



















Preview text:
ĐỀ CƯƠNG CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG   
Câu 1: Chính trị là gì? Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị  học?  Trả lời:  1. Chính trị là gì?   Chính trị: 
- là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia 
với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước. 
- là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội. 
- là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm khả 
năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.   
2. Chính trị học là gì? 
 Chính trị học là khoa học nghiên cứu về lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ những 
quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị - xã hội, cùng những thủ thuật chính trị để 
hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật trong xã hội có giai cấp và được tổ chức  thành nhà nước.   
3. Đối tượng nghiên cứu của chính trị học: 
 - Mọi khoa học, như Ph.Ăngghen khẳng định, đều có đối tượng nghiên cứu riêng là 
những quy luật, tính quy luật thuộc khách thể nghiên cứu của nó. Điều đó cũng hoàn toàn 
đúng với Chính trị học, khoa học lấy lĩnh vực chính trị làm khách thể nghiên cứu. 
 - Cùng một khách thể, có thể có nhiều khoa học nghiên cứu. Lĩnh vực chính trị là 
khách thể nghiên cứu của: chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước và pháp luật, luật học, xã 
hội học, xây dựng Đảng… Sự phân biệt Chính trị học với các khoa học chính trị khác 
trước hết là ở đối tượng nghiên cứu. 
 - Chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của xã hội nhằm đạt được 
những tri thức mang tính bản chất, từ đó làm cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn những 
quy luật, tính quy luật chi phối toàn bộ đời sống chính trị, là khoa học nghiên cứu đời 
sống chính trị xoay quanh vấn đề trung tâm, then chốt là quyền lực chính trị. Từ đó có thể 
xác định: Chính trị học là khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể nhằm nhận 
thức và vận dụng những quy luật và tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị. Đối 
tượng nghiên cứu của Chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời 
sống chính trị xã hội, những cơ chế tác động, cơ chế vận dụng, những phương thức, thủ 
thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó. 
 - Để khái quát hóa những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị, 
Chính trị học đi sâu nghiên cứu các hình thức hoạt động xã hội đặc biệt có liên quan đến  nhà nước. 
 + Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng dưới dạng 
khả năng và hiện thực, cũng như những con đường giải quyết các mục tiêu đó có tính đến 
tương quan lực lượng xã hội, khả năng xã hội ở giai đoạn phát triển tương ứng của nó. 
 + Hoạt động tìm kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật, 
những hình thức tổ chức có hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra. 
 + Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp nhằm hiện thực hóa có  hiệu quả mục tiêu. 
 - Đồng thời, với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể, Chính trị học còn 
nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị: 
 + Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các 
giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác các 
giai cấp vì yêu cầu chính trị. 
 + Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng chính trị, nhà 
nước, các tổ chức chính trị - xã hội để hình thành lý luận về đảng chính trị, nhà nước 
pháp quyền, và về hệ thống chính trị và cơ chế thực thi quyền lực chính trị. 
 + Quan hệ giữa các dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc trong sự 
vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc. 
 + Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong thời 
đại quốc tế hóa hiện nay.     
Câu 2: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ? Phân tích mặt tích 
cực và hạn chế của nó? Liên hệ với Việt Nam?  Trả lời:   
 Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các 
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia 
của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, 
đảng phái, nhà nước nhằm thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa  mãn lợi ích.   
1. Nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ: 
 Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị 
Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các 
nước láng giềng trong suốt hơn 2000 năm lịch sử. Hai nhân vật tiêu biểu của trường phái 
Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.    a. Khổng Tử: 
* Tiểu sử: Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là 
Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã từng mở 
trường dạy học, ra làm quan. Vì không được trọng dụng, ông dẫn các học trò đi chu du 
các nước hơn 10 năm. Cuối đời, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học và chỉnh lý, san định 
các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ 
là bộ sách do học trò của Khổng Tử ghi lại. 
* Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một xã hội “thái 
bình thịnh trị”. Theo ông, chính trị là chính đạo, đạo của người làm chính trị phải ngay 
thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà Nho phải tham chính… Từ nhận thức đó, 
Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là do mỗi người không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị 
xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng Lễ nghĩa, 
mỗi người phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định. Để thực 
hiện lý tưởng chính trị của mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh” 
 - Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó là thước đo, 
là chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất 
rộng, bao hàm các vấn đề về đạo đức, lý luận xã hội. Trong chính trị, điều Nhân thể hiện  ở các nội dung: 
 + Thương yêu con người, trong đó thương yêu người thân của mình hơn và yêu 
người nhân đức hơn. Từ thương người đi đến hai nguyên tắc: “Điều mình không muốn 
thì đừng đối xử với người khác” và “Mình muốn thành đạt thì phải làm cho người khác  thành đạt” 
 + Tu dưỡng bản thân, sử mình theo lễ. 
 + Tôn trọng và sử dụng người hiền. 
 Nhân là trung thành, là vị tha. Người có Nhân phải thực hiện 5 điều: Cung kính, 
khoan nhượng, giữ chữ tín, siêng năng, làm lợi cho người khác. Hiều với cha mẹ và hữu 
ái là gốc của đức Nhân. 
 => Như vậy, nội dung Nhân là nhân đạo, yêu thương con người, coi người như mình, 
giúp đỡ lân nhau. Khi điều Nhân đã bao trùm thì không còn mâu thuẫn, xung đột, lễ nhà 
Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định. Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho 
tất cả mọi người mà chỉ có ở người “quân tử” (quý tộc, trí thức thuộc giai cấp thống trị), 
còn kẻ “tiểu nhân” (người lao động, giai cấp bị trị) thì không bao giờ có. Để đạt được 
điều Nhân, cần phải có Lễ. 
 - Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận hóa, biến Lễ 
thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể hiện trong phong 
cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa… 
 + Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá nhân và các 
tầng lớp trong xã hội. Lúc này, Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống chế các hoạt 
động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ ấy, tùy vào tính chất công việc khác 
nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là ngọn, Nhân là gốc. Người có đức Nhân là người 
“không nhìn cái không hợp Lễ, không nghe cái không hợp Lễ, không nói những điều 
không hợp Lễ, không làm những điều không hợp Lễ”… 
 + Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trò, địa vị của 
mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lành và xa rời điều ác. 
 + Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ bản: vua – 
tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Các quan hệ này đều có hai chiều, phụ 
thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi thờ vua theo đạo trung, cha đối 
với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo…” Nhưng ông cũng coi việc bề dưới lật 
đổ bề trên là hợp lý, khi bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa. Việc vua 
Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương bị lật đổ là hợp mệnh trời, vì đó là những ông vua ác,  thất nhân tâm. 
 + Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. “Một ngày sửa mình theo Lễ thì thiên hạ sẽ theo 
về”. Lễ không phải dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp dụng cho người có Nhân. 
Cung kính là gốc của Lễ. Nhân có trước, Lễ có sau. 
 - Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản trong học 
thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, 
đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong 
việc thực thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị. 
Chính danh thể hiện ở các nội dung: 
 + Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong xã hội. Ai 
ở vị trí nào thì làm tròn bổn phận ở vị trí ấy: vua phải giữ đúng đạo làm vua, tôi phải giữ 
đúng đạo làm tôi, cha phải giữ đúng đạo làm cha, con phải giữ đúng đạo làm con; không 
được làm quá chức năng, bổn phận của mình. 
 + “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức. Trong 
chính trị, lời nói phải đi đôi với việc làm. 
 + Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” trước khi có 
“thực” vì “danh” là điều kiện thi hành “thực”. Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh 
không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành”. 
 + Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn “danh” được 
“chính” (đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều kiện để 
thực hiện, trau dồi Lễ. 
 + Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền 
hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định 
được danh phận thì mới điều hòa được các mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của cách  ứng xử chính trị. 
 => Học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ bản: Nhân – 
Lễ - Chính danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát nhưng cũng là mục 
đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi học thuyết của chính trị của Khổng Tử là 
“đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị”. Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, 
chính danh là con đường đạt đến điều nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với 
nhau, tạo nên tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng 
Tử là duy tâm và phản động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ 
khai thác yếu tố tinh thần – đạo đức. Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ đẳng 
cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời Tây  Chu.    b. Mạnh Tử: 
 Mạnh Tử là người nước Trâu. Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng 
của Khổng Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính” (chính trị nhân nghĩa) của mình. Tư 
tưởng chính trị của ông có những nội dung cơ bản sau: 
 - Thuyết tính thiện: Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiện. Con 
người có lòng trắc ẩn thì tự nhiên biết xấu hổ, nhường nhịn, biết phải trái. Lòng trắc ẩn là 
nhân, biết xấu hổ là nghĩa, biết nhường nhịn là lễ, biết phải trái là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí 
là bốn thứ vốn có ở tâm ta. Con người trở thành ác vì không biết tu tâm, dưỡng tính, để 
cho vật dục chi phối, chạy theo lợi ích cá nhân. 
 - Quan niệm về vua – tôi – dân: Mạnh Tử cho rằng, Thiên từ là do mệnh trời trao cho 
thánh nhân và vận mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm ngầm trao quyền cho người có 
đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua – tôi là quan hệ hai chiều: “Vua coi bầy tôi như chân tay 
thì bầy tôi coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi coi vua như 
người dưng, vua coi bầy tôi như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một 
bước, ông cho rằng: “Ta phải hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy”. 
Mạnh Tử đề xuất tư tưởng “nhường ngôi”. Thiên tử có thể nhường ngôi cho vua chư hầu, 
căn cứ vào đức hạnh và khăn năng thực hành nhân chính của ông ta. 
 + Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng nhân dân: “Dân là quý nhất, 
quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng”. Như dân ở đây là chỉ thần dân, kẻ phụ 
thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi. 
 - Quan niệm về quân tử - tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị và được 
cung phụng. Tiểu nhân là hạng người bạo lực, bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh 
Tử đề xuất chủ trương dùng người hiền để thực hành chính trị nhân nghĩa. Trị nước là 
nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người cai trị phải được tuyển chọn công phu, chu 
đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho có ngoại lệ “kẻ hèn vượt người tôn quý”. 
 - Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối chiến tranh, bạo lực, nguồn gốc 
của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính, lấy dân làm gốc. “Vương 
đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi người “tự nuôi lấy bản thân mà chờ số mệnh” thì 
thiên hạ sẽ bình yên vô sự. Muốn cho tâm trí dân ổn định không làm loạn, thì phải tạo 
điều kiện cho họ có một mức sống vật chất tối thiểu. Thực chất của “”vương đạo” là 
người cai trị phải giáo dục dân tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ 
thường”, trói buộc ý thức và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ. 
 => Học thuyết “chân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với Khổng Tử. Tuy 
vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã nhìn thấy được sức mạnh 
của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo. Đó là những yếu tố dân chủ, 
tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý giải vấn  đề quyền lực.   
3, Liên hệ với Việt Nam: 
 Nho gia Trung Quốc tác động tới Việt Nam trên mọi phương diện: thể chế chính trị, 
giáo dục, đao đức, văn học, nghệ thuật, phong tục… Nho gia ảnh hưởng lớn đến đời sống 
văn hóa xã hội Việt Nam: 
 - Ban đầu khi được truyền bá vào Việt Nam, Nho gia đã được sử dụng như một thứ vũ 
khí để thể hiện sức mạnh và tham vọng đồng hóa người phương Nam của phong kiến 
phương Bắc. Tuy nhiên, Nho giáo được người Việt tiếp biến có chọn lọc và mang những  nội hàm mới. 
 - Tư tưởng chính trị của Nho gia góp phần xây dựng nên nhà nước phong kiến Việt 
Nam vững mạnh (là nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật, phát triển kinh tế - 
xã hội). Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông đưa Nho giáo thành quốc giáo ở nước ta. Ông 
tổ chức nhiều khoa thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Ông 
tiến hành cải cách bộ máy hành chính, xây dựng hệ thống chính trị chặt chẽ từ cơ sở đến 
trung ương, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, đưa pháp luật vào đời sống, thay thế các tục  lệ cũ. 
 - Nho gia không chú ý đến khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật là kìm hãm đất nước  ta nhiều thế kỷ. 
 - Nho gia được Việt Nam hóa đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những 
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập và sự thay đổi trong 
định hướng giá trị nhân cách cỉa người Việt Nam, việc phát triển con người Việt Nam 
bền vững cần có Nho gia là cơ sở triết học vững chắc nhằm đảm bảo, duy trì các giá trị 
đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn chứa đựng những yếu tố năng động, hiện đại.     
2. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay 
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong 
kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp 
thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ 
vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và 
trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời 
gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục 
đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư 
tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam 
và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn. 
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, 
khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã 
giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn 
phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực 
trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. 
Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới 
nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo 
cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con 
người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử 
thế đúng trong các quan hệ xã hội. 
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá 
nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, 
quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực 
tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị 
được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. 
Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong 
của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để 
làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong 
rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong 
lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị 
vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm 
quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng 
người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua 
quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ 
trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính 
phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói 
rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân 
nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền 
phải luôn “tu, tề, trị, bình”. 
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực,  cụ thể là: 
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc 
và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm 
pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo 
đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương 
Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều 
người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào 
cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình 
độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông 
tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến 
tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám 
đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân 
Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ 
ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, 
hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải 
quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính 
quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của  thói gia trưởng. 
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, 
bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi 
thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và 
hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của 
xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người 
chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là 
ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua 
(thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có 
nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.   
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng 
bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở 
tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng 
:”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ 
phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ 
mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát 
huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con người năng động, 
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. 
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên 
nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú 
cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với 
khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề 
của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu 
khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số 
người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ 
quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không được tham gia góp ý 
kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ 
thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa 
vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. 
Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một 
người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng 
quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo 
họ cũng là “học để làm quan”.   
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc 
đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. 
Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng 
đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.   
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho 
giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt 
vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.   
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần 
kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu 
cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường 
xuyên, kiên trì và lâu dài.     
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Liên hệ với Việt Nam?  Trả lời:   
 Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các 
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia 
của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, 
đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục 
tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.   
1. Nội dung tư tưởng của Pháp gia: 
 Vào cuối thời Chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ cùng với sự 
phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc đã cho ra đời một tầng lớp mới là địa chủ mới và 
thương nhân. Do áp dụng phương thức sản xuất tiến bộ và chính sách kinh tế phù hợp 
nên tầng lớp này đã nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất nước. Tuy vậy, tầng lớp quý tộc cũ 
nắm giữ quyền lực chính trị và đang trở thành vật cản của phát triển xã hội. Yêu cầu bức 
xúc lúc này là tập phân trung kinh tế và quyền lực để kết thúc tình trạng phân tranh, cát 
cứ, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu 
trên. Tư tưởng Pháp gia được áp dụng thành công và đưa vào thời Tần trở thành bá chủ, 
thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên 
 Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như phái trọng 
pháp, phái trọng thuật, phái trọng thế. Hàn Phi Tử là người tổng kết và phát triển tư tưởng 
của những nhà Pháp gia tiền bôi, hoàn chỉnh học thuyết này. 
 Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) là nhà tư tưởng cuối cùng của thời Tiên Tần, là 
con của công tử (con vua) nước Hàn. Ông cùng với Lý Tư (Tể tưởng của Tần Thủy 
Hoàng) là học trò của Tuân Tử, nhà tư tưởng lớn nhất đương thời. Ông muốn dùng học 
thuyết của mình để giúp vua làm cho đất nước phú cường, nhưng không được vua Hàn 
trọng dụng. Đến nước Tần, ông bị Lý Tư hãm hại buộc phải tự sát trong ngục. Tác phẩm 
Hàn Phi Tử của ông là tác phẩm kinh điển của phái Pháp gia. 
 Hàn Phi Tử cho rằng, xã hội loài người luôn biến đổi, phát triển theo hướng đi lên. Bản 
tính con người là ham lợi. Điều lợi ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ trong xã hội. 
Chính trị đương thời không nên bàn chuyện nhân nghĩa cao xa mà cần có biện pháp cụ 
thể, cứng rắn, kiên quyết. Từ nhận thức đó, học thuyết chính trị của ông được xây dựng 
trên cơ sở thống nhất pháp – thuật – thế: 
 - Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được phổ biến 
rộng rãi để nhân dân thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được những yêu cầu, 
không phát triển của xã hội, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ dân chúng. Pháp luật 
phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, đám đông hiếp áp số yếu. Quyền lực 
cần phải tập trung vào một người là vua. Vua đề ra pháp luật, quan lại theo dõi việc thực 
hiện, dân là người thi hành pháp luật. 
 - Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám sát, điều 
khiển bầy tôi. Thuật là phương pháp tuyển chọn, sử dụng người đúng chức năng, tạo cho 
họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy, thuật là yếu tố cần thiết, bổ trợ và làm cho 
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thuật phải được giữ bí mật, kín đáo, không được 
tiết lộ với bất cứ ai. Vua không được để lộ sự yêu ghét của mình, đề phòng quần thần lợi 
dụng. Ông ta không phải làm gì mà bắt các quan phải làm việc cai trị dân chúng. 
 - Thế là uy thế, quyền lực của người cầm quyền. Quần thần phục tùng nhà vua không 
phải theo tình cốt nhục, mà chịu sự ràng buộc bởi quyền lực. Yếu tố để quẩn thần buộc 
phải tuân theo đó là thế. Thế là quyền lực đảm bảo cho việc thi hành pháp luật. Thế phải 
tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia sẻ, không được để rơi vào tay người 
khác. Vua phải nắm chắc hai phương tiện cưỡng chế, đó là “nhị bính”: thưởng và phạt. 
Thưởng, phạt phải căn cứ vào cơ sở pháp luật chứ không thể tùy tiện, Vua cũng phải 
phục tùng pháp luật. Khi có thể, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên, lời nói có thêm sức  mạnh. 
 - Hàn Phi Tử cho rằng: “pháp”, “thuật”, “thế” cần phải kết hợp làm một, trong đó 
“pháp” là trung tâm, “thuật” và “thế” là những điều kiện tất yếu trong việc thi hành luật. 
Pháp luật phải vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung, “việc phạt tội không trừ bậc đại thần, 
việc thưởng công không bỏ sót kẻ thất phu” 
 - “Pháp trị” đối lập với “Nhân trị” của Nho gia. Theo Hàn Phi Tử, nguồn gốc làm rối 
loạn pháp luật là do bọn du sĩ và các học thuyết chính trị đua nhau làm hỏng pháp độ, cho 
nên phải dùng pháp luật để ngăn cấm và không cho họ tham gia chính trị. 
 => Như vậy, đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia đã khai 
thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Tư tưởng Pháp 
gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền, góp phần không nhỏ 
trong việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần. Tuy nhiên, học thuyết Pháp trị bị giai cấp 
cầm quyền cực đoan hóa, dẫn đến sự thống trị hà khắc tàn bạo (như vụ án lịch sử Tần 
Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn kẻ sỹ).   
3. Liên hệ với Việt Nam: 
 Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử chiếm một ý nghĩa quan trọng 
trong đời sống chính trị. 
 - Từ thời phong kiến, các vua chúa Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cai trị phương 
Bắc, trong đó, biết đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã hội, buộc mọi người phải tuân theo 
nhằm ổn định xã hội (Luật Hình thư, Luật Hồng Đức, Luật Gia Long…) 
 - Biểu hiện thời hiện đại: Việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.     
Câu 4: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại?  Trả lời: 
 Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc 
gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của 
nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng 
phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lỗi và những mục đích 
đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.   
 Văn minh Hy Lạp cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm những tư 
tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản của chính trị, tư duy chính trị đã 
được đặt ra và luận giải trên những nét chính ngay ở thời kỳ này. Trong quá trình phát 
triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sáng chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp đã xuất hiện các 
quốc gia thành thị chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp 
chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị 
dân tự do ngày càng gay gắt dẫn đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện những 
chính trị gia xuất sắc.   
1. Hêrêđốt (484 – 425 TCN) 
 Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ông là người đầu tiên phân biệt và so 
sánh các thể chế chính trị khác nhau. Theo ông, có ba thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc  và dân chủ. 
 - Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có công lập quốc, sống vì 
nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản biện, phản kháng. Đặc quyền 
và lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở thành tội lỗi. 
 - Quý tộc: là thể chế được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm người ưu tú 
nhất của đất nước, vì lợi ích chung. Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự khác biệt, bất hòa, 
chia bè kéo phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn nhau. 
 - Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con đường bỏ 
phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn chặn sự lạm dụng 
quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả đều bình đẳng trước pháp 
luật. Nhưng khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu ra những người lãnh đạo kém hiểu 
biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm quyền, từ đó xảy ra tình trạng vô chính phủ.   
2. Xênôphôn (khoảng 427 – 355 TCN) 
 - Ông thuộc tầng lớp quý tộc. Khi bàn về chính trị, ông bàn về cách cai trị và cách 
quản lý. Ông thấy chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao nhất – nghệ thuật 
của bậc đế vương. Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực, 
người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nô lệ. 
 - Tư tưởng chính trị của ông thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị. Theo ông, thủ 
lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết cảm hóa người 
khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có những phẩm chất đặc biệt như biết bảo vệ lợi 
ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng. Thiên tài của thủ lĩnh không 
phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể 
chất, với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm.    3. Platôn (428 – 347 TCN) 
 - Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời còn là nhà chính trị xuất sắc. Tư tưởng 
chính trị của ông được phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hòa”, “Các đạo luật và Nền 
chính trị”. Ông là người đầu tiên đạt tới quan niệm giá trị phổ biến, tầm vĩ mô của chính 
trị và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị đích thực. 
 - Khi bàn về khái niệm chính trị, Platôn cho rằng chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối 
cao, là nghệ thuật dẫn dắt xã hội con người. Chính trị tự phân chia thành pháp lý, hành 
chính, tư pháp, ngoại giao… Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc 
tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Chính trị phải là sự chuyên chế, tất 
cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy. Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn, gây tai họa cho đời  sống công dân. 
 - Xã hội lý tưởng của Platôn là xã hội được trị vì bởi sự thông thái. Ông chia xã hội  thành ba hạng người: 
 + Các nhà triết học thông thái đảm nhận vai trò lãnh đạo, cai trị, quản lý nhà nước. 
 + Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội. 
 + Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải, vật chất, đảm bảo cuộc sống cho  xã hội. 
 - Công lý là ở chỗ, mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, hoạt động phù hợp 
với chức năng của mình. Theo Platôn, điều kiện và cơ sở để duy trì một xã hội được cai 
trị bởi những người thông thái là phải thực hiện cộng đồng về tài sản và hôn nhân. Ông 
chủ trương xóa bỏ sở hữu cá nhân (vì nó là nguồn gốc sinh ra cái ác) và tình yêu gia đình, 
thay vào đó là những tổ chức cộng đồng. Như vậy, xóa cá nhân vì một xã hội lý tưởng, 
Platôn đã biến phương tiện thành mục đích. Đó là khởi nguồn của “chủ nghĩa cộng sản 
không tưởng”. Ông cho rằng, khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, 
trước tiên phải dựa vào tôn giáo và pháp luật. Sự chuyển hóa quyền lực trong xã hội là do 
có sự đối kháng về quyền lợi và những vận động về chính trị. 
=> Quan điểm chính trị của Platôn còn nhiều mâu thuẫn: vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, vừa 
muốn duy trì chế độ đẳng cấp. Ông đưa ra mô hình xã hội lý tưởng và công lý nhưng 
đồng thời lại bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc, chủ nô. Tuy nhiên, ông đã có những 
quan niệm cụ thể và hệ thống về chính trị và sự phát triển của xã hội nói chung.   
4. Arixtốt (384 – 322 TCN) 
 - Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai công trình nghiên cứu 
và chính trị là “Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ông đã tổng kết và phát triển tài tình các 
kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước  pháp quyền. 
 - Theo Arixtốt, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử. Con người là 
“động vật chính trị” Bản tính của con người là sống trong cộng đồng. Hình thức tổ chức 
cuộc sống cộng đồng trong một thể chế xã hội nhất định được gọi là nhà nước. Nhà nước 
ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước và sự tiếp tục chính quyền trong gia 
đình. Nhà nước không phải là kết quả của sự thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa 
trên ý chí của họ. Nó được phát triển từ gia đình và làng xã. Thể chế chính trị là trật tự 
làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành, quản lý xã hội 
về ba phương diện: lập pháp, hành pháp và phân xử. Sứ mệnh của nhà nước là lãnh đạo 
tập thể các công dân, quan tâm tới các quyền chung của công dân, làm cho mọi người 
sống hạnh phúc. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật. Công lý chính 
là hành động một cách công bằng theo pháp luật. Thông qua pháp luật, các quyền chung 
của công dân được thể hiện và củng cố. 
 - Ông cho rằng, không một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất 
cả mọi thời đại và các nước. Ông phân loại chính phủ theo tiêu chuẩn số lượng (người 
cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền). Kết hợp hai mặt đó, có thể sắp 
xếp chính phủ theo hai loại: chính phủ chân chính là: quân chủ, quý tộc, cộng hòa, chính 
phủ biến chất là: độc tài, quả đầu, dân trị. Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi 
như hình thức tổ chức nhà nước thần thánh và ưu việt nhất.   
=> Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau: 
 - Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do đó, con 
người là động vật công dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm với cộng đồng. 
 - Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái cá nhân riêng 
biệt, con người sống ngày càng tốt hơn. 
 - Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho công dân. 
 - Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi công  dân. 
 - Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá nhân thay 
thế pháp luật, chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham quyền lực… 
 - Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt nát chế ngự. 
 - Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì không có ai uy tín bằng lãnh tụ chiến thắng. 
Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế độ chính trị phải thay  đổi. 
 Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do cá 
nhân cho những người nô lệ và lao động… song với nhãn quan uyên thâm và sâu sắc, tư 
tưởng chính trị của Arixtốt có ý nghĩa là sự tổng hợp và khái quát hóa những giá trị cơ 
bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.     
Câu 5: Trình bày sự hình thành và phát triển của thuyết: “Tam quyền phân lập”?  Trả lời:   
 Tam quyền phân lập hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một mô hình quản 
lý nhà nước với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do và công 
bằng pháp luật. Mô hình và khái niệm này được biết đến từ lâu, ít nhất là từ thời La Mã 
cổ đại và được thể chế hóa trong hiến pháp hiện đại của nhiều quốc gia, trong đó có Hiến 
pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp CHLB Đức hay các nước cộng sản khác. Trong mô hình này, 
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được tách biệt và giao cho 3 cơ quan 
độc lập khác nhau thực hiện và qua đó ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn 
nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền lực tuyệt đối trong 
sinh hoạt chính trị của một quốc gia.   
 Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều 
tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, 
chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết 
của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền lực. 
 Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà điển hình là 
nhà nước cộng hòa La Mã. Cộng hòa La Mã hàng năm đã bầu lãnh sự đã được lựa chọn 
bởi một cơ thể của công dân, Thượng viện quản lý pháp luật, nghị định được ban hành 
bởi các viên chức lãnh sự và ban hành nghị quyết về những vấn đề quan trọng và cũng 
tham gia vào các quan hệ đối ngoại, và các hội đồng đã được thực hiện bởiCông dân có 
vai trò khác nhau trong chính phủ.Các viên chức lãnh sự phụ trách của chính phủ và của 
quân đội. Có 300 công dân Thượng viện khuyên họ ở tất cả các lần. Trong lịch sử của 
Cộng hòa La Mã Thượng viện luôn luôn là nhóm mạnh nhất. Chỉ có Đại hội có thể chấp 
thuận hoặc không chấp thuận của pháp luật và chỉ có ứng cử đại biểu được bầu chọn cho 
văn phòng của lãnh sự.Hiến pháp của La Mã luôn luôn là một khái niệm cơ bản của kiểm  tra và cân bằng. 
 Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết 
ở Tây Âu vào thế kỷ 17 – 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là John Locke và C.L.  Montesquieu. 
 John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên khởi 
thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện 
trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính quyền.” Về quyền lực nhà nước, ông cho 
rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực 
còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất 
quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. 
 Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo 
đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về nghị viện; 
nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc 
thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành 
pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua 
phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm 
không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền 
tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề 
chiến tranh, hòa bình và đối ngoại. 
 Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người Pháp, C.L. 
Montesquieu (1689 – 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học 
thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên  tuổi của ông. 
 Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ 
quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lý, vì: nhà nước tồn tại vốn biểu 
hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế 
độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy 
pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy 
nhất là trái với bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình trạng lạm 
quyền. Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh 
toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể 
cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn. 
 Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính 
tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ quốc gia 
nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế 
công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.” Ta có thể nhận ra sự tiến bộ 
trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách quyền 
lực xét xử - quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác. 
 Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh 
toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền 
tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại 
trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người 
ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách 
độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp 
và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán 
với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư 
pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu 
một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm 
luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết." 
 Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: “Cơ quan 
lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do năng quyền 
ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ 
bị quyền lập pháp ràng buộc.” 
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc 
quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực 
sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng 
như thực tiễn tổ chức của các nhà nước tư bản. Ví dụ như đa số Hiến pháp của các nhà 
nước tư bản hiện nay đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản 
của việc tổ chức quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy định: 
“Quyền lực nhà nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự phân quyền 
thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan của các quyền lập pháp, 
hành pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng 
định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba quyền: 
lập pháp, hành pháp, tư pháp. 
Tiếp nối Montesquieu, J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa 
ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và 
hoạt động của bộ máy nhà nước. 
Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà 
nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội. Nhưng 
ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp và quyền hành 
pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy 
nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu 
hướng lạm quyền. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong 
việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các 
vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân. Nhưng cách phân quyền của 
Rousseau không giống với Locke và Montesquieu, bởi ông luôn khẳng định một điều duy 
nhất rằng: “những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối 
cao” và “mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó” mà thôi.   
Câu 6: Trình bày nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị?  Trả lời:   
 Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với 
vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân 
vào quyền lực nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước 
nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm  thỏa mãn lợi ích.   
1. Bản chất của chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị: 
 Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, chính trị luôn mang bản chất giai cấp. Bản chất 
giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của giai cấp. 
Chính trị ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội có phân chia giai cấp. Khi cơ sở kinh tế làm 
cho nhà nước mất đi, giai cấp không còn, khi đó, chính trị cũng không còn cơ sở tồn tại.   
a. Chính trị có tính dân tộc: 
 Vấn đề dân tộc, đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kỳ thị dân tộc là nội dung quan 
trọng của hoạt động chính trị. Trong đấu tranh chính trị, việc xử lý quan hệ giai cấp – dân 
tộc được đặt ra thường xuyên. Không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp mà quên vấn đề 
dân tộc, và ngược lại. Nếu tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái, 
nếu tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc thì sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan.   
b. Chính trị có tính nhân loại: 
 Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề nhân loại. Chính trị hiện đại luôn 
coi trọng vấn đề nhân loại, giải quyết vấn đề nhân loại trên cơ sở quan điểm giai cấp. Giải 
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội là những vấn đề quan hệ gắn bó 
mật thiết với nhau của nền chính trị vô sản, trở thành xu hướng phát triển của chính trị  nhân loại. 
 - Các nhà kinh điển Mácxít chỉ ra rằng, đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu tranh 
giai cấp. Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử. Cuộc đấu tranh này trải qua 
ba giai đoạn, phản ánh ba trình độ phát triển khác nhau của đấu tranh giai cấp từ tự phát 
đến tự giác, từ sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt tức thời đến nhận thức và hiện thực 
hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp. 
 + Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế. Thông qua đấu tranh 
kinh tế, đã giác ngộ công nhân về lợi ích giai cấp. Tuy là hình thức thấp nhất, nhưng đấu 
tranh kinh tế lại rất quan trọng, nó tạo ra môi trường thực tiễn, giúp giai cấp công nhân 
giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Đấu tranh kinh tế mà không phát triển lên thì 
phong trào sẽ có nguy cơ dừng lại ở chủ nghĩa kinh tế thuần túy, sa vào “chủ nghĩa công 
đoàn”. Thực tế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã có thời kỳ dừng lại ở mục 
tiêu kinh tế, làm xuất hiện phong trào “công đoàn vàng” và tầng lớp “công nhân quý tộc”. 
Giai cấp tư sản ý thức rõ điều này nên tìm mọi cách phân hóa và biến một bộ phận công 
nhân thành những “công nhân quý tộc” phục vụ giai cấp tư sản ngay trong lòng phong  trào công nhân. 
 + Giai đoạn thứ hai của đấu tranh giai cấp là đấu tranh tư tưởng lý luận. Các nhà kinh 
điển chỉ ra rằng, giai cấp vô sản là giai cấp triệt để cách mạng không phải vì nó là giai 
cấp nghèo nhất, mà trước hết vì lợi ích của nó với lợi ích của giai cấp tư sản, nó đại diện 
cho phương thức sản xuất cách mạng. Các ông cũng chỉ rõ kẻ thù của giai cấp vô sản là 
toàn bộ giai cấp tư sản quốc tế, chứ không phải dừng lại ở một vài nhà tư sản cá biệt. Vì 
vậy, giai cấp vô sản sẽ không thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là giải 
phóng toàn xã hội thoát khỏi áp bức, bóc lột tư bản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa 
nếu như nó không được vũ trang bằng tư tưởng lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác –  Lênin. 
 Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, giai cấp vô sản không những phải đấu tranh chống 
mọi thứ lý luận phản động của giai cấp tư sản mà còn phải đấu tranh chống trào lưu tư 
tưởng cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc 
tế để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đấu tranh tư tưởng đòi hỏi các 
đảng vô sản phải tổng kết đấu tranh của quần chúng, nâng lên trình độ lý luận. Có như 
vậy, các đảng cộng sản mới làm tròn vai trò tiên phong của mình. 
 + Giai đoạn thứ ba (cao nhất) của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ 
cơ bản của đấu tranh chính trị là thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thiết lập nền chuyên chính 
mới và sử dụng chuyên chính đó để xây dựng xã hội mới. Lúc này, vấn đề giành quyền 
lực giành quyền lực nhà nước được đặt ra một cách trực tiếp. Đấu tranh chính trị gắn liền 
với sự bùng nổ cách mạng xã hội. 
 Muốn đạt tới đấu tranh chính trị thì giai cấp vô sản phải có lý luận, có đội tiên 
phong của giai cấp mình – Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng cách mạng 
chính trị thực chất là cách mạng thay đổi thể chế chính trị. Cách mạng vô sản thay thể chế 
tư sản bằng thể chế vô sản (chuyên chính vô sản). Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách 
mạng là vấn đề chính quyền. 
 Theo C.Mác, bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào cũng có tính chất chính trị vì nó 
trực tiếp ảnh hưởng tới vấn đề quyền lực chính trị, trực tiếp tuyên chiến với thể chế cũ. 
Mặt khác, bất cứ một cuộc cách mạng chính trị nào cũng có tính chất xã hội vì nó đặt vấn 
đề cải tạo các quan hệ xã hội cũ, xây dựng các quan hệ xã hội mới trên mỗi bước tiến của  cách mạng. 
 => Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra ba hình thức đấu tranh giai cấp cơ bản và 
khẳng định các hình thức này có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và bổ sung cho 
nhau. Đấu tranh tư tưởng và đấu tranh kinh tế phục vụ đấu tranh chính trị. Đấu tranh 
chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất, quyết định thắng lợi cuối cùng và căn bản của 
giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản.   
2. Lý luận về tình thế và thời cơ cách mạng:  a. Tính thế cách mạng: 
 Đương thời, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã phân tích “giải phẫu” cơ thể xã hội chủ nghĩa 
tư bản châu Âu thế kỷ XIX. Các ông rút ra nhận xét: mẫu thuẫn giai cấp không thể điều 
hòa giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thất yếu sẽ dẫn đến cách mạng. Nhưng tình thế 
châu Âu ở nửa sau thế kỷ XIX cho thấy rõ là các thế lực phong kiến phản động vẫn tồn 
tại mặc dù đã xuy yếu, có xu hướng tư sản hóa. Giai cấp tư sản coi phong kiến và vô sản 
là kẻ thù. Nhưng vì lợi ích ích kỷ của mình, giai cấp tư sản đã thỏa hiệp với giai cấp 
phong kiến, chống lại giai cấp vô sản cách mạng. Trong khi đó, giai cấp vô sản chưa 
trưởng thành, luôn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương. Vì thế, C.Mác và 
Ph.Ăngghen cho rằng một cuộc cách mạng vô sản trực tiếp chỉ có thể nổ ra được khi mâu 
thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản đạt đến độ chín muồi gay gắt, nó phản ánh sự phát 
triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi sự phù hợp của quan hệ sản xuất. C.Mác viết rằng: 
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chngs, các lực lượng sản xuất vật chất của xã 
hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có … Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách 
mạng xã hội”. Do đó, nếu như cách mạng nổ ra mà lực lượng sản xuất phát triển chưa đầy 
đủ thì cuộc cách mạng đó chỉ là hình thức mà thôi. 
 Đến Lê nin, ông nhấn mạnh các quan hệ chủ quan và khách quan trong tình thế cách 
mạng. Theo ông, thì cần chú ý đến lực lượng sản xuất (yếu tố khách quan) và sự khủng 
hoảng xã hội (yếu tố chủ quan) vì đó là những nhân tố phản ánh trạng thái xã hội, làm 
xuất hiện tình thế cách mạng. Căn cứ vào đó, Lênin đưa ra ba dấu hiệu của tình thế cách  mạng: 
 - Giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, chính trị rơi vào khủng hoảng dường 
như không còn kiểm soát được xã hội. Trong tình hình đó, giai cấp thống trị buộc phải áp 
dụng biện pháp đàn áp – đàn áp cách mạng, đẩy xã hội tới đối đầu. 
 - Quần chúng bị áp bức rơi vào tình trạng bần cùng, sự chịu đựng đã đến giới hạn cuối 
cùng, không thể chịu đựng hơn được nữa, buộc phải đi đến một hành động có tính lịch  sử. 
 - Tầng lớp trung gian sẵn sàng ngả về phía quần chúng cách mạng, đứng về phía tiên  tiến cách mạng. 
 => Khi xã hội xuất hiện ba dấu hiệu tình thế cách mạng này thì, theo Lênin, cách mạng 
ở trong khả năng rất gần.  b. Thời cơ cách mạng: 
 Nhưng cách mạng muốn nổ ra thì phải có thời cơ cách mạng. Thời cơ cách mạng là sự 
phát triển logic của tình thế cách mạng, khi cả ba dấu hiệu của tình thế cách mạng phát 
triển đến đỉnh điểm, xã hội khủng hoảng trầm trọng. Theo Lênin, tình thế cách mạng là 
khách quan, còn thời cơ cách mạng (ngoài yếu tố khách quan) là yếu tố chủ quan, đòi hỏi 
sự nhạy bén, quyết đoán của chủ thể cách mạng. 
 Thời cơ cách mạng gắn liền với các sự kiện, những tình huống có khả năng đẩy cách 
mạng đến bước ngoặt quyết định, nó gắn với thời điểm cụ thể, tức là gắn với không gian, 
thời gian chính trị. Lênin cũng chỉ rõ rằng thời cơ xuất hiện rất nhanh và trôi đi cũng rất 
mau. Sau đó, cách mạng có nổ ra hay không và có thành công hay không sẽ phụ thuộc 
phần cực kỳ quan trọng ở vai trò của chủ thể, ở sự chuẩn bị đầy đủ và toàn diện cho cách 
mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga do Đảng Bônsêvích và Lênin lãnh đạo 
cũng như sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt 
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là những bài học thắng lợi điển hình của nghệ 
thuật xử lý tình thế và thời cơ cách mạng.   
3. Phương thức giành chính quyền và nghệ thuật thỏa hiệp: 
 Các nhà kinh điển Mácxít chỉ ra hai phương thức giành quyền lực chính trị: phương 
thức giành chính quyền bằng bạo lực và phương thức giành chính quyền bằng hòa bình. 
 - Phương thức giành chính quyền bằng bạo lực là phương thức phổ biến trong lịch sử. 
Cần lưu ý rằng, quan điểm Mác xít không đồng nhất bạo lực với chiến tranh. Bạo lực ở 
đây bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, là gắn liền sức mạnh vật chất 
và sức mạnh tinh thần, kết hợp giữa kinh tế với chính trị, giữa chính trị với quân sự, giữa 
chính trị với văn hóa… 
 - Việc giành chính quyền bằng con đường hòa bình rất quý và rất hiếm. Rất quý vì 
không đổ máu, rất hiếm vì xưa nay chưa có tiền lệ, chưa xảy a. Các nhà kinh điển cũng 
đồng thời đưa ra chỉ dẫn có tính phương pháp: khả năng giành chính quyền bằng hòa bình 
xuất hiện, dù là mầm mống, thì cũng hết sức tận dụng. Còn khi khả năng ấy không còn 
nữa thì giai cấp vô sản không được mơ hồ, ảo tưởng, mà phải dứt khoát và nhanh chóng 
chuyển đổi phương thức đấu tranh. 
 Hiện nay, vấn đề phương thức đấu tranh giành chính quyền đang là tiêu điểm của cuộc 
đấu tranh tư tưởng giữa những người Mác xít và những kẻ cơ hội mọi màu sắc. 
 Đây là vấn đề khoa học, đồng thời cũng là vấn đề nghệ thuật để xử lý tình huống. Ở 
đây, trong việc lựa chọn phương pháp nảy sinh vấn đề “thỏa hiệp”. Thỏa hiệp được đặt ra 
như một yêu cầu thực tiễn chứ không phải ý muốn chủ quan, do tương quan lực lượng ở 
phía cách mạng chưa đủ mạnh. Lênin chỉ ra hai loại thỏa hiệp: thỏa hiệp có nguyên tắc và 
thỏa hiệp vô nguyên tắc: 
 - Thỏa hiệp có nguyên tắc là loại thỏa hiệp không bao giờ xa rời mục tiêu, nhưng biện 
pháp, cách thức tiến hành có thể thay đổi, thậm chí trong những hoàn cảnh cụ thể có thể 
phải hy sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ mục tiêu lâu dài. Sự kiên định mục tiêu 
về chiến lược, còn mềm dẻo về sách lược là sự thỏa hiệp có nguyên tắc. Chẳng hạn như: 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng nó theo phương châm “”Dĩ bất biến ứng vạn biến” 
bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 06-03-1946 với Pháp để bảo toàn lực lượng, sau đó 
ngày 19-12-1946 đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến khi toàn dân toàn quân đã sẵn sàng 
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. 
 - Thỏa hiệp vô nguyên tắc về thực chất là sự đầu hàng, bán rẻ phong trào vì một lợi ích 
hẹp hòi trước mắt, sớm muộn sẽ rơi vào hàng ngũ kẻ thù của cách mạng. Goocbachop, 
Tổng thống Liên Xô (cũ) vì lợi ích cá nhân đã bán rẻ phong trào cách mạng, đi hết từ 
nhân nhượng này đến nhân nhượng khác và cuối cùng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ  nghĩa ở Liên Xô.   
4. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách mạng chính trị: 
 Đây là một hệ vấn đề rất lớn, cũng là trọng tâm tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph. 
Ăngghen và Lênin. Nó bao gồm một số nội dung sau: 
 - Xác lập cơ sở kinh tế - xã hội của thể chế mới. Đó là việc xác lập quan hệ sản xuất 
mới – thay sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng sở hữu xã hội, tạo cơ sở xoa bỏ mọi áp 
bức, bóc lột, đồng thời phát triển lực lượng toàn xã hội. Lênin cho rằng, khi bắt tay vào 
xây dựng chế mới thì vấn đề chính trị lớn nhất và lý thú nhất là “làm kinh tế”. Xây dựng 
cơ sở kinh tế đồng thời với việc xây dựng cơ sở xã hội, mở rộng khối liên minh với tất cả 
mọi người (không phân biệt tôn giáo, thành phần giai cấp…) miễn họ đồng ý với chủ 
nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển cũng đặc biệt lưu ý phải giải quyết tốt các quan hệ lợi ích 
bằng cách sử dụng tổng hợp các biện pháp kích thích. 
 - Đấu tranh chống nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ, thực hành dân chủ. Chủ nghĩa 
Mác – Lênin luôn coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủ nghĩa xã 
hội và không giờ nương nhẹ cuộc đấu tranh chống quan liêu, hối lộ, thực hành dân chủ 
rộng rãi. Lênin viết: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị 
khốn khổ trước hết về tệ quan liêu… Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái 
đó” và “Hiện giờ có ba kẻ thù đang đứng trước mọi người, bất kể người đó làm việc gì, ở 
cương vị nào… Kẻ thù lớn nhất – tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, kẻ thù thứ hai – nạn 
mù chứ, kẻ thù thứ ba – nạn hối lộ”. Lênin giải thích rằng: “Nếu còn có thể hối lộ, thì 
cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này phải thậm chí cũng không 
thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp sẽ đều lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn 
toàn không mang lại kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến một kết quả xấu hoen, 
nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện làm hối lộ còn được dung thứ và  được thịnh hành” 
 Để khắc phục quan liêu độc đoán, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin chủ 
trương phải thi hành dân chủ rộng rãi trong chính trị và kinh tế, cả trong lĩnh vực tư 
tưởng văn hóa, đồng thời dân chủ gắn liền với pháp luật. Đặc biệt các ông đề cập rất kỹ 
nguyên tắc “tập trung dân chủ”, xem tập trung dân chủ là cái bảo đảm cho tổ chức và 
hoạt động của thế chế mới đi tới thắng lợi cuối cùng và triệt để là chủ nghĩa cộng sản. 
 - Đề cập đến thể chế dân chủ vô sản, các nhà kinh điển Mácxít chỉ rõ: Đó là nền dân 
chủ hơn triệu lần dân chủ tư sản. Các ông cho răng, dân chủ, đó là quyền lực nhân dân, 
nhân dân phải giành lấy quyền lực đó và tự tổ chức quyền lực đó. Dân chủ còn được xem 
như một giá trị giải phóng, một thể chế, một hình thức tổ chức nhà nước. 
 - Về xây dựng đảng cộng sản cầm quyền, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng đinh rằng, 
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản phải phát triển thành tự giác, và một trong 
những yêu cầu quan trọng nhất là giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng của 
mình. Điều đó càng cực kỳ quan trọng sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính 
quyền. Việc xây dựng đảng đạt tầm cao trí tuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức 
là bảo đảm tiên quyết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ  nghĩa cộng sản. 
 Khi đã cầm quyền, nếu đảng thoái hóa, xa dân, phai nhạt về tư tưởng chính trị, biến 
dạng về đạo đức, lối sống, rạn nứt về tổ chức là nguy cơ trực tiếp cho sự thất bại không 
tránh khỏi của cách mạng. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác – Lênin thường xuyên quan tâm đến 
việc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, vững mạnh về đội ngũ 
cán bộ chủ chốt của đảng và coi đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc giành, giữ 
và sử dụng quyền lực nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa 
xã hội và chủ nghĩa cộng sản.   
5. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới xã hội 
không còn giai cấp và nhà nước. 
 Sự thống trị của giai cấp vô sản (tức là chuyên chính vô sản) theo các ông là nhằm: 
 - Dùng sự thống trị của mình mà từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản vào tay mình. 
 - Quốc hữu hóa: tập trung tất cả các công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức trong tay 
giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị. 
 - Phát triển kinh tế: tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất. 
 - Xóa bỏ nạn người bóc lột người, xóa bỏ áp bức dân tộc. 
 - Xây dựng quan hệ xã hội mới, tốt đẹp, tự do và phát triển. 
 Để thực hiện những nhiệm vụ trên, giai cấp vô sản phải nhất thiết trải qua một thời kỳ 
quá độ chính trị, thời kỳ chuyên chính vô sản. Thích ứng với thời kỳ quá độ - thời kỳ đau 
đẻ kéo dài, để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới, tạo ra 
những tiền đề vật chất cho việc hình thành nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô 
sản không phải là để duy trì sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp mà là để thủ tiêu 
hoàn toàn sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung, trong đó có giai cấp vô  sản. 
 Lênin khẳng định: Khi nào không còn tình trạng người bóc lột người nữa, khi ấy sẽ 
không có nhà nước, không có bóc lột. 
 Vì lẽ đó, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, mà nhiệm vụ chủ yếu của nó – 
quyết định thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa cộng sản, là tổ chức xây dựng. Do đó, nhà 
nước chuyên chính vô sản đã không còn là nhà nước “theo nguyên nghĩa” mà là “nửa nhà 
nước”, “nhà nước quá độ” trên con đường đi tới sự “tiêu vong”. 
 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thống trị của giai cấp công nhân như vậy 
hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của giai cấp công nhân giành quyền lực chính trị về tay 
mình không phải là để tiếp tục duy trì sự thống trị, thay thế áp bức này bằng một áp bức 
khác mà sự thông trị ấy chỉ là một phương tiện, một điều kiện cần thiết để đi tới hủy bỏ 
mọi sự thống trị, đi tới giải phóng con người.     
Câu 7: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị?  Trả lời:   
 Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia 
trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân 
dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước 
nhằm tìm kiếm khả năng thực thi những đường lối, những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa  mãn lợi ích.   
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn 
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách