nên rõ ràng khi nhóm đã
hoàn thành những cân nhắc ban đầu và chuyển sang nhiệm vụ khác
Thực nghiệm của Mascovili:
lOMoARcPSD| 40749825
Sắp xếp 2 confederates vào nhóm 6 người sắp xếp 2 confederates bất đồng với ý kiến
số đông 1 cách hệ thống. Thí nghiệm đánh giá màu nói màu sắc độ sáng của
36 slide xanh lam.
1. Người 1 và người 2 nói xanh lá thay vì xanh lam
2. Người 1 và người 4 nói xanh lá thay vì xanh lam
Kết quả: Khi kiểm tra lại 1 mình, 1 người cho biết
0.25% tỉ lệ lỗi. Khi xuất hiện confederates nói xanh lá,
Tác động chậm của thiểu số với đa số:
2 trong số slide có màu xanh lá:
tỉ lệ là 8,4%.
Một thực nghiệm khác được thực hiện sau đó, những người trước đây đã tiếp xúc với
quan điểm của confederates nhiều khả ng gán cho các slide không ràng màu
xanh cây hơn u xanh lam, sự thiên vị này ràng hơn những thành viên
không thay đổi lựa chọn công khai của họ khi lần đầu tiên họ gặp thiểu số.
Thiểu số xu hướng tạo ra các thay đổi sâu sắc lâu dài trong thái độ nhận thức
khái quát hoá trong bối cảnh mới theo thời gian. Trong khi đa số nhiều khả năng
thu hút sự tuân thủ vốn bị giới hạn trong bối cảnh ảnh hưởng ban đầu.
(Hiểu thiểu số gây ảnh hưởng, tức tạo ra một bối cảnh mới, thì thời gian ảnh
hưởng tương đối chậm nhưng kết quả kéo dài hơn, trong khi đó, sự tuân theo nhóm đa số
sẽ bị dừng lại tình huống ban đầu, thể bị thuyết phục dễ hơn nếu những ý
tưởng chính xác hơn)
Dự đoán ảnh hưởng của thiểu số
Lý thuyết chuyển đổi của Moscovici bắt đầu như một ý kiến thiểu số bị nhiều nhà
nghiên cứu bác bỏ, nhưng cuối cùng nó đã chiến thắng ngay cả những thành viên cứng
đầu nhất của phe đối lập - xác nhận những dự đoán của chính lý thuyết này. Theo thời
gian, câu hỏi đã thay đổi từ “Các nhóm thiểu số có ảnh hưởng không?” đến “Khi nào
thiểu số có ảnh hưởng?
Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm thiểu số vừa phải kiên trì tranh luận và vừa phải giữ vị
trí của mình vẫn là một thành viên trong nhóm, thì theo thời gian, họ sẽ xoay chuyển
sự đồng lòng của nhóm sang hướng mà họ mong muốn (see Crano & Seyranian, 2007;
Martin & Hewstone, 2008, for reviews).
Tính kiên trì/nhất quán và sự ảnh hưởng:
lOMoARcPSD| 40749825
Trong “12 Angry Men”, Số 8 vẫn luôn kiên trì với quan điểm tội, bị số đông
gây áp lực. Dù ông không phải lúc nào cũng lẽ để thuyết phục, nhưng ông vẫn luôn
nhất quán trong việc bảo vệ quan điểm của mình.
Số ít mà nhất quán là số ít có thể gây ảnh hưởng. Khi điều chỉnh thí nghiệm của mình từ
các confederates trong các tất cả nhóm đều đưa ra nhận định sai là xanh lá, thành chỉ
2/3 các nhóm, Moscovici nhận ra tỷ lệ sai chỉ còn 1.25% - hầu như không gây được
ảnh hưởng (Moscovici và cộng sự, 1969; Moscovici & Personnaz, 1980)
Các nghiên cứu sau đó đã xác nhận tầm quan trọng của sự nhất quán trong hành vi đối
với nhóm thiểu số, nhưng cũng gợi ý rằng các nhóm thiểu số phải vượt qua ranh giới
giữa việc tỏ ra tự tin và vô lý. Thiểu số sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nếu như nhóm đa số
hiểu được tính nhất quán của thiểu số một cách tích cực (Wood và cộng sự, 1994) và
thiểu số đưa ra được những lý lẽ thuyết phục, rành mạch nhưng đối lập với quan điểm
của đa số (Clark, 1990).
Một số biểu hiện: Sự ảnh hưởng sẽ nhiều hơn khi họ biểu lộ sự tự tin về quan điểm
thông qua việc ngồi đầu bàn (Nemeth & Wachtler, 1974) hoặc bằng cách nhắc nhở nhóm
về kinh nghiệm của họ (Shackelford, Wood, & Worchel, 1996).
Thiểu số thành công đồng ý với những thỏa thuận nhỏ với đa số (Pérez & Mungy,
1996), hoặc tham gia vào cuộc trò chuyện nhỏ về các vấn đề không liên quan trước khi
tiết lộ quan điểm của họ (Dolinski, Nawrat, & Rudak, 2001).
lOMoARcPSD| 40749825
Nói chung, thiểu số có ảnh hưởng nhiều hơn khi họ được xem là những người chơi trong
đội, cam kết, có năng lực và tập trung vào nhóm (group-centered) (Levine & Russo,
1987).
Một thiểu số có ảnh hưởng cũng tránh được việc đe dọa đến tính toàn vẹn của chính
nhóm đó.
Nhiều nhóm s chấp nhận tranh luận và bất đồng, nhưng nếu sự bất đồng
quan điểm tạo ra sự chia rẽ sâu sắc trong nhóm thì đa số thể tìm cách để đè bẹp
thiểu số hoặc loại các thành viên của họ ra khỏi nhóm.
Nếu một nhóm chỉ là một tập hợp lỏng lẻo gồm các cá nhân không có nhận thức
rõ ràng về bản sắc thì các thành viên của “nhóm” này sẽ không cảm thấy bị đe dọa bởi sự
bất đồng.
Nhưng nếu thành viên có liên kết chặt chẽ với nhóm, họ sẽ cảm thấy bản sắc tập
thể (collective identity) đang bị đe doạ khi có người bất đồng ý kiến trong nhóm, nhiều
khả năng sẽ cảm thấy mất mát (sense of loss) khi các lập luận của thiểu số bắt đầu
được xem xét. Trong những trường hợp này, một cá nhân không trong nhóm có thể có
ảnh hưởng hơn là một thành viên.
Idiosyncrasy Credits (tạm dịch: điểm tín dụng cho hành vi đặc biệt)
Liệu việc anh ấy tuân thủ theo số đông rồi sau đó lại bất đồng chính kiến sẽ làm tăng hay
giảm sự ảnh hưởng của anh ta?
Edwin Hallander (1971) đã đưa ra một khái niệm là Idiosyncrasy Credits giải thích rằng
nhóm thi thoảng thể hiện sự khoan hồng với các thành viên có địa vị cao (high status)
bị vi phạm các chuẩn mực của nhóm, credit sẽ giả định nhận được qua mỗi lần đóng góp
và giảm đi mỗi lần mắc lỗi, vi phạm chuẩn mực nhóm.
Khái niệm này giải thích phản ứng tích cực của nhóm đối với thiểu số ban đầu thể hiện
sự tuân thủ (conformity) nhưng sau đó lại bất đồng chính kiến.
Theo Hallander, credit này “những ấn tượng tích cực về một người nhưng được sử
dụng bởi người khác, thể hiện hữu trong nhóm nhỏ hay các thực thể hội lớn
hơn như tổ chức, xã hội”.
Điểm tín dụng này thường được tích luỹ thông qua quá trình tương tác liên nhân khi
thành viên đóng góp vào quá trình đạt mục tiêu của nhóm. Bởi các thành viên địa vị
cao thường đóng góp nhiều trong quá khứ và có những đặc điểm cá nhân có giá trị hơn
lOMoARcPSD| 40749825
nên họ có nhiều điểm hơn. Do đó, khi họ mắc lỗi, họ sẽ dễ được các thành viên khác
chấp nhận hơn, và ngược lại với người có điểm thấp.
Mô hình sử dụng credit này, với hỗ trợ từ thực nghiệm, cho thấy mức độ ảnh hưởng
trong nhóm tăng lên nhờ tuân thủ các quy tắc nhóm (norms) vào giai đoạn đầu hình
thành nhóm, theo sau đó là bất đồng chính kiến khi đã thiết lập đủ lượng credit.
(ban đầu các thành viên tạo ra nhóm và các quy chuẩn, mọi người sẽ tuân theo các quy
chuẩn đó nhưng theo thời gian, một số người sẽ vi phạm như trễ họp, quên làm bài, khi
credit ở 1 lượng nhất định, có thể là bằng hoặc chênh lệch, các cá nhân sẽ có những chính
kiến riêng của mình và lúc này dựa trên chênh lệch credit, nhóm có thể lựa chọn bỏ qua hay
không, lượng credit này có thể ảnh hưởng tới sự chấp nhận lỗi sai của nhóm)
So sánh lý thuyết của Mascovici và Hallander
Lời khuyên về sự tuân thủ sớm (early conformity) của Hallander tương phản ở múc
độ nào đó với những khuyến nghị liên quan tới sự kiên trì trong việc không tuân thủ
của Mascovici (consistent nonconformity).
- Hallander cảnh báo rằng những người bất đồng chính kiến nếu không đạt được địa
vị cao từ trước, thách thức số đông sẽ bị họ áp đảo lại.
- Moscovici thì cho rằng sự kiên trì không tuân thủ sẽ mang lại sự thay đổi và cấp
tiến.
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm với 2 chiến thuật trên:
Nhóm thiểu số 1 sẽ xây dựng credit của mình thông qua việc đồng ý với 2 vấn đề,
những họ phản đối ở vấn đề thứ 3. Nhóm thiểu số 2 thì xây dựng tính nhất quán bằng
cách không đồng ý với cả 3 vấn đề.
Kết quả là cả 2 nhóm đều có sức ảnh hưởng, những thiểu số đã xây dựng credit có
ảnh hưởng nhiều hơn, trong nhóm toàn nam giới all-male groups (Bray, Johnson, &
Chilstrom, 1982).
Sự chăm chút của những người phản đối
Một yếu tố thú vị của sự ảnh hưởng độc đáo từ thiểu số là nằm trong chất lượng của lập
luận của họ.
Những người biết rằng họ thành viên của đa số trong một vấn đề cảm thấy ít áp lực
để diễn đạt ý kiến của họ một cách rõ ràng, vì họ mong đợi rằng, có số lượng ủng hộ, họ
có khả năng sẽ chiến thắng.
lOMoARcPSD| 40749825
Nhưng cá nhân nắm giữ quan điểm thiểu số cảm nhận mạnh mẽ hơn nhu cầu phải xây
dựng những thông điệp thuyết phục. Không đồng tình với người khác không phải là
tình huống mà hầu hết mọi người tìm thấy vui vẻ, và vì vậy ít người bước vào tình thế
này mà không xem xét sức mạnh của lập luận của họ và tính hợp lý của nó. Thiểu số có
khả năng đã bỏ nhiều suy nghĩ hơn vào vấn đề và do đó họ có khả năng sẵn sàng một
sự bảo vệ mạnh mẽ hơn cho quan điểm của họ (Guinote, Brown, & Fiske, 2006).
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm kỹ năng tranh luận tăng cường của thiểu số bằng cách
yêu cầu cá nhân đọc về một trường hợp y khoa gây tranh cãi và sau đó quyết định liệu họ
ủng hộ quyết định của bác sĩ trong vụ việc đó hay không. Trước khi có cơ hội gặp gỡ
người khác để thảo luận về vụ việc, người tham gia được thông báo rằng họ đồng tình
hoặc không đồng tình với đa số của nhóm. Những người được phân vào tình trạng của đa
số được thông báo rằng 78% người khác đồng tình với họ, và những người ở tình trạng
của thiểu số được tin rằng chỉ có 22% chia sẻ quan điểm của họ. Sau đó, người tham gia
được yêu cầu viết lý lẽ và lý do ủng hộ quan điểm của họ. Các nhà nghiên cứu sau đó đưa
những lập luận viết này cho các người đánh giá để đánh giá thông điệp về tính sáng tạo
và sức mạnh. Như dự kiến, "thiểu số" đã tạo ra những lập luận tốt hơn so với những
người ở "đa số" (Kenworthy và đồng nghiệp, 2008). Trong một nghiên cứu liên quan, các
nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng những người biết rằng họ sẽ tranh luận chống lại quan
điểm của đa số đã chuẩn bị một cách cẩn thận hơn cho cuộc gặp gỡ của họ (Van Hiel &
Franssen, 2003).
Quy tắc quyết định và sự phản đối
Thẩm phán số 8 đối diện với một tình huống khó khăn - ông một mình không đồng tình
với tất cả mọi người trong nhóm - nhưng một khía cạnh của tình huống nhóm đã giúp
ông ứng phó: quy tắc quyết định của nhóm. Luật yêu cầu nhóm hoạt động dưới quy tắc
đồng lòng (rule of unanimity), có nghĩa là tất cả các thành viên của nhóm phải đồng
tình về quyết định trước khi vấn đề được đóng lại. Nếu một nhóm hoạt động dưới quy tắc
đồng lòng, thì thiểu số một mình có nhiều quyền lực hơn đối với những người khác.
Nhưng nếu nhóm áp dụng quy trình quyết định dựa trên đa s, thì đa số có thể đưa ra
quyết định của họ mà không cần xem xét tính hợp lệ của quan điểm của thiểu số
(Thompson, Mannix, & Bazerman, 1988). Quy tắc đồng lòng giúp thiểu số, và quy trình
quyết định dựa trên đa số có lợi cho đa số.
lOMoARcPSD| 40749825
Khi nhóm dựa vào quy tắc đa số để đưa ra quyết định, đa số hình thành một liên minh để
chặn thiểu số. Tuy nhiên, động cơ cá nhân của các thành viên trong nhóm đã điều chỉnh
xu hướng ngăn cản này một cách đáng kể, vì các hiệu ứng có hại của quy tắc quyết định
của nhóm chỉ xảy ra khi các thành viên có động cơ tối đa hóa kết quả cá nhân của họ
thay vì kết quả của cả nhóm (Ten Velden, Beersma & De Dreu, 2007).
Hiệu ứng có hại của quy tắc đồng lòng: Xảy ra khi nhu cầu nêu lên ý kiến quá cao
Quy tắc đồng lòng
Đa số
Thiểu số
Mục tiêu cá nhân
Cố gắng thuyết phục,
Không có lợi thế số lượng
không lắng nghe thiểu số,
Lý lẽ khó thuyết phục hơn
cảm thấy bị kìm kẹp ý kiến,
vì mục tiêu cá nhân không
mất thời gian, gây xung đột
giúp cho nhóm (điều mà số
đông hướng tới)
Mục tiêu nhóm
Dễ áp đảo hơn do lợi thế số
Bị áp đặt, không được lắng
lượng và chỉ cần tập trung
nghe và ủng hộ, nhưng có
vì mục tiêu nhóm =>
thể đạt được nếu lập luận
Không cần tìm quá nhiều
vững chắc và thảo luận tập
cách để thuyết phục
trung vào lợi ích nhóm hơn
Cần sự đồng lòng nên mất
thời gian và cảm thấy b
kìm hãm
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đồng lòng, cho dù xuất hiện sự phân chia đa
số - thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược
điểm chung là mất thời gian, dễ gây tranh cãi, xung đột, tuỳ vào mục đích mà việc
được lắng nghe hay bị áp đặt có sự khác nhau và cần có lý lẽ thuyết phục vững
chắc. Điểm mạnh là quy tắc này giúp tạo ra sự đồng thuận chung, giúp nhóm thiểu
số có thể nêu lên ý kiến
Quy tắc đa số
Đa số
Thiểu số
Mục tiêu cá nhân cao
Dễ đạt được mục đích do
Không được lắng nghe
lợi thế số lượng và quy tắc
Có thể chia rẽ nhóm
Gây ra sự mất đoàn kết
Mục tiêu nhóm cao
Dễ đạt được mục đích do
Không được lắng nghe
lợi thế số lượng và quy tắc
Bị áp đặt, mất tự do
Có thể khả năng thuyết
Có thể thuyết phục nếu
lOMoARcPSD| 40749825
phục tốt hơn do số lượng
lẽ tốt+phục vụ cho nhóm
và mục đích
Có thể cảm thấy bị chia rẽ
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đa số, cho dù xuất hiện sự phân chia đa số -
thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược
điểm chung là quyền lực nằm trong tay đa số, nhóm thiểu số thường không được
lắng nghe và dễ cảm thấy chia rẽ.
Lý thuyết Tác động xã hội (năng) động
Tại sao các thành viên của hội đồng "12 Angry Men" ban đầu bỏ phiếu 11-1 ủng hộ một
quyết định kết tội? Và tại sao họ sau đó thay đổi quyết định của họ theo thời gian? Từ
góc nhìn của đa số, sự thay đổi xảy ra khi các thành viên của nhóm nhận ra sự khôn
ngoan của quyết định tập thể và tuân theo lựa chọn của nó. Từ góc nhìn của thiểu số, sự
thay đổi xảy ra khi đa số xem xét lại và có thể điều chỉnh lại quan điểm của họ. Nhưng
sự thay đổi trong các nhóm thực tế là một quá trình tương tác lẫn nhau - đa số ảnh hưởng
đến thiểu số, và thiểu số ảnh hưởng đến đa số.
Lý thuyết tác động xã hội (năng) động, được đề xuất bởi Bibb Latané và đồng nghiệp của
ông, mô tả các quá trình đứng sau sự trao đổi này giữa đa số và thiểu số. Lý thuyết tác động
xã hội cho rằng sự ảnh hưởng được xác định bởi sức mạnh, tính tức thời và số lượng nguồn
có mặt. Lý thuyết tác động xã hội động động mở rộng nguyên tắc cơ bản này bằng cách mô
tả cách các nhóm, như các hệ thống phức tạp, thay đổi theo thời gian. Các nhóm không phải
là cố định, mà luôn tổ chức và tổ chức lại trong bốn khuôn mẫu (pattern) cơ bản: hợp nhất,
phân tán, tương quan và đa dạng liên tục (Harton & Bullock, 2007; Latané, 1996, 1997;
Latané & Bourgeois, 1996, 2001; Vallacher & Nowak, 2007).
Trong phần 4 khuôn mẫu này, ta sẽ sử dụng 1 nghiên cứu của Helen Harton và cộng
sự (1993) đã mô tả khá rõ về cả 4 khuôn mẫu trong các nhóm sinh viên.
lOMoARcPSD| 40749825
1. Sự hợp nhất (consolidation): Khi các cá nhân tương tác với nhau thường xuyên,
hành động, thái độ và ý kiến của họ trở nên thống nhất hơn. Ý kiến của đa số
trong nhóm có xu hướng lan rộng khắp nhóm và thiểu số ngày càng thu hẹp về
quy mô và sự đa dạng.
a. Ví dụ: Trong nghiên cứu của Harton, họ hỏi các sinh viên câu hỏi trắc
nhiệm 2 lần: 1 lần tự trả lời; và 1 lần sau khi thảo luận với 2 người bên
lOMoARcPSD| 40749825
cạnh. Kết quả: Trước khi thảo luận, 17/30 chọn câu trả lời sai. Sau
khi thảo luận, 22/30 chọn câu trả lời sai, bao gồm 3 sinh viên trả lời
đúng từ trước. Tỉ lệ đa số thay đổi từ 57% lên 73%.
b. Hình 1: Sự đa dạng (D) thường có xu hướng giảm, cho thấy ý kiến đa số
tăng dần. Bảng 1: Độ đa dạng ban đầu (D0) =.88, độ đa dạng lúc sau
(D1) = .82
2. Sự phân cụm (Clustering): Các cá nhân bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những
người gần gũi nhất của họ, do đó trong nhóm sẽ phân thành cụm những người có
cùng quan điểm. Sự phân cụm thường xảy ra khi các thành viên thường xuyên liên
lạc hoặc thay đổi vị trí để gia nhập cụm.
a. Cả bảng và hình đều cho thấy sự phân cụm đều rất rõ ràng sau khi
thảo luận.
3. Sự tương quan (Correlation): Sự tương đồng về ý kiến theo thời gian của các
thành viên trong nhóm về các vấn đề khác nhau, dù chưa được thảo luận rộng
rãi. Thành viên trong cụm (cluster) cũng có xu hướng đưa ra câu trả lời giống
nhau cho những vấn đề mới
a. dụ: Trong bảng nghiên cứu, thể thấy chỉ số V association (sự
hợp tác) trước sau khi thảo luận xu ớng tăng lên. Nghĩa sự
tương quan trong câu trả lời của thành viên tăng lên.
b. câu trả lời của cụm gần giống nhau qua thời gian
4. Sự đa dạng liên tục (continuing diversity): Do sự phân nhóm, nhóm thiểu số
thường được bảo vệ khỏi sự ảnh hưởng của đa số, và niềm tin của thiểu số vẫn
tiếp tục tồn tại, từ đó tạo nên sự đa dạng. Sự đa dạng này sẽ tiếp tục nếu thiểu số
tiếp tục liên kết và chống lại ảnh hưởng của đa số, ngược lại đa dạng sẽ giảm nếu
đa số quá đông và thiểu số liên kết yếu.
a. Về số liệu có thể thấy, dù qua thời gian và ảnh hưởng, các nhóm vẫn không
có sự nhất trí (độ đa dạng (D) câu trả lời vẫn cao). Một số cá nhân từ chối
lOMoARcPSD| 40749825
thay đổi câu trả lời của mình, mặc dù không có ai khác đồng ý với họ
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40749825
Ảnh hưởng từ thiểu số: Sức mạnh của số ít
Các 11 thành viên còn lại của ban họp của "Mười Hai Người Đàn Ông Tức Giận" không
ngừng áp lực lên Thẩm phán số 8 để thay đổi quyết định của ông thành tội, nhưng ông từ
chối đầu hàng. Mặc dù bị áp lực từ các quyền lực tôn giáo, Galileo vẫn kiên quyết cho
rằng các hành tinh quay quanh Mặt Trời chứ không phải Trái Đất. Nhiều người trong
phong trào dân quyền vào những năm 1960 ủng hộ việc sử dụng bạo lực, nếu cần thiết,
để vượt qua sự phân biệt đối xử và phân biệt chủng tộc, nhưng Tiến sĩ Martin Luther
King Jr. đảm bảo rằng phong trào đạt được thành công thông qua việc áp dụng các
phương pháp phi bạo lực. Sigmund Freud đã tích cực phản đối những người chỉ trích lý
thuyết về tâm trí tiềm thức của ông cho đến khi nó được chấp nhận một cách khó khăn
bởi nhiều nhà tâm lý học. Nhạc sĩ Igor Stravinsky đã bị lên án là một kẻ thất thoát âm
nhạc khi "Lễ Mùa Xuân" lần đầu được biểu diễn, nhưng ông từ chối thay đổi bất kỳ nốt
nào. Các ví dụ lịch sử này cho thấy rằng đa số không luôn luôn áp đảo những người phản
đối, bởi đôi khi đó là thiểu số là người ảnh hưởng và đa số là người bị ảnh hưởng. Asch
đã phát hiện rằng đa số có thể tạo ra sức ép mạnh và có khả năng áp đảo thiểu số, nhưng
các nghiên cứu khác đã cho thấy rằng thiểu số có thể đối đầu bằng áp lực của riêng họ.
Lý thuyết chuyển đổi của ảnh hưởng từ thiểu số
Serge Moscovici và các đồng nghiệp của ông cũng nhấn mạnh sức mạnh của thiểu số.
Ông nhận định rằng trong thời gian dài, các nhà lý thuyết, nghiên cứu đã nhận định:
- Sự thay đổi xuất phát từ bên trong các hệ thống xã hội, không phải từ các yếu tố bên ngoài
- Chiến thắng của đa số có tính dân chủ hơn so với thiểu số
- Sự đổi mới là kết quả sự tương tác trực tiếp của đa số - thiểu số, không phải gián tiếp
Là sự ảnh hưởng của Mô hình ảnh hưởng xã hội bởi đa số (majority-rules model of social influence)
Lý thuyết chuyển đổi của Moscovici: Là sự phân tích khái niệm của các quá trình nhận
thức và tương tác liên cá nhân, giúp giải thích cho các tác động trực tiếp và gián tiếp của
nhóm thiểu số lên đa số.
Moscovici đưa ra lí thuyết chuyển đổi: Sự bất đồng nhóm -> Xung đột -> các thành viên
giải quyết để giảm xung đột (thay đổi quan điểm của người khác hoặc của chính mình) (Moscovici, 1976, 1980, 1985) lOMoAR cPSD| 40749825
Lý thuyết chuyển đổi cho thấy rằng thiểu số ảnh hưởng theo một cách khác với đa số.
Nhóm thiểu số ảnh hưởng thông qua 1 quá trình xác nhận (validation process):
- Khi ai đó phá vỡ sự nhất trí của nhóm. Đa số sẽ chú ý tới hành vi, biểu hiện đáng quan tâm của thiểu số
- Đa số không tin nhưng họ sẽ xem xét lại lập luận của họ
- Thông điệp của đa số ít hấp dẫn hơn so với thiểu số
- Quá trình so sánh: Họ sẽ nhìn nhận xem nhóm đa số đang ở vị trí nào và kiểm tra
thông qua quan sát liệu họ có ở trong nhóm đa số không. Vì ở trong đa số thường
có lợi hơn so với thiếu số:
o Kiểm soát được nhiều tài nguyên hơn, thiểu số ít có tiếng nói hơn
o Con người dễ tuân theo theo quyết định của nhóm, tuân thủ này phản ánh
mong muốn được tham gia vào nhóm của con người, hơn là các phân tích
chuyên sâu về những lý lẽ của nhóm đa số về vị trí, quan điểm của họ
o Sự thay đổi này thường nông cạn và có thể biến mất khi thành viên rời nhóm Ông khẳng định:
- Quá trình xác minh của thiểu số khởi xướng thường lâu hơn các quá trình so sánh
bởi sự ảnh hưởng của đa số.
- Kết quả của quá trình so sánh sẽ ảnh hưởng trực tiếp khi các thành viên tuân theo 1 cách công khai (public)
- Quá trình xác minh lại dẫn đến sự chấp nhận cá nhân (private), do đó thường
ý kiến thiểu số sẽ trở thành nguồn cơn đổi mới cho nhóm. Chúng làm lung lay
quan điểm của đa số và thúc đẩy nhóm phải tìm kiếm thông tin mới về tình huống họ gặp phải.
- Quá trình chuyển đổi tốn thời gian hơn quá trình tuân thủ và do đó sự ảnh hưởng
của thiểu số lên đa số cũng cần thời gian để xuất hiện
- Trong một số trường hợp, ảnh hưởng của thiểu số chỉ trở nên rõ ràng khi nhóm đã
hoàn thành những cân nhắc ban đầu và chuyển sang nhiệm vụ khác
Thực nghiệm của Mascovili: lOMoAR cPSD| 40749825
Sắp xếp 2 confederates vào nhóm 6 người và sắp xếp 2 confederates bất đồng với ý kiến
số đông 1 cách có hệ thống. Thí nghiệm đánh giá màu và nói rõ màu sắc và độ sáng của 36 slide xanh lam.
1. Người 1 và người 2 nói xanh lá thay vì xanh lam
2. Người 1 và người 4 nói xanh lá thay vì xanh lam
Kết quả: Khi kiểm tra lại 1 mình, 1 người cho biết 2 trong số slide có màu xanh lá:
0.25% tỉ lệ lỗi. Khi xuất hiện confederates nói xanh lá, tỉ lệ là 8,4%.
Tác động chậm của thiểu số với đa số:
Một thực nghiệm khác được thực hiện sau đó, những người trước đây đã tiếp xúc với
quan điểm của confederates có nhiều khả năng gán cho các slide không rõ ràng là màu
xanh lá cây hơn là màu xanh lam, và sự thiên vị này rõ ràng hơn ở những thành viên
không thay đổi lựa chọn công khai của họ khi lần đầu tiên họ gặp thiểu số.
Thiểu số có xu hướng tạo ra các thay đổi sâu sắc và lâu dài trong thái độ và nhận thức
khái quát hoá trong bối cảnh mới và theo thời gian. Trong khi đa số có nhiều khả năng
thu hút sự tuân thủ vốn bị giới hạn trong bối cảnh ảnh hưởng ban đầu.
(Hiểu là thiểu số gây ảnh hưởng, tức tạo ra một bối cảnh mới, thì thời gian ảnh
hưởng tương đối chậm nhưng kết quả kéo dài hơn, trong khi đó, sự tuân theo nhóm đa số
sẽ bị dừng lại ở tình huống ban đầu, và có thể bị thuyết phục dễ hơn nếu có những ý
tưởng chính xác hơn)

Dự đoán ảnh hưởng của thiểu số
Lý thuyết chuyển đổi của Moscovici bắt đầu như một ý kiến thiểu số bị nhiều nhà
nghiên cứu bác bỏ, nhưng cuối cùng nó đã chiến thắng ngay cả những thành viên cứng
đầu nhất của phe đối lập - xác nhận những dự đoán của chính lý thuyết này. Theo thời
gian, câu hỏi đã thay đổi từ “Các nhóm thiểu số có ảnh hưởng không?” đến “Khi nào
thiểu số có ảnh hưởng?

Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm thiểu số vừa phải kiên trì tranh luận và vừa phải giữ vị
trí của mình vẫn là một thành viên
trong nhóm, thì theo thời gian, họ sẽ xoay chuyển
sự đồng lòng của nhóm sang hướng mà họ mong muốn (see Crano & Seyranian, 2007;
Martin & Hewstone, 2008, for reviews).
Tính kiên trì/nhất quán và sự ảnh hưởng: lOMoAR cPSD| 40749825
Trong “12 Angry Men”, Số 8 vẫn luôn kiên trì với quan điểm vô tội, dù có bị số đông
gây áp lực. Dù ông không phải lúc nào cũng có lí lẽ để thuyết phục, nhưng ông vẫn luôn
nhất quán trong việc bảo vệ quan điểm của mình.
Số ít mà nhất quán là số ít có thể gây ảnh hưởng. Khi điều chỉnh thí nghiệm của mình từ
các confederates trong các tất cả nhóm đều đưa ra nhận định sai là xanh lá, thành chỉ
2/3 các nhóm, Moscovici nhận ra tỷ lệ sai chỉ còn 1.25% - hầu như không gây được
ảnh hưởng (Moscovici và cộng sự, 1969; Moscovici & Personnaz, 1980)
Các nghiên cứu sau đó đã xác nhận tầm quan trọng của sự nhất quán trong hành vi đối
với nhóm thiểu số, nhưng cũng gợi ý rằng các nhóm thiểu số phải vượt qua ranh giới
giữa việc tỏ ra tự tin và vô lý. Thiểu số sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nếu như nhóm đa số
hiểu được tính nhất quán của thiểu số một cách tích cực (Wood và cộng sự, 1994) và
thiểu số đưa ra được những lý lẽ thuyết phục, rành mạch nhưng đối lập với quan điểm của đa số (Clark, 1990).
Một số biểu hiện: Sự ảnh hưởng sẽ nhiều hơn khi họ biểu lộ sự tự tin về quan điểm
thông qua việc ngồi đầu bàn (Nemeth & Wachtler, 1974) hoặc bằng cách nhắc nhở nhóm
về kinh nghiệm của họ (Shackelford, Wood, & Worchel, 1996).
Thiểu số thành công đồng ý với những thỏa thuận nhỏ với đa số (Pérez & Mungy,
1996), hoặc tham gia vào cuộc trò chuyện nhỏ về các vấn đề không liên quan trước khi
tiết lộ quan điểm của họ (Dolinski, Nawrat, & Rudak, 2001). lOMoAR cPSD| 40749825
Nói chung, thiểu số có ảnh hưởng nhiều hơn khi họ được xem là những người chơi trong
đội, cam kết, có năng lực và tập trung vào nhóm (group-centered) (Levine & Russo, 1987).
Một thiểu số có ảnh hưởng cũng tránh được việc đe dọa đến tính toàn vẹn của chính nhóm đó.
Nhiều nhóm sẽ chấp nhận tranh luận và bất đồng, nhưng nếu sự bất đồng
quan điểm tạo ra sự chia rẽ sâu sắc trong nhóm thì đa số có thể tìm cách để đè bẹp
thiểu số hoặc loại các thành viên của họ ra khỏi nhóm.
Nếu một nhóm chỉ là một tập hợp lỏng lẻo gồm các cá nhân không có nhận thức
rõ ràng về bản sắc thì các thành viên của “nhóm” này sẽ không cảm thấy bị đe dọa bởi sự bất đồng.
Nhưng nếu thành viên có liên kết chặt chẽ với nhóm, họ sẽ cảm thấy bản sắc tập
thể (collective identity) đang bị đe doạ khi có người bất đồng ý kiến trong nhóm, nhiều
khả năng sẽ cảm thấy mất mát (sense of loss) khi các lập luận của thiểu số bắt đầu
được xem xét. Trong những trường hợp này, một cá nhân không trong nhóm có thể có
ảnh hưởng hơn là một thành viên.
Idiosyncrasy Credits (tạm dịch: điểm tín dụng cho hành vi đặc biệt)
Liệu việc anh ấy tuân thủ theo số đông rồi sau đó lại bất đồng chính kiến sẽ làm tăng hay
giảm sự ảnh hưởng của anh ta?
Edwin Hallander (1971) đã đưa ra một khái niệm là Idiosyncrasy Credits giải thích rằng
nhóm thi thoảng thể hiện sự khoan hồng với các thành viên có địa vị cao (high status)
bị vi phạm các chuẩn mực của nhóm, credit sẽ giả định nhận được qua mỗi lần đóng góp
và giảm đi mỗi lần mắc lỗi, vi phạm chuẩn mực nhóm.
Khái niệm này giải thích phản ứng tích cực của nhóm đối với thiểu số ban đầu thể hiện
sự tuân thủ (conformity) nhưng sau đó lại bất đồng chính kiến.
Theo Hallander, credit này là “những ấn tượng tích cực về một người nhưng được sử
dụng bởi người khác, có thể hiện hữu trong nhóm nhỏ hay các thực thể xã hội lớn
hơn như tổ chức, xã hội”.
Điểm tín dụng này thường được tích luỹ thông qua quá trình tương tác liên cá nhân – khi
thành viên đóng góp vào quá trình đạt mục tiêu của nhóm. Bởi vì các thành viên có địa vị
cao thường đóng góp nhiều trong quá khứ và có những đặc điểm cá nhân có giá trị hơn lOMoAR cPSD| 40749825
nên họ có nhiều điểm hơn. Do đó, khi họ mắc lỗi, họ sẽ dễ được các thành viên khác
chấp nhận hơn, và ngược lại với người có điểm thấp.
Mô hình sử dụng credit này, với hỗ trợ từ thực nghiệm, cho thấy mức độ ảnh hưởng
trong nhóm tăng lên nhờ tuân thủ các quy tắc nhóm (norms) vào giai đoạn đầu hình
thành nhóm, theo sau đó là bất đồng chính kiến khi đã thiết lập đủ lượng credit.
(ban đầu các thành viên tạo ra nhóm và các quy chuẩn, mọi người sẽ tuân theo các quy
chuẩn đó nhưng theo thời gian, một số người sẽ vi phạm như trễ họp, quên làm bài, khi
credit ở 1 lượng nhất định, có thể là bằng hoặc chênh lệch, các cá nhân sẽ có những chính
kiến riêng của mình và lúc này dựa trên chênh lệch credit, nhóm có thể lựa chọn bỏ qua hay
không, lượng credit này có thể ảnh hưởng tới sự chấp nhận lỗi sai của nhóm)

So sánh lý thuyết của Mascovici và Hallander
Lời khuyên về sự tuân thủ sớm (early conformity) của Hallander tương phản ở múc
độ nào đó với những khuyến nghị liên quan tới sự kiên trì trong việc không tuân thủ
của Mascovici (consistent nonconformity).
- Hallander cảnh báo rằng những người bất đồng chính kiến nếu không đạt được địa
vị cao từ trước, thách thức số đông sẽ bị họ áp đảo lại.
- Moscovici thì cho rằng sự kiên trì không tuân thủ sẽ mang lại sự thay đổi và cấp tiến.
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm với 2 chiến thuật trên:
Nhóm thiểu số 1 sẽ xây dựng credit của mình thông qua việc đồng ý với 2 vấn đề,
những họ phản đối ở vấn đề thứ 3. Nhóm thiểu số 2 thì xây dựng tính nhất quán bằng
cách không đồng ý với cả 3 vấn đề.
Kết quả là cả 2 nhóm đều có sức ảnh hưởng, những thiểu số đã xây dựng credit có
ảnh hưởng nhiều hơn, trong nhóm toàn nam giới all-male groups (Bray, Johnson, & Chilstrom, 1982).
Sự chăm chút của những người phản đối
Một yếu tố thú vị của sự ảnh hưởng độc đáo từ thiểu số là nằm trong chất lượng của lập luận của họ.
Những người biết rằng họ là thành viên của đa số trong một vấn đề cảm thấy ít áp lực
để diễn đạt ý kiến của họ một cách rõ ràng, vì họ mong đợi rằng, có số lượng ủng hộ, họ
có khả năng sẽ chiến thắng. lOMoAR cPSD| 40749825
Nhưng cá nhân nắm giữ quan điểm thiểu số cảm nhận mạnh mẽ hơn nhu cầu phải xây
dựng những thông điệp thuyết phục
. Không đồng tình với người khác không phải là
tình huống mà hầu hết mọi người tìm thấy vui vẻ, và vì vậy ít người bước vào tình thế
này mà không xem xét sức mạnh của lập luận của họ và tính hợp lý của nó. Thiểu số có
khả năng đã bỏ nhiều suy nghĩ hơn vào vấn đề và do đó họ có khả năng sẵn sàng một
sự bảo vệ mạnh mẽ hơn cho quan điểm của họ (Guinote, Brown, & Fiske, 2006).
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm kỹ năng tranh luận tăng cường của thiểu số bằng cách
yêu cầu cá nhân đọc về một trường hợp y khoa gây tranh cãi và sau đó quyết định liệu họ
ủng hộ quyết định của bác sĩ trong vụ việc đó hay không. Trước khi có cơ hội gặp gỡ
người khác để thảo luận về vụ việc, người tham gia được thông báo rằng họ đồng tình
hoặc không đồng tình với đa số của nhóm. Những người được phân vào tình trạng của đa
số được thông báo rằng 78% người khác đồng tình với họ, và những người ở tình trạng
của thiểu số được tin rằng chỉ có 22% chia sẻ quan điểm của họ. Sau đó, người tham gia
được yêu cầu viết lý lẽ và lý do ủng hộ quan điểm của họ. Các nhà nghiên cứu sau đó đưa
những lập luận viết này cho các người đánh giá để đánh giá thông điệp về tính sáng tạo
và sức mạnh. Như dự kiến, "thiểu số" đã tạo ra những lập luận tốt hơn so với những
người ở "đa số" (Kenworthy và đồng nghiệp, 2008). Trong một nghiên cứu liên quan, các
nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng những người biết rằng họ sẽ tranh luận chống lại quan
điểm của đa số đã chuẩn bị một cách cẩn thận hơn cho cuộc gặp gỡ của họ (Van Hiel & Franssen, 2003).
Quy tắc quyết định và sự phản đối
Thẩm phán số 8 đối diện với một tình huống khó khăn - ông một mình không đồng tình
với tất cả mọi người trong nhóm - nhưng một khía cạnh của tình huống nhóm đã giúp
ông ứng phó: quy tắc quyết định của nhóm. Luật yêu cầu nhóm hoạt động dưới quy tắc
đồng lòng (rule of unanimity)
, có nghĩa là tất cả các thành viên của nhóm phải đồng
tình về quyết định trước khi vấn đề được đóng lại. Nếu một nhóm hoạt động dưới quy tắc
đồng lòng, thì thiểu số một mình có nhiều quyền lực hơn đối với những người khác.
Nhưng nếu nhóm áp dụng quy trình quyết định dựa trên đa số, thì đa số có thể đưa ra
quyết định của họ mà không cần xem xét tính hợp lệ của quan điểm của thiểu số
(Thompson, Mannix, & Bazerman, 1988). Quy tắc đồng lòng giúp thiểu số, và quy trình
quyết định dựa trên đa số có lợi cho đa số. lOMoAR cPSD| 40749825
Khi nhóm dựa vào quy tắc đa số để đưa ra quyết định, đa số hình thành một liên minh để
chặn thiểu số. Tuy nhiên, động cơ cá nhân của các thành viên trong nhóm đã điều chỉnh
xu hướng ngăn cản này một cách đáng kể, vì các hiệu ứng có hại của quy tắc quyết định
của nhóm chỉ xảy ra khi các thành viên có động cơ tối đa hóa kết quả cá nhân của họ
thay vì kết quả của cả nhóm (Ten Velden, Beersma & De Dreu, 2007).
Hiệu ứng có hại của quy tắc đồng lòng: Xảy ra khi nhu cầu nêu lên ý kiến quá cao Quy tắc đồng lòng Đa số Thiểu số Mục tiêu cá nhân Cố gắng thuyết phục,
Không có lợi thế số lượng
không lắng nghe thiểu số,
Lý lẽ khó thuyết phục hơn
cảm thấy bị kìm kẹp ý kiến, vì mục tiêu cá nhân không
mất thời gian, gây xung đột giúp cho nhóm (điều mà số đông hướng tới) Mục tiêu nhóm
Dễ áp đảo hơn do lợi thế số Bị áp đặt, không được lắng
lượng và chỉ cần tập trung
nghe và ủng hộ, nhưng có vì mục tiêu nhóm =>
thể đạt được nếu lập luận
Không cần tìm quá nhiều
vững chắc và thảo luận tập cách để thuyết phục
trung vào lợi ích nhóm hơn
Cần sự đồng lòng nên mất
thời gian và cảm thấy bị kìm hãm
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đồng lòng, cho dù xuất hiện sự phân chia đa
số - thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược
điểm chung là mất thời gian, dễ gây tranh cãi, xung đột, tuỳ vào mục đích mà việc
được lắng nghe hay bị áp đặt có sự khác nhau và cần có lý lẽ thuyết phục vững
chắc. Điểm mạnh là quy tắc này giúp tạo ra sự đồng thuận chung, giúp nhóm thiểu
số có thể nêu lên ý kiến Quy tắc đa số Đa số Thiểu số Mục tiêu cá nhân cao
Dễ đạt được mục đích do Không được lắng nghe
lợi thế số lượng và quy tắc Có thể chia rẽ nhóm
Gây ra sự mất đoàn kết Mục tiêu nhóm cao
Dễ đạt được mục đích do Không được lắng nghe
lợi thế số lượng và quy tắc Bị áp đặt, mất tự do
Có thể khả năng thuyết
Có thể thuyết phục nếu lý lOMoAR cPSD| 40749825
phục tốt hơn do số lượng
lẽ tốt+phục vụ cho nhóm và mục đích
Có thể cảm thấy bị chia rẽ
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đa số, cho dù xuất hiện sự phân chia đa số -
thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược
điểm chung là quyền lực nằm trong tay đa số, nhóm thiểu số thường không được
lắng nghe và dễ cảm thấy chia rẽ.
Lý thuyết Tác động xã hội (năng) động
Tại sao các thành viên của hội đồng "12 Angry Men" ban đầu bỏ phiếu 11-1 ủng hộ một
quyết định kết tội? Và tại sao họ sau đó thay đổi quyết định của họ theo thời gian? Từ
góc nhìn của đa số, sự thay đổi xảy ra khi các thành viên của nhóm nhận ra sự khôn
ngoan của quyết định tập thể và tuân theo lựa chọn của nó. Từ góc nhìn của thiểu số, sự
thay đổi xảy ra khi đa số xem xét lại và có thể điều chỉnh lại quan điểm của họ. Nhưng
sự thay đổi trong các nhóm thực tế là một quá trình tương tác lẫn nhau - đa số ảnh hưởng
đến thiểu số, và thiểu số ảnh hưởng đến đa số.
Lý thuyết tác động xã hội (năng) động, được đề xuất bởi Bibb Latané và đồng nghiệp của
ông, mô tả các quá trình đứng sau sự trao đổi này giữa đa số và thiểu số. Lý thuyết tác động
xã hội cho rằng sự ảnh hưởng được xác định bởi sức mạnh, tính tức thời và số lượng nguồn
có mặt. Lý thuyết tác động xã hội động động mở rộng nguyên tắc cơ bản này bằng cách mô
tả cách các nhóm, như các hệ thống phức tạp, thay đổi theo thời gian. Các nhóm không phải
là cố định, mà luôn tổ chức và tổ chức lại trong bốn khuôn mẫu (pattern) cơ bản: hợp nhất,
phân tán, tương quan và đa dạng liên tục (Harton & Bullock, 2007; Latané, 1996, 1997;
Latané & Bourgeois, 1996, 2001; Vallacher & Nowak, 2007).
Trong phần 4 khuôn mẫu này, ta sẽ sử dụng 1 nghiên cứu của Helen Harton và cộng
sự (1993) đã mô tả khá rõ về cả 4 khuôn mẫu trong các nhóm sinh viên. lOMoAR cPSD| 40749825
1. Sự hợp nhất (consolidation): Khi các cá nhân tương tác với nhau thường xuyên,
hành động, thái độ và ý kiến của họ trở nên thống nhất hơn. Ý kiến của đa số
trong nhóm có xu hướng lan rộng khắp nhóm và thiểu số ngày càng thu hẹp về quy mô và sự đa dạng.
a. Ví dụ: Trong nghiên cứu của Harton, họ hỏi các sinh viên câu hỏi trắc
nhiệm 2 lần: 1 lần tự trả lời; và 1 lần sau khi thảo luận với 2 người bên lOMoAR cPSD| 40749825
cạnh. Kết quả: Trước khi thảo luận, có 17/30 chọn câu trả lời sai. Sau
khi thảo luận, 22/30 chọn câu trả lời sai, bao gồm 3 sinh viên trả lời
đúng từ trước. Tỉ lệ đa số thay đổi từ 57% lên 73%.
b. Hình 1: Sự đa dạng (D) thường có xu hướng giảm, cho thấy ý kiến đa số
tăng dần. Bảng 1: Độ đa dạng ban đầu (D0) =.88, độ đa dạng lúc sau (D1) = .82
2. Sự phân cụm (Clustering): Các cá nhân bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những
người gần gũi nhất của họ, do đó trong nhóm sẽ phân thành cụm những người có
cùng quan điểm. Sự phân cụm thường xảy ra khi các thành viên thường xuyên liên
lạc hoặc thay đổi vị trí để gia nhập cụm.
a. Cả bảng và hình đều cho thấy sự phân cụm đều rất rõ ràng sau khi thảo luận.
3. Sự tương quan (Correlation): Sự tương đồng về ý kiến theo thời gian của các
thành viên trong nhóm về các vấn đề khác nhau, dù chưa được thảo luận rộng
rãi. Thành viên trong cụm (cluster) cũng có xu hướng đưa ra câu trả lời giống
nhau cho những vấn đề mới
a. Ví dụ: Trong bảng nghiên cứu, có thể thấy chỉ số V association (sự
hợp tác) trước và sau khi thảo luận có xu hướng tăng lên. Nghĩa là sự
tương quan trong câu trả lời của thành viên tăng lên.
b. câu trả lời của cụm gần giống nhau qua thời gian
4. Sự đa dạng liên tục (continuing diversity): Do sự phân nhóm, nhóm thiểu số
thường được bảo vệ khỏi sự ảnh hưởng của đa số, và niềm tin của thiểu số vẫn
tiếp tục tồn tại, từ đó tạo nên sự đa dạng. Sự đa dạng này sẽ tiếp tục nếu thiểu số
tiếp tục liên kết và chống lại ảnh hưởng của đa số, ngược lại đa dạng sẽ giảm nếu
đa số quá đông và thiểu số liên kết yếu.
a. Về số liệu có thể thấy, dù qua thời gian và ảnh hưởng, các nhóm vẫn không
có sự nhất trí (độ đa dạng (D) câu trả lời vẫn cao). Một số cá nhân từ chối lOMoAR cPSD| 40749825
thay đổi câu trả lời của mình, mặc dù không có ai khác đồng ý với họ