lOMoARcPSD| 59256994
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Do tính khách quan của xu thế toàn cầu hoá, không một quốc gia nào thể phát
triển trong sbiệt lập với thế giới bên ngoài. Thậm chí, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng
gia tăng giữa các nước còn tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế
giới. Chính lúc này, vấn đề giữ gìn bảo vệ bản sắc văn hóa trở thành vấn đề quan trọng
hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Đứng trước bối cảnh như vậy, làm
thế nào để phát triển vẫn giữ được những giá trị tinh hoa vốn có của dân tộc là câu hỏi
vô cùng quan trọng, cần được giải quyết
Với Việt Nam chúng ta, văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
mục tiêu, vừa động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội m 1991 (được bổ sung phát
triển năm 2011), Đảng ta đã khẳng định chủ trương xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cho đến nay, Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục cthể hóa
chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn bản sc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và
tinh hoa văn hóa nhân loại, hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế” [Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.284 – 285].
Nhiệm vụ hàng đầu của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc chính là kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc
cộng đồng c dân tc Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát huy tính năng động,
sáng tạo trong việc tiếp thu chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hoá của nhân loại
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trên tinh thần đó, trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh đã xác định
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng nghiên cứu, ứng dụng đáp ứng nhu
cầu xã hội và hội nhập quốc tế trong các nh vực quy hoạch, kiến trúc, mỹ thuật nhằm góp
phần tạo ra những giá trị văn hóa vật chất cho đất nước làm sứ mệnh chính trị trong hoạt
động của Nhà trường. Nhà trường khẳng định Truyền thống Sáng tạo Chuyên nghiệp,
triết đó phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc những giá trị thẩm mỹ, văn hóa
truyền thống của n tộc. Có đảm bảo được điều đó mới thể khẳng định vị trí của văn
hóa dân tộc trong thời đại mới, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại,
tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới vừa truyền thống vừa hiện đại phù hợp với mục tiêu mà
Đảng ta đã đề ra trong xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 59256994
2
Góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị sứ mệnh của nhà trường, khoa luận
chính trị trường Đại học Kiến Trúc thành phố Hồ Chí Minh hiện đảm nhận giảng dạy học
phần Mỹ học đại cương. Đánh giá, đây là học phần cơ sở quan trọng, trang bị cho sinh viên
một sự hiểu biết nhất định đối với đời sống thẩm mcủa hội loài người. Đó shiểu
biết về các khái niệm trong hoạt động thẩm mỹ, các đối tượng chủ thể khách thể, các
tính chất và đặc trưng của từng đối tượng. Trên nền tảng đó, sinh viên có cái nhìn chính xác
về hoạt động sáng tạo và thụ hưởng thẩm mỹ đang diễn ra trong lĩnh vực chuyên môn của
mình, là cơ sở quan trọng giúp cho sinh viên xác định lập trường của cá nhân và xây dựng
chiến lược trong hoạt động học tập và sáng tạo của mình.
Tuy nhiên, thực trạng dạy học môn học Mỹ học đại cương tại trường Đại học
Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm qua chưa thật sự đạt được hiệu quả mong
muốn. Một trong những nguyên nhân phải kể đến là do chưa có được giáo trình chuyên biệt
phù hợp với đặc thù sinh viên của nhà trường. Tn thực tế, sinh viên tỏ ra lúng túng trong
việc nắm bắt nội dung khi phải tự nghiên cứu giáo trình không sự hướng dẫn của
giảng viên. Như vậy, skhó phát huy được vai trò chủ động của người học trước yêu cầu
đào tạo theo tín chỉ hiện nay.
Vì lý do nêu trên, bộ môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa
chọn việc biên soạn Tài liệu giảng dạy học phần Mỹ học đại cương” làm đề tài nghiên
cứu.
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MỸ
HỌC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NHẬP MÔN
1.1.1. Khái niệm Mỹ học 1.1.2. Nguồn gốc ra đời 1.1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.2. MỘT SỐ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TIÊU BIỂU CỦA LỊCH SỬ MỸ HỌC
TRƯỚC MÁC
1.2.1. Mỹ học thời kỳ nguyên thủy 1.2.2. Mỹ học thời kỳ cổ đại (thế kỷ thứ
VIII TCN – thế kỷ thứ 4 TCN)
1.2.3. Mỹ học Trung cổ phương Tây (thế kỷ IV TCN - đầu thế kỷ XIV) – Thời
kỳ Mỹ học thần học.
1.2.4. Mỹ học Phục hưng (thế kỷ XIV – thế kỷ XVI) 1.2.5. Mỹ học Cổ
điển Pháp (thế kỷ XVI – Thế kỷ XVII) 1.2.6. Mỹ học Khai sáng (thế kỷ
lOMoARcPSD| 59256994
3
XVIII) 1.2.7. Mỹ học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX) 1.2.8. Mỹ học Marx -
Lênin
CHƯƠNG 2
CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN THỰC
2.1. QUAN HỆ VÀ QUAN HỆ THẨM MỸ
2.1.1. Khái niệm về quan hệ 2.1.2. Khái niệm quan hệ thẩm mỹ
2.2. ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.2.1. Đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ 2.2.2. Bản chất của quan hệ thẩm mỹ
2.3. KẾT CẤU CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.3.1. Chủ thể thẩm mỹ 2.3.2. Đối tượng thẩm mỹ 2.3.3. Sự tương tác giữa chủ thể
thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ
CHƯƠNG 3
NHỮNG PHẠM TRÙ THẨM MỸ BẢN 3.1. CÁI
ĐẸP – PHẠM TRÙ TRUNG TÂM CỦA CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ
3.1.1. Cái đẹp là gì?
3.1.1.1. Vị trí của cái đẹp trong quan hệ thẩm mỹ.
3.1.1.2. Bản chất của cái đẹp
3.1.2. Các lĩnh vực biểu hiện của cái đẹp
3.1.2.1. Cái đẹp trong tự nhiên
3.1.2.2. Cái đẹp trong xã hội
3.2. CÁI CAO CẢ
3.2.1. Bản chất của cái cao cả 3.2.2. Quan hệ giữa cái cao cả với cái đẹp 3.2.3. Các
lĩnh vực biểu hiện của cái cao cả
3.2.3.1. Cái cao cả trong tự nhiên
3.2.3.2. Cái cao cả trong xã hội
3.2.3.3. Cái cao cả trong nghệ thuật
3.3. CÁI BI
3.3.1. Bản chất thẩm mỹ của cái bi
3.3.1.1. Xung đột trong cái bi
3.3.1.2. Tính cách bi kịch
3.3.1.3. Cảm xúc bi kịch
lOMoARcPSD| 59256994
4
3.3.2. Cái bi trong cuộc sống 3.3.3. Cái bi trong nghệ thuật
3.4. CÁI HÀI
3.4.1. Bản chất của cái hài
3.4.1.1. Tiếng cười trong cái hài
3.4.1.2. Đối tượng gây cười
3.4.1.3. Chủ thể cười
3.4.2. Các mức độ biểu hiện của cái hài và ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ của nó
3.4.3. Cái hài trong cuộc sống và trong nghệ thuật
CHƯƠNG 4
CHỦ THỂ THẨM MỸ
4.1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ THẨM MỸ VÀ NĂNG LỰC CỦA CHỦ THỂ THẨM MỸ
4.1.1. Khái niệm chủ thể thẩm mỹ 4.1.2. Năng lực của chủ thể thẩm mỹ
4.2. TÌNH CẢM THẨM MỸ
4.2.1. Tình cảm và tình cảm thẩm mỹ 4.2.2. Đặc trưng của tình cảm thẩm mỹ
4.3. THỊ HIẾU THẨM MỸ
4.3.1. Thị hiếu và thị hiếu thẩm mỹ 4.3.2. Đặc trưng của thị hiếu thẩm mỹ
4.4. LÝ TƯỞNG THẨM MỸ
4.4.1. Lý tưởng và lý tưởng thẩm mỹ 4.4.2. Những nét đặc thù của lý tưởng thẩm
mỹ
4.5. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHỦ THỂ THẨM M
4.5.1. Nhóm chủ thể thưởng thức
4.5.2. Nhóm chủ thể sáng tạo 4.5.3. Nhóm chủ thể định hướng thẩm mỹ 4.5.4.
Nhóm chủ thể biểu hiện thẩm mỹ 4.5.5. Nhóm chủ thể tổng hợp giá trị thẩm mỹ
CHƯƠNG 5
GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.1.1. Khái niệm 5.1.2. Bản chất của giáo dục thẩm mỹ
5.2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.2.1. Nguyên tắc toàn diện 5.2.2. Nguyên tắc lấy con người làm trung tâm 5.2.3.
Nguyên tắc giáo dục thẩm mỹ mang tính dân tộc 5.2.4. Nguyên tắc lý luận gắn với
thực tiễn 5.2.5. Nguyên tắc thống nhất và đa dạng
5.3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM V CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG NHÀ
lOMoARcPSD| 59256994
5
TRƯỜNG
5.3.1. Mục đích của giáo dục thẩm mỹ trong n trường 5.3.2. Nhiệm vụ của giáo
dục thẩm mỹ trong nhà trường
5.4. NỘI DUNG GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
5.4.1. Giáo dục nhận thức thẩm mỹ 5.4.2. Giáo dục năng lực hoạt động thẩm mỹ
5.4.3. Giáo dục năng lực thẩm mỹ nghệ thuật
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MỸ
HỌC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NHẬP MÔN
1.1.1. Khái niệm mỹ học
*Theo nghĩa hẹp, Mỹ học là khoa học về cái đẹp
*Theo nghĩa rộng, Mỹ học là khoa học triết học nghiên cứu những quy luật cơ bản
và phổ biến của các quan hệ thẩm mỹ, trong đó cái đẹp là phạm trù trung tâm, hình tượng
là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất của các quan hệ thẩm mỹ.
Quy luật i đẹp quy luật bao trùm mọi khía cạnh đời sống của con người. Đời
sống chịu sự chi phối của quy luật cái đẹp gọi là “đời sống thẩm mỹ”
- Trong đời sống vật chất, quy luật cái đẹp biểu hiện trong mọi lĩnh vưc:
ẩm thực, thời trang, kiến trúc... Ngay trong chính hoạt động sản xuất vật chất cũng tuân
theo quy luật cái đẹp.
- Trong đời sống tinh thần, nhân tố thẩm mỹ luôn chi phối đời sống tinh
thần của con người. Mỗi quốc gia đều hướng đến tìm kiếm cho mình một biểu tượng thẩm
mỹ.
1.1.2. Nguồn gốc ra đời
Mỹ học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội – Khi con người bắt đầu có ý thức
về đời sống thẩm mỹ. Ra đời vào thời kỳ thượng cổ hơn 30 nghìn năm trước, 5 chủ
thuyết về nguồn gốc của đời sống thẩm mỹ:
Thuyết bắt chước: Trong cuộc sống khi con người quan sát tnhiên rồi khám
phá ra những cái hay để học hỏi (Học con nhện cách dệt vải, học con ong cách xây tổ, học
màu sắc của hoa, âm nhạc từ tự nhiên... Dần dần sự bắt chước trở nên khéo léo, sanh ra tài
nghệ, từ tài nghệ hình thành nghệ thuật.
Thuyết ma thuật: Do con người e sợ các hiện tượng tự nhiên, tđó tha hóa
bản thân con người vào đó tnh các vị thần. Đthhiện stôn nh các vị thần, con người
lOMoARcPSD| 59256994
6
thờ cúng và hiến tế các sản phẩm lao động. Họ lựa chọn những đồ vật, sản phẩm đẹp nhất,
nơi thờ phụng cũng được xây dựng uy nghiêm, tráng lệ. Nghệ thuật ra đời ở đó.
Thuyết du hý: Bản chất của con người là ham chơi. Từ thuở ban đầu, con
người thích săn bắn, rong chơi. Khi đó, con người hưng phấn và thoải mái nên nhìn các sự
vật, hiện ợng xung quanh con người thấy đẹp mà cất giọng hát và nhảy múa, làm cho các
hình thức sơ khai của nghệ thuật ra đời.
Thuyết biểu hiện: Bản chất con người thích biểu hiện bản thân mình. Nghệ
thuật là nơi mà con người thể hiện tâm hồn mình.
Thuyết tổng sinh lực sinh lực thừa: Do quá trình chuyên môn hóa trong
lao động sản xuất làm năng suất lao động vượt trội hơn mức quy định cần thiết, lúc đó con
người xuất hiện “sinh lực thừa” để hoàn thiện thành quả của mình làm cho trở nên
đẹp hơn.
Mỹ học với cách khoa học triết học: Ra đời trong chế độ Chiếm hữu lệ,
khoảng thế kỷ VIII TCN. Trong giai đoạn này, Mỹ học cùng với Logic học và Đạo đức học
trở thành bộ ba các khoa học chuẩn mực mà đời sống tinh thần của con người không thể
thiếu.
Thuật ngữ “Mỹ học” với tư cách là một bộ phận của triết học, xuất phát từ tiếng Hy
Lạp là: Aisthésis là “cảm giác” – là nhận thức cảm tính – là nhận thức cảm tính của sự xúc
động, sự rung động thẩm mỹ.
Mỹ học với cách là một khoa học độc lập: Nhà mỹ học người Đức Baumgarten
(1714 – 1762) lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ Aesthetics vào năm 1735, là học thuyết về cảm
giác hay luận v“sự thụ cảm tính”. Nghĩa Mỹ học phải khoa học nghiên cứu con
đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Từ đó, Mỹ học xác định đối tượng nghiên cứu
riêng của nó, tách hoàn toàn khỏi triết học.
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt
thể hiện trong hiện thực. Trong đó, cái đẹp là phạm trù trung tâm.
Thứ hai, mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ. Đó là các hoạt động của chủ thể thẩm
mỹ trong quá trình cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ,
thể hiện qua: thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ.
Thứ ba, nghệ thuật với tính cách hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ. Đó
các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các đặc trưng, bản chất
chức năng của nghệ thuật.
lOMoARcPSD| 59256994
7
1.2. MỘT SỐ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TIÊU BIỂU CỦA LỊCH SỬ MỸ HỌC
TRƯỚC MÁC
1.2.1. Mỹ học thời kỳ nguyên thủy
Thời kỳ này chưa xuất hiện các tư tưởng về mỹ học nhưng đời sống thẩm mỹ đã
hình thành và phát triển. Một số hình vẽ, hoa văn, đồ vật, đặc biệt là đồ gốm được tìm thấy,
mặc dù còn rất t trừu tượng nhưng đã tđời sống tinh thần của người nguyên
thủy có xuất hiện yếu tố thẩm mỹ.
Cơ sở cho sự sáng tạo thẩm mỹ là từ nhu cầu hướng đến sự hoàn thiện công cụ.
Các đề tài trong đời sống thẩm mngười nguyên thủy thể thấy là: Đề tài về sự
vật, đề tài về con người, đề tài về phong cảnh thiên nhiên.
1.2.2. Mỹ học thời kỳ cổ đại (thế kỷ thứ VIII TCN – thế kỷ thứ 4 TCN)
Trung Quốc cổ đại: Tư tưởng Mỹ học rất ít được đề cập đến, chỉ gói gọn đầu tiên
trong chữ “Nghệ” của người Trung Quốc. “Nghệ” lúc đầu để chỉ việc chăm sóc cây cối, về
sau mới dùng chỉ nghệ thuật. Sau đó xuất hiện chữ “họa”, “nhạc”, “Thi”... Tuy nhiên, sự
phát triển của Mỹ học ở Trung Quốc thể hiện không rõ ràng. Có lẽ, do tính đặc thù của nền
triết học mang nặng tính chính trị hội n chỉ tập trung giải quyết các vấn đề chính trị
xã hội, ít quan tâm đến đời sống thẩm mỹ.
Hy Lạp cổ đại: (Tk VIII TCN – IV TCN) Giai đoạn này, Mỹ học là một bộ phận của
Triết học, nhưng là giai đoạn đặt nền móng cho toàn bộ tư tưởng triết học cũng như Mhọc
cho thế giới phương Tây sau này.
Nghệ thuật Hy Lạp mang tính hội công dân, thấm nhuần lòng tin vào vẻ đẹp và
sự cao cả của con người tự do biết đón nhận trách nhiệm. Điều này được do tác động
của kiểu tổ chức xã hội dựa trên nguyên tắc dân chủ khẳng định vai trò và vị trí quan trọng
của con người.
Đây cũng lần đầu tiên vẻ đẹp toàn diện của con người trở thành tưởng thẩm
mỹ trong sáng, thành nguồn cảm hứng chủ yếu cho sáng tạo nghệ thuật.
Hy Lạp thời cổ đại là thời đại của nghệ thuật điêu khắc.
Một số nhà triết học - mỹ học tiêu biểu:
Prôtago – Con người là thước đo của muôn loài.
Pitagore – Hòa điệu.
Heraclite – Cụ thể, tương đối.
Democrite – Mức độ, trật tự.
lOMoARcPSD| 59256994
8
Aristole – Tỉ lệ, hài hòa.
1.2.3. Mỹ học Trung cổ phương Tây (thế kỷ IV TCN - đầu thế kỷ XIV) – Thời
kỳ Mỹ học thần học.
Đặc điểm nổi bật của tổ chức cnh trị thời kỳ này là hệ thống phức tạp về đẳng cấp
của hội phong kiến nhà thờ bởi chế kép: Bên cạnh ơng quyền thần quyền,
nên người dân chịu hai tầng áp bức.
Thần học thống trị tuyệt đối, những hình thái ý thức xã hội khác như Triết học, Mỹ
học, Nghệ thuật... trở thành công cụ truyền giáo.
Tư tưởng triết học điển hình thể hiện ở hai trường phái: Chủ nghĩa kinh viện – tuyệt
đối hóa kinh thánh, lối tư duy giáo điều; Chủ nghĩa giáo điều – đặt niềm tin huyễn hoặc vào
một cuộc sống trên thiên đàng.
Đặc điểm Mỹ học phủ nhận cái đẹp nơi trần thế, tuyệt đối hóa cái đẹp trên
thiên đường. Nghệ thuật chỉ là công cụ truyền giáo, hướng đến cái đẹp tâm linh.
Thời đại trung cổ phương Tây là thời đại của nghệ thuật kiến trúc. Các hình thái
kiến trúc đặc trưng: Byzantine; Roman; Gothique.
Một số nhà Mỹ học tiêu biểu:
Tertullien (160 230): Lòng tin về Chúa cái đẹp duy nhất, nên ttuệ khoa
học không giá trị. Tôn giáo chính là lòng tin, dựa trên cảm nhận “Tôi
tin bởi điều đó là vô lý”.
Augustine (354 – 430): Thừa nhận vẻ đẹp trần thế nhưng tất thảy đều do Chúa trời
ban cho. Cái gì làm người ta thích thú bằng tỉ lệ, cân xứng, hài hòa thì là đẹp.
Thomas D’Aquin (1225 – 1274): Chúa trời là nguồn gốc tỏa sáng của cái đẹp. Mọi
vẻ đẹp đều có hình thức, nhưng hình thức đó do Chúa tạo ra, nên ta thể đánh giá nó bằng
các giác quan. Xem giác quan là cơ sở để vươn đến cái đẹp, tuy nhiên khởi nguyên từ
Chúa.
1.2.4. Mỹ học Phục hưng (thế kỷ XIV – XVI)
Mỹ học thời kỳ Phục hưng còn gọi mỹ học nhân văn, gắn với cuộc cách mạng
trên lĩnh vực văn a, tưởng do giai cấp sản thực hiện. Phục hưng thực chất khôi
phục lại sự hưng thịnh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Hy Lạp La cđại
nhằm bác bỏ tưởng thần quyền Kitô giáo. Với cái cớ của thời kỳ cổ đại, đó là: Coi con
người là trung tâm, là thước đo của muôn loài; Cần phải đấu tranh cho t do của con người.
Từ đó giai cấpsản có cơ sở để so sánh với thời kỳ trung cổ, khi con người bị chà đạp thô
bạo lên quyền sống và quyền tự do. Với sự so sánh này, giai cấp tư sản chỉ rõ được sự thối
lOMoARcPSD| 59256994
9
nát, lộng quyền của nhà thờ trung cổ đánh thức được tinh thần đấu tranh con người
trong lòng người dân. Đây chính là nền tảng cho cuộc Cách mạng tư sản sau này.
Tư tưởng Mỹ học thời kỳ này:
Thế giới tự nhiên sinh ra, tự vận động, tự phát triển, không phải do Chúa
trời tạo nên. Con người cũng sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, không phải do Chúa
trời tạo nên từ mẫu đất sét hay đốt xương sườn cụt.
Trần thế đẹp, không phải nơi đày ải, nơi con người thể xây
dựng hạnh phúc, chẳng phải đợi ngày mai trên thiên đường.
Con người trung tâm cái đẹp trong n cái đẹp của cuộc đời con
người là trung tâm, là đối tượng của nghệ thuật. Ba mẫu người lý tưởng của thời đại:
o Người công dân anh hùng tầm vóc khổng lồ - Thể hiện tinh
thần sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ để xây dựng 1 hội mới
Tượng David của Michelangelo.
o Con người trí tuệ và nội tâm phong phú Tác phẩm nàng Mona
Lisa của Leonardo Da Vinci . o Doanh nghiệp tài năng Tác
phẩm Thương gia George Gisze của Bobbein.
Mỹ học Phục hưng là Mỹ học hành động, chưa xuất hiện các nhà Mỹ học
luận, tưởng chủ yếu thể hiện thông qua các tác phẩm nghệ thuật. Các nhà Mỹ học tiêu
biểu như: o Ở giai đoạn mở đầu có Botticelli (1445 – 1510) với các tác phẩm “Mùa xuân”,
“Venus tái sinh”.
o giai đoạn cực thịnh Leonardo Da VinCi với “Bữa tiệc ly
biệt”, “Mona Lisa”, Raphael với “Trường Academy”,
Michelangelo với “Người khổng lồ bị trói”.
o giai đoạn suy n William Shakespeare với vở kịch
Hamlet.
Nghệ thuật Phục Hưng là nghệ thuật hội họa.
1.2.5. Mỹ học Cổ điển Pháp (thế kỷ XVI – Thế kỷ XVII)
Đây là thời kỳ hòa hoãn giai cấp lớn nhất và đầu tiên trong lịch sử,
chế kép này tác động mạnh mtạo nên yếu tố nhị nguyên trong Triết học
cả Mỹ học. Trong Mỹ học là sự thừa nhận cả hai thị hiếu cơ bản của hai giai cấp nổi trội
trong xã hội: giai cấp phong kiến chuộng nghĩa v; giai cấp tư sản chuộng dục vọng.
lOMoARcPSD| 59256994
10
Về cái đẹp: do chế kép, đã tạo ra cái đẹp trớ trêu giữa một bên là nghĩa vụ và
một bên là dục vọng. Sự giằng co giữa nghĩa vụ và dục vọng không thiên hẳn về một
bên.
Về nghệ thuật: Kịch nghệ trở thành hình thái nghệ thuật độc tôn, bởi qua đối thoại,
người diễn viên dễ dàng làm bật n được sự giằng tưởng biểu hiện sự hòa hoãn
giữa nghĩa vụ dục vọng. Chủ đề chính cũng khai thác mâu thuẫn giữa giai cấp
sản và giai cấp phong kiến. Tác phẩm tiêu biểu của thời đại: Le Cid của Pierre Corneille.
1.2.6. Mỹ học Khai sáng (thế kỷ XVIII)
Đây giai đoạn thế cân bằng của thời kỳ cổ điển bị phá vỡ khi triều đình phong
kiến càng lúc càng lệ thuộc vào giai cấp sản. Về kinh tế, nền sản xuất công nghiệp
khí ra đời thay thế cho nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Điều này đòi hỏi con người phải
có trí tuệ, có trình độ, học vấn nhất định để đáp ứng nhu cầu thời đại. Bên cạnh đó, giai cấp
sản đã đưa ra tưởng về một xã hội tự do – bình đẳng bác ái thay thế cho hội Phong
kiến đang thối nát đã kích thích mở mang dân trí và khai sáng đầu óc con người.
Giai đoạn này giai đoạn của cuộc Cách mạng sản 1789 đánh dấu sự lên ngôi
của giai cấp tư sản, nên Mỹ học cũng mang màu sắc tư sản. Cảm hứng cơ bản của thời đại
là cảm hứng về cuộc đổi đời.
Sự phát triển của văn minh công nghiệp dẫn đến mở mang đô thị. Thị dân phát triển
cũng xuất hiện nhu cầu thẩm mỹ riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân vật quần chúng
xuất hiện với tư cách là một đám đông.
Về cái đẹp: Cái đẹp phải hướng đến khai mở dân trí. Cái đẹp và cái thiện phải thắng
lợi trong xã hội, thể hiện trong khoa học, trong đạo đức, pháp luật...
Về nghệ thuật: Văn học bước lên giữ vị trí trung tâm vì một số lý do:
Do bản chất khai sáng n số người biết chữ càng nhiều, nhu cầu thẩm mỹ
cao.
K thuật in ấn phát triển nhanh chóng.
Bằng văn chương thể diễn đạt rất nét cảm hứng của thời đại cảm
hứng về một cuộc đổi đời. Ngôn từ xuất phát từ chính cuộc sống phố thị,
phản ánh được hình tượng những con người bon chen, hy vọng đổi đời trong
một xã hội đầy biến động, con người hướng đến đồng tiền.
lOMoARcPSD| 59256994
11
1.2.7. Mỹ học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX)
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nền văn minh công nghiệp đã có những thành tựu to
lớn. Nguyên lý tính hệ thống trở thành nguyên chung, I.Kant cần hiểu toàn bộ thế giới
tự nhiên trong toàn bộ tính vô cùng của nó như một hệ thống duy nhất”
1
.
Mỹ học cổ điển Đức có công lao hệ thống hóa tưởng Mỹ học của con ngưi, đồng
thời mở ra một kiểu tư duy mới – tư duy đoán định – khoa học dự báo.
Mỹ học cổ điển Đức kết tinh hai nhà mỹ học tiêu biểu I. Kant F. Hegel.
Immanuel Kant (1724 – 1804)
sở mỹ học của I.Kant tưởng về “nguyên về tính hệ thống” nguyên
lý vô cùng tận của đối tượng nhận thức”, từ đó đưa ra khái niệm “vật tự nó”.
Nhận thức một quá trình giải mã, mở dần “chiếc hộp đen” “vật tự nó”, song
việc nhận thức luôn có giới hạn không thể giải được – gọi là “lim”. Để khắc phục giới
hạn đó phải dùng phương pháp nhận thức “tiên nghiệm”. Khi tính bất lực, con người
quay lại bản thân mình, dùng “nội tỉnh” để nhận thức, qua đó “giác ngộ”. Nó đột khởi như
một sự “hồi âm”, nhưng là “hồi âm phản chiếu”.
Từ quan điểm về nhận thức trên, I. Kant cho rằng không khoa học về cái đẹp,
chỉ có sự phán đoán về cái đẹp thôi”. Theo đó, con người không thể dùng tư duy lý nh
để vạch ra quy luật của cái đẹp, phải bằng năng lực cảm nhận qua chiêm nghiệm đối
tượng trên cơ sở phán đoán thẩm mỹ của chủ thể.
Phán đoán thẩm mỹ phải được tiến hành theo các bước sau:
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ, một loại trực giác đầy cảm xúc, tiên
nghiệm.
Năng lực đánh giá thẩm mỹ, để khám phá cái đẹp bản chất một cách vô
tư, không vụ lợi vừa có tính cá nhân, vừa có tính phổ biến.
Năng lực thỏa mãn, là đáp ứng mục đích khám phá bản chất đích thực
của đối tượng nhằm đem lại “khoái cảm tuyệt đối” của chủ thể thẩm
mỹ.
Với ba năng lực trên I. Kant cho rằng:
Cái đẹp là cái gây thích thú một cách tất yếu, phổ quát cho mọi người
một cách vô tư và bằng tính hình thức thuần túy tuyệt đối của nó.
1
I.Kant, các tác phẩm Mátcơva (bản dịch), 1964, tr. 206.
lOMoARcPSD| 59256994
12
Năng khiếu thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ - khả năng phản tư, cảm
nhận tiên nghiệm trước đối tượng thẩm mỹ. Đây yêu tquan trọng
quyết định con đường đạt được “giác ngộ”. Theo I. Kant, bản thân cái
đẹp tự đã đẹp “vật tự nó”, con người thể cảm nhận, đánh giá
thưởng ngoạn để vươn tới cái ý niệm cao đẹp, toàn vẹn, phổ biến.
“vẻ đẹp không đôi hồng của người thiếu nữ trong con mắt
của kẻ si tình”.
Về cái trác tuyệt – cái cao cả.
Khác với cái đẹp chỗ: cái đẹp liên quan đến nh dạng, còn i trác
tuyệt có thể thấy được ở cái vô dạng. Cái đẹp trực tiếp làm nảy sinh sự
phấn khởi, còn cái trác tuyệt là một sự khoái lạc nảy sinh gián tiếp.
Xét ở mặt chất, cái trác tuyệt được chia làm 3 loại:
o Loại trác tuyệt kinh khủng: khi tình cảm về cái trác tuyệt mang
lại sự khủng khiếp hoặc buồn phiền.
o Loại trác tuyệt thanh cao: mang lại lòng khâm phục trầm lắng
o Loại huy hoàng: gắn liền với tình cảm về i đẹp tràn lan
trên một phạm vi rộng lớn.
Xét ở mặt lực lượng, được chia làm 2 loại o Cái trác tuyệt toán học
chính là những cái vĩ đại một cách tuyệt đối, nghĩa so với nó, mọi cái
khác đều bé cả.
o Cái trác tuyệt uy lực chính sức mạnh tinh thần của con
người vượt qua thử thách, bất chấp mọi khó khăn, khắc phục
mọi sợ hãi.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831)
nhà Triết học, Mỹ học cổ điển hàng đầu Đức. Đóng vai trò quyết định trong
xây dựng lý luận biện chứng về sự phát triển.
Theo Hegel, “Mỹ học triết học về nghệ thuật”
2
. Đó luận điểm quan trọng, đặt
cơ sở cho toàn bộ hệ thống mỹ học của ông.
Xuất phát từ quan điểm duy tâm khách quan về thế giới – “ý niệm tuyệt đối” Hegel
đưa ra phạm trù “ý niệm đẹp” – bản thân cái đẹp cần được lý giải là một ý niệm, thậm chí
ý niệm ấy lại mang nội dung lý tưởng.
2
Hegel, Mỹ học, tập 1, NXB Văn học, 1999, tr.55
lOMoARcPSD| 59256994
13
Nếu Kant tuyệt đối hóa cái “tôi” chủ quan thì ngược lại, Hegel đứng trên quan niệm
về lịch sử để giải quyết vấn đề cái đẹp. Chính điều này tạo ra mâu thuẫn trong quan niệm
về cái đẹp của Hegel. Một mặt, ông thừa nhận cái đẹp trong tự nhiên và hội theo quy
luật riêng của nó nhưng lại cho cái đẹp đó mờ nhạt, thấp kém vì nó có tính vật chất và khởi
nguyên từ “ý niệm đẹp” – chỉ có “ý niệm đẹp” mới là cái đẹp chân chính.
Về chủ thể sáng tạo, hoạt động sáng tạo nghệ thuật hoạt động thống lĩnh hai
phương diện chủ quan và khách quan. Hegel đưa ra khái niệm “thiên tài trong nghệ thuật”
để nói về chủ thể nghệ sĩ, chủ thể đó thể hiện ở 3 mặt:
Hư cấu: là óc sáng tạo, đòi hỏi chủ thể phải có biệt tài và sự mẫn cảm.
Hư cấu là phương tiện để thể hiện cái tôi bên trong nghệ sĩ.
Tài năng: khả năng thhiện thực tế vào tác phẩm bằng những hình
thức đặc biệt khác nhau với cá tính khác nhau của chủ thể nghệ sĩ.
Thiên tài: là một khả năng khái quát để sáng tạo những tác phẩm nghệ
thuật thực sự. Nghệ phải tài năng bẩm sinh cùng sự tập dợt khả
năng ấy để đạt tới thiên tước mới vượt qua giới hạn của sự khéo o bên
ngoài mà hình thành nên tác phẩm nghệ thuật
Người chủ thể nghệ thể hiện nội dung của mình không phải chỉ bằng hình thức
thuần túy còn trực giác nhạy bén, cảm quan chính xác để nắm bắt những khoảnh
khắc biểu hiện của cái đẹp. Để làm được điều đó tài năng và thiên tài chưa đủ mà cần phải
có cảm hứng và hư cấu. Những yếu tố trên thống nhất chặt chẽ với nhau làm nên điều kiện
để tạo ra tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Tác phẩm nghệ thuật sự kết cấu vật thể hữu
hạn, nhưng nội dung mỹ cảm thì lan tỏa vô hạn qua trí tưởng tượng cảm nhận của mỗi
người.
Từ quan điểm về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ nêu trên, Hegel tiếp tục phân tích các
khái niệm:
Cảm hứng: thể xuất phát từ tâm trạng, nhưng nhiều khi cũng từ
yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến. sự kết hợp giữa hoạt động của
cấu và hoàn thành ý định về mặt kỹ thuật với trạng thái tâm hồn của
nghệ sĩ.
Phong cách: là tư chất đặc biệt của nghệ sĩ trong việc nắm bắt bản chất
của sự vật và năng lực biểu hiện sự vật với một hình thức đặc sắc.
lOMoARcPSD| 59256994
14
tính: sự độc đáo của nghệ sĩ, là cảm hứng chủ quan, phản ánh
chính xác tâm hồn của nghệ sĩ.
ởng: là cái hoàn thiện, thể hiện khát vọng vươn tới chân lý luôn
mang hình thức cái đẹp. Tính ợt trước một đặc điểm quan trọng
của tưởng. Hegel xét tưởng trong quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của
nghệ thuật nghệ thuật tưởng. tưởng nghệ thuật luôn biện
chứng, nhờ tưởng, nghệ thuật mới thể nâng cao những sự vật
vốn không có giá trị và ngược lại.
1.2.8. Mỹ học Marx - Lenin
Những nhà mỹ học trước Marx có những sai lầm phiến diện ở một số điểm như
sau:
Coi cái thẩm mỹ là cái vốn có của ý niệm, của cá nhân con người, của
tự nhiên hiện thực;
Coi chủ thể thẩm mỹ chủ ththần thánh, chủ thể sinh vật, chủ thể
người cá nhân tách biệt khỏi yếu tố xã hội;
Coi lĩnh vực nghệ thuật cái vượt ra ngoài bản chất hội đích thực
của nó.
Khác với các nhà mỹ học trước đó, Marx xem xét đời sống thẩm mỹ trên tất cả các
bình diện của nó: bình diện đời sống, bình diện chủ quan, bình diện nghệ thuật – “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.”
3
Marx coi mỹ học một bộ phận hợp thành của chủ nghĩa duy vật biện chứng
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng mỹ học của ông gắn với triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Marx khẳng định, cái thẩm mỹ một quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng
thẩm mỹ, tuyệt đối không phải cái vốn của tư ởng, của động vật hay của các dạng
tồn tại bất kỳ. Cái thẩm mỹ có nguồn gốc từ lao động, không phải là thuộc tính sẵn có của
tự nhiên. Phải bằng lao động con người mới biến các hiện ợng trong tự nhiên thành các
hiện tượng thẩm mỹ gắn với hội loài người. thế, cái thẩm mỹ một giá trxã hội,
tuyệt đối không phải là cái tự có theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, hoặc xuất phát từ tình
3
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.3, tr.9
lOMoARcPSD| 59256994
15
cảm của mỗi nhân theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Cái thẩm mỹ không chỉ là một hình
thái ý thức xã hội mà còn có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã cung cấp cho mỹ học
cách nhìn toàn diện về các quan hệ thẩm mỹ trong quá trình vận động của nó, trong đó cái
thẩm mỹ là một quan hệ gồm ba mặt hợp thành:
Mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
cao cả tồn tại khắp mọi nơi trong đời sống xã hội.
Mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ: Đó các hoạt động của chủ thể
thẩm mỹ; về thị hiếu thẩm mỹ; về lý tưởng thẩm mỹ của những con
người xã hội.
Mặt nghệ thuật trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là các hoạt động hưởng thụ
nghệ thuật, đánh giá nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các
đặc trưng của nghệ thuật, bản chất xã hội của nghệ thuật và chức năng
của nghệ thuật
Ba mặt trong quan hệ thẩm mỹ tồn tại trong mối quan hệ biện chứng không thể tách
rời.
Quan hệ thẩm mỹ trong phạm vi nghiên cứu của mỹ học Marx – Lenin không phải
là quan hệ bất động, tĩnh tại mà nó luôn vận động theo dân tộc, giai cấp và thời đại, với cái
đẹp ở vị trí trung tâm.
Tóm lại, mỹ học Marx – Lenin có những giá trị thực tiễn sau:
Với hệ thống phạm trù tính chất khoa học biện chứng, sở
cần thiết cho chủ thể đi sâu vào quan hệ thẩm mỹ và là tiền đề đem lại
tính năng động tự giác cho chủ thể chi phối quan hệ ấy;
Góp phần củng cố niềm tin vào con người, vào tương lai ơi sáng,
khẳng định cái đẹp con đường hiện thực để đấu tranh cho cái đẹp
thắng lợi;
Góp phần phê bình khắc phục một cách tích cực độ lệch tự do của thị
hiếu cá nhân so với các chuẩn mực của cuộc sống;
công cụ phương pháp luận quan trọng hướng dẫn việc ởng thụ
thẩm mỹ đúng đắn đấu tranh chống các tưởng thẩm mỹ phản động,
thị hiếu thẩm mỹ thấp hèn, ch dâm, bạo lực do hội nhập mang lại
đang có khả năng làm băng hoại các giá trị thẩm mỹ, tinh hoa văn hóa
của dân tộc.
lOMoARcPSD| 59256994
16
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nói mỹ học là khoa học nghiên cứu về cái đẹp có chính xác và đầy đủ không?
2. Đối tượng nghiên cứu của mỹ học là gì?
3. Mỹ học trước Marx có những đặc điểm nổi bật gì?
4. Mỹ học Marx – Lenin có những đặc điểm nổi bật gì?
CHƯƠNG 2:
CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI
VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN THỰC
2.1. QUAN HỆ VÀ QUAN HỆ THẨM MỸ
2.1.1. Khái niệm về quan hê:
Con người, bản chất của sự tổng hòa của rất nhiều mối quan hệ. Trước một
hiện tượng đời sống, con người bộc lộ rất nhiều mối quan hệ: quan hệ kinh tế, quan hệ
chính trị, quan hệ đạo đức, quan hệ pháp lý, quan hệ tôn giáo... quan hệ thẩm mỹ. Trong
từng quan hệ ấy, con người có những khoa học riêng để nghiên cứu về nó. Ở quan hệ kinh
tế khoa kinh tế học, ở quan hệ chính trị khoa chính trị học, quan hệ đạo đức có khoa
đạo đức học.v.v... và ở quan hệ thẩm mỹ có khoa mỹ học.
Nói một cách khác, trong mối quan hệ với thế giới, con người có rất nhiều mối quan
hệ: Quan hệ bản quan hệ vật lý, quan hsinh học; quan hệ đặc trưng là quan hệ
hội. Trong quan hệ xã hội có các quan hệ như quan hệ thực dụng và quan hệ thẩm mỹ...
Quan hệ sự tác động, phụ thuộc vào nhau của các yếu tố trong một chỉnh thể, một
hệ thống.
2.1.2. Khái niêm quan h thẩm mỹ:
Quan hệ thẩm mỹ là các quan hệ của con người về mặt thẩm mỹ, đó là các quan hệ
của con người đối với cái đẹp,i xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn. Đó là những
xúc động, niềm vui sướng, niềm tự hào của con người trong mọi hoạt động.
Quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở 3 lĩnh vực chính:
Trong Lĩnh vực lao động sáng tạo:
o Lao động, học tập sáng tạo nguồn gốc của mọi quan hệ thẩm
mỹ. Lao động không chỉ tạo ra vật chất còn nhào nặn theo quy
luật của cái đẹp. Bản chất thẩm mỹ của cái đẹp gắn liền với lao động.
lOMoARcPSD| 59256994
17
o Lao động tạo ra cái mới có ích cho hội; mang các giá trị bên trong
của con người thể hiện ra bên ngoài.
Trong lĩnh vực khám phá, đánh giá:
o Đánh giá giá trị thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm nghệ thuật;
qua đó xác định ý nghĩa thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm nghệ
thuật đó đối với con người
o Đánh giá dựa vào mức độ phù hợp của khách thể , của tác phẩm nghệ
thuật với các chuẩn mực, tiêu chí...
o Đánh giá thẩm mỹ là hoạt động phức tạp của quan hệ thẩm mỹ, là sự
tổng hợp của các yếu tố: đối tượng đánh giá, chủ thể đánh giá,cơ s
đánh giá, tính chất đánh giá.
o Quan hệ thẩm mỹ xuất hiện trong đánh giá thẩm mcó sự thống nhất
giữa trí và tình cảm, giữa kinh nghiệm nhân chuẩn mực xã
hội
Trong thưởng thức thẩm mỹ: hoạt động tự nguyện, tự do; chủ thể lựa
chọn.
o Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm
mỹ, tình cảm thẩm mỹ, tri thức thẩm mỹ ... Mỗi yếu tố có vai trò cụ
thể, như tri thức thẩm mỹ tạo ra snhạy cảm, tinh tế trong thưởng
thức thẩm mỹ ...
o Đây hoạt động có mục đích của chủ thể. Mục đích quan trọng nhất
là khoái cảm thẩm mỹ
Như vậy, quan hệ thẩm mỹ xuất hiện ở mọi nơi, trong cuộc sống, lối sống, trong lao
động, trong sinh hoạt... Trong lối sống nó gắn bó chặt chẽ với cái hữu ích, giá trị, hài hòa...
Trong đời sống nó gắn bó chặt chẽ với cái ăn, mặc...
2.2. ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.2.1. Đăc trưng của quan hệ thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ mà con người hoạt động và sáng tạo theo quy luật cái
đẹp
Quan hệ thẩm mỹ không phải quan hệ vốn có, chỉ được hình thành
trong hoạt động thực tiễn thẩm mỹ của con người
lOMoARcPSD| 59256994
18
Trong hoạt động này con người hoạt động và sáng tạo theo những thước đo
cụ thể về cái đẹp.
Quan hệ thẩm mỹ quan hệ trong đó phải chủ thể thẩm mỹ đối tượng
thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ mà con người tự khẳng định mình về mặt cảm xúc đối
với hiện thực
Ðời sống con người có hai bộ phận: đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Cả hai bộ phận đó đều có tầm quan trọng của mình.
lOMoARcPSD| 59256994
19
Ðời sống tinh thần, đặc biệt là đời sống thẩm mỹ của con người là thước đo
giống loài, tiêu chuẩn để phân biệt con người với con vật, là sự khẳng
định mình như là một sức mạnh bản chất của con người.
Thiếu đi cái cảm xúc, sẽ không có thiên tài, không có tài năng, không có trí
thông minh, chỉ còn lại một thứ đầu óc tnh táo một cách ti tiện cần thiết
cho thói sinh hoạt thường ngày trong nhà, cho những tính toán nhỏ nhen của
bệnh ích kỷ.
Cảm xúc ca con người gắn với cái thích về vẻ đẹp của thế giới. Và gắn với
cái đẹp con người đã rèn luyện cảm giác của mình.
Cảm xúc yếu tố đặc trưng làm cho quan hệ thẩm mỹ khác quan hệ khác.
Mặc dù quan hệ nào cũng cảm xúc, nhưng cảm xúc của quan hệ thẩm mỹ
khác với cảm xúc thông thường
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ có tính hình ảnh, hình tượng
Hình tượng cũng trong quan hệ ngoài thẩm mỹ, như tôn giáo, n
ngưỡng... nhưng nh tượng đó chỉ phản ánh một phần của thực tế, hoặc
hoàn toàn không có trong thực tế.
Hoạt động trong quan hệ thẩm mỹ là toàn vẹn, hình tượng, sinh động, không
chia cắt cả về cơ cấu, màu sắc, âm thanh.
Hoạt động trong quan hệ thẩm mỹ không tồn tại dưới dạng công thức.
Tóm lại: quan hệ thẩm mỹ trọng tâm nhất nghệ thuật, mà bản chất đặc trưng
của nghệ thuật phản ánh thế giới bằng nghệ thuật. đâu tính hoàn chỉnh, tính nh
tượng gắn với các xúc cảm thì ở đó có quan hệ thẩm mỹ.
2.2.2. Bản chất của quan hê thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ là một quan hệ miêu tả
Hoạt động miêu tả làm nảy sinh quan hệ thẩm mỹ.
Hoạt động miêu tả làm thỏa mãn một nhu cầu thưởng ngoạn mà không thủ
tiêu đối tượng.
Hoạt động miêu tả dẫn ta đến khoái cảm làm chủ đối tượng một cách toàn
vẹn.
lOMoARcPSD| 59256994
20
Các hoạt động miêu tả thường biểu hiện các trạng thái thích thú của con
người khi nắm được sự vật.
Trong quá trình miêu tả, ngoài việc thỏa mãn thích thú, con người muốn
khám phá thế giới, muốn sáng tạo một cái khác cái hiện thực đã có.
Như vậy, bản chất quan hệ miêu tả là quan hệ thẩm mỹ, vì nó gắn liền với quá tnh
sáng tạo.
Quan hệ thẩm mỹ thực chất là một quan hệ giá trị
Những hiện tượng tự nhiên xã hội trong quan hệ với con người bộc lộ nhiều
phẩm giá khác nhau: giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị văn hóa, giá trị
khoa học... và giá trị thẩm mỹ. Ðiều đó có nghĩa là, trong quá trình đồng hóa
thế giới, con người không chỉ biết đồng hóa thế giới về cái ích, còn
biết đồng hóa thế giới về cái thẩm mỹ. Vầng trăng, dòng sông, cơn gió,...
con người không chỉ thấy ở nó những giá trị thực dụng cho sinh hoạt và đời
sống như: ánh sáng soi đường, nước tưới cho đồng ruộng, gió làm căng
buồm, đẩy thuyền ra khơi..., còn thấy nó đẹp, còn thích thú v- một
sự thích thú vô tư, không vụ lợi. Nghĩa là, ánh trăng ấy, dòng sông ấy, ngọn
gió ấy... không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu thực dụng mà còn khơi dậy ở con
người những rung cảm, những xúc động, những xao xuyến của tâm hồn -
tạo ra ở con người những cảm xúc thẩm mỹ.
Đồng hóa thế giới về mặt thẩm mỹ, không đơn giản chỉ tiếp nhận, hưởng
thụ, mà quan trọng là con người sáng tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới cho
hiện thực, bổ sung, làm phong phú thêm mặt thẩm mỹ của hiện thực; tạo ra
một tự nhiên thứ hai thông qua hoạt động sáng tạo vật chất cũng như sáng
tạo tinh thần: lao động sản xuất, hoạt động khoa học, sinh hoạt và đời sống.
Ðặc biệt, hoạt động sáng tạo nghệ thuật nơi thể hiện tập trung nhất, đầy
đủ nhất, nổi bật nhất đời sống thẩm mỹ của con người.
Khái niệm giá trị là một khái niệm phức tạp các thước đo thẩm mỹ không
thuần nhất.
Phải đặt vào quan hệ giá trị thì mới có quan hệ thẩm mỹ.

Preview text:

lOMoARcP SD| 59256994 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Do tính khách quan của xu thế toàn cầu hoá, không một quốc gia nào có thể phát
triển trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài. Thậm chí, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng
gia tăng giữa các nước còn tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế
giới. Chính lúc này, vấn đề giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa trở thành vấn đề quan trọng
hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Đứng trước bối cảnh như vậy, làm
thế nào để phát triển mà vẫn giữ được những giá trị tinh hoa vốn có của dân tộc là câu hỏi
vô cùng quan trọng, cần được giải quyết
Với Việt Nam chúng ta, văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (được bổ sung và phát
triển năm 2011), Đảng ta đã khẳng định chủ trương xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cho đến nay, Đảng ta vẫn chủ trương “tiếp tục cụ thể hóa
chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và
tinh hoa văn hóa nhân loại, hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế” [Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.284 – 285].
Nhiệm vụ hàng đầu của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc chính là kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát huy tính năng động,
sáng tạo trong việc tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hoá của nhân loại
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trên tinh thần đó, trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh đã xác định
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng nghiên cứu, ứng dụng đáp ứng nhu
cầu xã hội và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc, mỹ thuật nhằm góp
phần tạo ra những giá trị văn hóa vật chất cho đất nước làm sứ mệnh chính trị trong hoạt
động của Nhà trường. Nhà trường khẳng định Truyền thống – Sáng tạo – Chuyên nghiệp,
triết lý đó phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc những giá trị thẩm mỹ, văn hóa
truyền thống của dân tộc. Có đảm bảo được điều đó mới có thể khẳng định vị trí của văn
hóa dân tộc trong thời đại mới, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại,
tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới vừa truyền thống vừa hiện đại phù hợp với mục tiêu mà
Đảng ta đã đề ra trong xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. 1 lOMoARcP SD| 59256994
Góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và sứ mệnh của nhà trường, khoa Lý luận
chính trị trường Đại học Kiến Trúc thành phố Hồ Chí Minh hiện đảm nhận giảng dạy học
phần Mỹ học đại cương. Đánh giá, đây là học phần cơ sở quan trọng, trang bị cho sinh viên
một sự hiểu biết nhất định đối với đời sống thẩm mỹ của xã hội loài người. Đó là sự hiểu
biết về các khái niệm trong hoạt động thẩm mỹ, các đối tượng chủ thể và khách thể, các
tính chất và đặc trưng của từng đối tượng. Trên nền tảng đó, sinh viên có cái nhìn chính xác
về hoạt động sáng tạo và thụ hưởng thẩm mỹ đang diễn ra trong lĩnh vực chuyên môn của
mình, là cơ sở quan trọng giúp cho sinh viên xác định lập trường của cá nhân và xây dựng
chiến lược trong hoạt động học tập và sáng tạo của mình.
Tuy nhiên, thực trạng dạy và học môn học Mỹ học đại cương tại trường Đại học
Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm qua chưa thật sự đạt được hiệu quả mong
muốn. Một trong những nguyên nhân phải kể đến là do chưa có được giáo trình chuyên biệt
phù hợp với đặc thù sinh viên của nhà trường. Trên thực tế, sinh viên tỏ ra lúng túng trong
việc nắm bắt nội dung khi phải tự nghiên cứu giáo trình mà không có sự hướng dẫn của
giảng viên. Như vậy, sẽ khó phát huy được vai trò chủ động của người học trước yêu cầu
đào tạo theo tín chỉ hiện nay.
Vì lý do nêu trên, bộ môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa
chọn việc biên soạn “Tài liệu giảng dạy học phần Mỹ học đại cương” làm đề tài nghiên cứu. CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MỸ HỌC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NHẬP MÔN
1.1.1. Khái niệm Mỹ học 1.1.2. Nguồn gốc ra đời 1.1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.2.
MỘT SỐ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TIÊU BIỂU CỦA LỊCH SỬ MỸ HỌC TRƯỚC MÁC 1.2.1.
Mỹ học thời kỳ nguyên thủy 1.2.2. Mỹ học thời kỳ cổ đại (thế kỷ thứ
VIII TCN – thế kỷ thứ 4 TCN)
1.2.3. Mỹ học Trung cổ phương Tây (thế kỷ IV TCN - đầu thế kỷ XIV) – Thời kỳ Mỹ học thần học. 1.2.4.
Mỹ học Phục hưng (thế kỷ XIV – thế kỷ XVI) 1.2.5. Mỹ học Cổ
điển Pháp (thế kỷ XVI – Thế kỷ XVII) 1.2.6.
Mỹ học Khai sáng (thế kỷ 2 lOMoARcP SD| 59256994
XVIII) 1.2.7. Mỹ học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX) 1.2.8. Mỹ học Marx - Lênin CHƯƠNG 2
CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN THỰC
2.1. QUAN HỆ VÀ QUAN HỆ THẨM MỸ
2.1.1. Khái niệm về quan hệ 2.1.2. Khái niệm quan hệ thẩm mỹ
2.2. ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.2.1. Đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ 2.2.2. Bản chất của quan hệ thẩm mỹ
2.3. KẾT CẤU CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.3.1. Chủ thể thẩm mỹ 2.3.2. Đối tượng thẩm mỹ 2.3.3. Sự tương tác giữa chủ thể
thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ CHƯƠNG 3
NHỮNG PHẠM TRÙ THẨM MỸ CƠ BẢN 3.1. CÁI
ĐẸP – PHẠM TRÙ TRUNG TÂM CỦA CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ 3.1.1. Cái đẹp là gì?
3.1.1.1. Vị trí của cái đẹp trong quan hệ thẩm mỹ.
3.1.1.2. Bản chất của cái đẹp
3.1.2. Các lĩnh vực biểu hiện của cái đẹp
3.1.2.1. Cái đẹp trong tự nhiên
3.1.2.2. Cái đẹp trong xã hội 3.2. CÁI CAO CẢ
3.2.1. Bản chất của cái cao cả 3.2.2. Quan hệ giữa cái cao cả với cái đẹp 3.2.3. Các
lĩnh vực biểu hiện của cái cao cả
3.2.3.1. Cái cao cả trong tự nhiên
3.2.3.2. Cái cao cả trong xã hội
3.2.3.3. Cái cao cả trong nghệ thuật 3.3. CÁI BI
3.3.1. Bản chất thẩm mỹ của cái bi
3.3.1.1. Xung đột trong cái bi
3.3.1.2. Tính cách bi kịch 3.3.1.3. Cảm xúc bi kịch 3 lOMoARcP SD| 59256994
3.3.2. Cái bi trong cuộc sống 3.3.3. Cái bi trong nghệ thuật 3.4. CÁI HÀI
3.4.1. Bản chất của cái hài
3.4.1.1. Tiếng cười trong cái hài
3.4.1.2. Đối tượng gây cười 3.4.1.3. Chủ thể cười
3.4.2. Các mức độ biểu hiện của cái hài và ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ của nó
3.4.3. Cái hài trong cuộc sống và trong nghệ thuật CHƯƠNG 4 CHỦ THỂ THẨM MỸ
4.1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ THẨM MỸ VÀ NĂNG LỰC CỦA CHỦ THỂ THẨM MỸ
4.1.1. Khái niệm chủ thể thẩm mỹ 4.1.2. Năng lực của chủ thể thẩm mỹ 4.2. TÌNH CẢM THẨM MỸ
4.2.1. Tình cảm và tình cảm thẩm mỹ 4.2.2. Đặc trưng của tình cảm thẩm mỹ 4.3. THỊ HIẾU THẨM MỸ
4.3.1. Thị hiếu và thị hiếu thẩm mỹ 4.3.2. Đặc trưng của thị hiếu thẩm mỹ 4.4. LÝ TƯỞNG THẨM MỸ
4.4.1. Lý tưởng và lý tưởng thẩm mỹ 4.4.2. Những nét đặc thù của lý tưởng thẩm mỹ
4.5. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHỦ THỂ THẨM MỸ
4.5.1. Nhóm chủ thể thưởng thức
4.5.2. Nhóm chủ thể sáng tạo 4.5.3. Nhóm chủ thể định hướng thẩm mỹ 4.5.4.
Nhóm chủ thể biểu hiện thẩm mỹ 4.5.5. Nhóm chủ thể tổng hợp giá trị thẩm mỹ CHƯƠNG 5 GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.1.1. Khái niệm 5.1.2. Bản chất của giáo dục thẩm mỹ
5.2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ
5.2.1. Nguyên tắc toàn diện 5.2.2. Nguyên tắc lấy con người làm trung tâm 5.2.3.
Nguyên tắc giáo dục thẩm mỹ mang tính dân tộc 5.2.4. Nguyên tắc lý luận gắn với
thực tiễn 5.2.5. Nguyên tắc thống nhất và đa dạng
5.3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG NHÀ 4 lOMoARcP SD| 59256994 TRƯỜNG
5.3.1. Mục đích của giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường 5.3.2. Nhiệm vụ của giáo
dục thẩm mỹ trong nhà trường
5.4. NỘI DUNG GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
5.4.1. Giáo dục nhận thức thẩm mỹ 5.4.2. Giáo dục năng lực hoạt động thẩm mỹ
5.4.3. Giáo dục năng lực thẩm mỹ nghệ thuật CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MỸ HỌC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NHẬP MÔN
1.1.1. Khái niệm mỹ học
*Theo nghĩa hẹp, Mỹ học là khoa học về cái đẹp
*Theo nghĩa rộng, Mỹ học là khoa học triết học nghiên cứu những quy luật cơ bản
và phổ biến của các quan hệ thẩm mỹ, trong đó cái đẹp là phạm trù trung tâm, hình tượng
là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất của các quan hệ thẩm mỹ.
Quy luật cái đẹp là quy luật bao trùm mọi khía cạnh đời sống của con người. Đời
sống chịu sự chi phối của quy luật cái đẹp gọi là “đời sống thẩm mỹ”
- Trong đời sống vật chất, quy luật cái đẹp biểu hiện trong mọi lĩnh vưc:
ẩm thực, thời trang, kiến trúc... Ngay trong chính hoạt động sản xuất vật chất cũng tuân theo quy luật cái đẹp.
- Trong đời sống tinh thần, nhân tố thẩm mỹ luôn chi phối đời sống tinh
thần của con người. Mỗi quốc gia đều hướng đến tìm kiếm cho mình một biểu tượng thẩm mỹ.
1.1.2. Nguồn gốc ra đời
Mỹ học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội – Khi con người bắt đầu có ý thức
về đời sống thẩm mỹ. Ra đời vào thời kỳ thượng cổ hơn 30 nghìn năm trước, có 5 chủ
thuyết về nguồn gốc của đời sống thẩm mỹ: •
Thuyết bắt chước: Trong cuộc sống khi con người quan sát tự nhiên rồi khám
phá ra những cái hay để học hỏi (Học con nhện cách dệt vải, học con ong cách xây tổ, học
màu sắc của hoa, âm nhạc từ tự nhiên... Dần dần sự bắt chước trở nên khéo léo, sanh ra tài
nghệ, từ tài nghệ hình thành nghệ thuật. •
Thuyết ma thuật: Do con người e sợ các hiện tượng tự nhiên, từ đó tha hóa
bản thân con người vào đó thành các vị thần. Để thể hiện sự tôn kính các vị thần, con người 5 lOMoARcP SD| 59256994
thờ cúng và hiến tế các sản phẩm lao động. Họ lựa chọn những đồ vật, sản phẩm đẹp nhất,
nơi thờ phụng cũng được xây dựng uy nghiêm, tráng lệ. Nghệ thuật ra đời ở đó. •
Thuyết du hý: Bản chất của con người là ham chơi. Từ thuở ban đầu, con
người thích săn bắn, rong chơi. Khi đó, con người hưng phấn và thoải mái nên nhìn các sự
vật, hiện tượng xung quanh con người thấy đẹp mà cất giọng hát và nhảy múa, làm cho các
hình thức sơ khai của nghệ thuật ra đời. •
Thuyết biểu hiện: Bản chất con người là thích biểu hiện bản thân mình. Nghệ
thuật là nơi mà con người thể hiện tâm hồn mình. •
Thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa: Do quá trình chuyên môn hóa trong
lao động sản xuất làm năng suất lao động vượt trội hơn mức quy định cần thiết, lúc đó con
người xuất hiện “sinh lực thừa” để hoàn thiện thành quả của mình và làm cho nó trở nên đẹp hơn.
Mỹ học với tư cách là khoa học triết học: Ra đời trong chế độ Chiếm hữu nô lệ,
khoảng thế kỷ VIII TCN. Trong giai đoạn này, Mỹ học cùng với Logic học và Đạo đức học
trở thành bộ ba các khoa học chuẩn mực mà đời sống tinh thần của con người không thể thiếu.
Thuật ngữ “Mỹ học” với tư cách là một bộ phận của triết học, xuất phát từ tiếng Hy
Lạp là: Aisthésis là “cảm giác” – là nhận thức cảm tính – là nhận thức cảm tính của sự xúc
động, sự rung động thẩm mỹ.
Mỹ học với tư cách là một khoa học độc lập: Nhà mỹ học người Đức Baumgarten
(1714 – 1762) lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ Aesthetics vào năm 1735, là học thuyết về cảm
giác hay lý luận về “sự thụ cảm tính”. Nghĩa là Mỹ học phải là khoa học nghiên cứu con
đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Từ đó, Mỹ học xác định đối tượng nghiên cứu
riêng của nó, tách hoàn toàn khỏi triết học.
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt
thể hiện trong hiện thực. Trong đó, cái đẹp là phạm trù trung tâm.
Thứ hai, mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ. Đó là các hoạt động của chủ thể thẩm
mỹ trong quá trình cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ,
thể hiện qua: thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ.
Thứ ba, nghệ thuật với tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ. Đó là
các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các đặc trưng, bản chất và
chức năng của nghệ thuật. 6 lOMoARcP SD| 59256994
1.2. MỘT SỐ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TIÊU BIỂU CỦA LỊCH SỬ MỸ HỌC TRƯỚC MÁC
1.2.1. Mỹ học thời kỳ nguyên thủy
Thời kỳ này chưa xuất hiện các tư tưởng về mỹ học nhưng đời sống thẩm mỹ đã
hình thành và phát triển. Một số hình vẽ, hoa văn, đồ vật, đặc biệt là đồ gốm được tìm thấy,
mặc dù còn rất thô sơ và trừu tượng nhưng đã mô tả đời sống tinh thần của người nguyên
thủy có xuất hiện yếu tố thẩm mỹ.
Cơ sở cho sự sáng tạo thẩm mỹ là từ nhu cầu hướng đến sự hoàn thiện công cụ.
Các đề tài trong đời sống thẩm mỹ người nguyên thủy có thể thấy là: Đề tài về sự
vật, đề tài về con người, đề tài về phong cảnh thiên nhiên.
1.2.2. Mỹ học thời kỳ cổ đại (thế kỷ thứ VIII TCN – thế kỷ thứ 4 TCN)
Trung Quốc cổ đại: Tư tưởng Mỹ học rất ít được đề cập đến, chỉ gói gọn đầu tiên
trong chữ “Nghệ” của người Trung Quốc. “Nghệ” lúc đầu để chỉ việc chăm sóc cây cối, về
sau mới dùng chỉ nghệ thuật. Sau đó xuất hiện chữ “họa”, “nhạc”, “Thi”... Tuy nhiên, sự
phát triển của Mỹ học ở Trung Quốc thể hiện không rõ ràng. Có lẽ, do tính đặc thù của nền
triết học mang nặng tính chính trị xã hội nên chỉ tập trung giải quyết các vấn đề chính trị
xã hội, ít quan tâm đến đời sống thẩm mỹ.
Hy Lạp cổ đại: (Tk VIII TCN – IV TCN) Giai đoạn này, Mỹ học là một bộ phận của
Triết học, nhưng là giai đoạn đặt nền móng cho toàn bộ tư tưởng triết học cũng như Mỹ học
cho thế giới phương Tây sau này.
Nghệ thuật Hy Lạp mang tính xã hội công dân, thấm nhuần lòng tin vào vẻ đẹp và
sự cao cả của con người tự do biết đón nhận trách nhiệm. Điều này có được do tác động
của kiểu tổ chức xã hội dựa trên nguyên tắc dân chủ khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của con người.
Đây cũng là lần đầu tiên vẻ đẹp toàn diện của con người trở thành lý tưởng thẩm
mỹ trong sáng, thành nguồn cảm hứng chủ yếu cho sáng tạo nghệ thuật.
Hy Lạp thời cổ đại là thời đại của nghệ thuật điêu khắc.
Một số nhà triết học - mỹ học tiêu biểu:
Prôtago – Con người là thước đo của muôn loài. Pitagore – Hòa điệu.
Heraclite – Cụ thể, tương đối.
Democrite – Mức độ, trật tự. 7 lOMoARcP SD| 59256994
Aristole – Tỉ lệ, hài hòa.
1.2.3. Mỹ học Trung cổ phương Tây (thế kỷ IV TCN - đầu thế kỷ XIV) – Thời kỳ Mỹ học thần học.
Đặc điểm nổi bật của tổ chức chính trị thời kỳ này là hệ thống phức tạp về đẳng cấp
của xã hội phong kiến và nhà thờ bởi cơ chế kép: Bên cạnh vương quyền là thần quyền,
nên người dân chịu hai tầng áp bức.
Thần học thống trị tuyệt đối, những hình thái ý thức xã hội khác như Triết học, Mỹ
học, Nghệ thuật... trở thành công cụ truyền giáo.
Tư tưởng triết học điển hình thể hiện ở hai trường phái: Chủ nghĩa kinh viện – tuyệt
đối hóa kinh thánh, lối tư duy giáo điều; Chủ nghĩa giáo điều – đặt niềm tin huyễn hoặc vào
một cuộc sống trên thiên đàng.
Đặc điểm Mỹ học là phủ nhận cái đẹp nơi trần thế, mà tuyệt đối hóa cái đẹp trên
thiên đường. Nghệ thuật chỉ là công cụ truyền giáo, hướng đến cái đẹp tâm linh.
Thời đại trung cổ ở phương Tây là thời đại của nghệ thuật kiến trúc. Các hình thái
kiến trúc đặc trưng: Byzantine; Roman; Gothique.
Một số nhà Mỹ học tiêu biểu:
Tertullien (160 – 230): Lòng tin về Chúa là cái đẹp duy nhất, nên trí tuệ và khoa
học không có giá trị. Tôn giáo chính là lòng tin, dựa trên cảm nhận dù nó là vô lý – “Tôi
tin bởi điều đó là vô lý”.
Augustine (354 – 430): Thừa nhận vẻ đẹp trần thế nhưng tất thảy đều do Chúa trời
ban cho. Cái gì làm người ta thích thú bằng tỉ lệ, cân xứng, hài hòa thì là đẹp.
Thomas D’Aquin (1225 – 1274): Chúa trời là nguồn gốc tỏa sáng của cái đẹp. Mọi
vẻ đẹp đều có hình thức, nhưng hình thức đó do Chúa tạo ra, nên ta có thể đánh giá nó bằng
các giác quan. Xem giác quan là cơ sở để vươn đến cái đẹp, tuy nhiên khởi nguyên là từ Chúa.
1.2.4. Mỹ học Phục hưng (thế kỷ XIV – XVI)
Mỹ học thời kỳ Phục hưng còn gọi là mỹ học nhân văn, gắn với cuộc cách mạng
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng do giai cấp tư sản thực hiện. Phục hưng thực chất là khôi
phục lại sự hưng thịnh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Hy Lạp – La Mã cổ đại
nhằm bác bỏ tư tưởng thần quyền Kitô giáo. Với cái cớ của thời kỳ cổ đại, đó là: Coi con
người là trung tâm, là thước đo của muôn loài; Cần phải đấu tranh cho tự do của con người.
Từ đó giai cấp tư sản có cơ sở để so sánh với thời kỳ trung cổ, khi con người bị chà đạp thô
bạo lên quyền sống và quyền tự do. Với sự so sánh này, giai cấp tư sản chỉ rõ được sự thối 8 lOMoARcP SD| 59256994
nát, lộng quyền của nhà thờ trung cổ và đánh thức được tinh thần đấu tranh vì con người
trong lòng người dân. Đây chính là nền tảng cho cuộc Cách mạng tư sản sau này.
Tư tưởng Mỹ học thời kỳ này: •
Thế giới tự nhiên sinh ra, tự vận động, tự phát triển, không phải do Chúa
trời tạo nên. Con người cũng là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, không phải do Chúa
trời tạo nên từ mẫu đất sét hay đốt xương sườn cụt. •
Trần thế là đẹp, không phải là nơi đày ải, mà là nơi con người có thể xây
dựng hạnh phúc, chẳng phải đợi ngày mai trên thiên đường. •
Con người là trung tâm cái đẹp trong vô vàn cái đẹp của cuộc đời và con
người là trung tâm, là đối tượng của nghệ thuật. Ba mẫu người lý tưởng của thời đại:
o Người công dân anh hùng có tầm vóc khổng lồ - Thể hiện tinh
thần sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ để xây dựng 1 xã hội mới –
Tượng David của Michelangelo.
o Con người trí tuệ và nội tâm phong phú – Tác phẩm nàng Mona
Lisa của Leonardo Da Vinci . o Doanh nghiệp tài năng – Tác
phẩm Thương gia George Gisze của Bobbein. •
Mỹ học Phục hưng là Mỹ học hành động, chưa xuất hiện các nhà Mỹ học lý
luận, tư tưởng chủ yếu thể hiện thông qua các tác phẩm nghệ thuật. Các nhà Mỹ học tiêu
biểu như: o Ở giai đoạn mở đầu có Botticelli (1445 – 1510) với các tác phẩm “Mùa xuân”, “Venus tái sinh”.
o Ở giai đoạn cực thịnh có Leonardo Da VinCi với “Bữa tiệc ly
biệt”, “Mona Lisa”, Raphael với “Trường Academy”,
Michelangelo với “Người khổng lồ bị trói”.
o Ở giai đoạn suy tàn có William Shakespeare với vở kịch Hamlet. •
Nghệ thuật Phục Hưng là nghệ thuật hội họa.
1.2.5. Mỹ học Cổ điển Pháp (thế kỷ XVI – Thế kỷ XVII)
Đây là thời kỳ hòa hoãn giai cấp lớn nhất và đầu tiên trong lịch sử,
Cơ chế kép này tác động mạnh mẽ tạo nên yếu tố nhị nguyên trong Triết học và
cả Mỹ học. Trong Mỹ học là sự thừa nhận cả hai thị hiếu cơ bản của hai giai cấp nổi trội
trong xã hội: giai cấp phong kiến chuộng nghĩa vụ; giai cấp tư sản chuộng dục vọng. 9 lOMoARcP SD| 59256994
Về cái đẹp: do cơ chế kép, đã tạo ra cái đẹp trớ trêu giữa một bên là nghĩa vụ và
một bên là dục vọng. Sự giằng co giữa nghĩa vụ và dục vọng mà không thiên hẳn về một bên.
Về nghệ thuật: Kịch nghệ trở thành hình thái nghệ thuật độc tôn, bởi qua đối thoại,
người diễn viên dễ dàng làm bật lên được sự giằng xé tư tưởng biểu hiện sự hòa hoãn
giữa nghĩa vụ và dục vọng. Chủ đề chính cũng là khai thác mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp phong kiến. Tác phẩm tiêu biểu của thời đại: Le Cid của Pierre Corneille.
1.2.6. Mỹ học Khai sáng (thế kỷ XVIII)
Đây là giai đoạn thế cân bằng của thời kỳ cổ điển bị phá vỡ khi triều đình phong
kiến càng lúc càng lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Về kinh tế, nền sản xuất công nghiệp cơ
khí ra đời thay thế cho nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Điều này đòi hỏi con người phải
có trí tuệ, có trình độ, học vấn nhất định để đáp ứng nhu cầu thời đại. Bên cạnh đó, giai cấp
tư sản đã đưa ra lý tưởng về một xã hội tự do – bình đẳng – bác ái thay thế cho xã hội Phong
kiến đang thối nát đã kích thích mở mang dân trí và khai sáng đầu óc con người.
Giai đoạn này là giai đoạn của cuộc Cách mạng tư sản 1789 đánh dấu sự lên ngôi
của giai cấp tư sản, nên Mỹ học cũng mang màu sắc tư sản. Cảm hứng cơ bản của thời đại
là cảm hứng về cuộc đổi đời.
Sự phát triển của văn minh công nghiệp dẫn đến mở mang đô thị. Thị dân phát triển
cũng xuất hiện nhu cầu thẩm mỹ riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân vật quần chúng
xuất hiện với tư cách là một đám đông.
Về cái đẹp: Cái đẹp phải hướng đến khai mở dân trí. Cái đẹp và cái thiện phải thắng
lợi trong xã hội, thể hiện trong khoa học, trong đạo đức, pháp luật...
Về nghệ thuật: Văn học bước lên giữ vị trí trung tâm vì một số lý do:
• Do bản chất khai sáng nên số người biết chữ càng nhiều, nhu cầu thẩm mỹ cao.
• Kỹ thuật in ấn phát triển nhanh chóng.
• Bằng văn chương có thể diễn đạt rất rõ nét cảm hứng của thời đại – cảm
hứng về một cuộc đổi đời. Ngôn từ xuất phát từ chính cuộc sống phố thị,
phản ánh được hình tượng những con người bon chen, hy vọng đổi đời trong
một xã hội đầy biến động, con người hướng đến đồng tiền. 10 lOMoARcP SD| 59256994
1.2.7. Mỹ học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX)
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nền văn minh công nghiệp đã có những thành tựu to
lớn. Nguyên lý tính hệ thống trở thành nguyên lý chung, I.Kant “cần hiểu toàn bộ thế giới
tự nhiên trong toàn bộ tính vô cùng của nó như một hệ thống duy nhất”1.
Mỹ học cổ điển Đức có công lao hệ thống hóa tư tưởng Mỹ học của con người, đồng
thời mở ra một kiểu tư duy mới – tư duy đoán định – khoa học dự báo.
Mỹ học cổ điển Đức kết tinh ở hai nhà mỹ học tiêu biểu là I. Kant và F. Hegel. Immanuel Kant (1724 – 1804)
Cơ sở mỹ học của I.Kant là tư tưởng về “nguyên lý về tính hệ thống” và “nguyên
lý vô cùng tận của đối tượng nhận thức”, từ đó đưa ra khái niệm “vật tự nó”.
Nhận thức là một quá trình giải mã, mở dần “chiếc hộp đen” – “vật tự nó”, song
việc nhận thức luôn có giới hạn không thể giải mã được – gọi là “lim”. Để khắc phục giới
hạn đó phải dùng phương pháp nhận thức “tiên nghiệm”. Khi lý tính bất lực, con người
quay lại bản thân mình, dùng “nội tỉnh” để nhận thức, qua đó “giác ngộ”. Nó đột khởi như
một sự “hồi âm”, nhưng là “hồi âm phản chiếu”.
Từ quan điểm về nhận thức trên, I. Kant cho rằng “không có khoa học về cái đẹp,
chỉ có sự phán đoán về cái đẹp mà thôi”. Theo đó, con người không thể dùng tư duy lý tính
để vạch ra quy luật của cái đẹp, mà phải bằng năng lực cảm nhận qua chiêm nghiệm đối
tượng trên cơ sở phán đoán thẩm mỹ của chủ thể.
Phán đoán thẩm mỹ phải được tiến hành theo các bước sau:
• Năng lực cảm thụ thẩm mỹ, một loại trực giác đầy cảm xúc, tiên nghiệm.
• Năng lực đánh giá thẩm mỹ, để khám phá cái đẹp bản chất một cách vô
tư, không vụ lợi vừa có tính cá nhân, vừa có tính phổ biến.
• Năng lực thỏa mãn, là đáp ứng mục đích khám phá bản chất đích thực
của đối tượng nhằm đem lại “khoái cảm tuyệt đối” của chủ thể thẩm mỹ.
Với ba năng lực trên I. Kant cho rằng:
• Cái đẹp là cái gây thích thú một cách tất yếu, phổ quát cho mọi người
một cách vô tư và bằng tính hình thức thuần túy tuyệt đối của nó.
1 I.Kant, các tác phẩm Mátcơva (bản dịch), 1964, tr. 206. 11 lOMoARcP SD| 59256994
• Năng khiếu thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ - là khả năng phản tư, cảm
nhận tiên nghiệm trước đối tượng thẩm mỹ. Đây là yêu tố quan trọng
quyết định con đường đạt được “giác ngộ”. Theo I. Kant, bản thân cái
đẹp tự nó đã đẹp – “vật tự nó”, con người có thể cảm nhận, đánh giá
và thưởng ngoạn nó để vươn tới cái ý niệm cao đẹp, toàn vẹn, phổ biến.
“vẻ đẹp không ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình”.
Về cái trác tuyệt – cái cao cả.
• Khác với cái đẹp ở chỗ: cái đẹp có liên quan đến hình dạng, còn cái trác
tuyệt có thể thấy được ở cái vô dạng. Cái đẹp trực tiếp làm nảy sinh sự
phấn khởi, còn cái trác tuyệt là một sự khoái lạc nảy sinh gián tiếp.
• Xét ở mặt chất, cái trác tuyệt được chia làm 3 loại:
o Loại trác tuyệt kinh khủng: khi tình cảm về cái trác tuyệt mang
lại sự khủng khiếp hoặc buồn phiền.
o Loại trác tuyệt thanh cao: mang lại lòng khâm phục trầm lắng
o Loại huy hoàng: gắn liền với tình cảm về cái đẹp tràn lan
trên một phạm vi rộng lớn.
• Xét ở mặt lực lượng, được chia làm 2 loại o Cái trác tuyệt toán học –
chính là những cái vĩ đại một cách tuyệt đối, nghĩa là so với nó, mọi cái khác đều bé cả.
o Cái trác tuyệt uy lực – chính là sức mạnh tinh thần của con
người vượt qua thử thách, bất chấp mọi khó khăn, khắc phục mọi sợ hãi.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831)
Là nhà Triết học, Mỹ học cổ điển hàng đầu ở Đức. Đóng vai trò quyết định trong
xây dựng lý luận biện chứng về sự phát triển.
Theo Hegel, “Mỹ học là triết học về nghệ thuật”2. Đó là luận điểm quan trọng, đặt
cơ sở cho toàn bộ hệ thống mỹ học của ông.
Xuất phát từ quan điểm duy tâm khách quan về thế giới – “ý niệm tuyệt đối” Hegel
đưa ra phạm trù “ý niệm đẹp” – bản thân cái đẹp cần được lý giải là một ý niệm, thậm chí
ý niệm ấy lại mang nội dung lý tưởng.
2 Hegel, Mỹ học, tập 1, NXB Văn học, 1999, tr.55 12 lOMoARcP SD| 59256994
Nếu Kant tuyệt đối hóa cái “tôi” chủ quan thì ngược lại, Hegel đứng trên quan niệm
về lịch sử để giải quyết vấn đề cái đẹp. Chính điều này tạo ra mâu thuẫn trong quan niệm
về cái đẹp của Hegel. Một mặt, ông thừa nhận cái đẹp trong tự nhiên và xã hội theo quy
luật riêng của nó nhưng lại cho cái đẹp đó mờ nhạt, thấp kém vì nó có tính vật chất và khởi
nguyên từ “ý niệm đẹp” – chỉ có “ý niệm đẹp” mới là cái đẹp chân chính.
Về chủ thể sáng tạo, hoạt động sáng tạo nghệ thuật là hoạt động thống lĩnh hai
phương diện chủ quan và khách quan. Hegel đưa ra khái niệm “thiên tài trong nghệ thuật”
để nói về chủ thể nghệ sĩ, chủ thể đó thể hiện ở 3 mặt:
• Hư cấu: là óc sáng tạo, đòi hỏi chủ thể phải có biệt tài và sự mẫn cảm.
Hư cấu là phương tiện để thể hiện cái tôi bên trong nghệ sĩ.
• Tài năng: là khả năng thể hiện thực tế vào tác phẩm bằng những hình
thức đặc biệt khác nhau với cá tính khác nhau của chủ thể nghệ sĩ.
• Thiên tài: là một khả năng khái quát để sáng tạo những tác phẩm nghệ
thuật thực sự. Nghệ sĩ phải có tài năng bẩm sinh cùng sự tập dợt khả
năng ấy để đạt tới thiên tước mới vượt qua giới hạn của sự khéo léo bên
ngoài mà hình thành nên tác phẩm nghệ thuật
Người chủ thể nghệ sĩ thể hiện nội dung của mình không phải chỉ bằng hình thức
thuần túy mà còn có trực giác nhạy bén, cảm quan chính xác để nắm bắt những khoảnh
khắc biểu hiện của cái đẹp. Để làm được điều đó tài năng và thiên tài chưa đủ mà cần phải
có cảm hứng và hư cấu. Những yếu tố trên thống nhất chặt chẽ với nhau làm nên điều kiện
để tạo ra tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Tác phẩm nghệ thuật là sự kết cấu vật thể hữu
hạn, nhưng nội dung mỹ cảm thì lan tỏa vô hạn qua trí tưởng tượng và cảm nhận của mỗi người.
Từ quan điểm về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ nêu trên, Hegel tiếp tục phân tích các khái niệm:
• Cảm hứng: có thể xuất phát từ tâm trạng, nhưng nhiều khi cũng có từ
yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến. Nó là sự kết hợp giữa hoạt động của
hư cấu và hoàn thành ý định về mặt kỹ thuật với trạng thái tâm hồn của nghệ sĩ.
• Phong cách: là tư chất đặc biệt của nghệ sĩ trong việc nắm bắt bản chất
của sự vật và năng lực biểu hiện sự vật với một hình thức đặc sắc. 13 lOMoARcP SD| 59256994
• Cá tính: là sự độc đáo của nghệ sĩ, là cảm hứng chủ quan, phản ánh
chính xác tâm hồn của nghệ sĩ.
• Lý tưởng: là cái hoàn thiện, thể hiện khát vọng vươn tới chân lý và luôn
mang hình thức cái đẹp. Tính vượt trước là một đặc điểm quan trọng
của lý tưởng. Hegel xét lý tưởng trong quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của
nghệ thuật – nghệ thuật lý tưởng. Lý tưởng và nghệ thuật luôn biện
chứng, nhờ có lý tưởng, nghệ thuật mới có thể nâng cao những sự vật
vốn không có giá trị và ngược lại.
1.2.8. Mỹ học Marx - Lenin
Những nhà mỹ học trước Marx có những sai lầm và phiến diện ở một số điểm như sau:
• Coi cái thẩm mỹ là cái vốn có của ý niệm, của cá nhân con người, của tự nhiên hiện thực;
• Coi chủ thể thẩm mỹ là chủ thể thần thánh, chủ thể sinh vật, chủ thể
người cá nhân tách biệt khỏi yếu tố xã hội;
• Coi lĩnh vực nghệ thuật là cái vượt ra ngoài bản chất xã hội đích thực của nó.
Khác với các nhà mỹ học trước đó, Marx xem xét đời sống thẩm mỹ trên tất cả các
bình diện của nó: bình diện đời sống, bình diện chủ quan, bình diện nghệ thuật – “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.”3
Marx coi mỹ học là một bộ phận hợp thành của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng mỹ học của ông gắn với triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Marx khẳng định, cái thẩm mỹ là một quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng
thẩm mỹ, tuyệt đối không phải là cái vốn có của tư tưởng, của động vật hay của các dạng
tồn tại bất kỳ. Cái thẩm mỹ có nguồn gốc từ lao động, không phải là thuộc tính sẵn có của
tự nhiên. Phải bằng lao động con người mới biến các hiện tượng trong tự nhiên thành các
hiện tượng thẩm mỹ gắn với xã hội loài người. Vì thế, cái thẩm mỹ là một giá trị xã hội,
tuyệt đối không phải là cái tự có theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, hoặc xuất phát từ tình
3 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.3, tr.9 14 lOMoARcP SD| 59256994
cảm của mỗi cá nhân theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Cái thẩm mỹ không chỉ là một hình
thái ý thức xã hội mà còn có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã cung cấp cho mỹ học
cách nhìn toàn diện về các quan hệ thẩm mỹ trong quá trình vận động của nó, trong đó cái
thẩm mỹ là một quan hệ gồm ba mặt hợp thành:
• Mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
cao cả tồn tại khắp mọi nơi trong đời sống xã hội.
• Mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là các hoạt động của chủ thể
thẩm mỹ; về thị hiếu thẩm mỹ; về lý tưởng thẩm mỹ của những con người xã hội.
• Mặt nghệ thuật trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là các hoạt động hưởng thụ
nghệ thuật, đánh giá nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các
đặc trưng của nghệ thuật, bản chất xã hội của nghệ thuật và chức năng của nghệ thuật
Ba mặt trong quan hệ thẩm mỹ tồn tại trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời.
Quan hệ thẩm mỹ trong phạm vi nghiên cứu của mỹ học Marx – Lenin không phải
là quan hệ bất động, tĩnh tại mà nó luôn vận động theo dân tộc, giai cấp và thời đại, với cái
đẹp ở vị trí trung tâm.
Tóm lại, mỹ học Marx – Lenin có những giá trị thực tiễn sau:
• Với hệ thống phạm trù có tính chất khoa học và biện chứng, là cơ sở
cần thiết cho chủ thể đi sâu vào quan hệ thẩm mỹ và là tiền đề đem lại
tính năng động tự giác cho chủ thể chi phối quan hệ ấy;
• Góp phần củng cố niềm tin vào con người, vào tương lai tươi sáng,
khẳng định cái đẹp và con đường hiện thực để đấu tranh cho cái đẹp thắng lợi;
• Góp phần phê bình khắc phục một cách tích cực độ lệch tự do của thị
hiếu cá nhân so với các chuẩn mực của cuộc sống;
• Là công cụ phương pháp luận quan trọng hướng dẫn việc hưởng thụ
thẩm mỹ đúng đắn và đấu tranh chống các tư tưởng thẩm mỹ phản động,
thị hiếu thẩm mỹ thấp hèn, kích dâm, bạo lực do hội nhập mang lại
đang có khả năng làm băng hoại các giá trị thẩm mỹ, tinh hoa văn hóa của dân tộc. 15 lOMoARcP SD| 59256994 CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nói mỹ học là khoa học nghiên cứu về cái đẹp có chính xác và đầy đủ không?
2. Đối tượng nghiên cứu của mỹ học là gì?
3. Mỹ học trước Marx có những đặc điểm nổi bật gì?
4. Mỹ học Marx – Lenin có những đặc điểm nổi bật gì? CHƯƠNG 2:
CÁC QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI
VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN THỰC
2.1. QUAN HỆ VÀ QUAN HỆ THẨM MỸ
2.1.1. Khái niệm về quan hê:̣
Con người, bản chất của nó là sự tổng hòa của rất nhiều mối quan hệ. Trước một
hiện tượng đời sống, con người bộc lộ rất nhiều mối quan hệ: quan hệ kinh tế, quan hệ
chính trị, quan hệ đạo đức, quan hệ pháp lý, quan hệ tôn giáo... và quan hệ thẩm mỹ. Trong
từng quan hệ ấy, con người có những khoa học riêng để nghiên cứu về nó. Ở quan hệ kinh
tế có khoa kinh tế học, ở quan hệ chính trị có khoa chính trị học, ở quan hệ đạo đức có khoa
đạo đức học.v.v... và ở quan hệ thẩm mỹ có khoa mỹ học.
Nói một cách khác, trong mối quan hệ với thế giới, con người có rất nhiều mối quan
hệ: Quan hệ cơ bản là quan hệ vật lý, quan hệ sinh học; quan hệ đặc trưng là quan hệ xã
hội. Trong quan hệ xã hội có các quan hệ như quan hệ thực dụng và quan hệ thẩm mỹ...
Quan hệ là sự tác động, phụ thuộc vào nhau của các yếu tố trong một chỉnh thể, một hệ thống.
2.1.2. Khái niêm quan hệ thẩm mỹ:̣
Quan hệ thẩm mỹ là các quan hệ của con người về mặt thẩm mỹ, đó là các quan hệ
của con người đối với cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn. Đó là những
xúc động, niềm vui sướng, niềm tự hào của con người trong mọi hoạt động.
Quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở 3 lĩnh vực chính:
• Trong Lĩnh vực lao động sáng tạo:
o Lao động, học tập và sáng tạo là nguồn gốc của mọi quan hệ thẩm
mỹ. Lao động không chỉ tạo ra vật chất mà còn nhào nặn nó theo quy
luật của cái đẹp. Bản chất thẩm mỹ của cái đẹp gắn liền với lao động. 16 lOMoARcP SD| 59256994
o Lao động tạo ra cái mới có ích cho xã hội; mang các giá trị bên trong
của con người thể hiện ra bên ngoài.
• Trong lĩnh vực khám phá, đánh giá:
o Đánh giá giá trị thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm nghệ thuật;
qua đó xác định ý nghĩa thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm nghệ
thuật đó đối với con người
o Đánh giá dựa vào mức độ phù hợp của khách thể , của tác phẩm nghệ
thuật với các chuẩn mực, tiêu chí...
o Đánh giá thẩm mỹ là hoạt động phức tạp của quan hệ thẩm mỹ, là sự
tổng hợp của các yếu tố: đối tượng đánh giá, chủ thể đánh giá,cơ sở
đánh giá, tính chất đánh giá.
o Quan hệ thẩm mỹ xuất hiện trong đánh giá thẩm mỹ có sự thống nhất
giữa lý trí và tình cảm, giữa kinh nghiệm cá nhân và chuẩn mực xã hội
• Trong thưởng thức thẩm mỹ: là hoạt động tự nguyện, tự do; chủ thể lựa chọn.
o Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm
mỹ, tình cảm thẩm mỹ, tri thức thẩm mỹ ... Mỗi yếu tố có vai trò cụ
thể, như tri thức thẩm mỹ tạo ra sự nhạy cảm, tinh tế trong thưởng thức thẩm mỹ ...
o Đây là hoạt động có mục đích của chủ thể. Mục đích quan trọng nhất là khoái cảm thẩm mỹ
Như vậy, quan hệ thẩm mỹ xuất hiện ở mọi nơi, trong cuộc sống, lối sống, trong lao
động, trong sinh hoạt... Trong lối sống nó gắn bó chặt chẽ với cái hữu ích, giá trị, hài hòa...
Trong đời sống nó gắn bó chặt chẽ với cái ăn, mặc...
2.2. ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.2.1. Đăc trưng của quan hệ thẩm mỹ ̣
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ mà con người hoạt động và sáng tạo theo quy luật cái đẹp
• Quan hệ thẩm mỹ không phải là quan hệ vốn có, nó chỉ được hình thành
trong hoạt động thực tiễn thẩm mỹ của con người 17 lOMoARcP SD| 59256994
• Trong hoạt động này con người hoạt động và sáng tạo theo những thước đo cụ thể về cái đẹp.
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ mà trong đó phải có chủ thể thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ mà con người tự khẳng định mình về mặt cảm xúc đối với hiện thực
• Ðời sống con người có hai bộ phận: đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Cả hai bộ phận đó đều có tầm quan trọng của mình. 18 lOMoARcP SD| 59256994 
Ðời sống tinh thần, đặc biệt là đời sống thẩm mỹ của con người là thước đo
giống loài, là tiêu chuẩn để phân biệt con người với con vật, là sự khẳng
định mình như là một sức mạnh bản chất của con người.
• Thiếu đi cái cảm xúc, sẽ không có thiên tài, không có tài năng, không có trí
thông minh, mà chỉ còn lại một thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện cần thiết
cho thói sinh hoạt thường ngày trong nhà, cho những tính toán nhỏ nhen của bệnh ích kỷ.
• Cảm xúc của con người gắn với cái thích về vẻ đẹp của thế giới. Và gắn với
cái đẹp con người đã rèn luyện cảm giác của mình.
• Cảm xúc là yếu tố đặc trưng làm cho quan hệ thẩm mỹ khác quan hệ khác.
Mặc dù quan hệ nào cũng có cảm xúc, nhưng cảm xúc của quan hệ thẩm mỹ
khác với cảm xúc thông thường
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ có tính hình ảnh, hình tượng
• Hình tượng cũng có trong quan hệ ngoài thẩm mỹ, như tôn giáo, tín
ngưỡng... nhưng hình tượng đó chỉ phản ánh một phần của thực tế, hoặc
hoàn toàn không có trong thực tế.
• Hoạt động trong quan hệ thẩm mỹ là toàn vẹn, hình tượng, sinh động, không
chia cắt cả về cơ cấu, màu sắc, âm thanh.
• Hoạt động trong quan hệ thẩm mỹ không tồn tại dưới dạng công thức.
Tóm lại: quan hệ thẩm mỹ trọng tâm nhất là nghệ thuật, mà bản chất và đặc trưng
của nghệ thuật là phản ánh thế giới bằng nghệ thuật. Ở đâu có tính hoàn chỉnh, tính hình
tượng gắn với các xúc cảm thì ở đó có quan hệ thẩm mỹ.
2.2.2. Bản chất của quan hê thẩm mỹ ̣
Quan hệ thẩm mỹ là một quan hệ miêu tả
• Hoạt động miêu tả làm nảy sinh quan hệ thẩm mỹ.
• Hoạt động miêu tả làm thỏa mãn một nhu cầu thưởng ngoạn mà không thủ tiêu đối tượng.
• Hoạt động miêu tả dẫn ta đến khoái cảm làm chủ đối tượng một cách toàn vẹn. 19 lOMoARcP SD| 59256994 
• Các hoạt động miêu tả thường biểu hiện các trạng thái thích thú của con
người khi nắm được sự vật.
Trong quá trình miêu tả, ngoài việc thỏa mãn thích thú, con người muốn
khám phá thế giới, muốn sáng tạo một cái khác cái hiện thực đã có.
Như vậy, bản chất quan hệ miêu tả là quan hệ thẩm mỹ, vì nó gắn liền với quá trình sáng tạo.
Quan hệ thẩm mỹ thực chất là một quan hệ giá trị
• Những hiện tượng tự nhiên xã hội trong quan hệ với con người bộc lộ nhiều
phẩm giá khác nhau: giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị văn hóa, giá trị
khoa học... và giá trị thẩm mỹ. Ðiều đó có nghĩa là, trong quá trình đồng hóa
thế giới, con người không chỉ biết đồng hóa thế giới về cái có ích, mà còn
biết đồng hóa thế giới về cái thẩm mỹ. Vầng trăng, dòng sông, cơn gió,...
con người không chỉ thấy ở nó những giá trị thực dụng cho sinh hoạt và đời
sống như: ánh sáng soi đường, nước tưới cho đồng ruộng, gió làm căng
buồm, đẩy thuyền ra khơi..., mà còn thấy nó đẹp, còn thích thú về nó- một
sự thích thú vô tư, không vụ lợi. Nghĩa là, ánh trăng ấy, dòng sông ấy, ngọn
gió ấy... không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu thực dụng mà còn khơi dậy ở con
người những rung cảm, những xúc động, những xao xuyến của tâm hồn -
tạo ra ở con người những cảm xúc thẩm mỹ.
• Đồng hóa thế giới về mặt thẩm mỹ, không đơn giản chỉ tiếp nhận, hưởng
thụ, mà quan trọng là con người sáng tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới cho
hiện thực, bổ sung, làm phong phú thêm mặt thẩm mỹ của hiện thực; tạo ra
một tự nhiên thứ hai thông qua hoạt động sáng tạo vật chất cũng như sáng
tạo tinh thần: lao động sản xuất, hoạt động khoa học, sinh hoạt và đời sống.
Ðặc biệt, hoạt động sáng tạo nghệ thuật là nơi thể hiện tập trung nhất, đầy
đủ nhất, nổi bật nhất đời sống thẩm mỹ của con người.
• Khái niệm giá trị là một khái niệm phức tạp mà các thước đo thẩm mỹ không thuần nhất.
• Phải đặt vào quan hệ giá trị thì mới có quan hệ thẩm mỹ. 20