










Preview text:
  lOMoAR cPSD| 40749825             
Ảnh hưởng từ thiểu số: Sức mạnh của số ít   
Các 11 thành viên còn lại của ban họp của "Mười Hai Người Đàn Ông Tức Giận" không 
ngừng áp lực lên Thẩm phán số 8 để thay đổi quyết định của ông thành tội, nhưng ông từ 
chối đầu hàng. Mặc dù bị áp lực từ các quyền lực tôn giáo, Galileo vẫn kiên quyết cho 
rằng các hành tinh quay quanh Mặt Trời chứ không phải Trái Đất. Nhiều người trong 
phong trào dân quyền vào những năm 1960 ủng hộ việc sử dụng bạo lực, nếu cần thiết, 
để vượt qua sự phân biệt đối xử và phân biệt chủng tộc, nhưng Tiến sĩ Martin Luther 
King Jr. đảm bảo rằng phong trào đạt được thành công thông qua việc áp dụng các 
phương pháp phi bạo lực. Sigmund Freud đã tích cực phản đối những người chỉ trích lý 
thuyết về tâm trí tiềm thức của ông cho đến khi nó được chấp nhận một cách khó khăn 
bởi nhiều nhà tâm lý học. Nhạc sĩ Igor Stravinsky đã bị lên án là một kẻ thất thoát âm 
nhạc khi "Lễ Mùa Xuân" lần đầu được biểu diễn, nhưng ông từ chối thay đổi bất kỳ nốt 
nào. Các ví dụ lịch sử này cho thấy rằng đa số không luôn luôn áp đảo những người phản 
đối, bởi đôi khi đó là thiểu số là người ảnh hưởng và đa số là người bị ảnh hưởng. Asch 
đã phát hiện rằng đa số có thể tạo ra sức ép mạnh và có khả năng áp đảo thiểu số, nhưng 
các nghiên cứu khác đã cho thấy rằng thiểu số có thể đối đầu bằng áp lực của riêng họ.   
Lý thuyết chuyển đổi của ảnh hưởng từ thiểu số   
Serge Moscovici và các đồng nghiệp của ông cũng nhấn mạnh sức mạnh của thiểu số.   
Ông nhận định rằng trong thời gian dài, các nhà lý thuyết, nghiên cứu đã nhận định:   
- Sự thay đổi xuất phát từ bên trong các hệ thống xã hội, không phải từ các yếu tố  bên ngoài   
- Chiến thắng của đa số có tính dân chủ hơn so với thiểu số   
- Sự đổi mới là kết quả sự tương tác trực tiếp của đa số - thiểu số, không phải gián    tiếp   
Là sự ảnh hưởng của Mô hình ảnh hưởng xã hội bởi đa số (majority-rules model  of social influence)   
Lý thuyết chuyển đổi của Moscovici: Là sự phân tích khái niệm của các quá trình nhận 
thức và tương tác liên cá nhân, giúp giải thích cho các tác động trực tiếp và gián tiếp của 
nhóm thiểu số lên đa số.   
Moscovici đưa ra lí thuyết chuyển đổi: Sự bất đồng nhóm -> Xung đột -> các thành viên 
giải quyết để giảm xung đột (thay đổi quan điểm của người khác hoặc của chính mình)  (Moscovici, 1976, 1980, 1985)                    lOMoAR cPSD| 40749825                   
Lý thuyết chuyển đổi cho thấy rằng thiểu số ảnh hưởng theo một cách khác với đa số.   
Nhóm thiểu số ảnh hưởng thông qua 1 quá trình xác nhận (validation process):   
- Khi ai đó phá vỡ sự nhất trí của nhóm. Đa số sẽ chú ý tới hành vi, biểu hiện đáng  quan tâm của thiểu số   
- Đa số không tin nhưng họ sẽ xem xét lại lập luận của họ   
- Thông điệp của đa số ít hấp dẫn hơn so với thiểu số   
- Quá trình so sánh: Họ sẽ nhìn nhận xem nhóm đa số đang ở vị trí nào và kiểm tra 
thông qua quan sát liệu họ có ở trong nhóm đa số không. Vì ở trong đa số thường 
có lợi hơn so với thiếu số: 
o Kiểm soát được nhiều tài nguyên hơn, thiểu số ít có tiếng nói hơn   
o Con người dễ tuân theo theo quyết định của nhóm, tuân thủ này phản ánh 
mong muốn được tham gia vào nhóm của con người, hơn là các phân tích 
chuyên sâu về những lý lẽ của nhóm đa số về vị trí, quan điểm của họ   
o Sự thay đổi này thường nông cạn và có thể biến mất khi thành viên rời nhóm        Ông khẳng định:   
- Quá trình xác minh của thiểu số khởi xướng thường lâu hơn các quá trình so sánh 
bởi sự ảnh hưởng của đa số.   
- Kết quả của quá trình so sánh sẽ ảnh hưởng trực tiếp khi các thành viên tuân theo  1 cách công khai (public)   
- Quá trình xác minh lại dẫn đến sự chấp nhận cá nhân (private), do đó thường 
ý kiến thiểu số sẽ trở thành nguồn cơn đổi mới cho nhóm. Chúng làm lung lay 
quan điểm của đa số và thúc đẩy nhóm phải tìm kiếm thông tin mới về tình huống  họ gặp phải.   
- Quá trình chuyển đổi tốn thời gian hơn quá trình tuân thủ và do đó sự ảnh hưởng 
của thiểu số lên đa số cũng cần thời gian để xuất hiện   
- Trong một số trường hợp, ảnh hưởng của thiểu số chỉ trở nên rõ ràng khi nhóm đã 
hoàn thành những cân nhắc ban đầu và chuyển sang nhiệm vụ khác   
Thực nghiệm của Mascovili:                            lOMoAR cPSD| 40749825               
Sắp xếp 2 confederates vào nhóm 6 người và sắp xếp 2 confederates bất đồng với ý kiến 
số đông 1 cách có hệ thống. Thí nghiệm đánh giá màu và nói rõ màu sắc và độ sáng của  36 slide xanh lam.   
1. Người 1 và người 2 nói xanh lá thay vì xanh lam   
2. Người 1 và người 4 nói xanh lá thay vì xanh lam     
Kết quả: Khi kiểm tra lại 1 mình, 1 người cho biết 2 trong số slide có màu xanh lá:   
0.25% tỉ lệ lỗi. Khi xuất hiện confederates nói xanh lá,  tỉ lệ là 8,4%.   
Tác động chậm của thiểu số với đa số:   
Một thực nghiệm khác được thực hiện sau đó, những người trước đây đã tiếp xúc với 
quan điểm của confederates có nhiều khả năng gán cho các slide không rõ ràng là màu 
xanh lá cây hơn là màu xanh lam, và sự thiên vị này rõ ràng hơn ở những thành viên 
không thay đổi lựa chọn công khai của họ khi lần đầu tiên họ gặp thiểu số.   
Thiểu số có xu hướng tạo ra các thay đổi sâu sắc và lâu dài trong thái độ và nhận thức 
khái quát hoá trong bối cảnh mới và theo thời gian. Trong khi đa số có nhiều khả năng 
thu hút sự tuân thủ vốn bị giới hạn trong bối cảnh ảnh hưởng ban đầu.   
(Hiểu là thiểu số gây ảnh hưởng, tức tạo ra một bối cảnh mới, thì thời gian ảnh 
hưởng tương đối chậm nhưng kết quả kéo dài hơn, trong khi đó, sự tuân theo nhóm đa số 
sẽ bị dừng lại ở tình huống ban đầu, và có thể bị thuyết phục dễ hơn nếu có những ý 
tưởng chính xác hơn)   
Dự đoán ảnh hưởng của thiểu số   
Lý thuyết chuyển đổi của Moscovici bắt đầu như một ý kiến thiểu số bị nhiều nhà 
nghiên cứu bác bỏ, nhưng cuối cùng nó đã chiến thắng ngay cả những thành viên cứng 
đầu nhất của phe đối lập - xác nhận những dự đoán của chính lý thuyết này. Theo thời 
gian, câu hỏi đã thay đổi từ “Các nhóm thiểu số có ảnh hưởng không?” đến “Khi nào 
thiểu số có ảnh hưởng?”   
Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm thiểu số vừa phải kiên trì tranh luận và vừa phải giữ vị 
trí của mình vẫn là một thành viên trong nhóm, thì theo thời gian, họ sẽ xoay chuyển 
sự đồng lòng của nhóm sang hướng mà họ mong muốn (see Crano & Seyranian, 2007; 
Martin & Hewstone, 2008, for reviews).   
Tính kiên trì/nhất quán và sự ảnh hưởng:                      lOMoAR cPSD| 40749825               
Trong “12 Angry Men”, Số 8 vẫn luôn kiên trì với quan điểm vô tội, dù có bị số đông 
gây áp lực. Dù ông không phải lúc nào cũng có lí lẽ để thuyết phục, nhưng ông vẫn luôn 
nhất quán trong việc bảo vệ quan điểm của mình.   
Số ít mà nhất quán là số ít có thể gây ảnh hưởng. Khi điều chỉnh thí nghiệm của mình từ 
các confederates trong các tất cả nhóm đều đưa ra nhận định sai là xanh lá, thành chỉ 
2/3 các nhóm, Moscovici nhận ra tỷ lệ sai chỉ còn 1.25% - hầu như không gây được 
ảnh hưởng (Moscovici và cộng sự, 1969; Moscovici & Personnaz, 1980)                                                 
Các nghiên cứu sau đó đã xác nhận tầm quan trọng của sự nhất quán trong hành vi đối 
với nhóm thiểu số, nhưng cũng gợi ý rằng các nhóm thiểu số phải vượt qua ranh giới 
giữa việc tỏ ra tự tin và vô lý. Thiểu số sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nếu như nhóm đa số 
hiểu được tính nhất quán của thiểu số một cách tích cực (Wood và cộng sự, 1994) và 
thiểu số đưa ra được những lý lẽ thuyết phục, rành mạch nhưng đối lập với quan điểm  của đa số (Clark, 1990).   
Một số biểu hiện: Sự ảnh hưởng sẽ nhiều hơn khi họ biểu lộ sự tự tin về quan điểm 
thông qua việc ngồi đầu bàn (Nemeth & Wachtler, 1974) hoặc bằng cách nhắc nhở nhóm 
về kinh nghiệm của họ (Shackelford, Wood, & Worchel, 1996).   
Thiểu số thành công đồng ý với những thỏa thuận nhỏ với đa số (Pérez & Mungy, 
1996), hoặc tham gia vào cuộc trò chuyện nhỏ về các vấn đề không liên quan trước khi 
tiết lộ quan điểm của họ (Dolinski, Nawrat, & Rudak, 2001).                          lOMoAR cPSD| 40749825               
Nói chung, thiểu số có ảnh hưởng nhiều hơn khi họ được xem là những người chơi trong 
đội, cam kết, có năng lực và tập trung vào nhóm (group-centered) (Levine & Russo,  1987).   
Một thiểu số có ảnh hưởng cũng tránh được việc đe dọa đến tính toàn vẹn của chính  nhóm đó.   
Nhiều nhóm sẽ chấp nhận tranh luận và bất đồng, nhưng nếu sự bất đồng 
quan điểm tạo ra sự chia rẽ sâu sắc trong nhóm thì đa số có thể tìm cách để đè bẹp 
thiểu số hoặc loại các thành viên của họ ra khỏi nhóm.   
Nếu một nhóm chỉ là một tập hợp lỏng lẻo gồm các cá nhân không có nhận thức 
rõ ràng về bản sắc thì các thành viên của “nhóm” này sẽ không cảm thấy bị đe dọa bởi sự  bất đồng.   
Nhưng nếu thành viên có liên kết chặt chẽ với nhóm, họ sẽ cảm thấy bản sắc tập 
thể (collective identity) đang bị đe doạ khi có người bất đồng ý kiến trong nhóm, nhiều 
khả năng sẽ cảm thấy mất mát (sense of loss) khi các lập luận của thiểu số bắt đầu 
được xem xét. Trong những trường hợp này, một cá nhân không trong nhóm có thể có 
ảnh hưởng hơn là một thành viên.   
Idiosyncrasy Credits (tạm dịch: điểm tín dụng cho hành vi đặc biệt)   
Liệu việc anh ấy tuân thủ theo số đông rồi sau đó lại bất đồng chính kiến sẽ làm tăng hay 
giảm sự ảnh hưởng của anh ta?   
Edwin Hallander (1971) đã đưa ra một khái niệm là Idiosyncrasy Credits giải thích rằng 
nhóm thi thoảng thể hiện sự khoan hồng với các thành viên có địa vị cao (high status) 
bị vi phạm các chuẩn mực của nhóm, credit sẽ giả định nhận được qua mỗi lần đóng góp 
và giảm đi mỗi lần mắc lỗi, vi phạm chuẩn mực nhóm.   
Khái niệm này giải thích phản ứng tích cực của nhóm đối với thiểu số ban đầu thể hiện 
sự tuân thủ (conformity) nhưng sau đó lại bất đồng chính kiến.   
Theo Hallander, credit này là “những ấn tượng tích cực về một người nhưng được sử 
dụng bởi người khác, có thể hiện hữu trong nhóm nhỏ hay các thực thể xã hội lớn 
hơn như tổ chức, xã hội”.   
Điểm tín dụng này thường được tích luỹ thông qua quá trình tương tác liên cá nhân – khi 
thành viên đóng góp vào quá trình đạt mục tiêu của nhóm. Bởi vì các thành viên có địa vị 
cao thường đóng góp nhiều trong quá khứ và có những đặc điểm cá nhân có giá trị hơn                lOMoAR cPSD| 40749825               
nên họ có nhiều điểm hơn. Do đó, khi họ mắc lỗi, họ sẽ dễ được các thành viên khác 
chấp nhận hơn, và ngược lại với người có điểm thấp.   
Mô hình sử dụng credit này, với hỗ trợ từ thực nghiệm, cho thấy mức độ ảnh hưởng 
trong nhóm tăng lên nhờ tuân thủ các quy tắc nhóm (norms) vào giai đoạn đầu hình 
thành nhóm, theo sau đó là bất đồng chính kiến khi đã thiết lập đủ lượng credit.   
(ban đầu các thành viên tạo ra nhóm và các quy chuẩn, mọi người sẽ tuân theo các quy 
chuẩn đó nhưng theo thời gian, một số người sẽ vi phạm như trễ họp, quên làm bài, khi 
credit ở 1 lượng nhất định, có thể là bằng hoặc chênh lệch, các cá nhân sẽ có những chính 
kiến riêng của mình và lúc này dựa trên chênh lệch credit, nhóm có thể lựa chọn bỏ qua hay 
không, lượng credit này có thể ảnh hưởng tới sự chấp nhận lỗi sai của nhóm)   
So sánh lý thuyết của Mascovici và Hallander   
Lời khuyên về sự tuân thủ sớm (early conformity) của Hallander tương phản ở múc 
độ nào đó với những khuyến nghị liên quan tới sự kiên trì trong việc không tuân thủ 
của Mascovici (consistent nonconformity).   
- Hallander cảnh báo rằng những người bất đồng chính kiến nếu không đạt được địa 
vị cao từ trước, thách thức số đông sẽ bị họ áp đảo lại.   
- Moscovici thì cho rằng sự kiên trì không tuân thủ sẽ mang lại sự thay đổi và cấp  tiến.   
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm với 2 chiến thuật trên:   
Nhóm thiểu số 1 sẽ xây dựng credit của mình thông qua việc đồng ý với 2 vấn đề, 
những họ phản đối ở vấn đề thứ 3. Nhóm thiểu số 2 thì xây dựng tính nhất quán bằng 
cách không đồng ý với cả 3 vấn đề.   
Kết quả là cả 2 nhóm đều có sức ảnh hưởng, những thiểu số đã xây dựng credit có 
ảnh hưởng nhiều hơn, trong nhóm toàn nam giới all-male groups (Bray, Johnson, &  Chilstrom, 1982).   
Sự chăm chút của những người phản đối   
Một yếu tố thú vị của sự ảnh hưởng độc đáo từ thiểu số là nằm trong chất lượng của lập    luận của họ.   
Những người biết rằng họ là thành viên của đa số trong một vấn đề cảm thấy ít áp lực 
để diễn đạt ý kiến của họ một cách rõ ràng, vì họ mong đợi rằng, có số lượng ủng hộ, họ 
có khả năng sẽ chiến thắng.                lOMoAR cPSD| 40749825               
Nhưng cá nhân nắm giữ quan điểm thiểu số cảm nhận mạnh mẽ hơn nhu cầu phải xây 
dựng những thông điệp thuyết phục. Không đồng tình với người khác không phải là 
tình huống mà hầu hết mọi người tìm thấy vui vẻ, và vì vậy ít người bước vào tình thế 
này mà không xem xét sức mạnh của lập luận của họ và tính hợp lý của nó. Thiểu số có 
khả năng đã bỏ nhiều suy nghĩ hơn vào vấn đề và do đó họ có khả năng sẵn sàng một 
sự bảo vệ mạnh mẽ hơn cho quan điểm của họ (Guinote, Brown, & Fiske, 2006).       
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm kỹ năng tranh luận tăng cường của thiểu số bằng cách 
yêu cầu cá nhân đọc về một trường hợp y khoa gây tranh cãi và sau đó quyết định liệu họ 
ủng hộ quyết định của bác sĩ trong vụ việc đó hay không. Trước khi có cơ hội gặp gỡ 
người khác để thảo luận về vụ việc, người tham gia được thông báo rằng họ đồng tình 
hoặc không đồng tình với đa số của nhóm. Những người được phân vào tình trạng của đa 
số được thông báo rằng 78% người khác đồng tình với họ, và những người ở tình trạng 
của thiểu số được tin rằng chỉ có 22% chia sẻ quan điểm của họ. Sau đó, người tham gia 
được yêu cầu viết lý lẽ và lý do ủng hộ quan điểm của họ. Các nhà nghiên cứu sau đó đưa 
những lập luận viết này cho các người đánh giá để đánh giá thông điệp về tính sáng tạo 
và sức mạnh. Như dự kiến, "thiểu số" đã tạo ra những lập luận tốt hơn so với những 
người ở "đa số" (Kenworthy và đồng nghiệp, 2008). Trong một nghiên cứu liên quan, các 
nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng những người biết rằng họ sẽ tranh luận chống lại quan 
điểm của đa số đã chuẩn bị một cách cẩn thận hơn cho cuộc gặp gỡ của họ (Van Hiel &  Franssen, 2003).   
Quy tắc quyết định và sự phản đối   
Thẩm phán số 8 đối diện với một tình huống khó khăn - ông một mình không đồng tình 
với tất cả mọi người trong nhóm - nhưng một khía cạnh của tình huống nhóm đã giúp 
ông ứng phó: quy tắc quyết định của nhóm. Luật yêu cầu nhóm hoạt động dưới quy tắc 
đồng lòng (rule of unanimity), có nghĩa là tất cả các thành viên của nhóm phải đồng 
tình về quyết định trước khi vấn đề được đóng lại. Nếu một nhóm hoạt động dưới quy tắc 
đồng lòng, thì thiểu số một mình có nhiều quyền lực hơn đối với những người khác. 
Nhưng nếu nhóm áp dụng quy trình quyết định dựa trên đa số, thì đa số có thể đưa ra 
quyết định của họ mà không cần xem xét tính hợp lệ của quan điểm của thiểu số 
(Thompson, Mannix, & Bazerman, 1988). Quy tắc đồng lòng giúp thiểu số, và quy trình 
quyết định dựa trên đa số có lợi cho đa số.                      lOMoAR cPSD| 40749825               
Khi nhóm dựa vào quy tắc đa số để đưa ra quyết định, đa số hình thành một liên minh để 
chặn thiểu số. Tuy nhiên, động cơ cá nhân của các thành viên trong nhóm đã điều chỉnh 
xu hướng ngăn cản này một cách đáng kể, vì các hiệu ứng có hại của quy tắc quyết định 
của nhóm chỉ xảy ra khi các thành viên có động cơ tối đa hóa kết quả cá nhân của họ 
thay vì kết quả của cả nhóm (Ten Velden, Beersma & De Dreu, 2007).   
Hiệu ứng có hại của quy tắc đồng lòng: Xảy ra khi nhu cầu nêu lên ý kiến quá cao    Quy tắc đồng lòng  Đa số  Thiểu số        Mục tiêu cá nhân  Cố gắng thuyết phục, 
Không có lợi thế số lượng   
không lắng nghe thiểu số, 
Lý lẽ khó thuyết phục hơn   
cảm thấy bị kìm kẹp ý kiến, vì mục tiêu cá nhân không   
mất thời gian, gây xung đột giúp cho nhóm (điều mà số      đông hướng tới)        Mục tiêu nhóm 
Dễ áp đảo hơn do lợi thế số Bị áp đặt, không được lắng   
lượng và chỉ cần tập trung 
nghe và ủng hộ, nhưng có    vì mục tiêu nhóm => 
thể đạt được nếu lập luận   
Không cần tìm quá nhiều 
vững chắc và thảo luận tập    cách để thuyết phục 
trung vào lợi ích nhóm hơn   
Cần sự đồng lòng nên mất   
thời gian và cảm thấy bị      kìm hãm           
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đồng lòng, cho dù xuất hiện sự phân chia đa 
số - thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược 
điểm chung là mất thời gian, dễ gây tranh cãi, xung đột, tuỳ vào mục đích mà việc 
được lắng nghe hay bị áp đặt có sự khác nhau và cần có lý lẽ thuyết phục vững 
chắc. Điểm mạnh là quy tắc này giúp tạo ra sự đồng thuận chung, giúp nhóm thiểu 
số có thể nêu lên ý kiến    Quy tắc đa số  Đa số  Thiểu số        Mục tiêu cá nhân cao 
Dễ đạt được mục đích do  Không được lắng nghe   
lợi thế số lượng và quy tắc Có thể chia rẽ nhóm   
Gây ra sự mất đoàn kết          Mục tiêu nhóm cao 
Dễ đạt được mục đích do  Không được lắng nghe   
lợi thế số lượng và quy tắc Bị áp đặt, mất tự do   
Có thể khả năng thuyết 
Có thể thuyết phục nếu lý                  lOMoAR cPSD| 40749825               
phục tốt hơn do số lượng 
lẽ tốt+phục vụ cho nhóm    và mục đích 
Có thể cảm thấy bị chia rẽ         
Như vậy khi nhóm áp dụng quy tắc đa số, cho dù xuất hiện sự phân chia đa số - 
thiểu số do khác nhau về động cơ phục vụ cá nhân hay cho nhóm, thì nhược 
điểm chung là quyền lực nằm trong tay đa số, nhóm thiểu số thường không được 
lắng nghe và dễ cảm thấy chia rẽ.   
Lý thuyết Tác động xã hội (năng) động   
Tại sao các thành viên của hội đồng "12 Angry Men" ban đầu bỏ phiếu 11-1 ủng hộ một 
quyết định kết tội? Và tại sao họ sau đó thay đổi quyết định của họ theo thời gian? Từ 
góc nhìn của đa số, sự thay đổi xảy ra khi các thành viên của nhóm nhận ra sự khôn 
ngoan của quyết định tập thể và tuân theo lựa chọn của nó. Từ góc nhìn của thiểu số, sự 
thay đổi xảy ra khi đa số xem xét lại và có thể điều chỉnh lại quan điểm của họ. Nhưng 
sự thay đổi trong các nhóm thực tế là một quá trình tương tác lẫn nhau - đa số ảnh hưởng 
đến thiểu số, và thiểu số ảnh hưởng đến đa số.   
Lý thuyết tác động xã hội (năng) động, được đề xuất bởi Bibb Latané và đồng nghiệp của 
ông, mô tả các quá trình đứng sau sự trao đổi này giữa đa số và thiểu số. Lý thuyết tác động 
xã hội cho rằng sự ảnh hưởng được xác định bởi sức mạnh, tính tức thời và số lượng nguồn 
có mặt. Lý thuyết tác động xã hội động động mở rộng nguyên tắc cơ bản này bằng cách mô 
tả cách các nhóm, như các hệ thống phức tạp, thay đổi theo thời gian. Các nhóm không phải 
là cố định, mà luôn tổ chức và tổ chức lại trong bốn khuôn mẫu (pattern) cơ bản: hợp nhất, 
phân tán, tương quan và đa dạng liên tục (Harton & Bullock, 2007; Latané, 1996, 1997; 
Latané & Bourgeois, 1996, 2001; Vallacher & Nowak, 2007).   
Trong phần 4 khuôn mẫu này, ta sẽ sử dụng 1 nghiên cứu của Helen Harton và cộng 
sự (1993) đã mô tả khá rõ về cả 4 khuôn mẫu trong các nhóm sinh viên.                                                      lOMoAR cPSD| 40749825                                                                                                                                 
1. Sự hợp nhất (consolidation): Khi các cá nhân tương tác với nhau thường xuyên, 
hành động, thái độ và ý kiến của họ trở nên thống nhất hơn. Ý kiến của đa số 
trong nhóm có xu hướng lan rộng khắp nhóm và thiểu số ngày càng thu hẹp về  quy mô và sự đa dạng.   
a. Ví dụ: Trong nghiên cứu của Harton, họ hỏi các sinh viên câu hỏi trắc   
nhiệm 2 lần: 1 lần tự trả lời; và 1 lần sau khi thảo luận với 2 người bên                  lOMoAR cPSD| 40749825               
cạnh. Kết quả: Trước khi thảo luận, có 17/30 chọn câu trả lời sai. Sau 
khi thảo luận, 22/30 chọn câu trả lời sai, bao gồm 3 sinh viên trả lời 
đúng từ trước. Tỉ lệ đa số thay đổi từ 57% lên 73%.   
b. Hình 1: Sự đa dạng (D) thường có xu hướng giảm, cho thấy ý kiến đa số   
tăng dần. Bảng 1: Độ đa dạng ban đầu (D0) =.88, độ đa dạng lúc sau  (D1) = .82   
2. Sự phân cụm (Clustering): Các cá nhân bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những 
người gần gũi nhất của họ, do đó trong nhóm sẽ phân thành cụm những người có 
cùng quan điểm. Sự phân cụm thường xảy ra khi các thành viên thường xuyên liên 
lạc hoặc thay đổi vị trí để gia nhập cụm.   
a. Cả bảng và hình đều cho thấy sự phân cụm đều rất rõ ràng sau khi  thảo luận.   
3. Sự tương quan (Correlation): Sự tương đồng về ý kiến theo thời gian của các 
thành viên trong nhóm về các vấn đề khác nhau, dù chưa được thảo luận rộng 
rãi. Thành viên trong cụm (cluster) cũng có xu hướng đưa ra câu trả lời giống 
nhau cho những vấn đề mới   
a. Ví dụ: Trong bảng nghiên cứu, có thể thấy chỉ số V association (sự 
hợp tác) trước và sau khi thảo luận có xu hướng tăng lên. Nghĩa là sự 
tương quan trong câu trả lời của thành viên tăng lên.                       
b. câu trả lời của cụm gần giống nhau qua thời gian     
4. Sự đa dạng liên tục (continuing diversity): Do sự phân nhóm, nhóm thiểu số 
thường được bảo vệ khỏi sự ảnh hưởng của đa số, và niềm tin của thiểu số vẫn 
tiếp tục tồn tại, từ đó tạo nên sự đa dạng. Sự đa dạng này sẽ tiếp tục nếu thiểu số 
tiếp tục liên kết và chống lại ảnh hưởng của đa số, ngược lại đa dạng sẽ giảm nếu 
đa số quá đông và thiểu số liên kết yếu.   
a. Về số liệu có thể thấy, dù qua thời gian và ảnh hưởng, các nhóm vẫn không 
có sự nhất trí (độ đa dạng (D) câu trả lời vẫn cao). Một số cá nhân từ chối                        lOMoAR cPSD| 40749825             
thay đổi câu trả lời của mình, mặc dù không có ai khác đồng ý với họ                                                                                                                                      
