-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tài liệu Hồn Trương Ba da hàng thịt - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Tài liệu Hồn Trương Ba da hàng thịt - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Tài liệu Hồn Trương Ba da hàng thịt - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Tài liệu Hồn Trương Ba da hàng thịt - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Trường: Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT ( LƯU QUANG VŨ ) MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Những nét chính về Lưu Quang Vũ. 2. Giá trị vở kịch: a. Nội dung:
Hình tượng nhân vật Hồn Trương Ba thể hiện:
- Bi kịch của con người khi bị đẩy vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và
trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm độc và bị tha hóa trước sự
lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục ;
- Vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và
dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. b. Nghệ thuật:
Sự hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu, sự kết hợp giữa tính hiện
đại với các giá trị truyền thống, sự phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng.
3. Rèn luyện kĩ năng phân tích tác phẩm thuộc thể loại kịch (phát hiện những mâu
thuẫn, xung đột trong đời sống thực tại rồi diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ đối
thoại giữa các nhân vật), rút ra những ý vị triết học nhân sinh. KIẾN THỨC CƠ BẢN A. KHÁI QUÁT I. TÁC GIẢ:
- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ, là con trai của nhà viết
kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hòa
bình lập lại (1954), gia đình ông chuyển về sống ở Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ
thuật của ông sớm bộc lộ từ nhỏ, và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của ông.
- Từ 1965 đến 1970: nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng Phòng không - không quân.
- Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ, làm đủ mọi nghề để mưu sinh (làm hợp đồng cho nhà
xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích…).
- Từ năm 1978 đến 1988: làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói
với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 (viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ). Sau đó, một
nguồn lực sáng tạo đột khởi mạnh mẽ bùng lên với những vở kịch gây chấn động dư luận như:
Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ
9, Khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Ông không phải bố tôi,…Chỉ trong bảy, Biên soạn: Phan Văn Thân 1
tám năm, ông đã sáng tác khoảng 50 kịch bản và hầu hết đều được dàn dựng, chiếm lĩnh sàn
diễn của rất nhiều nhà hát, đoàn nghệ thuật ở khắp mọi miền đất nước.
Trước khi đến với thể loại kịch nói, Lưu Quang Vũ từng làm thơ, viết truyện ngắn, vẽ
tranh. Thơ ông giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao, nhiều bài được bạn đọc yêu thích (Và anh tồn
tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu…). Truyện ngắn mang đậm phong
cách riêng. Tác phẩm chính: Hương cây (thơ,1968), Mây trắng của đời tôi (thơ, 1989), Bầy ong
trong đêm sâu(thơ, 1993), Diễn viên và sân khấu (tiểu luận, 1979).
- Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, ông qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số
5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ .
(Biết thêm: Lưu Quang Vũ kết hôn 2 lần. Lần thứ nhất với diễn viên điện ảnh Tố Uyên
năm 1969. Hai người li hôn năm 1972. Ông kết hôn lần thứ hai với nữ thi sĩ Xuân Quỳnh năm
1973( Xuân Quỳnh hơn Vũ 6 tuổi, cũng đã một lần li hôn trước khi đến với Vũ). Con trai của
Lưu Quang Vũ với Tố Uyên là Lưu Minh Vũ, hiện là một trong những người dẫn chương trình
của Đài Truyền hình Việt Nam. Em gái Lưu Quang Vũ là phó giáo sư, tiến sĩ Lưu Khánh Thơ,
hiện đang công tác tại tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Văn học của Viện Văn học).
- Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học
nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Lưu Quang Vũ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
trường những năm tám mươi của thế kỉ XX với hai lí do cơ bản:
+ Lí do chủ quan: khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người
thôi thúc Lưu Quang Vũ viết kịch để trao gửi, dâng hiến, vì kịch là hình thức “xung trận” trực
tiếp, có tác động vào quá trình đổi mới xã hội một cách nhanh nhạy, hiệu quả.
+ Lí do khách quan: Công cuộc đổi mới những năm tám mươi làm cho đời sống dân
chủ ùa vào văn học. Đấu tranh chống tiêu cực trở thành cảm hứng nhiệt thành của nhiều người cầm bút.
- Do có nhiều đóng góp lớn cho ngành sân khấu, Lưu Quang Vũ đã được Nhà nước truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
II. NGUỒN GỐC VÀ SỰ SÁNG TẠO VỞ KỊCH (kiến thức mở rộng, đào sâu):
1.Truyện cổ dân gian “HồnTrương Ba, da Hàng thịt”:
1.1/ Tóm tắt truyện cổ dân gian“HồnTrương Ba, da Hàng thịt”:
- Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ nhưng đánh cờ tướng rất
giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ
trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Giang
Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kị Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba,
Kị Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau mấy ván vẫn
không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kị Như vào thế bí. Thấy đối
phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo: “Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không gỡ nổi”. Biên soạn: Phan Văn Thân 2
- Bấy giờ, Đế Thích là thần cờ của thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương
Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kị Như
đang đánh, chợt có một ông cụ đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thỉnh thoảng mách cho Kị
Như mấy nước. Tự nhiên , bên Kị Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức
giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa,
mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng:“ Ngài hẳn là
thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi”. Đế Thích cười bảo: “Ta
nghe như nhà ngươi tự phụ cao cờ nên xuống xem cho biết”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại
mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba.
Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có
bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ
xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.
- Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên
tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi đột ngột do sự tắc trách của Nam
Tào, Bắc đẩu trên thiên đình. Sau khi chôn cất chồng xong, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có
nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên
đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương
Ba, Đế Thích ngạc nhiên: “Trương Ba đâu?”. Vợ Trương ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một
tháng nay rồi!”. – “Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn
làm thế nào được nữa?”. Suy nghĩ một lúc, Đế Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai
mới chết không?”. Vợ Trương Ba đáp: “Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Thần
Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt mà bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho
chồng nhà ngươi sống lại”. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.
- Trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể
thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng
rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt, biết là thần Đế
Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ người hàng thịt
cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay cả
chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành
cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
- Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống đó là anh hàng
thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi rằng:
“Chồng chị ngày thường hay làm gì?”. Vợ Trương Ba đáp: “Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà
thôi”. Quan lại hỏi vợ người hàng thịt: “Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Vợ người
hàng thịt đáp: “Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng
anh ta lúng túng, không biết làm ra sao cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người
hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao, không ai địch nổi. Quan bèn
phán cho người hàng thịt về nhà Trương Ba.
Vì thế truyện mới có nhan đề: “HồnTrương Ba, da Hàng thịt”.
1.2/ Nhận xét truyện cổ dân gian“HồnTrương Ba, da Hàng thịt”: Biên soạn: Phan Văn Thân 3
1.2a-Truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” quan niệm: linh hồn phải có
thể xác mới có chỗ trú ngụ, và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát.
1.2b- Nhưng truyện cổ dân gian đã tuyệt đối hóa linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi
Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba
100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng của mình.
Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí bà vẫn
quả quyết là Trương Ba – chồng mình – nên cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống.
Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh
khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà Trương Ba.
Quan phủ sau khi kiểm tra kĩ năng mổ thịt lợn và nhất là kĩ năng chơi cờ thì quyết định
xử ngay: Anh Hàng thịt mang hồn Trương Ba được về ở với vợ Trương Ba.
Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể
giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về năng
khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện, một
phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là Trương Ba
- người sinh thời chơi cờ rất giỏi.
* Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản – đề cao,
tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh
hồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn – truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba,
da Hàng thịt” phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỉ vẫn được kể, được yêu thích và không hề gây tranh cãi.
2. Sự sáng tạo của vở kịch “HồnTrương Ba, da Hàng thịt:
Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lí
học, tâm lí học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn, toàn
diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang Vũ, nhà viết
kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại, đào sâu và phát triển hơn nhiều. Ông có quan
niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác – đó là quan hệ hữu cơ, tác động lẫn
nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lí sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như
vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con
người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v…
Vở kịch được sáng tác năm 1981, đến 1984 mới được ra mắt công chúng. Vở kịch đã
tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu trong và ngoài nước
(Nga – 1990, Mĩ -1998, Ca-na-đa. Cộng hòa Liên bang Đức, một số nước Bắc Âu…) bởi tính
đa nghĩa, cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ, đặt ra nhiều vấn đề xã hội mới mẻ, mang tính triết lí
nhân sinh sâu sắc về lẽ làm người, lẽ sống. Đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ.
2.1/ Tóm tắt vở kịch“HồnTrương Ba, da Hàng thịt: Biên soạn: Phan Văn Thân 4
- Cảnh 1: Tại thiên đình, Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết trong
ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Nam Tào gạch
bừa tên Trương Ba vì vội đi dự tiệc ở bên đình Thái thượng .
- Cảnh 2: Trương Ba (vốn là người rất cao cờ) đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ,
cháu gái nội, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Lúc Trưởng Hoạt lâm vào thế bí,
Trương Ba rung đùi: “Thế cờ này họa có Đế Thích mới gỡ nổi”. Đế Thích nghe có người nhắc
tên mình liền xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba mấy nén hương
và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp
Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và chết.
- Cảnh 3: Tại thiên đình, Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ
Trương Ba lên (vì bà ta vô tình thắp ba nén hương cho chồng) đòi trả mạng sống cho chồng vì
biết Nam Tào gạch ẩu tên chồng. Đế Thích khuyên Bắc Đẩu, Nam Tào “sửa sai”. Nhân lúc đó,
anh Hàng thịt vừa mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho
hồn Trương Ba nhập vào xác anh Hàng thịt để sống lại.
- Cảnh 4: Tại nhà người hàng thịt, gia đình người hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì
người hàng thịt bỗng đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà hàng
thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ
ngàng nhưng hồn Trương Ba đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ
Trương Ba nhận chồng, Trưởng Hoạt nhận bạn (trong xác anh hàng thịt) về nhà Trương Ba.
- Cảnh 5: Mọi rắc rối do hồn Trương Ba phải mượn xác anh hàng thịt bắt đầu xảy ra. Bà
vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc chồng phải
sang giúp chị hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về. Anh con trai thì hi vọng với sức vóc mới, bố có
thể đi buôn lậu với mình. Hồn Trương Ba đã tát con bằng sức mạnh của cánh tay anh hàng thịt.
Lí Trưởng nhân cơ hội sách nhiễu, vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà hàng thịt. Anh con trai
phải hối lộ. Lí trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà hàng thịt. Anh con trai lại có
lời với Lí trưởng, Lí trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà hàng thịt đến nửa đêm thì được về.
- Cảnh 6: Tại nhà người hàng thịt, đêm đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị hàng thịt mổ
lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì chị ta mời rượu rồi định giữ lại. Hồn Trương Ba bị thể xác
xui khiến, lúc đầu định xuôi theo nhưng đã đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ra, về nhà.
- Cảnh 7: Tại nhà Trương Ba,Trưởng Hoạt phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống
rượu, đòi ăn ngon, nước cờ đi cũng khác. Lí trưởng lại đến gây khó dễ. Con trai Trương Ba hư
hỏng, chỉ nghĩ đến tiền và trục lợi. Vợ Trương Ba buồn khổ định bỏ đi. Cháu gái không nhận
ông, người con dâu xót xa vì bố chồng không còn như xưa. Bản thân của Trương Ba cũng bất lực với chính mình.
Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người hàng thịt diễn ra. Qua đó, xác
người hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương mời Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó,
Cu Tị , con một người hàng xóm, bạn thân cháu nội Trương Ba bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích Biên soạn: Phan Văn Thân 5
định cho hồn Trương Ba nhập vào xác Cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết từ chối, xin cho Cu
Tị được sống, còn mình xin trả lại xác cho người hàng thịt và chấp nhận cái chết.
- Phần kết: Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ trong vườn, trò chuyện với vợ.
Cu Tị và bé Gái ăn na và gieo hạt “cho nó mọc thành cây mới”.
2.2/ Nhận xét vở kịch“HồnTrương Ba, da Hàng thịt”:
2.2a- Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng linh hồn có vai trò cao hơn thể
xác của truyện cổ dân gian.
+ Trương Ba khi sống lại trong xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa
vào kí ức, tình cảm và ý thức của hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba).
+ Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra kí ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại.
+ Trưởng Hoạt, bạn của Trương Ba, khi kiểm tra kí ức xủa Trương Ba (mới) về tình
bạn giữa hai người, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ.
+ Cô con dâu thì lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình của
ông hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu giống hệt như cha chồng xưa.
Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi
nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: cái
bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”.
2.2b-Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ đã không dừng lại ở đó, mà đã sáng tạo thêm:
2.2b1- Lưu Quang Vũ đã đưa ra quan điểm: thân xác và linh hồn độc lập, nhưng phải
hòa hợp, thống nhất, nếu không sẽ nảy sinh nhiều phiền toái. Điều này được thể hiện ở các chi tiết sau:
Đầu tiên, Hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình. Rồi
anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối mình: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to
và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm).
Khi ông Lí xử anh phải sang nhà hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc
khen mấy món ăn của chị ta.
Chị hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác của chồng mình không phải là của chồng
mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quí hơn vì nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta
không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát Hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba cũng bị rung động trước sự gần gũi với vợ người hàng thịt và phải tự
đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị.
Vợ Trương Ba cũng cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức
khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của Hồn Trương Ba. Biên soạn: Phan Văn Thân 6
2.2b2- Lưu Quang Vũ đã khẳng định tư tưởng triết lí: con người ta có hai phần: linh
hồn và thân xác. Hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau thông qua cuộc đối thoại giữa linh hồn và thân xác
Cuộc đối thoại này cho thấy:
Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lí tính phải bắt đầu từ cảm
tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường; cảm xúc thẩm mĩ phải
dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác…
Thể xác cũng có tính độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lí, không thể bỏ qua.
Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất; trong đó, linh hồn giữ vai trò chủ đạo. Linh
hồn phải kiểm soát những nhu cầu của thể xác, phải điều chỉnh, phải người hóa, văn hóa hóa
những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu bản năng,
và nếu cần, biết đè nén, biết hi sinh nó. Nghĩa là linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về
hành động của thể xác, không thể thỏa mãn nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi đổ
trách nhiệm cho thể xác.
Nhưng cũng không vì quá đề cao vai trò chủ đạo của linh hồn mà không chú ý,
không quan tâm, xem nhẹ những nhu cầu chính đáng, bức thiết của thể xác.
Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con
người để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách khi bị hoàn cảnh tác động. Ở đây, cuộc
đấu tranh này đã cảnh báo khả năng lấn át của thể xác – tức là của những nhu cầu tầm thường
đối với linh hồn, đối với khát vọng sống cao khiết.
2.2b3- Lưu Quang Vũ đã đưa ra một quan niệm sống đẹp: Sống đẹp là sống vĩnh hằng,
sống chân thật, mình phải chính là mình - cả linh hồn và thể xác; sống vì mọi người, vì
hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người.
. Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân vật
trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác Cu Tị - một em bé hàng xóm vừa
chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người khác: “Không
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”. Vì thế, ông
đã xin cho Cu Tị được sống lại, còn mình thì xin được chết.
Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh Hàng thịt của Trương Ba là một hành
động đúng đắn, dũng cảm và đạo đức.Trương Ba chết, nhưng Hồn Trương Ba vẫn sống – sống
trong tình cảm của mọi người, sống mà không mượn đến thân xác của ai hết.
Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta đã nói
ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể giải quyết được theo cái cách đã
tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một sự chiến thắng thuyết
phục của “tồn tại người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con người. Biên soạn: Phan Văn Thân 7
Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lí thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu
Quang Vũ đã khẳng định theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu hạn,
nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lí của Lưu Quang Vũ về
con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo
nghệ thuật của tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.
2.2b4- Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác giữa Hồn Trương Ba và da Hàng
thịt còn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự
vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp
phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự
không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng
tới sự thống nhất cần có giữa hai mặt của thực tại xã hội và tự nhiên: nội dung và hình thức.
Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm, và thậm chí,
sự tồn tại của sự vật sẽ bị đe dọa.
Liên tưởng này không hề có khi đọc truyện cổ dân gian. Mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt
đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu
hình mang tính tiên nghiệm.
*Kết luận về sự sáng tạo của vở kịch:
Từ triết lí đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn,
Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có ý nghĩa phê phán một số tiêu cực hiện thời, có
sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống: thể xác và linh
hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn
luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng
tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện,
III. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI ( kiến thức mở rộng, đào sâu):
- Văn bản thuộc thể loại bi kịch. Một trong những đặc trưng của thể loại này là phản ánh
cuộc sống bằng việc khám phá, phát hiện những mâu thuẫn, những xung đột trong đời sống
thực tại, rồi diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật.
- Bi kịch là thể loại đối lập với hài kịch. Bi kịch sử dụng các xung đột quyết liệt mang
tính sống còn giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái tốt và cái xấu…Vì thế, số phận nhân vật
chính đa phần thường có kết cục là cái chết, và lí tưởng mà nhân vật chính theo đuổi thì chưa
thực hiện được. Vì thế, bi kịch muôn đời luôn gây sự hụt hẫng, tiếc nuối trong tâm lí người
đọc. Theo A-ri-xtốt(384-322 trước công nguyên), người đầu tiên đề xuất lí luận về thể loại, thì
một vở kịch mang đặc tính bi kịch khi nó gây được “nỗi sọ hãi” và “nỗi tiếc thương” trong lòng
người đọc (người xem), và qua đó, “thanh lọc” tâm hồn của họ, hướng họ đến với lẽ phải, cái
cao cả, cái tốt đẹp trong cuộc đời.
- Thông qua đối thoại, độc thoại của nhân vật, tác giả bi kịch chuyển tải nội dung, tư
tưởng chủ đề của kịch. So với hài kịch, xung đột kịch ở bi kịch tập trung và căng hơn. Bi kịch
hầu như không bao giờ kết thúc có hậu. Biên soạn: Phan Văn Thân 8
- Các nhà nghiên cứu cho rằng: bi kịch bắt nguồn ở Hi Lạp cách đây hơn 4000 năm,
phát triển mạnh vào thế kỉ IV trước công nguyên. Ở Việt Nam, bi kịch xuất hiện muộn. Mãi
đến đầu thế kỉ XX, thể loại này mới ra đời với các tên tuổi như Vũ Đình Long, Lưu Trọng Lư,
Nguyễn Huy Tưởng,…và thành tựu về kịch của Việt Nam cũng rất khiêm tốn. Trong số ít ỏi
các nhà soạn kịch ở ta, Lưu Quang Vũ được xem là tác giả nổi tiếng nhất. IV. CHỦ ĐỀ:
Qua đoạn trích (một phần của cảnh 7 và đoạn kết) và cả vở kịch, tác giả muốn
khẳng định: Được sống làm người là điều vô cùng quí giá, nhưng được sống
đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn còn quí giá hơn.
Con người phải luôn luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường,
dung tục để hoàn thiện nhân cách. V. TÌNH HUỐNG TRUYỆN:
Tình huống kịch của Hồn Trương Ba, da hàng thịt bắt đầu từ chỗ kết thúc của tích truyện dân gian.
Sống nhờ trong thân xác người khác, Hồn Trương Ba gặp bao nhiêu rắc rối, phiền toái.
Tai hại nhất là chuyện hai bà vợ chèo kéo, và Hồn Trương Ba cũng là đàn ông nên đâu dễ làm
ngơ trước những cám dỗ xác thịt. Tệ hại hơn nữa là ông ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong
con mắt bạn bè, người thân, Trưởng Hoạt phê phán ông đổi tính đổi nết,cháu gái không nhận
ông nội, lại thêm đứa con trai hư hỏng, cô con dâu than phiền bố chồng thay đổi, xung quanh
ông còn có tên lí trưởng đồi bại, những bậc tiên thánh trên trời thì vô trách nhiệm, cố tình lấp
liếm lỗi lầm… Ba tháng “ngụ cư” trong cái xác lạ, Hồn Trương Ba có nguy cơ bị thân xác lấn
át, nó phải đấu tranh một cách chật vật với những ham muốn bản năng, những dục vọng thấp
hèn của anh hàng thịt, có lúc thiếu chút nữa thì bị thất bại và sa ngã trước sự dẫn dắt của thể
xác. Kết cục, để bảo toàn sự thanh sạch của mình, Hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết vĩnh
viễn, khước từ sự sống không phải là mình, cho dù sự sống là muôn phần đáng quí.
Tình huống này được diễn tiến qua các bước:
- Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống như thế này mãi, muốn tách ra khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ.
- Cuộc đối thoại giữa hồn và xác với sự giễu cợt, tự đắc của xác khiến Hồn Trương Ba càng đau khổ, bế tắc.
- Thái độ cư xử của những người thân trong gia đình khiến ông càng đau khổ, tuyệt
vọng, muốn được giải thoát.
- Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng của Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích và quyết định
dứt khoát của Hồn Trương Ba (không chấp nhận sống trong xác của Cu Tị, xin được chết vĩnh
viễn, trả xác lại cho anh hàng thịt, xin cho anh hàng thịt và Cu Tị được sống).
Xây dựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một
triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: Cuộc sống thật đáng quí nhưng không phải sống thế
nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, hoặc sống giả dối, man trá, không có sự hài Biên soạn: Phan Văn Thân 9
hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách với những nhu cầu, ham muốn vật chất thì con người sẽ
chỉ gặp bi kịch mà thôi.
Nói cách khác: Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hạnh phúc và thực sự có giá
trị khi được sống đúng là mình, được sống một cách thành thực, tự nhiên trong một thực thể hài hòa, thống nhất.
VI. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG NGÔN NGỮ, MIÊU TẢ HÀNH ĐỘNG:
Ngôn ngữ và hành động nhân vật là hai yếu tố trọng yếu để phát triển xung đột, xây
dựng tình huống, thể hiện tính cách trong nghệ thuật viết kịch. 1. Ngôn ngữ:
- Sinh động, gắn với tình cảnh, tâm trạng cụ thể(sự khác biệt của ngôn ngữ Trương Ba
trong đối thoại với Xác, vợ, cái Gái, Đế Thích…)
- Giọng điệu biến hóa đa dạng, có những lời thoại vừa hướng ngoại, lại vừa hướng nội
(đoạn đối thoại Hồn Trương Ba - Đế Thích). 2. Hành động:
- Phù hợp với hoàn cảnh, theo đúng logic phát triển của tình huống kịch.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong (những
độc thoại nội tâm thể hiện trạng thái tinh thần căng thẳng, day dứt).
B. PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HỒN TRƯƠNG BA B1. GIỚI THIỆU:
Trong làng kịch nói Việt Nam, “ không ai bằng Lưu Quang Vũ trong biệt tài nêu lên
cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái
hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quí” (Phan Ngọc - Kịch pháp Lưu
Quang Vũ). Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII và đoạn cuối của vở kịch đem
đến cho công chúng nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. B2. GIẢI QUYẾT:
I. Cái nhìn chung về hình tượng Hồn Trương Ba:
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch được Lưu Quang Vũ (1948-1988) viết năm
1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ
cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào
đó nhiều triết lí nhân sinh về cuộc đời và con người.
- Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái
đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào - gạch
nhầm tên - mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc
Đẩu “sửa sai” bằng cách “chắp vá” cho Hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của Biên soạn: Phan Văn Thân 10
anh hàng thịt mới chết gần nhà. Điều đó đã gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối, đưa Trương Ba
vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ
thuộc, Trương Ba dần dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của
mình.Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách
ra khỏi xác thịt. Qua độc thoại và các cuộc đối thoại của Hồn Trương Ba, tác giả tạo nên một
mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
II. Hình tượng Hồn Trương Ba mang tính bi kịch đau đớn:
1. Bi kịch không được sống đúng là mình, đúng với những gì mình có, và cao hơn
thế nữa là cứ phải sống một cách giả trá:
- Từ khi Hồn Trương Ba được sống lại trong thân xác anh hàng thịt, tấn bi kịch của Hồn
Trương Ba bắt đầu nảy sinh bởi hai lớp mâu thuẫn:
Một là mâu thuẫn do sự khập khiễng, không phù hợp giữa linh hồn và thể xác – Trong
một con người, linh hồn và thể xác lẽ ra phải là một nhất thể, đằng này, linh hồn của một người
chất phác và thanh cao lại phải trú ngụ trong một cái thân xác phàm tục, thô lỗ vay mượn của một anh đồ tể.
Hai là mâu thuẫn giữa văn hóa (nhân cách, đạo đức…) và bản năng (những ham muốn
vật chất, dục vọng thấp hèn) của con người.
- Đầu tiên, Hồn Trương Ba thấy rất rõ sự ngượng ngùng, thiếu tự nhiên trong một cái
thân xác lạ, giống như người ta phải mặc một bộ áo quần kệch cỡm, lố lăng, hoặc quá chật chội
hoặc to quá khổ. Những cử chỉ, hành vi của Hồn trong sinh hoạt hàng ngày và trong giao tiếp
với những người xung quanh đâm ra cứ lung túng, thiếu tự tin chứ không thong dong, đĩnh đạc
như trước đây. Bởi vì, dẫu có được Hồn Trương Ba trú ngụ bên trong nhưng thân xác của anh
hàng thịt thì vẫn vẹn nguyên là anh hàng thịt. Thân hình thô lậu, khuôn mặt phì nộn, bóng nhẫy
những mỡ với mồ hôi, chân tay to bè, thô ráp. Xác luôn có những thói quen phàm tục, những
ham muốn thấp hèn rất xa lạ với cuộc sống và sinh hoạt trước đây của ông Trương Ba như
thích ăn tiết canh, thịt chó, uống rượu nhiều, nói năng tục tĩu thô lỗ, hay tán tỉnh phụ nữ…,
khiến Hồn Trương Ba hết sức đau khổ, day dứt.
Bi kịch của Hồn Trương Ba ở đây là bi kịch không được sống đúng là mình, đúng
với những gì mình có, và cao hơn thế nữa là cứ phải sống một cách giả trá. Câu nói của Hồn
với Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là điều không nên, đến thân
xác tôi cũng phải nhờ vào một anh hàng thịt” và “không thể cứ sống mãi theo kiểu bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo được” đã cho thấy rõ điều đó.
2. Bi kịch nguy cơ bị tha hoá là bi kịch nội tại tiếp theo của Hồn Trương Ba:
- Gần ba tháng sống trong thân xác thô phàm đầy nhục dục bản năng của anh hàng thịt,
Hồn không khỏi có những lúc bị cám dỗ mãnh liệt đến mức suýt bị sa ngã. Trước đây, Hồn
Trương Ba nhân hậu, ngay thẳng, bây giờ đã dần dần bị đổi khác: ham uống rượu, thích bán
thịt chứ không thích làm vườn. Từ một người ông nhân từ giờ đâm ra nóng nảy, cộc cằn. Từ
một người chồng mẫu mực mà thiếu chút nữa thì sa vào vòng tay của cô hàng thịt. Từ một
người chơi những nước cờ tuyệt chiêu, phóng khoáng chuyển sang một người đi những nước cờ tủn mủn, vô hồn. Biên soạn: Phan Văn Thân 11
- Ý thức được điều đó, Hồn Trương Ba càng đau khổ, dằn vặt, và càng đau khổ, dằn vặt
hơn khi Hồn không thể tự giải quyết được mâu thuẫn. Hồn càng cố thoát ra khỏi bi kịch bao
nhiêu thì lại càng bế tắc, kết quả lại càng tai hại bấy nhiêu. Xung đột có tính chất đầy nghịch
cảnh đó dần dần được đẩy đến cao trào qua độc thoại nội tâm, qua các lớp đối thoại giữa Hồn
với Xác, giữa Hồn với người thân, giữa Hồn với Đế Thích. Điều này được thể hiện ở đoạn trích
trong sách giáo khoa, là phần lớn của cảnh 7. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc
xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm.
2.1/ Độc thoại Hồn Trương Ba:
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương
Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này
lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
- Hành động và lời nói trên cho thấy Trương Ba đang ở trong trạng thái u uất, đau khổ,
quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng sự dày vò hơn được nữa. Từ chỗ “ôm đầu”, đến
“vụt đứng dậy”, đến những lời cảm thán đầy nước mắt với giọng điệu dồn dập, hối thúc,
Trương Ba đã biểu lộ sự căng thẳng, tuyệt vọng trong tình cảnh không được sống đúng là mình,
không được sống một cách thành thực, tự nhiên trong một thực thể hài hòa, thống nhất.
2.2/ Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với Xác hàng thịt:
2.2a/ Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba đành phải chiều theo một
số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của
Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã
không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều
khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt
anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang sống trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Bức bối bởi
không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà Hồn ghê tởm. Đau khổ bởi mình không còn là
mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ , phũ phàng lắm. Càng lúc, Hồn Trương Ba càng
đau khổ, tuyệt vọng. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba quyết định chống lại bằng cách
tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác.
2.2b/ Biết rõ những cố gắng đó là vô ích, Xác hàng thịt đã :
- Khiêu khích, xoáy vào cái hiện thực bi kịch của hồn: “Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt
của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu…”.
- Tuyên bố về sức mạnh “âm u đui mù” ghê gớm của mình có khả năng “lấn át cái linh
hồn cao khiết” của Trương Ba.
- Ranh mãnh, dồn Hồn Trương Ba vào thế đuối lí xoay quanh những chuyện thưởng
thức các món “tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác”, đặc biệt là việc “…khi
ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại…Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”. Biên soạn: Phan Văn Thân 12
- Ve vãn Hồn Trương Ba thỏa hiệp vì theo lí lẽ của xác thịt là “chẳng còn cách nào khác
đâu”, vì cả hai “đã hòa vào nhau làm một rồi”.
- Buồn rầu trách cứ với giọng thì thầm về việc “những vị lắm chữ nhiều sách” như hồn
Trương Ba “hay vin vào cớ tâm hồn là quí, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ
bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác…Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn
thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ!”, “
làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ cho tôi, để ông được thanh thản…”.
- An ủi Hồn Trương Ba “đừng nên tự dằn vặt làm gì”, khuyên gọi HồnTrương Ba hãy
về với mình, “phải sống hòa thuận với nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!”.
2.2c/ Trước những lí lẽ của Xác hàng thịt, Hồn Trương Ba đã:
- Lúc đầu thì nổi giận, khinh bỉ, mắng mỏ xác thịt hèn hạ: “Nói láo!”, “im đi!”,“mày
chỉ là xác thịt âm u đui mù”, “chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư
tưởng, không có cảm xúc”, “chỉ là những thứ thấp kém…thèm ăn ngon, thèm rượu thịt”,
- Càng về sau, càng đuối lí, nhưng vẫn cừ tìm cách biện minh, chống chế: “ta vẫn có
một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắng…”,“ta cần gì đến cái sức mạnh làm
ta trở thành tàn bạo”.
- Cuối cùng, ngậm ngùi thấm thía cái nghịch cảnh mà mình đã lâm vào bằng một tiếng
kêu tuyệt vọng: “Trời!”. Hồn Trương Ba bị đẩy vào bước đường cùng, buộc phải xuôi theo
những sự thật và lí lẽ hiển nhiên mà xác chỉ ra, đành nhập trở lại vào xác anh hàng thịt.
2.2d/ Hai hình tượng Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ
sâu sắc về cuộc đời, thể hiện một phần cơ bản nội dung tư tưởng của vở kịch.
- Hồn biểu trưng cho thế giới tinh thần, kết tinh văn hóa, đạo đức trác tuyệt của con
người mang trong mình bản chất lương thiện, thanh cao.
Xác biểu trưng cho đời sống vật chất của con người với bản năng, đam mê, dục vọng
đời thường (Bản thân những điều này không có gì là đáng xấu hổ hay đáng chê trách cả. Chỉ
khi nó cố lấn át tinh thần, xui khiến tinh thần làm điều xằng bậy thì mới thật đáng chê trách, vì
lúc đó, nó đã là cái tầm thường, dung tục).
- Thể xác chịu sự chỉ đạo của tâm hồn nhưng nó vẫn có những tác động ghê gớm
đối với tâm hồn. Một tâm hồn tỉnh táo là phải luôn biết cảnh giác, đấu tranh để vượt lên trên
những sai lạc của thể xác. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể
hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt hồn và xác tồn tại trong một con người. Từ đó nói
lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng
bản thân. Màn đối thoại này cho thấy:
- Xung đột được đẩy đến cao trào khi Hồn Trương Ba được trả lại cuộc sống
nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải chung sống với sự dung tục và bị sự dung Biên soạn: Phan Văn Thân 13
tục đồng hóa, hủy hoại bởi chính những nhu cầu bản năng, những dục vọng thấp hèn của
cái xác mà nó trú ngụ. Triết lí xã hội và nhân sinh đã được rút ra từ đó là: khi con người sống
trong cái môi trường của thế giới vật chất ngự trị, bị vây bọc bởi những nhu cầu bản năng thì
tất sẽ bị nó chi phối. Làm thế nào để bảo vệ và hoàn thiện nhân cách, bảo vệ những chuẩn mực
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của con người hiện là một vấn đề lớn cần phải đặt ra và giải quyết.
- Bên cạnh sự phê phán thói chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất,
chỉ thích hưởng thụ đến mức trở nên phàm phu, thô thiển, tác giả còn phê phán những kẻ
lấy cớ tâm hồn là quí, đời sống tinh thần đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến
sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất, đây là biểu hiện của
chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng.
3. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân:
Xung đột được đẩy đến cao trào khi Hồn trương Ba buộc phải quay trở lại với xác anh
hàng thịt để tiếp tục sống. Nhưng bi kịch của Hồn Trương Ba lúc này lại là bi kịch gia đình: bi
kịch không được thừa nhận.
Các cuộc đối thoại với vợ, con dâu và cháu gái càng làm cho Hồn Trương Ba đau khổ
hơn. Ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không muốn điều đó.
3.1/ Vợ Trương Ba chỉ ra cho chồng thấy những đổi thay đáng trách: “Ông bây giờ còn
biết đến ai nữa …ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa, ông biết
không: thằng cả đã quyết định dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa
hàng thịt”. Vốn là một người vị tha, rất mực yêu chồng, trước những đổi thay của chồng, bà
đau khổ hơn cả sự đau khổ trước đây khi bà tiễn thân xác chồng rời khỏi thế gian. Trong dòng
lệ chảy, bà buồn bã nói với chồng: “Có lẽ tôi phải đi…đi biệt. Để ông được thảnh thơi… với cô
vợ người hàng thịt…Còn hơn thế này…”.
Hồn Trương Ba đáp lại bằng những lời thoại ngắn, toàn câu hỏi: “Ốm nặng? Vậy mà tôi
không biết!”, “Sao bà lại nói thế?”, “Đi đâu?”, “Bà! Sao lại đến nông nổi này?”, “Thật sao?
Không được!”. Đó là biểu hiện của sự ngơ ngác, thảng thốt, và trạng thái thẩn thờ, tê xót. Để
rồi, Hồn Trương Ba ngồi xuống, tay ôm đầu một cách đau khổ, tuyệt vọng.
3.2/ Cháu Gái, vốn là đứa cháu nội yêu thương, gắn bó với ông hết mực: “Đêm nào nó
cũng khóc thương ông…cất giữ nâng niu từng chút kỉ niệm của ông: đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc
lào, nhất là những cây thuốc trong vườn”, vậy mà giờ đây , khi Hồn Trương Ba ngẩng đầu lên,
muốn cầu cứu nó thì nó đã phản ứng dữ dội với cái nhìn lặng lẽ, soi mói, với những lời lẽ tàn
nhẫn, phũ phàng. Tâm hồn tuổi thơ trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên
nó không chấp nhận người ông trong thân xác thô lỗ. Nó một mực khước từ tình thân: “Tôi
không phải là cháu của ông…Ông nội tôi chết rồi”. Nó còn răn đe: “Nếu ông nội tôi hiện về
được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Mặc cho Hồn Trương Ba khẩn thiết thuyết phục, nó vẫn
hạch tội “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm
lên nát cả cây sâm quí mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái
diều cho Cu Tị mà làm gãy nát khiến cho Cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt Biên soạn: Phan Văn Thân 14
đền. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!”. Nỗi giận dữ của Cái Gái đã biến
thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Nói xong, nó
vừa khóc vừa chạy vụt đi.
Những lỡi nói và thái độ của cháu nhỏ đã làm cho Hồn Trương Ba run rẩy. Nỗi đau
thăm thẳm của ông một lần nữa bị khoét xoáy, để ông thấm thía hơn cái bi kịch bị những
người thân yêu chối bỏ.
3.3/ Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy
thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”.
Nhưng trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả”, nỗi buồn đau khiến chị không thể
bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau rưng rưng đó: “Thầy bảo con: Cái bên
ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau
đớn thấy…mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần
đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền
hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”.
Trước những lời lẽ chân thực của con dâu, Hồn Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng
đá”trong tuyệt vọng khốn cùng.
3.4/ Ba lượt đối thoại đi qua đẩy bi kịch của Hồn Trương Ba lên tới chót đỉnh. Những
người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nổi tình trạng hồn xác vênh lệch, bất nhất của
chồng, cha, ông mình. Con người phương Đông vốn coi mái nhà và quan hệ ruột thịt là nền
tảng tinh thần. Mất nó, con người gần như mất tất cả, rơi vào trạng thái đơn độc, chông chênh.
Nhà soạn kịch đã không đưa người con trai vào đối thoại với Hồn Trương Ba vì lúc này
anh ta đã bị đồng tiền cám dỗ, sinh ra thói con buôn vụ lợi, mà chỉ để vợ, cháu gái, con dâu –
những người yêu thương, gắn bó với Trương Ba nhiều nhất đối thoại để dẫn dắt Trương Ba đến
nhận thức sâu sắc về tình trạng tuyệt vọng không lối thoát của bản thân mình.
Hồn Trương Ba một mình, độc thoại, công nhận sự thắng thế của Xác: “Mày đã thắng
thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ”. Để rồi Hồn Trương Ba tự vấn: “Lẽ nào ta lại
chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Và Hồn Trương Ba đã phản lại cái lí
luận của Xác trước đó – “Chẳng còn cách nào khác đâu!”, ông đã tỏ thái độ kiên quyết, dũng
cảm: “Có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
Nếu độc thoại ở màn đầu tiên, Hồn Trương Ba hiện lên trong trạng thái dằn vặt, đau khổ
thì ở màn độc thoại này, nỗi đau càng xa xót hơn nhưng nhân vật không còn trăn trở về tình
trạng Hồn – Xác bất nhất, mà đã có một thái độ hoàn toàn chủ động. Đây là lời độc thoại có
tính quyết định, dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
4. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích:
- Gặp lại Đế Thích, Hồn Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp
nhận cái cảnh hồn – xác vênh lệch, bất nhất và muốn được là mình toàn vẹn: “Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Qua lời thoại này,
Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và Biên soạn: Phan Văn Thân 15
xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đổ lỗi cho
thân xác và đừng tự an ủi, vỗ về, ngụy biện bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Con người
sống cần có sự dũng cảm, dám đối mặt, thừa nhận những sai lầm của bản thân để không bao giờ trốn chạy.
- Lúc đầu, Đế Thích ngạc nhiên: “Sao thế? Có gì không ổn đâu!”, nhưng khi hiểu ra thì
Đế Thích khuyên Hồn Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, “dưới đất,
trên trời đều thế cả… ngay cả tôi đây…Tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên
trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”.
- Nhưng Hồn Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Hồn Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai
lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạt, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng
này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống,
nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề
dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc
sống ấy thật là vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì có ý nghĩa thật sự cho ai
mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch!
- Khi Hồn Trương Ba đòi trả xác lại cho anh hàng thịt và xin cho hồn anh ta được sống
lại với thân xác của anh ta thì Đế Thích so sánh: không thể “đổi tâm hồn đáng quí của bác lấy
chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt”. Đáp lại, Hồn Trương Ba đã lập luận
bằng sự thấu hiểu lẽ đời và niềm cảm thông đáng quí: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta,
sẽ sống được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau, Vả lại, còn…còn chị vợ anh ta
nữa…chị ta thật đáng thương!”.
- Cái chết của Cu Tị là chi tiết đẩy bi kịch đến chỗ “mở nút”. Đế Thích định sửa sai của
mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp cho Hồn Trương Ba nhập vào xác Cu Tị
nhưng Hồn Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo
ông “còn khổ hơn là cái chết”, chỉ có lợi cho đám chức sắc - tức lão lí trưởng và đám trương
tuần -“bọn khốn kiếp” đục nước béo cò, chỉ gây ra vô vàn rắc rối , khổ đau cho xóm làng, cho
gia đình Cu Tị, cho người thân, và làm cho mình “bơ vơ lạc lõng… thảm hại đáng ghét như kẻ
tham lam…lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi
thứ lộc trời! Vô lí lắm!”.
- Hồn Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng: “Có những cái
sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ
sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm Cu Tị
sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…”.
Lời kêu gọi thể hiện lòng vị tha của một con người ham sống. Quyết định dứt khoát
“chết hẳn” mang ý nghĩa phục sinh tâm hồn, chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ
trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch
giữa hồn và xác, thể hiện khát vọng vươn tới cái chân thực và sự vẹn toàn tuyệt đối của
những giá trị nhân văn. Biên soạn: Phan Văn Thân 16
Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả đã gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp, vừa
gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt, vừa kín đáo, sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Điều cần
nhấn mạnh ở đây là vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại
sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn
thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây. 5. Màn kết:
- Trong vườn cây rung rinh ánh sáng, nơi vun xới những chan hòa, ấm áp, nơi lưu dấu
những hồi ức tươi đẹp trong lòng người thân về Trương Ba, Cu Tị hồi sinh đang ôm chầm lấy
mẹ, chị Lụa cuống quýt vuốt ve con làm cho không gian trở nên đầm ấm , ngọt ngào hơn.
Ở không gian thân thuộc đó, Trương Ba xuất hiện trong trạng thái “chập chờn” của
một cái bóng “giữa màu xanh cây vườn”; xuất hiện qua lời nói: “Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền
ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong
cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong
vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng
niu…”; xuất hiện qua đối thoại của cái Gái và Cu Tị: “Cây na này, ông nội tớ trồng đấy!”;
xuất hiện qua hành động lấy những hạt na vùi xuống đất của cái gái theo như lời ông nội đã
từng bảo để “cho nó mọc thành những cây mới… Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”.
Hành động gieo trồng hạt giống của đứa trẻ ngây thơ, trong trắng biểu trưng cho sự
nối tiếp, sinh sôi bất tử của Hồn Trương Ba với vẻ đẹp thanh khiết, vẹn nguyên. Cái chết hẳn
về thể xác là sự hoàn nguyên kì diệu cho tâm hồn. Chính Trương Ba đang sống một cuộc
sống không phải trên cõi dương, cũng không phải dưới cõi âm, mà là trong cõi nhớ của những
người thân. Đây là một quan niệm của Lưu Quang Vũ về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba
cõi. Một là thế giới của những người đang sống, hai là Cõi lặng im, ba là Cõi của những người
không bị lãng quên, những người đang sống trong trí nhớ của người khác. Quan niệm này đã
chi phối hàng loạt vở kịch khác của anh.
- Ở đây, ta thấy có một nghịch lí logic: Mặc dù giờ đây Hồn Trương Ba không có thân
xác để trú ngụ, chỉ là cái bóng chập chờn mờ ảo, vô hình, nhưng lại là lúc sự hiện diện của
Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất.
Điều này giúp ta khái quát thêm một triết lí nhân sinh:
+ Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học, mà ở chính sự hiện diện
của con người trong suy nghĩ, trong nỗi nhớ của những người thương yêu.
+ Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác.
Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc
quan, đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực. B3. KẾT LUẬN: Biên soạn: Phan Văn Thân 17
- Câu chuyện của Trương Ba không chỉ là câu chuyện của một thời mà là câu chuyện
của muôn đời, vì con người không bao giờ không đấu tranh để tồn tại. Với câu chuyện đó, Lưu
Quang Vũ đã phần nào thực hiện được khát vọng của anh: “muốn được bày tỏ, muốn được thể
hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của
đời sống, được trao gửi và dâng hiến” trong công cuộc đổi mới văn học ở nước ta từ những
năm đầu của thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX.
- Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống:
+ Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về
vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.
+ Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quí, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo
thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.
Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
- Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là
tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
______________________________________________________________
C. ĐỀ TUYỂN SINH ĐH-CĐ BỘ GD ĐT ĐÃ RA
1. Đề tuyển sinh CĐ năm 2011, khối C và D ( 2 điểm ):
Trong phần đầu vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, nguyên nhân
nào dẫn đến cái chết bất ngờ của nhân vật Trương Ba? Kết thúc vở kịch (cảnh VII), Hồn
Trương Ba đã tự quyết định về sự sống, chết của mình như thế nào? Nêu ngắn gọn ý nghĩa nội
dung lời thoại củ nhân vật Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
______________________________________________________________ D. ĐỀ LUYỆN TẬP
1. Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
2. Phân tích cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong vở kịch“Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ.
3. Phân tích ý vị triết lí nhân sinh trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
4, Giả định Đế Thích cho Hồn Trương Ba được sống trong xác Cu Tị và Hồn Trương
Ba đồng ý thì cuộc sống của Trương Ba sau đó sẽ như thế nào? Trình bày ý tưởng xây dựng lớp
kịch ngắn của anh (chị) về điều đó. Biên soạn: Phan Văn Thân 18
5. Suy nghĩ của anh (chị) về những vấn đề nhân sinh mà Lưu Quang Vũ đặt ra trong tác
phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Đ. GỢI Ý GIẢI ĐỀ
Đề 1: Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
1/ Nêu tình huống nhân vật xuất hiện=>nhận xét khái quát: Nhân vật mang tính bi kịch.
2/ Phân tích các cuộc đối thoại để làm rõ bi kịch của Hồn Trương Ba: căng thẳng, kịch
tính, cao trào, giải thoát.
3/ Nhân vật thể hiện quan niệm và thái độ của nhà văn về các vấn đề nhân sinh:
- Mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa vật chất và ý thức => khái quát triết học
được biểu hiện bằng hình tượng nghệ thuật sinh động (trong cuộc đối thoại Hồn – Xác).
- Ý nghĩa đích thực của sự sống là gì?
- Phê phán một số thói xấu của con người nói chung và của con người trong xã hội đương thời nói riêng:
+ Thói ngụy biện đổ lỗi cho thể xác.
+ Thói sống giả tạo, chạy theo dục vọng tầm thường.
+ Thói xách nhiễu, cơ hội, đục nước béo cò.
+ Thói quan liêu, cẩu thả, sự không thấu hiểu, gây ra nỗi khổ cho dân tình.
+ Thói bạc nhược, đớn hèn, không dám là mình. + …
______________________________________________________________
Đề 2:Phân tích cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong vở kịch“Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
1/ Nêu tình huống dẫn đến đối thoại Hồn – Xác.
2/ Phân tích đối thoại Hồn – Xác. 3/ Nhận xét: a- Vấn đề nhân sinh:
+ Mối quan hệ thể xác và linh hồn. + Ý nghĩa cuộc sống.
b- Nghệ thuật viết kịch: Xây dựng hành động kịch, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
______________________________________________________________
Đề 4: Giả định Đế Thích cho Hồn Trương Ba được sống trong xác Cu Tị
và Hồn Trương Ba đồng ý thì cuộc sống của Hồn Trương Ba sau đó sẽ như thế
nào? Trình bày ý tưởng xây dựng lớp kịch ngắn của anh (chị) về điều đó.
Đây là một đề mở, nhằm phát huy, kiểm tra năng lực tưởng tượng, sáng tạo của học
sinh. Tuy nhiên, các em cần lưu ý:
- Có thể dựa vào giả tưởng của nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch nếu nhập xác Cu
Tị để xây dựng hệ thống các chi tiết(cũng có thể sáng tạo theo ý riêng của mình) Biên soạn: Phan Văn Thân 19
- Làm rõ diễn biến tâm lí dẫn đến hành động một cách logic: những phiền toái nhân vật
gặp phải khi trú ngụ trong hình xác Cu Tị qua các mối quan hệ: + Với mẹ (chị Lụa). + Với bạn (cái Gái).
+ Với người già (vợ Trương Ba).. + …
=> Quyết định nhập hồn vào xác Cu Tị là hành động ích kỉ, khiến cho con người không
còn là mình, sống trái tự nhiên => con người lại rơi vào bi kịch khác.
- Kết luận: Kết thúc mà Lưu Quang Vũ lựa chọn là kết thúc hợp lí, đúng với sự phát
triển của xung đột kịch, logic nội tại của nhân vật.
Đề 5: Suy nghĩ của anh (chị) về những vấn đề nhân sinh mà Lưu Quang
Vũ đặt ra trong tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Đây là một đề mở, dựa trên các vấn đề nhân sinh mà tác giả đặt ra trong tác phẩm,
học sinh bày tỏ sự đồng tình hoặc bổ sung.
Hệ thống các ý lớn cần có:
1/ Quan hệ thể xác – linh hồn.
2/ Ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
3/ Thói xấu trong xã hội.
* Chú ý bối cảnh viết tác phẩm để thấy rằng tác giả đưa ra những vấn đề vừa nóng
bỏng, vừa có giá trị phổ quát, mang tính thời sự. Học sinh cần trình bày quan điểm qua các dẫn
chứng cụ thể gắn với tác phẩm, gắn với hoàn cảnh sống của bản thân, của thời đại mình đang sống.
______________________________________________________________
Đề 3. Phân tích ý vị triết lí nhân sinh trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
Ý vị triết lí nhân sinh thực chất là quan niệm của con người về nhân sinh và xã hội.
Cần tập trung phân tích, làm rõ quan niệm của Lưu Quang Vũ về nhân sinh và xã hội
trong vở kịch. Như vậy, bản chất của đề 3 này giống như ở đề 5 nói trên.
================================================================== Bồi bổ vốn từ:
- TRIẾT: thông minh, tài giỏi ( hiền triết, thánh triết )
- TRIẾT HỌC: khoa học nghiên cứu những qui luật chung
nhất về tự nhiên và xã hôi, tư duy.
- TRIẾT GIA: nhà triết học.
- TRIẾT LÍ: 1. lí luận triết học.
2. quan niệm của con người về nhân sinh và xã hội.
3. thuyết lí về xã hội, về nhân sinh (ví dụ: thích triết lí) Biên soạn: Phan Văn Thân 20
- LUẬN: 1. bàn bạc (luận về cái đẹp, biện luận, bình luận, thảo luận nghị luận, ngôn
luận, xã luận, tiểu luận, tranh luận, đàm luận, dư luận).
2. lí thuyết, chủ nghĩa (phương pháp luận, duy vật luận, duy tâm luận, tam đoạn luận)
3. bài tập làm văn (bài luận, làm bài luận).
- TRÁC TUYỆT: Trác: cao vút ; tuyệt: rất, nhất. Trác tuyệt: đến cực điểm.
- XÃ HỘI: cộng đồng người có quan hệ gắn bó với nhau trong đời sống, trong sản xuất, và
cùng sống trong một phạm vi nhất định.
- NHÂN SINH: đời người, cuộc sống con người.
- NHÂN HẬU: nhân từ và trung hậu.
- NHÂN NGHĨA: thương người và chuộng lẽ phải.
- NHÂN ÁI: thương yêu con người.
- NHÂN ĐẠO: đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, tôn trọng giá trị, phẩm chất và quyền lợi của con người.
- NHÂN TỐ: một trong những cái kết hợp với nhau để tạo ra một kết quả.
- LINH HỒN: phần vô hình trong con người, độc lập với thể xác, điều khiển thể xác và
vẫn tồn tại sau khi thể xác chết rồi.
- LINH TÍNH: khả năng biết trước phần nào những việc sắp xảy đến.
- LINH ĐỘNG: biến đổi khéo léo tùy tình thế.
- LƯƠNG THIỆN: biết ăn ở hợp với pháp luật và đạo đức thông thường.
______________________________________________________________ Biên soạn: Phan Văn Thân 21