Tài liệu chương II Chủ Nghĩa duy vật biện chứng | Triết học Mác - Lênin
Tài liệu chương II Chủ Nghĩa duy vật biện chứng | Triết học Mác - Lênin với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (PLT07A)
Trường: Học viện Ngân hàng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG..............................................................................3
A. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT (TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN)......................................................3
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ THẾ GIỚI...........5
1.1. NGUYÊN LÝ VÀ SỰ PHÂN LOẠI NGUYÊN LÝ..................................................................................5
1.2. HAI NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT Của TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN.....................................................5
1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến............................................................................................................5
1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển............................................................................................................................7
II. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT...........................9
2.1. KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ..................................................................................................................9
2.1.1. Khái niệm và các bộ phận cấu thành khái niệm...................................................................................9
2.1.2. Phạm trù và sự phân loại của phạm trù...................................................................................................9
2.2. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC........................................................................................................................9
2.2.1. VẬT CHẤT.............................................................................................................................................................9
2.2.1.1. Định nghĩa Vật chất của V.I. Lênin.................................................................................9
2.2.1.2. Vận động, không gian, thời gian - Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại,
diễn biến tồn tại của vật chất........................................................................................................14
2.2.2. Ý THỨC...............................................................................................................................................................19
2.2.2.1. Khái niệm và kết cấu........................................................................................................19
2.2.2.2. Nguồn gốc của ý thức.......................................................................................................19
2.2.2.3. Bản chất của ý thức..........................................................................................................23
2.2.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC................................................................24
2.2.3.1. Vật chất quyết định ý thức.............................................................................................24
2.2.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.............................26
2.2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận..............................................................................................27
2.3. NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ...........................................................................................................27
2.3.1. Khái niệm Nguyên nhân và Kết quả........................................................................................................27
2.3.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả..........................................................................28
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................................................29
2.4. BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG...........................................................................................................30
2.4.1. Khái niệm Bản chất và Hiện tượng..........................................................................................................30
2.4.2. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.............................................................................31
2.4.1. Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................................................33
III. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT...................................33
3.1. QUY LUẬT VÀ SỰ PHÂN LOẠI QUY LUẬT.....................................................................................33
3.1.1. Quy luật, tính quy luật và đặc điểm của quy luật..............................................................................33
3.1.2. Sự phân loại quy luật....................................................................................................................................34
3.2. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP (QUY LUẬT MÂU
THUẪN)..........................................................................................................................................................34
3.2.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật............................................................34 1
3.2.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật.........................................................................................................34
3.2.3. Nội dung của quy luật...................................................................................................................................36
3.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................................................36
3.3. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI (QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT)..................................................................37
3.3.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật............................................................37
3.3.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật.........................................................................................................37
3.3.3. Nội dung của quy luật...................................................................................................................................38
3.3.4. Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................................................39
3.4. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH..........................................................................................40
3.4.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật............................................................40
3.4.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật.........................................................................................................40
3.4.3. Nội dung của quy luật...................................................................................................................................41
3.4.4. Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................................................41
B. BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC (TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC)..........................................42
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHẬN THỨC
.............................................................................................................................................................................. 42
1.1. Nguyên lý về nguồn gốc của nhận thức....................................................................................42
1.2. Nguyên lý về khả năng nhận thức...............................................................................................43
1.3. Nguyên lý về thực tiễn....................................................................................................................43
1.4. Nguyên lý về chân lý........................................................................................................................43
II. NHẬN THỨC VÀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC......................................44
2.1. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC.................................44
2.1.1. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn...............................................................................44
2.1.2. Nhận thức và các trình độ nhận thức.....................................................................................................44
2.1.3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức..................................................................................................46
2.2. CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC..................................................................47
2.2.1. Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức....................................47
2.2.2. Chân lý................................................................................................................................................................51 2
CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
(TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN VÀ TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC)
A. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT (TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN)
TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN”
* HAI LOẠI HÌNH BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
+ Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Biện chứng là quan điểm, phương pháp xem xét các sự vật, hiện tượng trong
mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
sinh và tiêu vong của chúng. Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy
sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa
thấy toàn thể, không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng. Bên cạnh quan niệm … hoặc là
… hoặc là … còn có quan niệm … vừa là … vừa là…
Biện chứng lại được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
- Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản
thân thế giới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
- Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của sự thống
nhất giữa lôgíc (biện chứng), phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện
chứng và biện chứng của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc
con người. Bởi vậy, biện chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt
khác phản ánh những quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống
nhất với nhau, tạo nên cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải tạo tự nhiên, cải 3
tạo xã hội. Sự khác nhau giữa chúng được Ph.Ăngghen chỉ ra, Biện chứng gọi là
khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan,
tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối,…, của sự vận động thông
qua những mặt đối lập,…, thông qua sự đấu tranh thường xuyên… và sự chuyển
hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia,… Trong mối
quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan, tức bản thân
sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng như thế nào thì tư duy, nhận
thức của con người về chúng cũng phải phản ánh đúng như thế ấy.
+ Khái niệm phép biện chứng duy vật
C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin không đưa ra một định nghĩa thống nhất nào
về phép biện chứng duy vật, mà trong các tác phẩm của các ông có nhiều định
nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật.
- “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
- “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” có “Những quy luật
chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu
thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu
thuẫn đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ
định, - phát triển theo hình xoáy trôn ốc”.
- “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức
của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”
- “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất
của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng
điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức
và lôgíc biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều
được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển
của khoa học tự nhiên trước đó.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện chứng
từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định
hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó 4
mới có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong
thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên
cứu này sang lĩnh vực khác.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có
tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể
hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong
trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát
triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát
triển?... Để trả lời câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
những nguyên lý xuất phát, những cặp phạm trù và những quy luật cơ bản.
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ THẾ GIỚI
1.1. NGUYÊN LÝ VÀ SỰ PHÂN LOẠI NGUYÊN LÝ
+ Nguyên lý là khái niệm chỉ hệ thống lý luận căn bản của một học thuyết khoa
học làm nền tảng cho học thuyết khoa học. Đó là hệ thống lý luận phản ánh nhận
thức tổng quát của một khoa học về phạm vi, lĩnh vực mà nó nghiên cứu, được quan
niệm như những chân lý chắc chắn, thực hiện chức năng nhận thức, giải thích thế
giới và định hướng hoạt động của con người.
+ Sự phân loại của nguyên lý:
- Nguyên lý đặc thù (Nguyên lý của các khoa học): Là nguyên lý khái quát
những thuộc tính, đặc điểm cơ bản, trật tự và cơ chế điều hành, chi phối sự tồn tại
và biến đổi của một phạm vi, lĩnh vực nhất định của thế giới. Tri thức chứa đựng
trong các nguyên lý này là tri thức chuyên biệt, chuyên nghành, có giới hạn, chỉ giải
thích được cho các đối tượng trong một phạm vi, lĩnh vực xác định.
- Nguyên lý phổ biến (Nguyên lý triết học): Là nguyên lý khái quát những
thuộc tính, đặc điểm cơ bản, tổng quát của toàn bộ thế giới. Tri thức chứa đựng
trong các nguyên lý này là tri thức tổng quát, phổ quát, giải thích được toàn bộ thế
giới một cách cơ bản nhất, bản chất nhất.
1.2. HAI NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT Của TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến a. Khái niệm
- Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, quy định, phụ
thuộc lẫn nhau, làm tiền đề điều kiện cho nhau; sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn 5
nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn
tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (phổ biến, phổ quát).
b. Các tính chất của mối liên hệ
+ Tính khách quan: Mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng do chỗ vạn
vật đều thống nhất ở tính vật chất, không phải do một lực lượng siêu nhiên nào hay
ý thức, cảm giác của con người quy định.
+ Tính phổ biến: Mối liên hệ tồn tại phổ biến (phổ quát) trong mọi phạm vi,
lĩnh vực khác nhau của thế giới.
+ Tính phong phú, đa dạng: Mối liên hệ là muôn màu, muôn vẻ về dạng thức,
phương thức; có vị trí, vai trò và tác dụng khác nhau.
+ Tính tác dụng: Mối liên hệ quy định sự tồn tại, vận động và biến đổi của các sự vật, hiện tượng.
c. Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Mọi sự vật, hiện tượng; mọi mặt của các sự vật, hiện tượng đều có mối liên
hệ với nhau; đều ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; đều làm tiền đề, điều
kiện cho nhau; đều tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Không có sự vật, hiện
tượng nào; không có mặt nào tồn tại tự mình, độc lập, tách biệt mà không liên hệ
với các sự vật, hiện tượng, các mặt khác.
+ Mối liên hệ là phương thức, là điều kiện quy định sự tồn tại hay không tồn
tại của mọi sự vật, hiện tượng. Thông qua mối liên hệ, bằng mối liên hệ, do mối liên
hệ, sự tồn tại hay không tồn tại của sự vật, hiện tượng mới bộc lộ ra; sự vật, hiện
tượng mới biểu hiện ra nó là gì, như thế nào và phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác.
+ Tổng thể của các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt của
sựt vật, hiện tượng đan xen, chằng chịt, quy định và tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau. Nó tạo nên một bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc, nhiều hình, nhiều vẻ của
mối liên hệ trong thế giới.
Kết cấu cơ bản của bức tranh tổng quát về mối liên hệ phổ biến bao gồm:
- Về các dạng thức (hình thức) liên hệ: giữa vật chất – ý thức, giữa chất –
lượng, giữa các mặt đối lập, giữa cái chung – cái riêng, nguyên nhân – kết quả, tất
nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực. 6
- Về phương thức (cách thức) liên hệ: trực tiếp – gián tiếp, trên – dưới, trong –
ngoài, chiều dọc – chiều ngang
- Về vị trí, vai trò của liên hệ: khách quan – chủ quan, chủ yếu – thứ yếu, quan
trọng – không quan trọng, cơ bản – không cơ bản, ...
+ Cơ sở của các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt của sự
vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Chính tính thống nhất vật
chất của thế giới quy định các dạng thức liên hệ, phương thức liên hệ, vị trí vai trò
của liên hệ. Không có tính thống nhất vật chất của thế giới thì không có mối liên hệ
nào giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt của sự vật, hiện tượng.
d. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
+ Nguyên tắc liên hệ: Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn cần phải đặt sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
+ Nguyên tắc toàn diện: Phải nghiên cứu xem xét đầy đủ tất cả các mối
liên hệ của sự vật, hiện tượng. Phải nắm bắt tính hệ thống, tính tổng hòa, tính bao
quát của các mối liên hệ muôn hình muôn vẻ của sự vật, hiện tượng.
Xem xét toàn diện nhưng không được cào bằng mà phải biết phân biệt từng
mối liên hệ. Phải nắm bắt và nhận diện được khuynh hướng chiết trung và thuật
ngụy biện là hai phương pháp nhận thức sai lầm về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: Phải đặt sự vật, hiện tượng vào trong thời
gian, không gian cụ thể. Phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự
vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển, cả về không gian, thời gian và các mối liên hệ.
1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển
Trong triết học Mác - Lênin, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với
nguyên lý về sự phát triển. Sự liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố của
sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng với nhau tất yếu làm nên sự vận
động, phát triển của chúng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật
(của triết học Mác – Lênin) là nghiên cứu toàn diện, bao quát sự vận động, phát
triển khách quan ấy của thế giới, tìm ra bản chất và những quy luật vận động của quá trình đó. 7 a. Khái niệm
- Vận động là phạm trù triết học dùng để chỉ mọi sự biến đổi, mọi sự thay đổi
trên các phương diện: vị trí, hình thái, cấu trúc, chiều hướng, … của mọi sự vật, hiện tượng.
- Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn trên
các phương diện của mọi sự vật, hiện tượng.
b. Các tính chất của phát triển
- Tính khách quan: phát triển là thuộc tính khách quan vốn có của các sự vật, hiện
tượng; phát triển tồn tại độc lập với ý thức của con người dù con người nhận thức được hay ko nhận thức được.
- Tính phổ biến: phát triển là khuynh hướng tồn tại, có mặt trong toàn bộ thế giới.
+ Trong tự nhiên, sự phát triển biểu hiện ra ở khuynh hướng phát triển ngày
các phức tạp của vạn vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đơn giản đến những tổ
chức sống vô cùng phức tạp, ngày một thích nghi và hoàn thiện hơn trước sự biến
đổi của môi trường.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực của con người chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội đến tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng
con người. Xã hội loài người đó phát triển từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua các
chế độ CHNL, PK, TBCN đến XHCN.
+ Trong tư duy, phát triển là sự vận động, tiến lên không ngừng của các tri
thức, khái niệm, đưa khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ,
đúng đắn hơn với hiện thực khách quan.
- Tính phong phú đa dạng: Mỗi sự vật, hiện tượng có một quá trình phát triển
không giống nhau, tùy thuộc vào các điều kiện tồn tại và các mối liên hệ của nó.
c. Nội dung của nguyên lý về sự phát triển
+ Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, chuyển hóa từ hình thức tồn
tại này sang hình thức tồn tại khác. Không có sự vật, hiện tượng nào luôn luôn giữ
nguyên bản thân nó, luôn luôn như nó là, không thay đổi. Không có sự vật, hiện
tượng nào vĩnh viễn, bất biến. Tất cả đều chỉ là quá độ, tạm thời, thoáng qua, tương
đối. Tất cả đều không ngừng biến đổi và biến đổi là tuyệt đối, tồn tại là nhất thời, tương đối.
“Sự tồn tại của giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất cho đến cái lớn nhất, từ hạt cát
cho đến mặt trời, từ nguyên sinh vật cho đến con người, là một quá trình không 8
ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động không ngừng, vận động và biến hóa bất tuyệt”
(Ph. ĂngGhen, Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội 1971, trang 29).
+ Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Phát triển là
quá trình biến đổi, mở rộng mọi mặt, mọi phương diện (thành phần, kết cấu nội
dung, hình thức, mối liên hệ) của sự vật, hiện tượng theo hướng đa dạng hơn, phức
tạp hơn, có tổ chức hơn nhưng tiến bộ hơn, tiên tiến hơn và chất lượng hơn. Đó là
quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
“Phát triển không phải là một sự lớn lên đơn giản, một sự tăng thêm (hay là
một sự giảm bớt) phổ biến mà phát triển là sự sinh ra và sự hủy diệt của mọi vật, là
những sự chuyển hóa lẫn nhau” (V.I. Lênin, Bút ký triết học, NXB Sự thật Hà Nội, 1963, trang 284 – 285).
+ Phát triển là quá trình biện chứng tự thân của sự vật, hiện tượng, là quá trình
sự vật, hiện tượng tự vạch đường đi cho mình, tự diễn biến mình, tự trình hiện mình. Trong đó:
- Sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu thuẫn của chính nó (mâu thuẫn giữa
các mặt đối lập, mâu thuẫn giữa cái chất lượng và số lượng, mâu thuẫn giữa các
khẳng định và phủ định).
- Sự vật, hiện tượng tạo lập các “vòng khâu biện chứng” hay các “vòng khâu
liên hệ” theo đường xoáy ốc đi từ cái khẳng định đến cái phủ định, từ cái phủ định
đến cái phủ định của phủ định.
- Sự vật, hiện tượng tổ chức sắp xếp lại bản thân, đổi mới, nâng cấp nó (vứt bỏ,
loại bỏ cái không còn thích hợp, phù hợp, ko còn tác dụng; tạo lập trật tự mới với
những cái còn thích hợp, còn phù hợp, còn tác dụng)
d. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển
- Nguyên tắc vận động: mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, đều
chuyển hóa từ hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác, ko có sự vật, hiện
tượng nào bất biến, giữ nguyên hiện trạng như nó là. Trái lại tất cả đều biến đổi, đều
quá độ, đều thoáng qua vì vậy trong mọi nhận thức nghiên cứu khoa học, trong mọi
phạm vi lĩnh vực khác nhau chủ thể nhận thức phải nắm bắt sự vật, hiện tượng
trong quá trình vận động biến đổi chuyển hóa của nó chứ không phải trong trạng
thái bất biến tĩnh tại ngưng trệ
Theo Lê nin: “logic biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển,
trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó”. (V.I. Lênin, tập 42, tr. 364) 9
- Nguyên tắc mâu thuẫn: vận động là tự thân, phát triển là tự thân. Vận
động và phát triển là kết quả của việc sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu
thuẫn bên trong nó. Vì vậy trong mọi nhân thức nghiên cứu khoa học, trong mọi
phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên cứu phải nắm
bắt được các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn và sự tác động qua lại của chúng để
nắm bắt sự vận động, biến đổi chuyển hóa của chúng.
Theo Lê nin: “Sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Vì vậy
nhận thức sự vật, hiện tượng là nhận thức các mặt đối lập và sự đấu tranh của chúng.
- Nguyên tắc biện chứng: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng nhưng phát triển không diễn ra theo con đường thẳng tắp, cũng không
theo đường tròn khép kín mà theo đường xoáy ốc, quanh co, zic zac, phức tạp, phụ
thuộc vào lĩnh vực tồn tại và điều kiện hoàn cảnh môi trường tồn tại của sự vật, hiện
tượng. Vì vật trong mọi nhận thức nghiên cứu khoa học, trọng mọi phạm vi lĩnh vực
khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên cứu phải nắm bắt được biện
chứng quanh co phức tạp, zic zac của quá trình vận động phát triển của sự vật, hiện
tượng để nắm bắt tính tất yếu của sự phát triển của nó.
Theo Lê nin: “Bản thân sự vật phải được xem xét trong những và trong sự
phát triển của nó" (V.I. Lênin, tập 42, tr. 238)
II. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2.1. KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ
2.1.1. Khái niệm và các bộ phận cấu thành khái niệm
- Khái niệm là những kí hiệu ngôn ngữ được tổ chức sắp xếp theo một cách
thức nhất định và được con người sử dụng như những công cụ, phương tiện để biểu
đạt sự hiểu biết của con người về thế giới, về các sự vật, hiện tượng.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mặt,
những thuộc tính chung, bản chất, phổ biến của một lớp các sự vật, hiện tượng nào
đó và được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ.
- Các bộ phận cấu thành khái niệm:
+ Nội hàm: là tri thức hàm chứa bên trong khái niệm, tri thức làm thành nội
dung cơ bản của khái niệm, tri thức biểu đạt khái quát những thuộc tính đặc điểm
cơ bản chủ yếu của sự vật, hiện tượng 10
+ Ngoại diên là phạm vi biểu đạt khái quát, là miền xác định hay biên giới của
khái niệm trong đó tập hợp chứa đựng các sự vật, hiện tượng có cùng thuộc tính đặc
điểm được nội hàm khái quát
2.1.2. Phạm trù và sự phân loại của phạm trù
- Phạm trù: là những khái niệm chung nhất biểu đạt nhận thức hiểu biết của
con người về một phạm vi lĩnh lực nào đó của thế giới, biểu đạt những thuộc tính
đặc điểm cơ bản của các sự vật, hiện tượng của phạm vi lĩnh vực đó
- Sự phân loại của phạm trù
+ Phạm trù khoa học là phạm trù của các khoa học, đó là những khái niệm biểu
đạt nhận thức, hiểu biết của các khoa học đó về phạm vi lĩnh vực cụ thể, xác định mà
khoa học đó nghiên cứu, biểu đạt những thuộc tính cơ bản của lớp sự vật, hiện tượng
thuộc lĩnh vực cụ thể xác định mà khoa học đó nghiên cứu
+ Phạm trù triết học là những khái niệm biểu đạt nhận thức hiểu biết của con
người về toàn bộ tổng thể thế giới (tự nhiên, xã hội, tư duy), biểu đạt những thuộc
tính đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ thế giới, toàn bộ sự vật, hiện tượng làm thành thế giới.
2.2. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 2.2.1. VẬT CHẤT
2.2.1.1. Định nghĩa Vật chất của V.I. Lênin
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã xuất hiện cùng với sự ra đời
của triết học và nó cũng có quá trình phát sinh, phát triển gắn liền với hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Ngay từ khi mới ra đời, xung quanh
phạm trù vật chất đó diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Các nhà duy tâm, dù duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan đều cho
vật chất là sản phẩm của ý thức, tinh thần hay của những lực lượng siêu nhiên.
+ Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học duy vật đó cố gắng giải thích vật
chất trên tinh thần duy vật. Các nhà triết học duy vật thời cổ đại, nhìn chung đã
đồng nhất vật chất nói chung với những dạng tồn tại cụ thể của nó, tức là những
vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
- Ở Ấn Độ cổ đại: Trường phái triết học Sàmkhya sơ kỳ quan niệm rằng thế
giới là vật chất, thế giới có nguyên nhân vật chất, vật chất đầu tiên là Pràkriti. 2
phái Nyàya – Vai’sesika cho rằng bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là 11
những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở
chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong
không gian và thời gian, được gọi là Anu (nguyên tử). Theo quan niệm của những
nhà triết học Lokàyata, thế giới được tạo ra từ 4 yếu tố vật chất: đất, nước, lửa,
không khí. Trong quan niệm về thế giới, khi đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”,
Phật giáo cũng nêu ra quan niệm về vật chất. Theo lý thuyết của đạo Phật, “thế
giới, nhất là thế giới được tạo thành do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và
các yếu tố tinh thần (Danh) bao gồm: thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (tư
duy nói chung), thức (ý thức).
- Trong triết học Trung Hoa thời cổ ,
đại Thuyết Âm Dương cho rằng khởi
thuỷ của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật (tự nhiên và xã hội), phân tán thì
muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là một. Thuyết Ngũ hành coi năm
yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là những yếu tố khởi nguyên tạo nên mọi vật.
- Trong triết học Hy Lạp cổ :
đại Thales (Talét) cho rằng vật chất là nước,
Anaximenes (Anaximen) cho rằng vật chất là không khí, Heraclitus (Hêraclít) cho vật
chất là lửa; Empedocles (Ămpêđoclơ) đã coi thực thể của thế giới là bốn yếu tố: đất,
nước, lửa và không khí; Anaximander (Anaximăngđrơ) cho rằng cơ sở đầu tiên của
mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh
viễn, đó là Apeiron (Apâyrôn).
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa
vật chất của Leucippus (Lơxíp) and Democritus (Đêmôcrít). Hai ông định nghĩa vật
chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử là những hạt
vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác nhau về chất, mà chỉ khác
nhau về hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn, không do
ai sáng tạo ra và cũng không thể bị huỷ diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là
do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Tuy còn hạn chế như quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất, nhưng học
thuyết nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù
vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học về vật chất sau này.
+ Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII: Niềm tin vào
các chân lý cơ học trong cơ học Newton (Niutơn) đã khiến các nhà khoa học lúc đó
đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của
vận động cơ học, nguồn gốc của vận động được coi là nằm ở bên ngoài vật chất, từ
đó dẫn tới thừa nhận “cái hích của Thượng đế”. Đồng thời, kế thừa quan điểm 12
nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn tiếp tục coi nguyên tử
là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một
cách siêu hình với vận động, không gian và thời gian.
Như vậy, họ vẫn đồng nhất vật chất với các vật thể cụ thể, cảm tính; họ
không coi vật chất có sinh ra, mất đi. Hạn chế này chứa đựng cuộc khủng hoảng
tiềm tàng với những mâu thuẫn to lớn trong quan niệm về vật chất trong tương lai
khi những phát minh mới trong khoa học tự nhiên xuất hiện vào khoảng những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
+ Khủng hoảng trong quan niệm về vật chất vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học
đã có một loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới
về cấu trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản
quan niệm cổ truyền về vật chất:
- Năm 1895, Wilhelm Röntgen (Rơnghen) đã phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, Henri Becquerel (Beccơren) phát hiện được hiện tượng phóng xạ
của nguyên tố Uranium; rằng, do quá trình phóng xạ, sau khi bức xạ ra hạt anpha
(), nguyên tố phóng xạ biến thành nguyên tố khác.
- Năm 1897, Joseph John Thomson (Tômxơn) phát hiện ra điện tử (electron) và
chứng minh rằng, điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901, Walter Kaufmann đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là bất biến mà nó biến đổi theo vận tốc của điện tử rằng, trong quá
trình vận động: khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng.
Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc
về nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ
nhất, mà nó có thể bị phân ra và chuyển hoá. Điều đó đã gây ra một cuộc khủng
hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học tự nhiên, khiến cho
những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng kém cái về triết học" đã trượt từ chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng
rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm rằng, "vật chất tiêu tan". Lợi dụng cơ hội
này, các nhà triết học duy tâm, một mặt đã biện hộ cho những quan điểm sai lầm
của mình; mặt khác, họ đẩy mạnh cuộc tấn công trực diện vào khái niệm vật chất.
Họ la lối lên rằng, nếu nguyên tử bị phá vì tức là "vật chất tiêu tan" và chủ nghĩa
duy vật dựa trên nền tảng khái niệm vật chất đó cũng phải bị biến mất theo. 13
Bác bỏ sự giải thích duy tâm chủ nghĩa đối với phạm trù vật chất, V.I. Lênin
chỉ ra rằng, không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con
người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới
hạn của sự nhận thức về vật chất. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; kế thừa những tư tưởng của
Mác và Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống
nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của
vật chất dưới các dạng cụ thể, ... vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về
phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận.
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
Ở định nghĩa này Lênin đã chỉ ra:
+ Vật chất là một phạm trù triết học:
Phạm trù vật chất của triết học là phạm trù có tính khái quát nhất, không
giống với khái niệm vật chất trong một số ngành khoa học cụ thể, hay trong đời sống hàng ngày.
Phạm trù “vật chất” là cái biểu đạt và thực tại khách quan là cái được biểu
đạt. Phạm trù vật chất là công cụ phương tiện ngôn ngữ của con người, là cái thuộc
về chủ thể nhận thức, thuộc về tư duy, tinh thần bên trong con người.
Với tư cách là phạm trù triết học, vật chất ở đây phải được hiểu là “sự sáng
tạo thuần tuý của tư duy”, là “cái dùng để chỉ” thuộc tính cơ bản nhất của các sự
vật, hiện tượng trong hiện thực.
Vì vậy, không được đồng nhất vật chất với tư cách là một phạm trù triết học
với các dạng tồn tại cụ thể của nó mà các khoa học chuyên ngành nghiên cứu.
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì không có một gam vật chất nào cả.
+ Vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất là “thực tại
khách quan” và “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thực tại khách quan là tồn tại thực và tồn tại khách quan không phụ thuộc, lệ
thuộc vào ý thức, cảm giác của con người. 14
Thuộc tính tồn tại thực và tồn tại khách quan không phụ thuộc, lệ thuộc vào ý
thức, cảm giác của con người là điều kiện cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc về vật
chất và cái gì không thuộc về vật chất.
+ “Thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”
“Thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác”: Điều này
nói lên rằng, thực tại khách quan (vật chất) là có trước, cảm giác của con người là
có sau. Cảm giác của con người có thể “chép lại, chụp lại, phản ánh” được thực tại khách quan (vật chất).
“Thực tại khách quan, ..., được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh”: Như vậy, thực tại khách quan (vật chất) không tồn tại trừu tượng mà tồn tại
thông qua các dạng tồn tại cụ thể của nó và bằng cảm giác (ý thức) con người có
thể nhận thức được. Điều này cũng có nghĩa là thực tại khách quan (vật chất) là nội
dung khách quan, nguồn gốc khách quan của những cảm giác (ý thức) của con người.
* Ý nghĩa khoa học của định nghĩa vật chất của Lênin
+ Định nghĩa đã giải quyết một cách triệt để, khoa học nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
+ Định nghĩa đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa, phát triển được
những tư tưởng của Mác và Ăngghen về vật chất. 15
+ Định nghĩa là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả, để đảm bảo sự đứng
vững của chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của khoa học tự nhiên.
+ Định nghĩa còn trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho
các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin ở khả
năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất.
Do vậy, định nghĩa này đã có tác dụng đưa khoa học tự nhiên và nhất là vật lý
học thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và tiếp tục tiến lên.
+ Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật
biện chứng trong lĩnh vực xã hội – Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời còn tạo cơ
sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2.2.1.2. Vận động, không gian, thời gian - Hình thức tồn tại, phương
thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất a. Vận động + Khái niệm:
Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hiểu vận động là sự di chuyển vị
trí của sự vật trong không gian. Tuy nhiên, sự phát triển của thực tiễn và của nhận
thức khoa học cho thấy rằng, nếu hiểu vận động chỉ theo nghĩa như vậy là hạn hẹp
và không đầy đủ (siêu hình).
Theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
+ Đặc tính của vận động:
Vật chất chỉ có thể tồn tại và biểu hiện sự tồn tại thông qua vận động. Trong
vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại
của nó, chỉ ra nó là cái gì. Không thể có vật chất không vận động và ngược lại không
thể có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không thuộc về vật chất. 16
=> Do đó, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất.
Với tính cách “là thuộc tính cố hữu của vật chất” theo quan điểm của triết
học Mác – Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất. Nguồn gốc của
vận động nằm ngay trong bản thân sự vật, do sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập bên trong sự vật quy định.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một
thuộc tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị
mất đi hoặc sáng tạo ra, mà chỉ chuyển hoá từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác.
Kết luận này của triết học Mác – Lênin đã được khẳng định bởi Định luật bảo
toàn chuyển hoá năng lượng. Theo định luật này, vận động của vật chất được bảo
toàn cả về lượng lẫn chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của vật chất mất đi,
tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Các hình thức vận động
chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự
tồn tại vĩnh viễn của vật chất. + Các h ì n h thức vận đ ộ n g c ơ b ản c ủ a vật c h ất
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân
chia vận động thành năm hình thức cơ bản sau:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các điện tử, phân tử, hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện, ...)
- Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất)
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội, các hình thái kinh tế – xã hội)
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như
trên, cần chú ý nguyên tắc quan hệ giữa chúng là:
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến
vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động. Những trình độ này
tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất.
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các 17
hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn.
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận
động khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc
trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. + Vận đ ộ n g và đ ứ n g i m :
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không
loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối. Đứng im là sự vận
động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật cụ thể nào tồn tại
và phát triển được. Đứng im tương đối là điều kiện chủ yếu để một vật này tách biệt
được với một vật khác.
Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay là trạng thái cân
bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là:
Thứ nhất, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ
nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó,
chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động
trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật, một cây,
một con, ... trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng
thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hoá tiếp theo. Không có đứng
im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu hiện như một
quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi.
=> Tóm lại, vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời.
Đây cũng là một trong những quan điểm xuất phát cơ bản của phép biện chứng duy vật.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu sự vật hiện tượng cần đặt chúng trong cả trạng thái vận động và trạng thái đứng im
- Đi tìm nguồn gốc, động lực của sự vận động của sự vật, hiện tượng cần xuất
phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng
- Nắm vững sự thống nhất, mối liên hệ biện chứng giữa các hình thức vận
động, đồng thời cũng phải hiểu rõ sự khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản. 18
- Không được quy vận động nói chung về một hình thức vận động nhất định
- Phải thấy được rằng vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời
b. Không gian và thời gian
Trong triết học Mác – Lênin, cùng với phạm trù vận động thì không gian và
thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại, hình thức tồn tại của vật chất.
Lênin đã nhận xét rằng: “trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận
động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật, hiện
tượng tồn tại khách quan đều có vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn, cao thấp của
nó - tất cả các thuộc tính đó gọi là không gian và không gian biểu hiện sự cùng tồn
tại và cách biệt giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, biểu hiện quảng tính, trật tự
phân bố của chúng. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái không ngừng
biến đổi, nhanh, chậm, kế tiếp nhau và chuyển hóa lẫn nhau- tất cả những thuộc
tính đó gọi là thời gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất thể hiện ở độ
lâu của sự biến đổi; trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác
nhau trong thế giới vật chất; thời gian cũng đặc trưng cho trình tự diễn biến của các
quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó.
c. Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật
chất và quan hệ biện chứng giữa chúng
* Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Hình thức tồn tại (hình
Phương thức tồn tại
Diễn biến tồn tại (vận
thái biểu hiện sự tồn tại) (Cách thức duy trì
động, biến đổi, chuyển của vật chất sự tồn tại)
hóa) của vật chất của vật chất
Phương diện cơ học:
Biến đổi cơ học:
+ Các vật vĩ mô: Chất rắn, + Liên hệ tương tác cơ + Biến dạng cơ học (hình chất lỏng, chất khí.
học giữa các vật vĩ dáng, kích thước, diện tích
+ Các vật đại vĩ mô: quả mô, đại vĩ mô và hệ bề mặt) của các vật thể.
đất, địa quyển các hành thống các vật đại vĩ + Biến đổi chuyển hóa từ
tinh, các vệ tinh, các ngôi mô bằng lực hấp dẫn chất rắn sang thể lỏng, từ 19 sao.
vũ trụ và trường hấp chất lỏng và chất khí và
+ Hệ thống các vật đại vĩ dẫn ngược lại.
mô: Ngân hà, thiên hà, siêu + Biến đổi vị trí:
thiên hà, siêu siêu thiên hà.
(Định luật vạn vật hấp Sự chuyển động và thay đổi dẫn của Newton)
vị trí trong không gian của
các vật thể, các hành tinh, các ngân hà, thiên hà
Phương diện vật lý:
Biến đổi vật lý:
+ Nhiệt (sự nóng lạnh của + Liên hệ tương tác Biến đổi cơ năng thành vật thể, ...)
vật lý hoặc trực tiếp nhiệt năng, điện năng, hóa + Điện (electron)
hoặc gián tiếp bằng năng, bức xạ năng.
+ Từ (vật liệu có khả năng các lực vật lý (lực
hút sắt vào lòng quay kim nhiệt, lực điện, lực từ, đồng hồ: FeO, Fe2O3 lực ánh sang, lực nén,
+ Ánh sáng (1 dạng bức xạ lực đẩy, lực ma sát,
của điện từ) các tia sang: …) giữa nhiệt, điện từ, hồng ngoại, tử ngoại. ánh sáng, … qua các
+ Trường (thực thể truyền trường vật lý của
tương tác): trường điện từ, chúng (trường hấp
trường song, trường giao dẫn, trường điện từ,
thoa, trường hạt nhân, … trường sóng, ...) + Plasma (trạng thái Ion
hóa cao độ của các vật thể
có mật độ điện tích âm và
điện tích dương bằng nhau).
Phương diện hóa học:
Biến đổi hóa học:
+ Các hạt vi mô hay các hạt + Liên hệ, tương tác + Biến đổi thành phần cấu
nhân và các phản hạt: hóa học giữa các hạt tạo của các chất, biến đổi
Proton, Nơtron, Nơtrino, vi mô, các phân tử, phân tử, nguyên tử. Muyon.
nguyên tử, các đơn + Biến đổi bức xạ năng
+ Spin (đặc trưng lượng từ chất, hợp chất, … thành các dạng năng lượng
của các hạt cơ bản và hạt bằng các lực: lực khác. nhân)
tương tác giữa nguyên + Biến đổi các đơn chất,
+ Phân tử (hạt bền vững và tử và phân tử trung hợp chất do sự hoá hợp và bé nhỏ của một chất)
hòa điện (Lực phân giải của các chất (từ
+ Nguyên tử (hạt nhỏ nhất Vanderwalls, các liên đơn chất thành hợp chất và 20
của một nguyên tố hóa học) kết hóa học, liên kết hợp chất thành các đơn (hạt nhân và điện tử)
ion, liên kết cộng hóa chất, ...
trị), lực tương tác giữa các phân tử (có liên kết hóa học bão hòa
Phương diện sinh học:
Biến đổi sinh học:
+ Các thể protid: protid đơn + Liên hệ tương tác + Biến đổi tế bào, biến đổi
giản (Anleumin, Prolaumin, giữa các protid, các tổ kiểu gen, biến đổi kiểu hình
histron), protid phức tạp chức sinh vật với môi (cơ thể, màu sắc, hình dáng
(Cromoproteil, Nucleotid, trường bên ngoài (đất, cơ thể).
glucoproteil), Các acid nước, ánh sáng, nhiệt + Biến đổi các giống loài
nucleic: ADN, ARN, các vi độ, không khí, độ ẩm)
thực vật để thích nghi với sự
sinh vật, vi khuẩn, vi trùng, + Liên hệ tương tác biến đổi của môi trường, siêu vi trùng
giữa các yếu tố bộ hoàn cảnh.
+ Các thể đơn bào, đa bào, phận bên trong cơ thể + Sự phát triển tiến hóa của thực vật, động vật.
sinh vật, thực vật các loài thực vật, động vật
động, quần xã sinh (từ thấp đến cao, từ đơn học.
giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn).
Phương diện xã hội:
Biến đổi xã hội:
+ Các hệ thống xã hội và + Liên hệ tương tác + Biến đổi thành phần cấu
các thành phần tạo nên giữa cá nhân, nhóm tạo của xã hội: cá nhân,
chúng: con người, nhóm người, cộng đồng nhóm người, cộng đồng
người, cộng đồng người, xã người qua các hoạt người.
hội loài người, xã quyển.
động trên mọi lĩnh + Biến đổi, thay thế lẫn
+ Các phương tiện vật chất vực.
nhau của các hình thái kinh
máy móc thiết bị kỹ thuật + Liên hệ tương tác tế - xã hội. của xã hội.
giữa lực lượng sản + Sự phát triển của văn
xuất, quan hệ sản minh vật chất, sự tiến bộ
xuất, trong các xã hội của xã hội. cụ thể, hình thái kinh tế xã hội cụ thể.
* Quan hệ biện chứng giữa hình thức tồn tại, phương thức tồn tại,
diễn biến tồn tại của vật chất 21
+ Vật chất là một thể thống nhất biện chứng của ba mặt:
- Về hình thức tồn tại: Vật chất tồn tại khách quan nhưng không tồn tại thần bí
mà tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể có các đặc trưng tự nhiên của
chúng được các khoa học cụ thể khám phá, phát hiện, khái quát.
- Về phương thức tồn tại: Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ trực tiếp hoặc gián
tiếp qua môi trường tương tác của nó.
- Về diễn biến tồn tại: Vật chất vận động, biến đổi, chuyển hóa, phát triển.
+ Mỗi hình thức tồn tại của vật chất có phương thức tồn tại riêng, có diễn biến
tồn tại riêng của nó. Chúng luôn luôn liên hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ, tương tác, vận động biến đổi và thông
qua chúng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, vật chất gắn liền với liên hệ,
tương tác, vận động; liên hệ, tương tác, vận động gắn liền với vật chất.
+ Vật chất tồn tại khách quan, không tự sinh ra không tự mất đi. Vật chất chỉ
biến đổi, chuyển hóa từ hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại này
sang hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại khác. Vật chất được
bảo toàn, các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại được bảo toàn.
Vật chất tồn tại vĩnh viễn, vận động tồn tại vĩnh viễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất là thể thống nhất biện chứng, không tách rời nhau của ba mặt: Hình
thức tồn tại, phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại. Vì vậy, muốn nhận thức khách
quan, khoa học, đúng đắn về vật chất chúng ta phải nhận thức đầy đủ cả ba mặt đó
của vật chất. Tách rời và tuyệt đối hóa một mặt nào là sai lầm về mặt phương pháp
nhận thức và là con đường dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình hoặc chủ nghĩa duy tâm thần bí.
- Vật chất tồn tại dưới các hình thức cụ thể. Mỗi hình thức tồn tại có phương
thức và diễn biến tồn tại riêng và chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy:
+ Cần nhận thức sự khác nhau giữa các hình thức tồn tại của vật chất, phân
biệt sự khác nhau về chất giữa chúng. Không được đồng nhất các hình thức tồn tại,
các phương thức tồn tại và các diễn biến tồn tại với nhau. Không được quy hình thức
vận động này vào hình thức vận động kia. Không được quy mọi hình thức vận động
về một hình thức vận động. 22
+ Cần nắm bắt được sự thống nhất biện chứng, mối liên hệ, sự tác động qua
lại, sự biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại,
diễn biến tồn tại của vật chất. 2.2.2. Ý THỨC
2.2.2.1. Khái niệm và kết cấu
- Khái niệm: Ý thức là phạm trù triết học dùng để biểu đạt thực tại chủ quan
tồn tại trong bộ óc người, biểu đạt các quá trình tâm lý – tư tưởng làm thành đời
sống tinh thần của con người.
- Kết cấu của ý thức: Với tư cách là thực tại chủ quan, ý thức có cấu trúc rất
phức tạp. Theo triết học Mác – Lênin ý thức chia theo 2 chiều:
+ Theo chiều ngang: Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá
trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta
có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, ...; trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất.
+ Theo chiều dọc: Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người, cần nhận thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức, ... Tất cả
những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong
phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.
2.2.2.2. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu khoa học, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, mà ý
thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà
chỉ là thuộc tính của dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người
+ Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc
người. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh trong bộ
óc người. Không có quá trình này thì không thể có ý thức, và nói chung không có bất
kỳ một hoạt động tâm lý, ý thức, tư tưởng nào. Chỉ có con người với bộ óc của mình mới sản sinh ra ý thức.
(Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh
vật – xã hội, sau quá trình vượn biến thành người, óc vượn biến thành óc người. Bộ
óc người là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi, phức tạp, bao
gồm khoảng 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào thần kinh này có liên quan mật
thiết với nhau và với các giác quan con người, tạo thành vô số những mối liên hệ 23
qua lại với thế giới bên ngoài thông qua các quá trình phản xạ không điều kiện và có điều kiện).
Nhưng, nếu chỉ có riêng bộ óc, không có sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Đặc điểm của ý thức là
tồn tại như một đặc tính không thể tách rời khỏi óc người.
+ Ý thức là quá trình phản ánh khái quát và có chọn lọc về thế giới khách
quan, nhằm hình thành trong óc người những quan niệm, tư tưởng.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động, đồng
thời bao hàm quá trình thông tin.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ vô sinh đến hữu sinh và đến xã hội, cuối cùng nảy
sinh ra ý thức. Mỗi quá trình phát triển của vật chất có một hình thức phản ánh tương ứng:
Thứ nhất, hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô
sinh là những phản ánh vật lý, hóa .
học Những phản ánh này có tính chất thụ
động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
Thứ hai, trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đó phát triển lên một trình
độ cao hơn là phản ánh sinh học.
Phản ánh sinh học hình thành trên cơ sở phản ánh vật lý, hoá học. Đây là hình
thức phản ánh mới về chất chỉ có ở cơ thể sống – thế giới thực vật và thế giới động
vật, gắn liền với quá trình chuyển hóa biện chứng từ thế giới vô sinh sang thế giới
hữu sinh. Phản ánh sinh học được biểu hiện ở những trình độ khác nhau như:
- Phản ánh kích thích: xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp.
Phản ánh kích thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động của
môi trường trên cơ sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay
động vật bậc thấp có thể thích nghi với môi trường.
- Phản ánh cảm ứng: xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác.
Khi các sự vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có
thể phản ứng lại trước những tác động đó. 24
Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên
ngoài được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
- Phản ánh tâm lý: đó xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần kinh
trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện.
Ở phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản
ánh tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những thông
tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Tâm lý động vật là trình độ cao nhất của sự phản ánh ở động vật. Tuy nhiên,
tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do
nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
Thứ ba, Phản ánh ý là
thức hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện
thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không
thể tách rời con người.
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật
chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc người là
cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự
tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động
ý thức không thể xảy ra.
=> Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ
óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. b. Nguồn gốc xã hội
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng chính lao động và ngôn ngữ là hai
nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
+ Loài vật tồn tại nhờ những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên – “giới tự nhiên
thứ nhất”. Khác với loài vật, con người tồn tại không chỉ nhờ những vật phẩm có sẵn
trong tự nhiên mà chính con người phải tạo ra những cái mà tự nhiên chưa có, trên cơ sở hoạt động
cải tạo lại giới tự nhiên “giới tự nhiên thứ nhất”. lao động
Nhờ hoạt động lao động mà con người tạo ra “giới tự nhiên thứ hai”, phản ánh
thế giới khách quan, đồng thời hoàn thiện dần bản thân con người. Hoạt động lao
động của con người, đồng thời còn là phương thức hình thành và phát triển ý thức.
Sự hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao
động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ
những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những 25
hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành
dần những tri thức về thế giới. Quá trình này ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý
thức của con người về thế giới.
=> Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó.
=> Có thể nói khái quát rằng, lao động tạo ra ý thức, tư tưởng hoặc nguồn
gốc cơ bản của ý thức, tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con
người trong quá trình lao động của con người.
+ Trong quá trình hoạt động của con người, ngay từ ban đầu đó có sự liên kết
những thành viên xã hội bởi mục đích chung, xuất hiện nhu cầu giao tiếp, trao đổi
kinh nghiệm với nhau. Chính nhu cầu khách quan đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là cái “vỏ vật
chất” của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có ngôn ngữ sẽ không
có ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp vừa là công cụ của tư duy. Nhờ
ngôn ngữ mà phản ánh ý thức mới có thể thực hiện được sự phản ánh khái quát,
trừu tượng hoá; kinh nghiệm hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế
hệ này cho thế hệ khác.
Ăngghen coi “lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức
kích thích chủ yếu đó ảnh hưởng đến bộ óc của vượn người, làm cho bộ óc đó dần
dần chuyển biến thành bộ óc của con người”, tâm lý động vật chuyển thành ý thức.
Tóm lại, nguồn gốc trực tiếp và có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức là
lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ. Đó là nguồn gốc xã hội của ý thức.
* Sơ đồ tham khảo về nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức: 26
2.2.2.3. Bản chất của ý thức
Dựa trên lý luận phản ánh của mình, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải
quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý thức.
Trước Mác, các nhà duy vật đều thừa nhận sự vật, vật chất tồn tại khách quan
và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm
siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước Mác đó coi ý thức là sự phản ánh thụ động,
giản đơn, máy móc sự vật mà không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức,
tính biện chứng của quá trình phản ánh. Trái lại các nhà duy tâm lại cường điệu tính
năng động sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất, chứ không phải
là sự phản ánh của vật chất. 27
Khác với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý
luận phản ánh coi ý thức, về bản chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người
+ Ý thức là thực tại phi vật chất, là thực tại không có cấu tạo vật chất. Ý thức
không phải là thực tại đơn nhất, bất biến, vĩnh cửu mà là thực tại đa dạng, sống
động, biến đổi liên tục (miên viễn).
+ Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Ý thức là sự thống nhất biện chứng của ba mặt: trao đổi thông tin
giữa chủ thể và khách thể phản ánh, mô hình hóa thành hình ảnh tinh thần, hiện
thực hóa hình ảnh tinh thần.
Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản
ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến
đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình
mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của
thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải
biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri
thức, nhu cầu…) của con người. Theo C. Mác: “ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được
di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy
luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2.2.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động trở lại vật chất.
Sơ đồ về quan hệ biện chứng giữa vật chất và và ý thức 28
2.2.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình
phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con
người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính
bộ phận của con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của
khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con
người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất,
còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là
nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là
cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới
hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản
ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã
hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. "Ý
thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức". Ý thức chỉ là 29
hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề
rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu
sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ
mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc
là "phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông
qua thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là
những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới
vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động
vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý
thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
- một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ
nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung
và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học
ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư
duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát
triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống
tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được
hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả
trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng
của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư
duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính
trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ.
Trong nền sản xuất tưbản, tính chất xã hội hoá của sản xuất phát triển là cơ sở để ý
thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển
không ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. 30
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh
thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét
đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm
muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự
đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là
thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn
nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối". Ở đây, tính tương đối của sự đối lập
giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt -
bộ óc người và thuộc tính của chính nó.
2.2.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi
song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy
luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm
để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng
một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai
trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng".
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, 31
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định
hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động
viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân
lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa
học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể
vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các
điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên
điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý
chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
2.2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là nguyên tắc khách quan và nguyên tắc phát huy
tính năng động chủ quan.
+ Nguyên tắc khách quan:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện,
tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu
không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường.
Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen
đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhận thức, cải tạo sự
vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với
những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng.
+ Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan:
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục 32
tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng
nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là
trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi
trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự
thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
2.3. NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
2.3.1. Khái niệm Nguyên nhân và Kết quả
Khái niệm Nguyên nhân và Kết quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau
giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện
do sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra. * Lưu ý:
+ Thông thường nguyên nhân được hiểu là hiện tượng A mà tác động của nó
gây nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác – hiện tượng B. Trong
trường hợp này A được gọi là nguyên nhân, còn B được gọi là kết quả.
Có thể coi đây là mức độ hiểu biết ban đầu về mối liên hệ nhân quả. Nếu tìm
hiểu sâu sắc hơn về nguyên nhân thực sự của B ta thấy không phải bản thân hiện
tượng A, mà chính là sự tác động của nó, hay chính xác hơn, sự tác động qua lại của
nó với các hiện tượng C, D, E ... nào đó mới chính là cái dẫn đến sự xuất hiện hiện tượng B.
+ Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác
nhau. Hiểu như vậy sẽ dẫn đến chỗ cho rằng nguyên nhân của một sự vật, hiện
tượng nào đấy luôn nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng nhất định sẽ phải
thừa nhận rằng nguyên nhân của thế giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, tức
nằm ở thế giới tinh thần.
* Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện:
- Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân,
nhưng nó chỉ là quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả. 33
- Điều kiện là môi trường để nguyên nhân xảy ra, những sự vật hiện tượng
gắn liền với nguyên nhân tác động vào nguyên nhân, làm cho nguyên nhân phát
huy tác động, nhưng điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả.
* Tính chất của mối liên hệ nhân quả:
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan vốn có
của bản thân thế giới, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến
đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ
nhân quả của hiện thực từ trong đầu óc mình.
- Tính phổ biến: Mối liên hệ nhân quả tồn tại rộng khắp trong mọi phạm vi,
lĩnh vực khác nhau của thế giới, không loại trừ phạm vi, lĩnh vực nào. Tất cả đều có
mỗi liên hệ nhân quả, thế giới xét đến cùng là quan hệ nhân quả - Tính tất yếu:
+ Có nguyên nhân thì có kết quả, có kết quả thì có nguyên nhân, không thế
có nguyên nhân mà không có kết quả hoặc ngược lại có kết quả mà không có nguyên nhân
+ Nguyên nhân và kết quả chỉ xảy ra khi có, khi gắn với điều kiện hoàn cảnh
nhất định, tập hợp của những điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến sự hình thành, xuất hiện của nhân quả
+ Tập hợp các điều kiện hoàn cảnh tác động càng giống nhau bao nhiêu, càng
ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu
2.3.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
* Nguyên nhân tạo tác, sinh ra, quyết định kết quả
+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và bắt đầu tác động
(Lưu ý: Không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng
đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả)
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào
nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
- Một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau. 34
- Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Nếu nguyên nhân tác
động cùng chiều thì thúc đẩy nhanh quá trình tạo ra kết quả, nếu không cùng chiều
hoặc trái chiều thì việc hình thành kết quả sẽ bị cản trở thậm trí bị triệt tiêu.
+ Phân loại nguyên nhân: Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu;
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài; Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
* Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân.
Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo 2 hướng:
- Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (tích cực)
- Cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (tiêu cực)
* Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một nguyên nhân nào đó
sinh ra, đến lượt mình lại trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba, ... và
quá trình cứ thế tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả
vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào có thể trở thành khâu bắt đầu hay khâu cuối cùng.
=> Vì vậy, các chuỗi nhân quả là không đầu, không đuôi và một hiện tượng
nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định, cụ thể.
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Đối với nhận thức:
Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên
nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân.
Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Trong quá trình đi tìm nguyên nhân cần lưu ý:
- Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con
người nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính thế giới các hiện
tượng, chứ không thể ở ngoài nó.
- Vì nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một
hiện tượng nào đó cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đó 35
xảy ra trước khi hiện tượng xuất hiện. Song cần lưu ý rằng không phải mọi sự kiện
xảy ra trước đều là nguyên nhân của sự kiện xảy ra sau.
- Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình
xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch
ra cho được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như
của các tổ hợp khác nhau của chúng trong việc làm nảy sinh hiện tượng để trên cơ
sở đó có thể xác định đúng về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
- Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác
có thể là nguyên nhân nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy cần xem xét nó
trong những quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ mà nó là kết quả.
+ Đối với hoạt động thực tiễn:
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ
nhân - quả để hành động. Trong quá trình hành động cần lưu ý:
+ Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
+ Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những
điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát sinh tác dụng.
+Vì hiện tượng có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc
đồng thời, nên trong hoạt động thực tiễn cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn
phương pháp hành động thích hợp, không nên hành động rập khuôn theo phương pháp cũ.
+ Vì các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định
trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng, nên trong hoạt động thực
tiễn cần dựa trước hết vào nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.
+ Để đẩy nhanh (hay kìm hãm hoặc loại trừ) sự biến đổi, phát triển của một
hiện tượng xã hội nào đó, cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng
chiều (hay lệch hoặc ngược chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân - quả khách quan.
+ Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn
chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đó đạt được để tạo điều kiện thúc
đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích. 36
2.4. BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
2.4.1. Khái niệm Bản chất và Hiện tượng
- Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó.
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những biểu hiện của những
mặt, những mối liên hệ ấy ở bên ngoài
* Lưu ý: Phân biệt phạm trù bản chất – hiện tượng với phạm trù cái chung và phạm trù quy luật:
- Phạm trù bản chất gắn liền với cái chung, nhưng không đồng nhất với cái
chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. “Cái
tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các
sự vật đó. Tuy nhiên không phải mọi cái chung đều là bản chất. Chỉ có những cái
chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và vận động của sự vật mới là bản chất”.
- Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng bậc. Tuy
nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường biểu hiện
một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy
luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn phạm trù quy luật.
2.4.2. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã không giải quyết đúng đắn mối quan
hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, vì họ không thừa nhận hoặc không hiểu
đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất không
tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa dặt ra, còn hiện
tượng dù tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại
trong chủ quan của con người.
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại thực
sự của bản chất nhưng đó không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là
những thực thể tinh thần.
-> Chúng không được khoa học và thực tiễn thừa nhận.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng 37
Trái với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả bản
chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan và là cái vốn có của sự vật không do ai
sáng tạo ra. Bởi vì bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định.
Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, chằng chịt,
đan xen. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối
liên hệ đó tạo nên bản chất nội tại của sự vật.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của
bản chất và hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ
biện chứng vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là
sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần
tuý ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
+ Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau.
✓ Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng.
✓ Bản chất nào thì hiện tượng ấy.
✓ Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau.
✓ Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi.
✓ Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
✓ Một bản chất mới xuất hiện sẽ xuất hiện những hiện tượng mới với
tư cách là sự bộc lộ ra bên ngoài của bản chất mới đó.
=> Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này
mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của
hai mặt đối lập – thống nhất biện chứng. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng
phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn, sự khác biệt.
Vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua tương tác của
sự vật ấy với các sự vật xung quanh; các sự vật xung quanh này trong quá trình
tương tác đó ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những
thay đổi nhất định. Kết quả là hiện tượng tuy biểu hiện bản chất nhưng không còn
là sự biểu hiện y nguyên bản chất nữa.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: 38
+ Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và
phát triển của sự vật. Hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tuỳ theo
sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ
thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể trong đó bản chất được biểu hiện.
✓ Hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
✓ Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của hiện thực khách quan.
Hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan.
Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất
nhiều hiện tượng khách nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà
chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đó biến
đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không
ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Vì nội
dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi
những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động của nó với các sự vật xung
quanh. Mà các điều kiện này cũng như sự tác động qua lại của sự vật này với các sự
vật khác xung quanh lại thường xuyên biến đổi => Dẫn đến hiện tượng cũng
thường xuyên biến đổi, trong khi đó bản chất vẫn giữ nguyên.
=> Nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, Lênin
viết: “Bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính bản chất”.
2.4.1. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Đối với nhận thức:
- Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan nên con người chỉ có thể tìm
ra bản chất của sự vật ở chính sự vật, không thể tìm bản chất sự vật ở ngoài sự vật
đó. Khi kết luận về bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan, tuỳ tiện.
- Bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý, nó bao giờ cũng bộc lộ ra ngoài
thông qua các hiện tượng tương ứng của mình, nên chúng ta chỉ có thể tìm ra bản
chất của sự vật trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng của nó. 39
- Quá trình nhận thức là quá trình con người đi từ hiện tượng đến bản chất, từ
bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Điều đó đòi hỏi chúng ta không được
tự thoả mãn dừng lại ở bất kỳ một trình độ nhận thức nào về bản chất của sự vật.
+ Đối với hoạt động thực tiễn: Hiện tượng là biểu hiện của bản chất, do
bản chất quy định. Do vậy, muốn thay đổi hiện tượng, về cơ bản, phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người để thay đổi bản chất của sự vật.
2.4. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
2.5. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
2.6. TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
2.7. KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
III. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
3.1. QUY LUẬT VÀ SỰ PHÂN LOẠI QUY LUẬT
3.1.1. Quy luật, tính quy luật và đặc điểm của quy luật
- Khái niệm: Quy luật là phạm trù triết học dùng để chỉ những mối liên hệ bản
chất, tất yếu, phổ biến, ổn định và lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các mặt, các thuộc tính, các yếu tố, các bộ phận, các giai đoạn quá trình của sự vật, hiện tượng.
- Tính quy luật: quy luật được làm thành, được xác định bởi các mối liên hệ
bản chất, tất yếu, phổ biến, ổn định và lặp đi lặp lại. Tính quy luật biểu thị mức độ
nào đó có tính xác suất của các đặc tính bản chất, tất yếu, phổ biến, ổn định và lặp đi lặp lại. Công thức: Tính quy luật =
- Đặc điểm của quy luật:
+ Tính khách quan: Quy luật là cái vốn có của bản thân thế giới, hình thành
trong sự vận động của sự vật, hiện tượng; không phải là sự sáng tạo tùy ý của con
người. Con người chỉ có thể nhận thức quy luật mà không thể xóa bỏ quy luật.
+ Tính phổ biến: Quy luật tồn tại ở cả tự nhiên, xã hội và tư duy
+ Tính phong phú, đa dạng: Quy luật biểu hiện khác nhau ở cả tự nhiên, xã hội và tư duy
3.1.2. Sự phân loại quy luật
- Căn cứ vào tính phổ biến (phạm vi): QL riêng, QL chung, QL phổ biến 40
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động (đối tượng): QL tự nhiên, QL xã hội, QL của tư duy
Với tư cách là một khoa học, phép BC duy vật nghiên cứu những quy luật
phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Các QL cơ bản của phép BC duy vật phản ánh sự vận động, phát triển dưới
những phương diện cơ bản nhất:
+ QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho biết nguồn gốc của sự vận động, phát triển.
+ QL chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại cho biết phương thức của sự vận động, phát triển.
+ QL phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự vận động, phát triển.
3.2. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
(QUY LUẬT MÂU THUẪN)
3.2.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
- Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Lênin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.
- Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
3.2.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái
ngược nhau. Những mặt trái ngược đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
- Mặt đối lập là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng. Và hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong
sự thống nhất và đấu tranh với nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy
sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. 41
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của
các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh là động lực của sự phát triển.
Lênin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
=> Như vậy, mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó các mặt đối lập vừa
thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. * Lưu ý:
+ Trong quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng, quá trình thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập diễn ra ngay từ đầu. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu thì sự
thống nhất có xu hướng diễn ra mạnh hơn còn đấu tranh là xu hướng diễn ra mạnh hơn ở giai đoạn sau.
+ Bất cứ sự thống nhất nào của các mặt đối lập cũng đều có tính tạm thời
tương đối vì sự thống nhất gắn liền với sự đứng im tương đối, với sự ổn định tạm thời của sự vật.
+ Bất cứ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập cũng đều là tuyệt đối vì sự đấu
tranh gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển của sự vật; nó diễn ra
trong suốt quá trình ổn định cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất của sự vật.
Tính tuyệt đối của đấu tranh của các mặt đối lập gắn liền với tính tuyệt đối
của vận động, phát triển của sự vật. Sự đấu tranh làm thể thống nhất cũ bị phá vỡ,
chuyển sang thể thống nhất mới, trong đó đấu tranh vẫn tiếp tục xảy ra.
* Tính chất của Mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn tồn tại khách quan: Mọi sự vật trong thế giới hiện thực không
phải là cái gì hoàn toàn thuần nhất mà là một hệ thống các yếu tố, các mặt vừa liên
hệ với nhau, vừa có khuynh hướng trái ngược nhau tạo nên mâu thuẫn vốn có của
sự vật. Do đó, mâu thuẫn không do ai sáng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người.
- Mâu thuẫn có tính phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mâu thuẫn;
mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại nảy sinh. 42
- Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: Mâu thuẫn biểu hiện khác nhau ở
mỗi sự vật, hiện tượng
3.2.3. Nội dung của quy luật
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là một thể thống nhất của
các mặt đối lập. Tuy nhiên chỉ có 2 mặt đối lập nào liên hệ hữu cơ với nhau thành
một chỉnh thể và luôn đấu tranh với nhau thì được gọi là mâu thuẫn (không phải sự
khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn). Khi sự vật mới xuất hiện, mâu thuẫn
thường biểu hiện là sự khác nhau căn bản của các mặt đối lập, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau.
Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn thì sự khác nhau đó dần dần biến
thành sự đối lập đến khi 2 mặt đối lập xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện
chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau (do có sự đồng nhất của các mặt đối lập) và mâu
thuẫn được giải quyết. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũ bị phá vì và thống nhất
của các mặt đối lập mới được hình thành, mâu thuẫn mới được triển khai. Cứ như
vậy, sự vật phát triển bằng cách giải quyết các mâu thuẫn trong bản thân nó.
+ Các hình thức chuyển hóa:
- Chuyển hoá từng khía cạnh của mặt đối lập này sang mặt đối lập khác.
- Chuyển hoá thành mặt đối lập khác.
- Cả 2 mặt đối lập cũ đều bị triệt tiêu và chuyển thành mặt đối lập mới. + Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả
các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính
phong phú, đa dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các
mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ
thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
- Căn cứ vào quan hệ với sự vật được xem xét: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật: mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển
của sự vật trong một giai đoạn nhất định: mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích: mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. 43
=> Từ những sự phân tích trên có thể rút ra thực chất quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập như sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh
hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.
3.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Đối với nhận thức:
- Do mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển nên muốn nhận thức
được bản chất của sự vận động và phát triển của sự vật, trước hết phải nhận thức
được mâu thuẫn của nó.
- Quá trình nhận thức mâu thuẫn cũng là quá trình phân tích mâu thuẫn. Phân
tích mâu thuẫn là xác định ra loại hình của mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu
thuẫn để từ đó tìm ra phương hướng giải quyết thích hợp. Chỉ khi phân tích ra được
mâu thuẫn mới có thể định ra đường lối chiến lược, hoặc sách lược đúng đắn. Nhận
định không đúng về mâu thuẫn sẽ dẫn đến những quyết sách sai lầm.
+ Đối với hoạt động thực tiễn:
- Mâu thuẫn là khách quan, điều kiện để giải quyết mâu thuẫn cũng là khách
quan. Vì vậy, việc giải quyết mâu thuẫn phải tuỳ thuộc vào những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể; phải tránh tư tưởng nôn nóng, áp đặt khi giải quyết mâu thuẫn. Chỉ khi
nào có đủ các điều kiện chín muồi, mâu thuẫn mới có thể được giải quyết căn bản.
- Bất kì một mâu thuẫn nào ở đâu bao giờ cũng được giải quyết bằng con
đường duy nhất là đấu tranh giữa các mặt đối lập, không được dung hoà mâu thuẫn
trong nhận thức và hành động.
3.3. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI (QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT)
3.3.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
- Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật này chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng. 44
3.3.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cùng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm Chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy
định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ
của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Tính chất của tính quy định về chất:
+ Chất có tính khách quan, gằn liền với sự vật, không có chất thuần tuý tồn tại ngoài sự vật
+ Chất của sự vật tồn tại thông qua thuộc tính của sự vật.
+ Sự vật không phải chỉ có một tính quy định về chất, mà có nhiều tính quy định về chất.
+ Chất có tính ổn định, nói lên mặt đứng im tương đối của sự vật, làm cho sự
vật đang tồn tại mà chưa biến thành cái khác ...
* Khái niệm Lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy
định khách quan vốn có về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động, phát triển của sự vật, cũng như các thuộc tính của sự vật.
Tính chất của tính quy định về lượng:
+ Lượng của sự vật chưa nói lên sự vật là gì, chưa thể phân biệt sự vật này với sự vật khác.
+ Lượng là cái vốn có của sự vật, tồn tại khách quan trong sự vật không phụ
thuộc vào ý thức của con người.
+ Có lượng được biểu thị bằng con số và đại lượng chính xác, có lượng không
biểu thị được bằng con số và đại lượng. Có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu
bên trong của sự vật, có lượng biểu thị yếu tố bên ngoài sự vật như kích thước dài,
rộng, cao cân nặng màu sắc v.v. của sự vật.
+ Sự vật có nhiều tính quy định về lượng tương ứng với tính quy định về chất.
+ Lượng nói lên mặt thường xuyên biến đổi của sự vật
* Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối vì tuỳ từng mối
quan hệ cụ thể mà có thể xác định được là chất hay là lượng.
3.3.3. Nội dung của quy luật
Mỗi một sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng,
hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động với nhau một cách biện chứng. Nếu
không có chất thì sự vật, hiện tượng không tồn tại được, chất thông qua lượng để 45
biểu thị sự tồn tại của mình. Trong sự vật nếu không có tính quy định về chất thì
cũng không có tính quy định về lượng và ngược lại.
+ Khi sự vật tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau trong một độ nhất định.
* Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó
sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất. Trong độ, đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự biến đổi
về chất, mà mới chỉ có sự biến đổi về trạng thái của chất; sự vật vẫn còn là nó chứ
chưa biến thành cái khác.
Sự vật luôn vận động và biến đổi, cùng với nó là sự vận động, biến đổi của
lượng và chất. Sự vận động bao giờ cũng bắt nguồn từ lượng, nó diễn ra theo cách
thức tăng dần hoặc giảm dần. Khi lượng biến đổi dần dần đến một giới hạn nhất
định thì dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi ấy được gọi là bước nhảy, nó làm
phá vì độ cũ và chất mới ra đời.
* Bước nhảy là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá
về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Giới hạn mà đến đó xảy ra bước nhảy, dẫn đến sự thay đổi về chất gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Tập hợp các điểm nút gọi là đường nút.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn thay đổi về lượng, nó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nhưng nó không chấm dứt sự vận động
nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật để chuyển sang một dạng tồn tại khác.
* Chú ý: Sự thay đổi về lượng chuyển hóa thành sự thay đổi về chất phải có
điều kiện. Không phải bất cứ sự tăng thêm về lượng nào, ở trong bất cứ điều kiện nào,
cũng làm cho chất thay đổi. Điểm nút không cố định mà có thể có những thay đổi do
tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan.
+ Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật.
Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật. 46
Lượng mới biến đổi trong độ mới đến điểm nút lại xảy ra bước nhảy. Cứ như
vậy, sự vận động của sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra lúc thì lượng thay đổi
tuần tự, khi thì nhảy vọt về chất, nó tạo ra một đường nút vô tận làm cho sự vật mới
xuất hiện, thay thế sự vật cũ. So với sự biến đổi về lượng thì sự biến đổi về chất xảy
ra nhanh chóng hơn, rõ rệt hơn, dễ thấy hơn. Đó là sự đứt đoạn trong liên tục.
* Các hình thức bước nhảy:
+ Căn cứ vào nhịp điệu bước nhảy:
- Bước nhảy đột biến: thực hiện trong thời gian ngắn, làm thay đổi toàn bộ kết cấu sự vật.
- Bước nhảy dần dần: thực hiện từ từ bằng cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới. + Căn cứ vào quy mô:
- Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi toàn bộ các yếu tố cấu thành sự vật.\
- Bước nhảy cục bộ: làm thay đổi các yếu tố riêng lẻ cấu thành sự vật. * Kết luận:
Quy luật này là quy luật của sự thống nhất biện chứng giữa 2
mặt chất và lượng, những thay đổi về lượng chuyển thành những thành đổi về chất
và ngược lại. Sự vận động đó biểu hiện sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối
lập: chất và lượng. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến động hơn.
Lượng biến đổi, mâu thuẫn với khuôn khổ chất cũ, phá vỡ chất cũ, chất mới được
hình thành với lượng mới. Nhưng lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một giới hạn
nào đó, lại phá vỡ chất mà nay đó là cũ đi, hiện đang kìm hãm ... Cứ thế quá trình
tác động biện chứng giữa hai mặt lượng và chất tạo nên cách thức vận động, phát
triển của sự vật. Cách thức đó thể hiện sự thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt
đoạn trong quá trinh vận động đi lên của nó.
3.3.4. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Đối với nhận thức:
Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất
của nó, khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng chúng ta sẽ có tri
thức hoàn chỉnh về sự vật đó.
+ Đối với hoạt động thực tiễn:
- Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với
nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trò
và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên để hành động có hiệu quả. 47
- Chống khuynh hướng “tả” khuynh, chủ quan, nóng vội, chưa có sự tích luỹ về
lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc coi nhẹ sự tích luỹ về lượng, chỉ
nhấn mạnh bước nhảy dễ dẫn đến phiêu lưu, mạo hiểm.
- Chống khuynh hướng “hữu” khuynh, bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám
thực hiện bước nhảy về chất khi đã có đủ tích luỹ về lượng.
- Muốn duy trì sự vật ở trạng thái nào đó phải nắm được giới hạn độ, không để
cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ.
3.4. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
3.4.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
- Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật này nói lên khuynh hướng của sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng trong thế giới; tính tất yếu của sự ra đời cái mới và mối liên hệ giữa cái
mới và cái cũ. Quá trình vận động và phát triển này diễn ra theo con đường xoáy ốc từ thấp đến cao.
3.4.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn. Nó vận động, phát triển không ngừng.
Một dạng vật chất nào đó xuất hiện rồi mất đi, được thay thế bằng một dạng vật
chất khác, sự thay thế đó gọi là phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình
vận động và phát triển.
Sự phủ định là tất yếu đối với mọi sự vận động, phát triển. Không có phủ định
cái cũ thì cái mới không ra đời và phát triển được. Song, không phải bất cứ sự phủ
định nào cũng gắn liền với sự phát triển.
Phủ định có hai loại: phủ định siêu hình và phủ định biện chứng.
+ Phủ định siêu hình là kết quả của sự tác động từ bên ngoài, là sự phá
huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự tồn tại và phát triển của nó.
Trong triết học, phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, không giữ lại
những yếu tố căn bản của sự vật cũ.
+ Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của cái
mới, tiến bộ hơn so với cái cũ, sự vật cũ – cái bị phủ định.
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản sau đây: 48
Thứ nhất: Phủ định biện chứng mang tính khách quan. Nguyên nhân của sự
phủ định là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nó không phụ
thuộc vào ý muốn của con người.
Thứ hai: Phủ định biện chứng có tính kế thừa, không phải là sự xoá bỏ hoàn
toàn cái cũ mà chỉ lọc bỏ những yếu tố không còn phù hợp của cái cũ. Cái cũ được
bảo tồn trong cái mới dưới dạng cải biến. Giữa cái cũ và cái mới có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
+ Phủ định của phủ định là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận
động và phát triển của sự vật thông qua ít nhất 2 lần phủ định biện chứng, sự vật
dường như quay lại điểm xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
3.4.3. Nội dung của quy luật
+ Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra theo
quy luật cái mới phủ định cái cũ. Nhưng cái mới lại trở thành cái cũ và bị cái mới
hơn phủ định. Sự phủ định đó tạo ra khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong sự chuyển
hoá vô tận ấy, sự vật dường như lặp lại cái ban đầu sau một số lần phủ định nhưng
trên cơ sở cao hơn. Nhưng những sự phủ định này không phải là sự kế tiếp giản đơn
mà lại thông qua những vòng khâu xác định.
+ Mỗi vòng khâu thường có hai lần phủ định liên tiếp:
Lần phủ định thứ nhất tạo ra sự vật mới đối lập với sự vật ban đầu, nó thiên về
phê phán, gạt bỏ những cái đã lỗi thời.
Lần phủ định thứ hai (phủ định của phủ định) tạo ra sự vật mới, về hình thức
giống với cái bị phủ định đầu tiên, nhưng về nội dung nó lại phát triển ở trình độ cao hơn.
Nhiệm vụ chủ yếu của lần phủ định thứ hai là phát huy những nhân tố hợp lý
của cái bị phủ đầu tiên để hoàn thiện một vòng khâu của sự phát triển. Vì vậy, lần
phủ định thứ hai được xem là lần phủ định cao hơn.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát
triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục
phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
+ Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn bên trong bản thân của sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả
đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật. 49
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình.
Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất.
=> Như vậy, sau hai lần phủ định, sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
+ Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật –
xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà
theo đường “xoáy ốc” quanh co, phức tạp.
Sự phát triển theo đường xoáy ốc là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng
của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: Tính kế thừa, Tính lặp lại, Tính tiến lên, Tính vô tận
+ Không phải bất kì 1 sự vật nào cũng trải qua 2 lần phủ định biện chứng mà
sự vật càng phức tạp thì số lần phủ định biện chứng càng nhiều. Nói cách khác, sự
vật phải trải qua từ hai lần phủ định trở lên mới hoàn thành một chu kỳ phát triển.
3.4.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa
phương pháp luận sau đây:
+ Chống lại các quan điểm siêu hình cho rằng phát triển theo đường thẳng
giản đơn hoặc theo vòn tròn khép kín, phủ định là chấm dứt sự phát triển.
+ Phải thấy được khuynh hướng phát triển đi lên vì có lúc quanh co, thụt lùi
tạm thời; phải lạc quan tin tưởng vào sự phát triển.
+ Cần có thái độ tôn trọng cái cũ, chống thái độ phủ định sạch trơn. Chúng ta
phải biết kế thừa có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử dụng chúng
như là tiền đề của sự nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn.
+ Cần có thái độ ủng hộ cái mới, cái tiến bộ chống thái độ kế thừa nguyên xi.
+ Trong mỗi chu kỳ phát triển, sự vật có những đặc điểm riêng. Do vậy cần
hiểu đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự vật phát triển nhanh
hoặc chậm theo yêu cầu của con người.
B. BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC (TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC)
TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC” 50
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHẬN THỨC
1.1. Nguyên lý về nguồn gốc của nhận thức
Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở bên ngoài nhận thức của con người, độc lập,
không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Sự tồn tại khách quan và sự tác
động khách quan của thế giới đố là nguồn gốc dẫn đến quá trình nhận thức của con
người. Không có sự tồn tại khách quan, không có sự tác động khách quan của thế
giới đó thì không có quá trình nhận thức, nghiên cứu và tìm hiểu của con người.
Lênin viết “Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập
với cảm giác của chúng ta” (Lênin Toàn tập, tập 18, trang 117).
1.2. Nguyên lý về khả năng nhận thức
Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức và hiểu biết được thế giới. Thế
giới là có thể nhận thức và hiểu biết được. Nhận thức không phải là sự phản ánh
giản đơn, trực tiếp thế giới mà là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn, một quá
trình có quy luật, tuân theo quy luật. Đó là một quá trình tương tác biện chứng giữa
chủ thể và khách thể nhận thức, trong đó chủ thể nhận thức là con người nắm bắt 51
logic khách quan của thế giới để tạo dựng logic chủ quan lý luận của mình để khái
quát phản ánh thế giới.
Lênin viết: “Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào
giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và cái
chưa được nhận thức mà thôi” (Lênin Toàn tập, tập 18, trang 117).
“Nhận thức không phải là sự phản ánh giản đơn, trực tiếp, hoàn toàn mà là cả
một quá trình của những sự trừu tượng, những sự cấu thành và sự hình thành ra
những khái niệm” (Lênin Toàn tập, tập 29, trang 192).
1.3. Nguyên lý về thực tiễn
Nhận thức là một quá trình biện chứng trong đó các yếu tố, bộ phận, quá
trình, giai đoạn, … của nhận thức liên hệ nhau, ràng buộc nhau, quy định phụ thuộc
nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm ảnh hưởng,
biến đổi nhau. Theo Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng trở về thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
khách quan, nhận thức thực tại khách quan”. (Bút ký triết học – Lênin).
Cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là động
lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn quy định và quyết định quá trình con
người tìm hiểu, khám phá nắm bắt và khái quát thế giới. Thực tiễn là cầu nối giữa
con người và thế giới vật chất bên ngoài. Thực tiễn vừa biến đổi thế giới, vừa biến
đổi con người. “Thực tiễn cao hơn lý luận”.
Lênin viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức” (Lênin, Toàn tập, tập 18, trang 167)
“Thực tiễn lặp đi lặp lại hàng nghìn hàng triệu lần, được in vào ý thức của con
người thành những logic khác nhau” (Lênin, Toàn tập, tập 29, trang 202-203).
1.4. Nguyên lý về chân lý
Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức, của chân lý. Thực tiễn là thước đo để
kiểm tra, xác minh, kiểm nghiệm nội dung của nhận thức, tri thức. Mọi nhận thức,
mọi tri thức chỉ đánh giá là chuẩn xác hay không chuẩn xác, là phản ánh khách
quan hay không, phản ánh khách quan, trung thực hay không trung thực qua thực tiễn.
C.Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới một
chân lý khách quan hay không, không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn” (Ph. Ăngghen, Lút vích Phoi ơ Bắc, Trang 97)
Lênin viết: “Thực tiễn của con người và của loài người là sự kiểm nghiệm, là
tiêu chuẩn của tính khách quan của nhận thức” (Lênin, Toàn tập, tập 29, trang 227) 52
II. NHẬN THỨC VÀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA NHẬN THỨC
2.1. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
2.1.1. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức, song có ba hình thức cơ bản là:
Hoạt động sản xuất vật chất: Là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây
là hoạt động mà con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên
để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết để duy trì và phát triển con người và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội. Thúc đẩy xã hội phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra nhằm xác định
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Hoạt động này có vai
trò rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có chức năng khác nhau nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là
quan trọng nhất, quyết định các hoạt động thực tiễn khác.
2.1.2. Nhận thức và các trình độ nhận thức
+ Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc người; là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người
+ Nhận thức là khái niệm triết học dùng để chỉ hành động trí não của con
người nhằm vào thế giới; hành động tìm hiểu, khám phá, nắm bắt và khái quát thế
giới của con người nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa con người với thế
giới vật chất bên ngoài
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri
thức về thế giới khách quan đó. 53
+ Các yếu tố cấu thành của nhận thức:
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách
thể nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
- Chủ thể nhận thức: Là những cá nhân, nhóm người, cộng đồng người tiến
hành nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá, nắm bắt, khái quát thế giới bao gồm khả
năng nhận thức, nhu cầu nhận thức và ý tưởng nhận thức...
- Khách thể nhận thức: Là miền sự vật, hiện tượng trong thế giới tổng thể được
chủ thể nhận thức xác định để vươn tới tìm hiểu, khám phá và nắm bắt; bao gồm:
phạm vi, lĩnh vực, thuộc tính, đặc điểm, mối liên hệ, bản chất, quy luật.
+ Các trình độ nhận thức: Nhận thức là một quá trình với các trình độ nhận
thức khác nhau, đó cũng là quá trình đi từ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận
thức lý luận; từ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.
- Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Nhận thức kinh nghiệm: Là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa
học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm bao gồm cả tri thức
kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Hạn chế của nhận thức kinh nghiệm là chỉ dừng lại ở sự mô tả sự vật do đó
chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh
được bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý luận: Là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau, có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở
của nhận thức lý luận.
Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp do đó nó có
thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức
kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
- Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người.
Nhận thức thông thường phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những
đặc điểm chi tiết, cụ thể và với sắc thái khác nhau của sự vật do đó mang tính 54
phong phú, nhiều vẻ, gắn liền với quan niệm sống hàng ngày. Vì thế nó có vai trò
chi phối thường xuyên hoạt động của con người trong xã hội.
Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái
quát, hệ thống dưới hình thức các khái niệm, các phạm trù và quy luật khoa học.
Để nhận thức khoa học, con người phải sử dụng một hệ thống các phương pháp
nghiên cứu và được diễn đạt bằng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa
học. Nhận thức khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong
thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về
chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới các tri thức chân thực. Giữa chúng có
liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận thức thông thường là cơ sở cho nhận thức khoa học
ngược lại khi đã đạt đến trình độ nhận thức khoa học nó lại tác động trở lại nhận
thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển.
2.1.3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Hoạt động thực
tiễn của con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội của con người làm cho các đối
tượng tự nhiên và xã hội bộc lộ ra những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ
khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức
nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động của thế giới, trên cơ sở đó mà hình
thành các lý thuyết khoa học.
Ph. Ăngghen viết: “Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã
hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai
môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính
việc người ta biến đổi giới tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với
tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người,
và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”. 55
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức không phải để nhận thức mà
để phục vụ cho hoạt động thực tiễn cải biến tự nhiên và xã hội. Trong lịch sử triết
học có khuynh hướng cho rằng “triết học vị triết học”, “khoa học vị khoa học”,
“nghệ thuật vị nghệ thuật”. Quan điểm triết học Mác-Lênin khẳng định rằng triết
học, khoa học, nghệ thuật đều nhằm phục vụ cho cuộc sống con người.
Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức.
Thực tiễn đề ra mục đích và nhu cầu cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn làm nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải phát triển nhận thức mới giải quyết
được. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà con người chế tạo những phương tiện kỹ
thuật sử dụng trong nhận thức khoa học.
Ph. Ăngghen viết: “Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này thúc
đẩy khoa học hơn mười trường đại học”.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý trong quá trình phát triển nhận
thức. Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức đồng
thời thực tiễn không ngừng bổ sung, hoàn thiện, điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh và phát triển nhận thức.
Tính thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức: được thể hiện ở chỗ
thực tiễn là xuất phát điểm của nhận thức, quyết định sự hình thành và phát triển
của nhận thức, là nơi thể nghiệm và kiểm nghiệm tính đúng đắn của nhận thức;
ngược lại nhận thức, nhất là nhận thức lý luận, nhận thức khoa học khi nó phản ánh
đúng bản chất và quy luật vận động của sự vật, hiện tượng có thể giúp con người
thông qua nhận thức của mình mà xác định các biện pháp cần thiết để thúc đẩy sự
phát triển của thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Nghiên cứu lý luận
phải liên hệ với thực tiễn, tránh bệnh giáo điều, duy ý chí, quan liêu nhưng đồng thời
cũng không được tuyệt đối hóa thực tiễn để rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh
nghiệm chủ nghĩa. Nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn với lý luận phải là nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận. Lý luận không có thực tiễn làm
cơ sở và tiêu chuẩn để xác định chân lý của nó là lý luận suông, ngược lại thực tiễn
không có lý luận khoa học soi sáng sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. 56
2.2. CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC
2.2.1. Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V. I. Lênin khái quát con đường biện chứng
của sự nhận thức như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lý, nhận thức hiện thực khách quan.
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, trong đó bao gồm
nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung
cũng như vai trò, ý nghĩa khác nhau trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể1.
✓ Giai đoạn “từ tr ực qu a n sinh động đ ế n tư duy t r ừ u t ượ ng” (giai đoạn h ì nh th à nh t r i thứ c )
* Nhận thức cảm tính: (Hay còn gọi là trực quan sinh động)
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, là giai đoạn mà con người
sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự
vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng. + Cảm giác:
- Là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật hiện tượng khi
chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
- Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá
những năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức.
- Theo Lênin: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nhưng nếu dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu được từng thuộc tính
riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ. Vì thế, nhận thức không dừng
lại ở cảm giác mà phải tiến lên tri giác. + Tri giác:
- Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác
động vào các giác quan. Là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.
- So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong
phú hơn về sự vật. Nhưng đến tri giác, con người mới chỉ có được hình ảnh trực quan
và tương đối hoàn chỉnh về đối tượng. + Biểu tượng:
1 “Nhận thức của con người không phải là (không đi theo) một đường thẳng mà là một đường cong đi
gần vô hạn đến một loạt những vòng tròn, đến một vòng xoáy ốc” 57
- Là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động.
- Là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều
lần với sự vật để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó.
Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên trong ký
ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mặt.
Đó chính là những biểu tượng.
- Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do
cảm giác, tri giác đem lại trước đó.
- Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; mang tính chủ động và sáng tạo.
- Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm
tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp.
- Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để
chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
=> KL: Nhìn chung ở giai đoạn này con người mới nhận thức được cái bên
ngoài, cái hiện tượng là chủ yếu chứ chưa đi vào được cái bản chất, bên trong.
Như vậy là mục đích của nhận thức chưa đạt được và do cảm tính là chủ yếu cho
nên nhận thức có thể sai lầm. Nhận thức không dừng lại ở đây được mà phải phát triển
lên trình độ cao hơn là nhận thức lý tính.
* Nhận thức lý tính: (Hay còn gọi là tư duy trừu tượng)
Nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận
thức, nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.
Đây là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc
tính, đặc điểm bản chất của đối tượng. Ở giai đoạn này, con người đó thoát li sự
vật, vẫn tiếp tục quan sát sự vật, làm thay đổi sự vật nhưng đã bắt đầu có sự tham
gia tích cực của tư duy. Và quá trình tư duy này, hình thức biểu hiện của nó là ngôn ngữ.
Vì vậy, nó đạt tới trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ
hơn cái bản chất của đối tượng.
Nhận thức lý tính được thể hiện ở 3 hình thức của tư duy là khái niệm, phán đoán và suy luận. + Khái niệm:
- Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. 58
- Khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm,
thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật.
- Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan.
- Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến, bởi vì hiện thực khách quan
luôn vận động và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất
biến mà còn phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hoá lẫn nhau, mềm dẻo, linh hoạt, năng động.
- Khái niệm cũng chính là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán. + Phán đoán:
- Là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
- Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm
tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. + Suy luận:
- Là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra phán
đoán mới, tri thức mới. Nói cách khác, suy luận là quá trình đi đến một phán đoán
mới từ những phán đoán tiền đề.
Suy luận là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận
động của tư duy đi từ cái đó biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp.
Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ
có suy luận mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
- Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, trong quá trình suy luận
phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lôgic.
PHÂN BIỆT TAM ĐOẠN LUẬN THUỘC SUY LUẬN QUY NẠP VÀ DIỄN DỊCH
Tam đoạn luận là suy luận đi từ ít nhất 2 phán đoán tiền đề để đưa ra 1 phán đoán kết luận – Suy luận quy
nạp là phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về
cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn. Suy luận quy nạp kết luận cho
tất cả lớp sự vật, hiện tượng được nghiên cứu. 59 – Suy luận diễn
dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung đến tri thức
về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn. Suy luận diễn dịch kết luận
cho từng sự việc riêng lẻ cụ thể của sự vật, hiện tượng. 60
* Bảng so sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính Thứ tự
Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính 1. Cơ sở,
- Các sự vật hiện tượng cụ thể
- Cảm giác, tri giác, biểu tượng công cụ
- Các giác quan (chủ yếu)
- Bộ não người (chủ yếu)
Phân tích, tổng hợp, trừu tượng 2. Cơ chế
Biến đổi năng lượng kích thích
hóa, khái quát hóa, phán đoán thực hiện
thành xung lượng thần kinh suy luận. 3. Tính
chất phản Trực tiếp, cụ thể, sinh động
Gián tiếp, trừu tượng, khái quát ánh 4. Nội
Bên trong, chung, bản chất, quy
dung phản Bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên luật ánh
5. Kết quả Tri thức kinh nghiệm, cảm tính
Tri thức, lý tính (mối liên hệ, phản ánh
(cảm giác, tri giác, biểu tượng) bản chất, quy luật)
Ưu điểm: Khái quát bản chất,
Ưu điểm: Cung cấp thông tin trực quy luật của sự vật, hiện tượng,
tiếp, cơ sở để hình thành tri thức
tạo nên chiều sâu, tinh tế của 6. Đánh con người tri thức. giá
Hạn chế: Tri thức, bề ngoài, cảm
Hạn chế: Bỏ qua cái phong phú,
tính, chưa chỉ ra bên trong sự vật
sinh động của sự vật, hiện hiện tượng tượng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
- Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nền tảng của nhận thức lý tính. Không có
nhận thức cảm tính, thì không có nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính chỉ diễn ra và
triển khai được trên cơ sở nền tảng của nhận thức cảm tính. Nếu không dựa trên
nền tảng của nhận thức cảm tính và tách khỏi nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
chỉ còn là tư duy thuần túy, thiếu sức sống, cằn cỗi.
- Nhận thức lý tính được hình thành trên mỗi bước đi của nhận thức cảm tính
nhưng tham gia vào nhận thức cảm tính. Nó làm cho nhận thức cảm tính trở nên
sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Không có nhận thức lý tính thì nhận thức cảm tính chỉ còn
là những cảm nhận riêng lẻ, rời rạc, chỉ là những tri thức vụn vặt, lẻ tẻ, hời hợt về 61
thế giới, không có nhận thức cảm tính, không dựa vào nhận thức lý tính, nhận thức
cảm tính chỉ giới hạn trong cái cảm tính vụn vặt.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính không tách rời nhau, độc lập với
nhau mà liên hệ, ràng buộc nhau, bao hàm trong nhau và thẩm thấu vào nhau. Trên
mỗi bước đi của nhận thức cảm tính đã có, đã chứa đựng nhận thức lý tính và ngược
lại trên mỗi bước đi của nhận thức lý tính đã có, đã chứa đựng nhận thức cảm tính. ✓ Giai đoạn từ tư d uy t r ừ u t ượ ng đ ế n thực ti ễ n (giai đoạn xác m i nh, kiểm ng h iệm t r i thứ c )
Quá trình nhận thức nếu dừng lại ở nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) thì con
người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng. Còn bản thân những tri thức ấy có
chân thực hay không thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải
xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay không.
Để thực hiện điều đó, nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng
thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt
được trong quá trình nhận thức.
Như vậy, chính thực tiễn đã thống nhất 2 giai đoạn lại với nhau. Nhận thức bắt
đầu từ thực tiễn rồi lại khép kín ở thực tiễn. Nhưng không phải kết thúc nhận thức
mà chỉ là kết thúc một chu trình nhận thức để rồi mởi ra một chu trình mới nhưng ở trình độ cao hơn.
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu con đường biện
chứng của nhận thức
- Nhận thức đầy đủ có 2 giai đoạn và các tiến trình của chúng. Không đề cao
giai đoạn này, hạ thấp giai đoạn kia và ngược lại. Nếu đề cao nhận thức cảm tính
dẫn đến chủ nghĩa duy giác, duy cảm; nếu đề cao nhận thức lý tính dẫn đến chủ
nghĩa duy lý. Tất cả hai thái độ đó đều sai lầm.
- Thực tiễn là tiêu chuẫn của nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý vì vậy phải
dựa vào thực tiễn, phải xuất phát từ thực tiễn. Tránh chủ quan, giáo điều, cứng
nhắc, rập khuôn khi áp dụng lý luận vào thực tiễn.
2.2.2. Chân lý
Mọi quá trình nhận thức đều sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết
của con người về thực tế khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội
dung phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế lịch sử chứng minh rằng những tri 62
thức mà con người đạt được có nhiều trường hợp không phù hợp thậm chí hoàn toàn
đối lập với thực tế khách quan.
Khái niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Các tính chất của chân lý:
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó
đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế
khách quan, thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt
quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật
chất và phủ nhận khả năng của con người nhận thức được thế giới đó.
Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc chúng ta có
thể đạt đến chân lý tuyệt đối vì không có sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn
toàn không thể nhận thức đựợc song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện
cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác
định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh...do đó chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó
phản ánh mà mới chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt,
khía cạnh nào đó và trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân
lý tương đối; mặt khác trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là hai
mặt của một chân lý cụ thể. Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp
dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn luôn đúng và không bao giờ trở thành
sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa đầy đủ, chưa toàn diện, nếu áp dụng
trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm). 63
Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy con
người trong quá trình tiến lên vô cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý tuyệt đối,
chứ không bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Bất kỳ
chân lý nào cũng có gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, do đó “không có
chân lý trừu tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể.
Vai trò của chân lý đối với thực tiễn: Để sinh tồn và phát triển, con người phải
tiến hành các hoạt động thực tiễn nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công
và có hiệu quả khi con người có tri thức đúng đắn về thực tế khách quan và vận dụng
đúng đắn tri thức đó trong hoạt động thực tiễn do vậy, chân lý là một trong những
điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động trong thực tiễn là mối quan hệ song
trùng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn. Chân lý phát
triển nhờ thực tiễn nhưng thực tiễn lại phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý
và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để
đạt được chân lý, coi chân lý là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận
dụng chân lý vào hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào các
hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người.
Về thực chất đó chính là việc phát huy vai trò của chân lý khoa học trong hoạt động thực tiễn. 64