



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61429799
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ ÁN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: “TÁC ĐỘNG CỦA CÁC FTA ĐẾN HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM – NHẬT BẢN”
Sinh viên: Nguyễn Thị Mai Linh
Chuyên ngành : Kinh doanh Thương mại
Lớp : Kinh doanh Thương mại 63C Mã sinh viên : 11217549
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đặng Thị Thúy Hồng
HÀ NỘI, tháng 01, năm 2024 Mục lục lOMoAR cPSD| 61429799
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................................4
NỘI DUNG.......................................................................................................................................5
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA VIỆT NAM –
NHẬT BẢN..................................................................................................................................5
1. Tổng quan về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản...........................................5 1.1. Thiết lập mối quan
hệ.....................................................................................................5
1.2. Hợp tác trên các lĩnh
vực................................................................................................6
1.2.1. Về chính trị - ngoại giao..........................................................................................6
1.2.2. Về kinh tế - thương mại...........................................................................................7
1.2.3. Về công nghệ...........................................................................................................9
1.2.4. Về quan hệ quốc phòng – an ninh..........................................................................10
1.2.6. Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển....................................................12
2. Nội dung, vai trò của các FTA đã ký kết và hoạt động Việt Nam – Nhật Bản......................13
2.1. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP)............................13
2.2. Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA)..........................................16
2.3. Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ uyên Thái Bình Dương (CPTPP).................17
2.4. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).................................................19
Vai trò FTA chung...............................................................................................................21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC FTA ĐẾN HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN...............................................................................21
1. Thực trạng hoạt động thương mại Việt Nam trước khi tham gia các FTA giữa Việt Nam –
Nhật Bản..................................................................................................................................21
2. Thực trạng hoạt động thương mại Việt Nam sau khi tham gia các FTA giữa Việt Nam –
Nhật Bản..................................................................................................................................26 2.1
Thực trạng hoạt động thương mại Việt Nam và Nhật Bản sau khi tham gia 2 Hiệp
định AJCEP và VJEPA: giai đoạn 2009 - 2018........................................................................26 2.2
Hoạt động thương mại Việt Nam và Nhật Bản sau khi kí hiệp định Đối tác toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (2019-2021)..........................................................34 1.
Kim ngạch xuất khẩu :................................................................................................34 2.3
Thực trạng hoạt động thương mại Việt Nam - Nhật Bản sau khi tham gia RCEP -
1/1/2022..............................................................................................................................39
3. Đánh giá thực trạng về những tác động các FTA mang lại cho hoạt động thương mại giữa
Việt Nam – Nhật Bản...............................................................................................................42 lOMoAR cPSD| 61429799 3.1 Tích
cực..........................................................................................................................42 3.2 Tiêu
cực.........................................................................................................................44
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ KHẮC PHỤC VÀ PHÁT HUY NHỮNG TÁC ĐỘNG
CỦA CÁC FTA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – NHẬT BẢN
ĐẾN NĂM 2030.........................................................................................................................45
1. Một số đề xuất phát huy những điểm tích cực của những tác động từ các FTA đến hoạt
động thương mại Việt Nam – Nhật Bản...................................................................................45
2. Một số đề xuất khắc phục những điểm hạn chế của những tác động từ các FTA đến hoạt
động thương mại Việt Nam – Nhật Bản...................................................................................45
KẾT LUẬN........................................................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................45 lOMoAR cPSD| 61429799 LỜI MỞ ĐẦU I.
Tính cấp thiết và thực tiễn của đề tài
Trong thời đại Hội nhập kinh tế quốc tế và Toàn cầu hóa đang là xu thế phát triển
mạnh mẽ, tạo ra thời cơ, điều kiện thuận lợi cho các quốc gia. Nhận thức được xu thế
ấy, Việt Nam cũng kịp thời nắm bắt để có những bước chuyển mình theo kịp thời đại.
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do như một bước đột
phá lớn trong việc trao đổi thương mại, mở rộng quan hệ hợp tác toàn cầu. Trong đó,
Nhật Bản là đối tác đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương nhất với Việt Nam, góp phần thúc đẩy không chỉ quan hệ thương mại giữa
hai nước mà còn thiết lập một tình bạn chân thành dựa trên lòng tin, hiểu biết và tôn trọng.
Để có thể tận dụng được những lợi ích, cơ hội tốt cũng như khắc phục những khó
khăn, thách thức mà các FTA Việt Nam – Nhật Bản đồng thời mang lại, việc lựa chọn
đề tài “Tác động của các FTA đến hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Nhật
Bản” là điều hết sức cần thiết, nhằm đưa ra thực trạng của hoạt động thương mại, tìm
ra những nguyên nhân hạn chế đồng thời đưa ra những phương án không chỉ góp
phần phát triển thương mại Việt Nam, mà còn thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước Việt Nam – Nhật Bản. II.
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tác động, ảnh hưởng của các Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – Nhật Bản, phân tích những mặt tiêu cực và tích cực đối với hoạt động thương
mại giữa Việt Nam và Nhật Bản, từ đó đưa ra những phương án cải thiện và phát huy
quan hệ thương mại giữa hai nước. III.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản; nội dung
các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam – Nhật Bản; những tác động của các
Hiệp định đến hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản. 2. Phạm vi nghiên cứu lOMoAR cPSD| 61429799
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu những tác động của các FTA trong hoạt động thương
mại Việt Nam – Nhật Bản
Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại thị trường Việt Nam, Nhật Bản
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ 2017 – 2023 và tầm nhìn đến 2030 IV.
Kết cấu của đề án
Ngoài mục lục; danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt; danh mục các bảng;
danh mục các hình vẽ, đồ thị, đề án được chia thành 3 chương với nội dung như sau:
Chương I: Tổng quan về những tác động của FTA đến hoạt động thương mại Việt Nam – Nhật Bản
Chương II: Thực trạng về những tác động của các FTA đến hoạt động thương mại
Việt Nam – Nhật Bản trong thời gian vừa qua
Chương III: Một số đề xuất để phát huy/ khắc phục những tác động của các FTA đối
với hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA
VIỆT NAM – NHẬT BẢN
1. Tổng quan về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản
1.1. Thiết lập mối quan hệ
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 219-
1973. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, hai nước đã tiến hành trao đổi đại sứ
quán, khởi động giao lưu, trao đổi đoàn và ký Thỏa thuận về việc Chính phủ Nhật
Bản viện trợ không hoàn lại đối với Việt Nam. Tuy nhiên từ năm 1979, các hoạt động
giao lưu giữa hai nước bị hạn chế, các khoản viện trợ đang thực hiện bị tạm ngưng.
Năm 1992 là dấu mốc đặc biệt trong quan hệ hai nước khi Nhật Bản quyết định mở
lại viện trợ cho Việt Nam. Kể từ đó, quan hệ kinh tế, chính trị, giao lưu văn hóa…
giữa hai nước được mở rộng, sự hiểu biết và tin cậy từng bước tăng lên. Năm 2002,
Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Tháng 10- lOMoAR cPSD| 61429799
2006, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục có bước tiến mới sau khi hai bên ký
Tuyên bố chung “Hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở
châu Á”. Với quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện,
tháng 4-2009, hai nước chính thức nâng quan hệ lên tầm “Đối tác chiến lược vì hòa
bình và phồn vinh ở châu Á”. Hai năm tiếp đó, quan hệ song phương được mở thêm
một trang mới với việc lãnh đạo cấp cao hai nước ký các tuyên bố chung “Phát triển
toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” (tháng 10-
2010) và “Triển khai hành động trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì hòa bình và
phồn vinh ở châu Á” (tháng 10-2011). Trên nền tảng quan hệ đối tác chiến lược, trong
bối cảnh tình hình quốc tế mới, quan hệ Việt Nam Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ,
toàn diện và thực chất, là cơ sở để tháng 3-2014, hai nước quyết định nâng cấp quan
hệ lên thành “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á”. Đặc
biệt, tháng 9-2015, nhân chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,
hai nước đã ra Tuyên bố về “Tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam - Nhật Bản”. Đây
được coi là dấu mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn phát triển mới toàn diện và tốt
đẹp chưa từng có của mối quan hệ song phương Việt Nam - Nhật Bản trên tất cả các
lĩnh vực, như chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,
giao lưu cấp địa phương, giao lưu nhân dân… Năm 2023, Việt Nam – Nhật Bản đánh
dấu cột mốc 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 – 2023), quan hệ Việt Nam-
Nhật Bản là hình mẫu tiêu biểu cho sự hợp tác hiệu quả, chân thành, với tiềm năng
và triển vọng hết sức rộng mở. Trên cơ sở đó, hai nước ra Tuyên bố chung về việc
nâng cấp quan hệ Việt Nam - Nhật Bản lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình
và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới.
1.2. Hợp tác trên các lĩnh vực
1.2.1. Về chính trị - ngoại giao
Trong những năm qua, quan hệ chính trị giữa hai bên luôn được củng cố và
mở rộng, ngày càng đi vào thực chất. Hiện nay, quan hệ hai nước đang ở giai đoạn
tốt nhất kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao và có sự tin cậy cao thông qua các hoạt
động giao lưu, tiếp xúc cấp cao thường xuyên, cũng như các cơ chế đối thoại giữa các bộ, ngành.
Quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Đảng ta và Đảng Cộng sản Nhật Bản
được củng cố, tăng cường trong những năm qua thông qua các hoạt động trao đổi lOMoAR cPSD| 61429799
thông tin, lý luận và phối hợp trên các diễn đàn đa phương chính đảng. Hai bên còn
phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế,
như Diễn đàn Hợp tác Á - u (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Liên hợp quốc… Việt Nam ủng hộ Nhật Bản vào vị trí Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2016 - 2017 và Nhật Bản ủng
hộ Việt Nam vào vị trí này nhiệm kỳ 2020 - 2021. Hai bên cùng nhau phối hợp chặt
chẽ thúc đẩy để ký kết, phê chuẩn và đang hợp tác triển khai hiệu quả Hiệp định Đối
tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Nhật Bản là một trong những nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam.
Các công ty Nhật Bản đã đầu tư vào nhiều lĩnh vực như ô tô, điện tử, sản xuất, nông
nghiệp và dịch vụ. Các dự án lớn như Nhà máy ô tô Toyota, Nhà máy điện tử Canon
và Nhà máy điện tử Panasonic đã tạo ra nhiều việc làm cho người dân Việt Nam và
đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước.
Nhật Bản hiện là nhà tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động đứng thứ
2, đầu tư và đối tác du lịch lớn thứ 3, đối tác thương mại thứ 4 của Việt Nam, hai bên
đang hợp tác chặt chẽ và hiệu quả với nhiều lĩnh vực then chốt như cơ sở hạ tầng giao
thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,…
Đáng chú ý, các dự án quy mô lớn mà các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hàng
đầu của Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam đã kéo theo rất nhiều nhà đầu tư vệ tinh, hoạt động hiệu quả.
1.2.2. Về kinh tế - thương mại
Nhật Bản luôn giữ vững vị trí là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam về
kinh tế, luôn sát cánh cùng Việt Nam trong công cuộc đổi mới, trở thành nhà tài trợ
phát triển chính thức (ODA) lớn nhất, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ
hai và đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam. Kể từ khi nối lại việc cấp ODA
cho Việt Nam (năm 1992) đến nay, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam chiếm
hơn 1/3 tổng ODA của cộng đồng quốc tế cho Việt Nam, với số vốn cam kết khoảng
30,5 tỷ USD , được phân bổ vào tất cả các lĩnh vực chủ chốt, như nâng cấp kết cấu
hạ tầng giao thông vận tải, điện lực, công nghệ - thông tin, đào tạo nguồn nhân lực,
giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xóa đói, giảm lOMoAR cPSD| 61429799
nghèo… góp phần quan trọng vào việc thực hiện ba đột phá chiến lược của Việt Nam,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững.
Thông qua các nguồn ODA của Nhật Bản, nhiều dự án của Việt Nam đã hoàn thành
và đưa vào khai thác rất hiệu quả, trở thành biểu tượng sinh động cho quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa hai nước, như nhà ga quốc tế Sân bay Tân Sơn Nhất, Sân bay Nội
Bài, Cầu Nhật Tân, Cầu Cần Thơ, Cầu Thanh Trì, Hầm đường bộ Hải Vân, Cảng Hải
Phòng, Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Chợ Rẫy, các tuyến đường sắt đô thị tại
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội…
Trong lĩnh vực hợp tác đầu tư, Nhật Bản hiện có gần 4.000 dự án FDI tại Việt
Nam với tổng số vốn đầu tư lên đến hơn 50 tỷ USD, tập trung vào các lĩnh vực sản
xuất, chế tạo, xây dựng và kinh doanh bất động sản..., với hai hình thức chính là 100%
vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng BOT. Năm 2017 và 2018, Nhật Bản liên tục
trở thành nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư kỷ lục
lần lượt đạt hơn 9,11 tỷ USD và 8,59 tỷ USD. Để đẩy mạnh hơn nữa dòng đầu tư của
Nhật Bản vào Việt Nam, hai bên tích cực triển khai chương trình hành động “Sáng
kiến chung Việt Nam - Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư và tăng cường sức
cạnh tranh của Việt Nam”, gọi tắt là “Sáng kiến chung Việt Nam Nhật Bản”, đã được
hai nước ký kết vào tháng 4-2003.
Trong lĩnh vực thương mại, Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu
quan trọng của Việt Nam. Hai nước đã ký kết các hiệp định thương mại tự do và thỏa
thuận hợp tác kinh tế, giúp tăng cường mối quan hệ thương mại giữa hai bên. Việt
Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng như điện tử, gỗ, nông sản và dược phẩm sang Nhật Bản.
Không dừng lại ở đó, Nhật Bản cũng là đối tác đã ký kết nhiều hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương nhất với Việt Nam như: Hiệp định Đối
tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2009; Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn
diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) năm 2008; Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2019), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) năm 2020.
Ngoài ra, Việt Nam và Nhật Bản có nhiều cơ chế hợp tác chính thức để giải
quyết các nội dung kinh tế, thương mại gồm: Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác thương mại, lOMoAR cPSD| 61429799
công nghiệp và năng lượng giữa Việt Nam và Nhật Bản; Ủy ban Hợp tác Việt Nam –
Nhật Bản; sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm 2022 đạt gần 50 tỷ USD, đưa
Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam; trong đó Việt Nam
xuất khẩu sang Nhật Bản đạt gần 25 tỷ USD, nhập khẩu đạt gần 24 tỷ USD.
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Tổng cục Hải quan
Hình 1: Tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam và Nhật Bản năm 2022
Đặc biệt, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của hai nước mang tính bổ sung rõ
nét, không có sự cạnh tranh trực tiếp. Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu sang
Nhật Bản các loại thủy sản, dầu thô, dệt may, dây điện và dây cáp điện, gỗ và sản
phẩm gỗ, máy vi tính và linh kiện, than đá, giày dép các loại…
Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản những mặt hàng phục vụ cho
sản xuất công nghiệp gồm: máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, sản phẩm điện tử
và linh kiện, sắt thép các loại, vải các loại, linh kiện ô tô, chất dẻo nguyên liệu, hóa
chất, nguyên phụ liệu dệt, may, da… 1.2.3. Về công nghệ
Nhật Bản là đối tác quan trọng trong quá trình Việt Nam phát triển ngành công
nghiệp. Nhiều dấu ấn rõ nét của Nhật Bản đó là mô hình 5S, 3S… Tuy nhiên, giá trị lOMoAR cPSD| 61429799
gia tăng do Nhật Bản đóng góp trong xuất khẩu sản phẩm ngành chế biến, chế tạo của
Việt Nam vẫn chậm cải thiện.
Nhiều năm qua, Nhật Bản đã chia sẻ công nghệ và kỹ thuật tiên tiến với Việt
Nam. Việc này đã giúp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng
sản phẩm. Nhờ đó, các ngành công nghiệp như ô tô, điện tử và điện tử tiêu dùng của
Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể.
Hợp tác với Nhật Bản luôn được Việt Nam chú trọng nhờ vào tính cạnh tranh
và trình độ công nghệ hàng đầu của các doanh nghiệp Nhật Bản. Mặt khác, các nhà
đầu tư của Nhật Bản vẫn dành nhiều quan tâm tới thị trường Việt Nam và các ngành
công nghiệp ưu tiên tại Việt Nam. Do đó, xây dựng kế hoạch hành động chung của
Nhật Bản và Việt Nam để giải quyết các mối quan tâm chung trong thúc đẩy chuyển
giao công nghệ từ Nhật Bản sang Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ là một nội dung quan trọng trong hợp tác
công nghiệp Việt Nam - Nhật Bản, được thể hiện thông qua phát triển nguồn nhân lực
và thúc đẩy liên kết giữa các công ty Nhật Bản và Việt Nam. Ngoài ra, hợp tác công
nghiệp cũng được thúc đẩy nhờ chuyển giao kiến thức (và các tài sản vô hình khác)
thông qua ODA của Nhật Bản cho Việt Nam.
1.2.4. Về quan hệ quốc phòng – an ninh
Hai nước đặc biệt quan tâm đẩy mạnh, nhằm đáp ứng hiệu quả với các cam
kết Bản Ghi nhớ hợp tác quốc phòng - an ninh Việt Nam - Nhật Bản. Theo đó, hai
bên nhất trí tích cực thúc đẩy và trao đổi quốc phòng trên cơ sở phù hợp với luật pháp
quốc tế, cũng như luật pháp, quy định và chính sách quốc gia của mỗi nước. Cụ thể
là, hai bên thường xuyên trao đổi đoàn các cấp thăm lẫn nhau, tiến hành đối thoại
chính sách quốc phòng định kỳ cấp thứ trưởng, đào tạo nhân lực, trao đổi thông tin,
hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, hợp tác tại các diễn đàn quốc phòng quốc tế và
khu vực; đồng thời hợp tác chặt chẽ trên các diễn đàn song phương và đa phương,
nhằm kết nối một cách hiệu quả khuôn khổ hợp tác khu vực, đặc biệt là Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+).
1.2.5. Hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nhân lực
Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo và phát triển nhân lực. Chương
trình đào tạo kỹ sư và công nhân chất lượng cao của Nhật Bản đã giúp nâng cao trình lOMoAR cPSD| 61429799
độ chuyên môn của lao động Việt Nam và tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cho các
công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam.
Chương trình hợp tác lao động Việt Nam – Nhật Bản luôn nhận được sự quan
tâm và đánh giá cao của Chính phủ và nhân dân hai nước. Các nỗ lực triển khai hiệu
quả các chương trình hợp tác đã mở ra cơ hội cho nhiều lao động Việt Nam có trình
độ sang làm việc tại Nhật Bản. Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu lao
động lớn và chủ lực của Việt Nam. Nhiều người lựa chọn sang Nhật làm việc là bởi
mức thu nhập cao, môi trường sống văn minh, hiện đại. Đồng thời cũng là cơ hội tốt
để cải thiện kinh tế và phát triển bản thân.
Hợp tác lao động giữa Việt Nam và Nhật Bản chính thức bắt đầu từ năm 1992,
thông qua tiếp nhận thực tập sinh Việt Nam sang thực tập kỹ năng tại Nhật Bản. Kết
quả hợp tác về lao động ngày càng tốt đẹp và không ngừng phát triển đã đem lại nhiều
lợi ích kinh tế cho người dân, doanh nghiệp của cả hai nước. Thống kê mới nhất của
cục quản lý lao động ngoài nước thì năm 2022 có hơn 127.000 lao động sang làm
việc tại Nhật Bản, cao gấp 6 lần năm 2021. Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng già
hóa dân số, khan hiếm nguồn nhân lực, cần nhiều lao động nước ngoài, nhất là lao
động Việt Nam. Vì thế quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam trong lĩnh vực
này còn phát triển hơn nữa. Hai bên cũng đang hợp tác chặt chẽ và hiệu quả trên nhiều
lĩnh vực then chốt như cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, cải cách thể chế kinh tế, giáo dục…
Hiện nay, người Việt Nam đang sinh sống, làm việc và học tập tại Nhật Bản
khoảng 500.000 người, trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn thứ 2 tại Nhật Bản
(sau Trung Quốc). Nhiều hội đoàn của người Việt đã được thành lập, như Hội người
Việt Nam tại Nhật Bản (VAIJ), Hội Thanh niên Sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản
(VYSA), Mạng lưới Học thuật người Việt Nam tại Nhật Bản (VANJ), Hội Trí thức
Việt Nam tại Nhật Bản (AVIJ), Hội Chuyên gia người Việt Nam tại Nhật Bản (VPJ),
Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Nhật Bản (VJBA), Hội Phật tử Việt Nam tại
Nhật Bản, Hiệp hội Giao lưu Văn hóa Thể thao Việt Nam-Nhật Bản (FAVIJA)…,
cùng với 21 hội, đoàn của người Việt ở các địa phương; hơn 70 cặp địa phương có
thỏa thuận hợp tác đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cộng đồng người Việt Nam tại
Nhật Bản thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các hội hữu nghị truyền thống; giao
lưu văn hóa, kết nghĩa, đối ngoại Nhân dân với các địa phương Nhật Bản; tăng cường lOMoAR cPSD| 61429799
hợp tác, giao lưu về kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần đưa quan hệ Đối tác
chiến lược sâu rộng Việt Nam- Nhật Bản không ngừng phát triển lên tầm cao mới, vì
lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
1.2.6. Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
Các công ty và tổ chức nghiên cứu của Việt Nam và Nhật Bản đã hợp tác trong
nhiều dự án nghiên cứu và phát triển mới. Việc này đã đóng góp vào việc nâng cao
năng lực nghiên cứu và sáng tạo của Việt Nam trong các ngành công nghiệp tiên tiến.
Thời gian qua, hợp tác Việt Nam - Nhật Bản được xây dựng, hoàn thiện Chiến
lược và kế hoạch hành động phát triển 6 ngành công nghiệp, bao gồm: Chế biến nông,
thủy sản; điện tử; ôtô và phụ tùng ôtô; công nghiệp môi trường và tiết kiệm năng
lượng; đóng tàu; máy nông nghiệp, để tập trung ưu tiên phát triển trên cơ sở khai thác,
sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nam.
Chiến lược đã đạt được một số kết quả tích cực, như thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh của 6 ngành ưu tiên.
Sự phát triển của các ngành trong chiến lược đã thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam phát triển. Một số doanh nghiệp trong nước đã tham gia vào chuỗi cung
ứng của các tập đoàn lớn như ngành điện tử, sản xuất ôtô… sản phẩm đạt các tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế.
Biên bản ghi nhớ về hợp tác khoa học giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Cơ
quan Phát triển Khoa học Nhật Bản (JSPS) đã được ký ngày 01/6/2012 làm cơ sở
thúc đẩy và hỗ trợ hợp tác giữa các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh
vực nghiên cứu và phát triển. Điển hình là hợp tác giữa Viện Di truyền Nông nghiệp
Việt Nam và Viện nghiên cứu Hóa - Lý trong lĩnh vực công nghệ sinh học Nhật Bản;
Hợp tác giữa Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam với cơ quan Hàng
không Vũ trụ Nhật Bản trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ và nhiều dự án hợp tác trong
khuôn khổ chương trình nghiên cứu chung được chính phủ Nhật Bản hỗ trợ thông
qua Cơ quan Khoa học và công nghệ Nhật Bản và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JICA). Ngoài ra, các tổ chức khoa học và công nghệ cũng như các nhà khoa học của lOMoAR cPSD| 61429799
hai nước đã chủ động liên kết trao đổi thông tin, thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu
nhằm giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn hai bên quan tâm.
2. Nội dung, vai trò của các FTA đã ký kết và hoạt động Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ lâu đời và liên tục phát triển trong
khoảng hơn 10 năm trở lại đây. Năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đó là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mà Nhật Bản là đối tác quan trọng. Đây cũng
là thời điểm Việt Nam nộp đơn gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và bắt
đầu tiến hành đàm phán các FTA cả với tư cách một thành viên của ASEAN và tư
cách độc lập. Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
một loạt các FTA cũng đi đến ký kết, trong đó Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam -
Nhật Bản (VJEPA) là FTA duy nhất được ký trước năm 2010 với tư cách độc lập chứ
không phải với tư cách thành viên ASEAN. Bên cạnh đó, ASEAN cũng có FTA với
Nhật Bản, được ký kết rất gần với VJEPA.
Trong suốt 10 năm sau đó, mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật
Bản chỉ dựa trên nền tảng của WTO và hai FTA kể trên. Cho đến năm 2019, dấu mốc
hết sức quan trọng và có ý nghĩa khi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực với Việt Nam, thì Việt Nam và
Nhật Bản có thêm khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại. Năm 2020,
Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP) được ký kết một lần nữa đưa Việt Nam
và Nhật Bản vào một FTA mới. Cả CPTPP và RCEP đều được biết đến như FTA có
quy mô lớn nhất mà Việt Nam tham gia vào thời điểm ký kết; bên cạnh đó, CPTPP
còn được coi là hiệp định có tính bước ngoặt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
theo chiều sâu của Việt Nam. Cả hai hiệp định này đều có sự tham gia của Nhật Bản.
Như vậy, cho đến nay, mối quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã đạt đến mức
độ mở cửa thị trường rất cao, được ghi nhận trong các FTA mới ký kết, kỳ vọng đem
đến lợi ích to lớn cho các bên ký kết nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.1 Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP)
Tháng 4/2005, ASEAN và Nhật Bản bắt đầu đàm phán, Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện (AJCEP) được ký kết vào tháng 4/2008, là một Hiệp định kinh tế toàn lOMoAR cPSD| 61429799
diện cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế, có hiệu lực từ ngày 1/12/2008.
Ngày 1/8/2020, Nghị định thư lần thứ nhất của hiệp định AJCEP có hiệu lực
giữa Nhật Bản và 5 nước thành viên ASEAN. Nghị định thư bổ sung các điều khoản
liên quan đến Thương mại Dịch vụ và tự do hóa và tạo thuận lợi cho Đầu tư. Hiệp
định AJCEP là Hiệp định Đối tác Kinh tế đa phương đầu tiên của Nhật Bản (“EPA”)
Đây là thoả thuận toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Hiệp định AJCEP cũng sẽ tăng cường các
quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản và tạo ra một thị trường lớn hơn, hiệu quả
hơn với nhiều cơ hội hơn trong khu vực.
Mục tiêu của hiệp định:
Tăng cường quan hệ đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và các nước thành viên
ASEAN, Hiệp định AJCEP tự do hóa và tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ giữa Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN, thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực kinh tế.
Các yếu tố chính trong hiệp định AJCEP:
- Thương mại hàng hóa: Xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan (áp dụng một hệ thống ưuđãi
chung trong đó việc xóa bỏ và cắt giảm thuế quan (ưu đãi) giữa Nhật Bản và các
Quốc gia Thành viên ASEAN được áp dụng bình đẳng cho mỗi quốc gia ký kết),
các biện pháp bảo vệ, thủ tục hải quan,v.v.
- Quy tắc xuất xứ: Chứng nhận xuất xứ hàng hóa (thông qua quy tắc xuất xứ
chungđược áp dụng bình đẳng giữa các quốc gia ký kết và cũng quy định tổng thể
quy tắc xuất xứ ở Nhật Bản và khu vực ASEAN (cho phép các bộ phận và hàng bán
thành phẩm, v.v., nhà sản xuất và các quốc gia ký kết khác được coi là sản xuất trong
nước), cấp giấy chứng nhận xuất xứ, v.v.
- Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS): Các quyền và nghĩa vụliên
quan đến các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật dựa trên thỏa thuận áp
dụng các biện pháp SPS được ký kết giữa các nước ký kết được tái khẳng định và
một tiểu ban sẽ được thành lập để trao đổi thông tin, tạo điều kiện cho hợp tác, v.v.
- Thương mại dịch vụ: Đối xử quốc gia, Tiếp cận thị trường và Minh bạch, v.v. lOMoAR cPSD| 61429799
- Đầu tư: Đối xử công bằng và bảo vệ đầy đủ, nghiêm cấm việc sung công màkhông
có bồi thường thích đáng, thủ tục giải quyết tranh chấp, v.v.
- Hợp tác kinh tế: Thỏa thuận rà soát và hành động về hợp tác trong 13 lĩnh vực, cụthể
là các thủ tục liên quan đến thương mại, môi trường kinh doanh, sở hữu trí tuệ, năng
lượng, công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp
nhỏ, du lịch và dịch vụ khách hàng, vận tải và hậu cần, nông nghiệp, ngư nghiệp và
lâm nghiệp, môi trường, chính sách cạnh tranh và các lĩnh vực khác mà các quốc
gia ký kết đã đạt được thỏa thuận chung.
- Giải quyết tranh chấp: Thủ tục giải quyết các tranh chấp nảy sinh từ việc giải thíchvà áp dụng EPA, v.v.
Về lộ trình cắt giảm thuế quan cụ thể, Hiệp định quy định:
Biểu cam kết của Việt Nam trong AJCEP bao gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên
AHTN 2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.771 dòng. Số dòng còn lại
là các dòng thuế CKD ô tô (57 dòng) và các dòng thuế không cam kết cắt giảm (562 dòng), cụ thể:
– Danh mục xoá bỏ thuế quan: Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 62,2%số
dòng thuế trong vòng 10 năm, trong đó xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có
hiệu lực đối với 26,3% dòng thuế và xoá bỏ thuế quan sau 10 năm thực hiện Hiệp
định (năm 2018) đối với 33,8% dòng thuế. Vào năm 2023 và 2024 (sau 15 năm và
16 năm thực hiện Hiệp định) cam kết xóa bỏ 25,7% và 0,7% số dòng thuế tương ứng.
Như vậy, vào năm cuối lộ trình (năm 2025) số dòng thuế được xóa bỏ thuế
quan chiếm 88,6% số dòng thuế trong toàn Biểu cam kết.
– Danh mục nhạy cảm thường (SL) chiếm 0,6% số dòng thuế, được duy trì ở mứcthuế
suất cơ sở và xuống 5% vào năm 2025.
– Danh mục nhạy cảm cao (HSL) chiếm 0,8% số dòng thuế, được duy trì mức
thuếsuất cao (giảm xuống 50% vào năm 2023).
– Danh mục không xóa bỏ thuế quan, thuế suất duy trì ở mức thuế suất cơ sở trongcả
lộ trình (C) chiếm 3,3% số dòng thuế.
– Danh mục loại trừ chiếm 6,0% số dòng thuế. lOMoAR cPSD| 61429799
Lộ trình giảm thuế của Việt Nam trong Hiệp định AJCEP bắt đầu từ năm 2008
và kết thúc vào năm 2025. Các mặt hàng được cắt giảm xuống 0% vào các thời điểm
2018, 2023 và 2024. Các mặt hàng được xóa bỏ thuế quan chủ yếu là các mặt hàng
công nghiệp. Số dòng thuế được xóa bỏ thuế quan tập trung vào các ngành máy móc
thiết bị điện, máy móc cơ khí, hóa chất, kim loại, dệt may và sản phẩm nông nghiệp.
Cam kết cắt giảm thuế của Nhật Bản cho Việt Nam
Tính tới thời điểm ngày 1/4/2015, Nhật Bản đã xóa bỏ thuế quan đối với 923
dòng các sản phẩm nông nghiệp từ Việt Nam. Đến năm 2019, sẽ có thêm 338 dòng
thuế nông nghiệp khác sẽ được xóa bỏ thuế. Đối với các mặt hàng công nghiệp của
Việt Nam, phần lớn được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp dịnh có hiệu lực như
linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị, điện thoại, máy vi tính, đồ điện gia dụng, sản phẩm nhựa, giấy...
Đến cuối lộ trình vào năm 2026, Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế quan đối với
96,45% tổng số các dòng thuế đối với các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam, tập trung
chủ yếu ở các nhóm nông sản, thủy sản, hàng dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử…
2.2 Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA)
Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được ký kết ngày 25
tháng 12 năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2009. Nội dung tổng thể
của Hiệp định bao gồm nhiều lĩnh vực bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, đầu tư và cải thiện môi trường doanh nghiệp cũng như sự di chuyển của thể nhân.
Theo đó, vào năm cuối cùng của lộ trình cắt giảm thuế (năm 2026), tức là sau
16 năm thực hiện Hiệp định này, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ 90,64% số dòng thuế;
tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, 29,14% số các dòng thuế đã được xóa ngay. Còn
lại là ô tô CKD và các dòng nhạy cảm giữ nguyên mức thuế cơ bản hoặc không giảm,
chiếm tỷ trọng 9% đối với các nhóm gồm rượu thuốc lá, một số sản phẩm hóa chất,
thuốc nổ, cao su, bông, thép…
Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế quan cho 96,45% tổng số các dòng thuế trong
Biểu thuế cho hàng hóa Việt Nam vào cuối lộ trình (năm 2026), trong đó: lOMoAR cPSD| 61429799
• Đối với nông sản: Xóa bỏ thuế quan đối với 36% số dòng thuế nông sản ngay
khi VJEPA có hiệu lực (năm 2009); tiếp tục xóa bỏ dần các dòng thuế nông
sản theo lộ tình cụ thể (dài nhất đến 2019) trừ Nhóm được loại trừ (nhóm X)
(bao gồm 735/2350 dòng thuế nông sản mà Nhật Bản kiểm soát chặt bằng hạn
ngạch thuế quan, các biện pháp định lượng) và Nhóm đàm phán sau (nhóm
C2) (là nhóm các sản phẩm Nhật Bản đang cải cách cơ cấu)
• Đối với thủy sản: Cam kết cắt giảm thuế ngay (năm 2009) đối với 19% số
dòng thuế thủy sản, sau 15 năm sẽ cắt giảm tổng cộng 57% số dòng thuế thủy
sản (188/330 dòng); 33% số dòng thuế thủy sản (59/330 dòng) áp dụng hạn ngạch nhập khẩu.
• Đối với hàng công nghiệp: Xóa bỏ thuế quan ngay đói với 95% số dòng thuế
sản phẩm công nghiệp, sau 10 năm là 97% số dòng thuế; khoảng 57 dòng thuế
sản phẩm công nghiệp vẫn áp dụng hạn ngạch nhập khẩu (chủ yếu trong dệt
may, da, da thuộc); 58 dòng thuế không cam kết cắt giảm (quần áo da, giầy dép).
Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan cho hàng hóa Nhật Bản theo lộ trình như sau:
- Từ 2018, xóa bỏ thuế quan đối với 41,78% số dòng thuế trong Biểu thuế
- Đến năm 2026 (năm cuối của lộ trình cắt giảm thuế) xoá bỏ thuế quan đối với
90,64% số dòng thuế trong Biểu thuế
2.3 Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ uyên Thái Bình Dương (CPTPP)
CPTPP (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific
Partnership) hay Hiệp định còn có tên gọi tiếng Việt là Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (theo Wikipedia).
Ban đầu Hiệp định TPP có sự tham gia của 4 quốc gia đó chính là Brunei,
Chile, New Zealand, Singapore (P4).
Ngày 22/9/2018, Hoa Kỳ cũng tuyên bố sẽ tham gia vào P4 với Hiệp định mới
và không nằm trong khuôn khổ của Hiệp định P4 cũ. Thay vào đó, các bên tham gia
sẽ tiến hành đàm phán Hiệp định mới – Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Sau Mỹ là sự tham gia của Australia và Peru. lOMoAR cPSD| 61429799
Với Việt Nam, ban đầu tham gia vào Hiệp định TPP với tư cách là quan sát
viên đặc biệt (2009). Trải qua 3 phiên đàm phán, Việt nam chính thức tham gia vào
TPP nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC tại Yokohama (Nhật Bản) vào năm 2010.
Trong thời gian đàm phán TPP đã tiếp nhận thêm 4 thành viên mới là Malaysia,
Mexico, Canada và Nhật Bản và nâng số lượng thành viên lên 12 nước.
Trải qua hơn 30 phiên đàm phán cấp kỹ thuật, 10 cuộc đàm phán cấp Bộ
trưởng, các nước TPP kết thúc cơ bản các nội dung đàm phán tại Hội nghị Bộ trưởng
tổ chức tại Atlanta (Hoa Kỳ) vào 10/2015.
Trải qua hơn 30 phiên đàm phán ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở
cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã kết thúc cơ bản toàn bộ các nội dung đàm phán tại
Hội nghị Bộ trưởng tổ chức tại Atlanta, Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2015. Ngày 04
tháng 02 năm 2016, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định TPP đã tham dự Lễ
ký để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, New Zealand.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định TPP (ngày 30/01/2017 khiến
Hiệp định không thể thực hiện theo đúng nội dung như ban đầu. Chính vì thế, các
quốc gia còn lại tích cực nghiên cứu, trao đổi để thống nhất hướng xử lý Hiệp định TPP trong giai đoạn mới.
Vào tháng 11/2017, 11 quốc gia thành viên còn lại đưa ra tuyên bố đổi TPP
thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Hiệp định được ký kết vào ngày 3/2018, các thành viên tham gia bao gồm 11 nước
còn lại. Hiệp định được phê chuẩn bởi 7 nước (Australia, Mexico, Singapore, Canada,
Nhật Bản, New Zealand, Việt Nam) và có hiệu lực từ 30/12/2018. Ở Việt Nam chính
thức có hiệu lực từ ngày 14/1/2019.
Nội dung cam kết trong Hiệp định
Nội dung của Hiệp định CPTPP sẽ giữ nguyên toàn bộ các cam kết của TPP (trừ
những điểm cam kết của Hoa Kỳ và với Hoa Kỳ)
Về cơ bản, nội dung của Hiệp định CPTPP sẽ giữ nguyên toàn bộ các cam kết của
TPP, ngoại trừ những điểm đã cam kết của Hoa Kỳ hoặc với nước này. Đồng thời,
các nước thành viên được tạm hoãn đối với 20 nhóm nghĩa vụ, điều này sẽ đảm bảo
cân bằng quyền lợi cho các quốc gia trước bối cảnh Hoa kỳ rút khỏi Hiệp định. lOMoAR cPSD| 61429799
20 nhóm nghĩa vụ sẽ thực hiện tạm hoãn trong Hiệp định Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) bao gồm:
• 11 nghĩa vụ liên quan đến Chương sử hữu trí tuệ;
• 2 nhóm liên quan đến Chương mua sắm của Chính phủ;
• 7 nghĩa vụ còn lại liên quan đến Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi
Thương mại, Đầu tư, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Minh bạch hóa và Chống
tham nhũng, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Môi trường.
Riêng các cam kết về mở cửa thị trường có trong Hiệp định TPP trước đó vẫn
sẽ được giữ nguyên và áp dụng trong bản Hiệp định CPTPP.
2.4 Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định thương
mại tự do (FTA) giữa 10 nước ASEAN và 5 đối tác là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Australia và New Zealand. Hiệp định chiếm khoảng 30% của tổng sản phẩm nội
địa GDP toàn cầu, trở thành một khối thương mại lớn nhất trong lịch sử. Với Việt
Nam, Hiệp định chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2022. Có hiệu lực từ ngày
1/1/2022, hiệp định RCEP tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới và
được kỳ vọng xóa bỏ tới 90% thuế quan trong vòng 20 năm giữa các thành viên.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định nhằm mở
rộng và làm sâu sắc hơn sự gắn kết giữa ASEAN và Australia, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc và New Zealand. Tổng các nước tham gia RCEP chiếm khoảng 30% GDP
toàn cầu và 30% dân số thế giới. Mục tiêu của Hiệp định RCEP là thiết lập một nền
tảng quan hệ đối tác kinh tế hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại và đầu tư trong khu vực, đồng thời
đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn cầu. Theo đó, Hiệp định sẽ
mang lại cơ hội thị trường và việc làm cho doanh nghiệp và người dân trong khu vực.
Hiệp định RCEP sẽ song hành và hỗ trợ một hệ thống thương mại đa phương cởi mở,
bao hàm và dựa trên các quy tắc. Các cam kết chính:
Cam kết về thuế quan lOMoAR cPSD| 61429799
- Theo cam kết của Việt Nam tại Hiệp định, Việt Nam có 06 biểu lộ trình cam
kết thuế quan đối với 06 nước/nhóm nước, bao gồm ASEAN, Nhật Bản,
Australia, New Zealand, Trung Quốc và Hàn Quốc.
- Hiện tại, các Hiệp định thương mại tự do ASEAN Cộng hiện hành (mà Việt
Nam là thành viên) đã và đang đưa ra những ưu đãi về tự do hóa thuế quan ở
mức tương đối cao. Hiệp định RCEP được xây dựng dựa trên các cam kết cắt
giảm thuế quan đã có và sẽ xóa bỏ khoảng 90% thuế nhập khẩu trong vòng 20
năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
- Lộ trình cam kết về thuế quan của Việt Nam cũng như của các nước trong Hiệp
định RCEP có thời hạn dài nhất là 25 năm.
Quy tắc xuất xứ và Cơ chế Tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Hiệp định RCEP đưa ra các quy định về hài hòa và đơn giản hóa Quy tắc xuất
xứ hàng hóa. Những quy tắc này bao gồm quy định cho phép cộng gộp nguyên
liệu có xuất xứ, của bất kỳ nước thành viên nào trong Hiệp định RCEP để tiếp
tục tính vào nguyên liệu có xuất xứ của thành phẩm cuối cùng, và được hưởng
thuế suất ưu đãi đặc biệt RCEP khi lưu thông giữa các quốc gia thành viên của Hiệp định.
- Ngoài ra, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ sẽ được Việt Nam và hầu hết các nước
thành viên (trừ Lào, Cam-pu-chia và My-an-ma) áp dụng sau không quá 10
năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Tạo thuận lợi thương mại
- Hiệp định RCEP cũng bao gồm các cam kết về tạo thuận lợi thương mại và
thực hiện thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, cụ thể:
- Minh bạch và đơn giản hóa thủ tục hải quan: Công bố thông tin kịp thời trên
mạng Internet; Đo và công bố kết quả của thời gian giải phóng hàng;
- Áp dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ hoạt động hải quan dựa trên tiêu chuẩn
được quốc tế chấp nhận để thông quan và giải phóng hàng nhanh chóng;
- Tạo thuận lợi thương mại cho “Doanh nghiệp ưu tiên” và cho phép đàm phán
công nhận lẫn nhau về các chương trình “Doanh nghiệp ưu tiên”;