-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tài liệu Hướng dẫn ôn tập môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học | Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Tài liệu Hướng dẫn ôn tập môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học | Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. Tài liệu gồm 14 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 118 tài liệu
Tài liệu Hướng dẫn ôn tập môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học | Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Tài liệu Hướng dẫn ôn tập môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học | Đại học Kiến trúc Đà Nẵng. Tài liệu gồm 14 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Phương pháp học đại học và nghiên cứu khoa học 3 tài liệu
Trường: Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 118 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Preview text:
20/5/2016 huong dan on tap H NG D N ÔN T P MÔN PH NG PHÁP NGHIÊN C U KHOA H C
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 1/14 20/5/2016 huong dan on tap Đề cuong on tap N IăDUNG
Khoaăhọcălàăgì?ăĐốiăt ợngăvàăchứcănĕngăcủaăkhoaăhọc?
Khoa học là một hệ thống tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa và kiểm nghiệm từ thực tiễn,
phản ánh dưới dạng logic trìu tượng và khái quát về những thuộc tính kết cấu, các mối liên hệ bản
chất, những quy luật tự nhiên, xã hội, con người, những biện pháp tác động tới thế giới, đến sự nhận
thức, cải biến hiện thực, phục vụ con người.
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khách quan khác nhau của vật chất đang vận động
và cả những hình thức phản ánh chúng vào ý thức con người. Cụ thể là:
+Thế giới khách quan đang vận động bao gồm: tự nhiên và xã hội
+ Phương pháp nhận thức thế giới khách quan đó. Chức năng của khoa học:
+ Phát hiện, khám phá bản chất các hiện tượng của thế giới khách quan, giải thích nguồn gốc phát
sinh, phát hiện quy luật vận động và phát triển của hiện tượng ấy.
+ Hệ thống hóa các tri thức đã khám phá được tạo thành lý thuyết, học thuyết khoa học.
+ Nghiên cứu thử nghiệm, ứng dụng những thành quả sáng tạo khoa học để phát triển thực tiễn đời sống.
Đểăphânăloạiăkhoaăhọcăphảiăd aătrênăcácănguyênătắcăcơăbảnănào?ăăMụcăđíchăcủaăphânăloạiăkhoa
học?ăăCóăbaoănhiêuălĩnhăv căkhoaăhọcătheoăcáchăphânăloạiăcủaăUnesco?ăĐóălàăcácălĩnhăv căkhoa họcănào?
Phân loại khoa học phải được dựa trên hai nguyên tắc cơ bản sau đây:
a) Nguyên tắc khách quan: Phân loại khoa học phải dựa trên các hình thức vận động và các tính chất
nhất quán bên trong của khách thể. Nói một cách cụ thể hơn, phân loại khoa học phải dựa vào đối
tượng mà nó nghiên cứu. Nguyên tắc phân loại này được gọi là nguyên tắc khách quan.
b) Nguyên tắc phối thuộc: Các khoa học được phân loại và sắp xếp liên tiếp theo một bậc thang phù
hợp với trật tự phát triển của thế giới vật chất và phù hợp với nhận thức của loài người. Tri thức có
sau xuất phát từ tri thức có trước và bao hàm tri thức có trước như một yếu tố tất yếu. Nguyên tắc
phân loại như vậy được gọi là nguyên tắc phối thuộc.
Mục đích: Phân định rõ từng lĩnh vực khoa học.
Làm căn cứ lựa chọn chiến lược phát triển.
Quy hoạch đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Sắp xếp, tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển công nghệ.
UNESCO đã phân loại khoa học thành 5 lĩnh vực:
Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác; Khoa học kĩ thuật; Khoa học nông nghiệp; Khoa học về
sức khỏe; Khoa học xã hội và nhân văn.
Nghiênăcứuăkhoaăhọcălàăgì?ăN iădungăcơăbảnăcủaănghiênăcứuăkhoaăhọc?ăCácănhânătốăđểăđánh
giáăhoạtăđ ngănghiênăcứuăkhoaăhọcălàăgì?
Nghiên cứu là quá trình khảo sát hay thẩm tra một vấn đề khoa học, là công trình thí nghiệm đặc
biệt nhằm mục đích khám phá những kiến thức mới, sự tìm kiếm, khám phá những thuộc tính bản
chất của sự vật hoặc hiện tượng, phát hiện được quy luật vận động của chúng, đồng thời vận dụng
những quy luật ấy để sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới khách quan phục vụ cho mục tiêu hoat động của con người
ăNCKH mang hai nội dung cơ bản sau:
+ Phát hiện quy luật vận động của thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội, con người).
+ Sáng tạo các giải pháp nhằm biến đổi trạng thái của sự vật hoặc hiện tượng, cải tạo thế giới, tức tự
nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
Hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm các nhân tố:
+ Chủ thể nghiên cứu (Ai nghiên cứu?);
+ Mục đích nghiên cứu (Để làm gì?);
+ Phương pháp nghiên cứu (Làm như thế nào?);
+ Sản phẩm của nghiên cứu (Lý thuyết, thực tế, số lượng, chất lượng);
+ Giá trị khoa học của kết quả nghiên cứu (tính khách quan, độ tin cậy, khả năng ứng dụng?)
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 2/14 20/5/2016 huong dan on tap
+ Giá trị khoa học của kết quả nghiên cứu (tính khách quan, độ tin cậy, khả năng ứng dụng?)
D aătrênăcơăs ănàoăđểăphânăchiaăthànhăcácămứcăđ ănghiênăcứuăkhoaăhọc?ăCóăbaoănhiêuămứcăđ
vàăquanăh ăgi aăcácămứcăđ ănghiênăcứuăvớiăgiáătrịătriăthức?
Dựa vào mục đích và đối tượng nghiên cứu khoa học người ta chia các mức độ nghiên cứu từ thấp đến cao như sau:
a) Mức độ mô tả: Là nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận dạng sự vật, giúp phân
biệt được sự khác nhau về bản chất giữa sự việc này với sự việc khác. Nghiên cứu mô tả là biện pháp
quan trọng để chuẩn bị tư liệu cho việc giải thích khoa học. Trong nghiên cứu mô tả thường người ta phân biệt:
Mô tả định tính: là chỉ rõ các đặc trưng về chất của sự vật, hiện tượng
Mô tả định lượng: là tiêu chí chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật hoặc hiện tượng
b) Mức độ giải thích: Là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và quy
luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Giải thích một cách tường minh bản chất của đối tượng
nghiên cứu, bằng cách chỉ rõ rằng đối tượng ấy đã tuân thủ một phần hay toàn bộ các quy luật chung
của sự phát triển hiện thực.
c) Mức độ phát hiện: Nghiên cứu phát hiện (discovery) là nghiên cứu hướng tới bản chất của các sự
kiện, các hiện tượng khách quan một cách chủ động nhằm khám phá các quy luật vận động và phát
triển của chúng. Phát hiện đồng nghĩa với phát minh, với quá trình sáng tạo ra chân lý mới làm
phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại. Tri thức phát hiện tạo nên các khái niệm, các phạm
trù, các quy luật, các lý thuyết, học thuyết mới, những phương pháp nghiên cứu mới, những quy trình
công nghệ mới, đó là những tri thức có giá trị đối với lý luận và thực tiễn. Mối quan hệ như sơ đồ sau:
D aătrênăcơăs ănàoăđểăphânăchiaăthànhăcácăloạiăhìnhănghiênăcứuăkhoaăhọc?ăCóăbaoănhiêuăloại
hình,ăn iădungăcủaăcácăloạiăhình?ăÝănghĩaăcủaăvi căxácăđịnhăcácăloạiăhìnhănghiênăcứu?
Tùy thuộc mục tiêu nghiên cứu và sản phẩm thu nhận sau nghiên cứu, người ta chia ra những loại
hình nghiên cứu khác nhau như sau:
a) Nghiên cứu cơ bản: là loại hình nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự
vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Nghiên cứu cơ bản
đi sâu khám phá bản chất và quy luật vận động và phát triển của thế giới ở cả hai phía vi mô và vĩ
mô. Nghiên cứu cơ bản được phân thành hai loại: Nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định hướng.
b) Nghiên cứu ứng dụng: là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm cách vận dụng những tri thức cơ bản để tạo ra hu những quy t ong dan orình c n ta ông nghệ p
mới trong sản xuất, những nguyên lý mới trong quản lý kinh
tế xã hội. Để phân biệt nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng là ở chỗ, nghiên cứu cơ bản thì
đưa ra những tri thức mới về bản chất, quy luật vận động và hiện tượng, còn nghiên cứu ứng dụng
đưa ra những nguyên lý mới về giải pháp tác động vào sự vật hoặc hiện tượng.
c) Nghiên cứu triển khai: là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm khả năng áp dụng đại trà các kết
quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống xã hội, tạo ra các mô hình chế biến thông
tin khoa học thành ra sản phẩm tinh thần hay vật chất. Nghiên cứu triển khai là loại hình nghiên cứu
nối liền khoa học và đời sống, là con đường đưa khoa học tới nơi cần sử dụng.
Ý nghĩa của việc xác định các loại hình nghiên cứu
Trong nghiên cứu khoa học, cần bắt đầu từ việc thiết lập sự kiện, quan sát và đưa ra các giả thuyết
nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu chính là cái mà người nghiên cứu phải kiểm chứng trong toàn bộ
tiến trình nghiên cứu. Mỗi loại hình nghiên cứu tương ứng với nhiều loại giả thuyết nghiên cứu. Giả
thuyết nghiên cứu sẽ được chứng minh hoặc bác bỏ sau khi được kiểm chứng bởi chính người nghiên
cứu. Với nghiên cứu cơ bản, người nghiên cứu cần đưa ra những giả thuyết về bản chất hay quy luật
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 3/14 20/5/2016 huong dan on tap
cứu. Với nghiên cứu cơ bản, người nghiên cứu cần đưa ra những giả thuyết về bản chất hay quy luật
vận động của sự vật hoặc hiện tượng. Với nghiên cứu ứng dụng, người nghiên cứu cần đưa ra những
giả thuyết về hình mẫu. Khi đã xác định được loại hình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ định hướng
được sản phẩm nghiên cứu của mình, đưa ra được những kết luận giả định (giả thuyết nghiên cứu) để theo đuổi.
“Khái niệm” trongăkhoaăhọcălàăgì?ăCácăb ăphậnăhợpăthànhăkháiăni m?ăchoăm tăvíădụăvềăxây d ngăm tăkháiăni m
Khái niệm là công cụ để gọi tên một sự kiện khoa học, là công cụ để duy trì và trao đổi thông tin, là
cơ sở để nhận dạng bản chất một sự vật.
Khái niệm là một hình thức tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất vốn có của sự kiện khoa học.
Khái niệm gồm hai bộ phận hợp thành đó là “nội hàm” và “ngoại diên”.
+ Nội hàm là tất cả các thuộc tính, bản chất vốn có của sự kiện, là tập hợp các dấu hiệu thuộc tính
chung, cái bản chất của một lớp đối tượng nhằm trả lời: khái niệm đó là gì?.
+ Ngoại diên là tất cả các cá thể có chứa thuộc tính được chỉ ra trong nội hàm của khái niệm ấy,
nhằm trả lời: có các đối tượng nào?. Ví dụ: khái niệm “khoa học” có nội hàm là “hệ thống tri thức về
bản chất sự vật”, còn ngoại diên là các loại khoa học như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa
học tư duy, hoặc khái niệm “người” có nội hàm là “loài động vật có lao động, có ý thức” còn ngoài
diên là người da trắng, da đen, da màu ….
+ Mỗi khái niệm được biểu diễn dưới ngôn ngữ bằng một cụm từ “tên gọi”. Cần chú ý rằng tên gọi là
cái chủ quan và người ta quy ước với nhau. Còn nội dung của khái niệm là cái khách quan. Nội dung
đó không phụ thuộc vào ý muốn của chủ quan, đó là nội dung khách quan vốn có của sự vật. Chính
vì vậy, tên gọi có thể thay đổi, nhưng không vì thế mà nội dungăcủa khái niệm phải thay đổi theo.
Th ănàoălàăVấnăđềăkhoaăhọc?ăNêuăm tăsốăcácăph ơngăphápăđểăphátăhi năvấnăđềăkhoaăhọc.
Vấn đề khoa học: là những điều chưa biết, hoặc chưa biết thấu đáo về bản chất sự vật hoặc hiện
tượng, cần được làm sáng tỏ trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy, vấn đề khoa học là một câu hỏi cần
được giải đáp trong nghiên cứu.
Phương pháp phát hiện vấn đề khoa học:
+ Phát hiện những bất đồng trong tranh luận khoa học: Loại ý tưởng này xuất hiện khi người nghiên
cứu bất chợt nhận ra chỗ yếu hoặc những nội dung chưa được giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học
trong các tài liệu khoa học, trong quá trình viết nhận xét phản biên cho một công trình khoa học mà
các đồng nghiệp phát hiện. Những bất đồng trong tranh luận khoa học thường xuất hiện trong khi
tham dự những hội nghị khoa học.
+ Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường: Về mặt logic học, đây là sự tìm kiếm một khái
niệm đối lập với khái niệm đang tồn tại, nghĩa là, đi tìm kiếm một cách phân đôi khái niệm. Sự hình
thành ý tưởng về mọi sự vật dẫn đến những ý tưởng nghiên cứu thường rất độc đáo cả trong khoa học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật và trong khoa học xã hội.
+ Sự nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tế: Nhiều khó khăn nảy sinh trong hoạt
động sản xuất, hoạt động xã hội, không thể sử dụng những biện pháp thông thường để xử lý. Thực tế
này đã đặt trước người nghiên cứu những câu hỏi phải trả lời (xuất hiện vấn đề nghiên cứu), đòi hỏi
người nghiên cứu phải đề xuất những giải pháp mới xuất phát từ việc nghiên cứu tận gốc rễ quy luật
của sự vật, hiện tượng.
+ Sự kêu ca phàn nàn của người không am hiểu: Đôi khi nhiều ý tưởng xuất hiện nhờ sự bắt gặp
những lời phàn nàn của những những người không am hiểu trong lĩnh vực mà người nghiên cứu quan
tâm. Khi người nghiên cứu đã thai nghén những ý tưởng sáng tạo khác nhau, sự bắt gặp này đôi khi
đưa đến những ý tưởng nghiên cứu sáng tạo bất ngờ.
+ Những ý tưởng khoa học bất chợt xuất hiện: Đây là những ý tưởng khoa học xuất hiện một cách
ngẫu nhiên trong đầu người nghiên cứu không phụ thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc không gian nào.
Th ănàoălàăgiảăthuy tăkhoaăhọc?ăGi aăgiảăthuy tăkhoaăhọcăvàăvấnăđềăkhoaăhọcăcóămốiăliênăh
nh ăth ănào?ăHưyănêuăvaiătròăcủaăgiảăthuy tătrongănghiênăcứuăkhoaăhọc
Giả thuyết khoa học còn gọi là giả thuyết nghiên cứu là một nhận định sơ bộ, một kết luận giả định
về bản chất sự vật do người nghiên cứu đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ.
Trong quan hệ giữa giả thuyết nghiên cứu với vấn đề khoa học có mối quan hệ: nếu vấn đề khoa học ht ps:l/ d à ocs. “c goog âu le.co hỏim”/ dtocu hì m en gi t/ảd /1tXOcQ huyếGta EcnT híirHtT nh 8lJjàg iu“m c KzU âu JT tr H4 ả NlW ời H”f xjya m IàW Z0 vấ 5k/ n mo đề b ilebasic? khoa pli=1
học đã nêu ra. Sơ đồ mối liên hệ 4/14 20/5/2016 huong dan on tap
Trong quan hệ giữa giả thuyết nghiên cứu với vấn đề khoa học có mối quan hệ: nếu vấn đề khoa học
là “câu hỏi” thì giả thuyết chính là “câu trả lời” mà vấn đề khoa học đã nêu ra. Sơ đồ mối liên hệ
giữa vấn đề khoa học với quá trình xuất hiện ý tưởng khoa học và giả thuyết khoa học có thể biểu diễn như sau:
Sau khi phát hiện được vấn đề khoa học (tức nêu được câu hỏi) thì người nghiên cứu sẽ nảy sinh các
ý định về phương án trả lời các câu hỏi đó. Đó chính là ý tưởng khoa học.
Đặt giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết là công việc thiết yếu số một của nghiên cứu khoa học, thiếu
những thao tác lôgic này thì không có nghiên cứu khoa học. Claude Bernard, nhà sinh lý học nổi
tiếng người Pháp cho rằng: “Giả thuyết là khởi điểm của mọi nghiên cứu khoa học, không có khoa
học nào mà lại không có giả thuyết”.
Đối với nghiên cứu khoa học thì “có một giả thuyết sai còn hơn không có một giả thuyết nào cả”.
Nêuăcácăthu cătínhăcơăbảnăcủaăgiảăthuy tăkhoaăhọc.ăTiêuăchíăxemăxétăm tăgiảăthuy tăkhoaăhọc?
Cóăcácăloạiăgiảăthuy tăkhoaăhọcănào?
Tính giả định: giả thuyết được đưa ra là để chứng minh, vì vậy nó mới chỉ là một nhận định chưa
được xác nhận bằng các luận cứ thu thập được từ lý thuyết bằng các phương pháp quan sát hay thực
nghiệm khoa học, do đó giả thuyết chỉ mới mang tính giả định mà thôi.
Tính đa phương án: trước một vấn đề nghiên cứu thường tồn tại nhiều câu trả lời.
Tính dị biến: Một giả thuyết có thể nhanh chóng bị xem xét lại ngay sau khi vừa được đưa ra do sự
phát triển của nhận thức. Người ta gọi đó là tính dị biến (tính dễ biến đổi).
Một giả thuyết khoa học chỉ mang tính khoa học khi hội đủ những tiêu chí sau:
Giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở các sự kiện được quan sát: vì phần lớn các giả thuyết
được hình thành dựa trên kết quả quan sát từ các sự kiện riêng biệt trong tự nhiên.
Giả thuyết không được trái với những lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt khoa học.
Giả thuyết phải có thể được kiểm chứng bằng lý thuyết hay bằng thực nghiệm. Trước đây, giới
nghiên cứu quan niệm chỉ tồn tại giả thuyết trong các nghiên cứu thực nghiệm. Sau này người ta
cũng công nhận sự tồn tại các giả thuyết cả trong các nghiên cứu lý thuyết.
Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, giả thuyết được phân chia thành:
Giả thuyết mô tả, áp dụng trong các nghiên cứu mô tả, là giả thuyết về trạng thái của sự vật.
Giả thuyết giải thích: áp dụng trong các nghiên cứu giải thích, là giả thuyết về nguyên nhân dẫn đến một trạng
thái sự vật mà người nghiên cứu đang quan tâm.
Giả thuyết giải pháp, áp dụng trong nghiên cứu giải pháp.
Giả thuyết dự báo, áp dụng trong các nghiên cứu về dự báo, là giả thuyết về trạng thái của sự vật tại một thời
điểm hoặc một quãng thời gian nào đó trong tương lai.
Cóăbaoănhiêuăb ăphậnăhợpăthànhăđểăchứngăminhăchoăm tăgiảăthuy tăkhoaăhọc?ăN iădungăcủa
cácăb ăphậnăđóălàăgì?
Chứng minh gồm ba bộ phận hợp thành: Luận điểm (giả thuyết khoa học), Luận cứ, và Phương pháp.
+ Luận điểm là điều cần chứng minh trong một nghiên cứu khoa học. Luận điểm trả lời câu hỏi:
“Cần chứng minh điều gì?”.
+ Luận cứ: Là những bằng chứng được đưa ra để chứng minh luận điểm. Luận cứ trả lời câu hỏi
“chứng minh bằng cái gì?”. Luận cứ được xây dựng từ những thông tin thu thập nhờ đọc tài liệu,
quan sát hoặc thực nghiệm. Có hai loại luận cứ: luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn.
Luận cứ lý thuyết: là các luận điểm khoa học, các tiên đề, định lý, định luật, quy luật đã được khoa
học chứng minh là đúng. Loại luận cứ này được khai thác từ các tài liệu, công trình khoa học của các
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 5/14 20/5/2016 huong dan on tap
học chứng minh là đúng. Loại luận cứ này được khai thác từ các tài liệu, công trình khoa học của các đồng nghiệp đi trước.
Luận cứ thực tiễn: được thu thập trong thực tế bằng cách quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn, điều tra
hoặc khai thác từ các công trình nghiên cứu trước đó.
+ Phương pháp: Là cách thức được sử dụng để tı̀m kiếm luận cứ và tổ chức luận cứ để chứng minh
luận điểm. Phương pháp trả lời câu hỏi: chứng minh bằng cách nào? . Phương pháp thu thập
thông tin có vai trò quyết định đến độ tin cậy của luận cứ.
Phương pháp là phạm trù trung tâm của phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp không
chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần
quyết định thành công mọi quá trình nghiên cứu khoa học.ă
Trìnhăbàyăcácăcĕnăcứăđểăl aăchọnăđềătàiăkhoaăhọc?
Đề tài là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học, trong đó có một nhóm người cùng thực hiện
một nhiệm vụ nghiên cứu.
Việc lựa chọn đề tài có thể dựa vào các căn cứ được xem xét theo cấp độ sau:
+ Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không? Ý nghĩa khoa học thể hiện trên các khía cạnh như bổ sung
những nội dung lý thuyết của khoa học; hoặc làm rõ một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại hoặc xây
dựng cơ sở lý thuyết mới, các giải pháp mới trong công nghệ, trong tổ chức và quản lý.
+ Đề tài có ý nghĩa thực tiễn không? Ý nghĩa thực tiễn thể hiện trong việc xây dựng luận cứ cho các
chương trình phát triển kinh tế và xã hội; nhu cầu kĩ thuật của sản xuất; nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường….
+ Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không? Tính cấp thiết thể hiện ở mức độ ưu tiên giải đáp
các nhu cầu lý thuyết và thực tiễn đã được xem xét. Đây là yêu cầu bổ sung đối với tính khoa học và tính thực tiễn.
+ Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài không? Đề tài dù có nhiều ý nghĩa thực tiễn,
cấp thiết, nhưng không có phương tiện thì cũng khó lòng thực hiện. Điều kiện nghiên cứu bao gồm
nhân lực; vật lực, tài lực…
+ Đề tài có phù hợp với sở trường nghiên cứu không? Đây là câu hỏi luôn mang một ý nghĩa quan
trọng. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng luôn phải đứng trước sự lựa chọn giữa nguyện
vọng cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội và khả năng đáp ứng của các nguồn
lực. Vì vậy việc chọn một đề tài vừa sức là tốt nhất.
Xác định đề tài là một khâu then chốt, bởi vì phát hiện được vấn đề để tổ chức nghiên cứu nhiều khi
còn khó hơn giải quyết vấn đề đó.
Trìnhăbàyăcácăph ơngăphápăthuăthậpăthôngătinătrongănghiênăcứuăkhoaăhọc
Thu thập thông tin có vai trò quan trọng trong việc hình thành luận cứ để chứng minh cho luận điểm
khoa học. Độ tin cậy của kết quả nghiên cứu hoàn toàn phụ thuộc vào thông tin mà người nghiên cứu
thu thập được. Có nhiều phương pháp thu thập thông tin:
a)ăNghiên cứu tài liệu hoặc phỏng vấn để kế thừa những thành tựu mà đồng nghiệp đã đạt được trong nghiên cứu.
b)ăTrực tiếp quan sát trên đối tượng nghiên cứu.
c)ăTiến hành các hoạt động thực nghiệm trực tiếp trên đối tượng khảo sát hoặc trên mô hình
tương tự.d)ăThực hiện các trắc nghiệm trên đối tượng khảo sát để thu thập các thông tin phản ứng từ
phía đối tượng khảo sát. Đó là những phương pháp mà người nghiên cứu trực tiếp làm việc trên đối tượng nghiên cứu.
Tuy nhiên, trong nhiều trường phải thu thập thông tin bằng cách gián tiếp thông qua người trung
gian. Người ta gọi chung đó là phương pháp chuyên gia. Phương pháp này bao gồm:
a)ăPhỏng vấn những người có am hiểu hoặc có liên quan đến những thông tin về sự kiện
khoa học.b)ăGửi phiếu điều tra (bảng hỏi) để thu thập thông tin liên quan.
c)ăThảo luận dưới các hình thức hội nghị khoa học…
Nói chung, các phương pháp thu thập thông tin nói trên được chia thành 4 nhóm:
1)ăPhương pháp nghiên cứu tài liệu (phương pháp gián tiếp).
2)ă Phương pháp phi thực nghiệm: phương pháp thu thập thông tin trực tiếp trên đối tượng
nhưng không tác động lên đối tượng.
3)ăPhương pháp thực nghiệm là phương pháp thu thập trực tiếp có tác động gây biến đổi
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 6/14 20/5/2016 huong dan on tap
3)ăPhương pháp thực nghiệm là phương pháp thu thập trực tiếp có tác động gây biến đổi
trực tiếp lên đối tượng nghiên cứu.
Mẫuăkhảoăsátălàăgì?ăÝănghĩaăcủaăvi căchọnămẫuăkhảoăsát?ăNêuăcácăph ơngăphápălẫyămẫuăkhảo sát
Mẫu, tức đối tượng nghiên cứu. bất kể nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu
đều phải chọn mẫu khảo .
Việc chọn mẫu có ảnh hưởng quyết định đến độ tin cậy của kết quả nghiên cứu và chi phí nguồn lực
cho công cuộc khảo sát. Việc chọn mẫu phải đảm bảo tính ngẫu nhiên, nhưng phải mang tính đại
diện, tránh chọn mẫu theo định hướng chủ quan của người nghiên cứu
Có một số cách chọn mẫu thông dụng sau:
Lấy mẫu ngẫu nhiên: là cách chọn mẫu sao cho mỗi đơn vị lấy mẫu có một cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau.
Lấy mẫu hệ thống: một đối tượng gồm nhiều đơn vị được đánh số thứ tự. Chọn một đơn vị ngẫu
nhiên có số thứ tự bất kì. Lấy một số bất kì làm khoảng cách mẫu, rồi cộng vào số thứ tự của mẫu đầu tiên.
Lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng: Đối tượng điều tra gồm nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan
đến những thuộc tính cần nghien cứu. Trong trường hợp này, đối tượng được chia thành nhiều lớp,
mỗi lớp có một đặc trưng đồng nhất. Như vậy, từ mỗi lớp, người nghiên cứu có thể thực hiện theo kĩ
thuật lấy mẫu ngẫu nhiên.
Lấy mẫu hệ thống phân tầng: Đối tượng điều tra gồm nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến
những thuộc tính cần nghien cứu. Trong trương hợp này, đối tượng được chia thành nhiều lớp, mỗi
lớp có một đặc trưng đồng nhất. Như vậy, từ mỗi lớp, người nghiên cứu có thể thực hiện theo kĩ thuật lấy mẫu hệ thống.
Lấy mẫu từng cụm (Cluster sampling): Đối tượng điều tra được chia thành nhiều cụm tương tự như
trong kĩ thuật lấy mẫu phân tầng, chỉ có điều khác là mỗi cụm không chứa đựng những đơn vị đồng
nhất, mà dị biệt. Việc lấy mẫu được thực hiện trong từng cụm theo cách lấy mẫu ngẫu nhiên hoặc hệ thống.
Th ănàoălàăgiảăthi tănghiênăcứu?ăPhânăbi tăgiảăthuy tăvàăgiảăthi tătrongănghiênăcứuăkhoaăhọc?
Giả thiết: là điều kiện giả định của nghiên cứu. Điều kiện “giả định” là những điều kiện không có
thực trong đối tượng khảo sát, mà chỉ là những tình huống giả định do người nghiên cứu đặt ra để lý
tưởng hóa điều kiện thực nghiệm. Với một giả thiết đặt ra, người nghiên cứu đã gạt bỏ bớt các yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Giả thiết không phải chứng minh.
Quan hệ giữa giả thuyết và giả thiết trong nghiên cứu:
Giả thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu, là luận điểm khoa học mà người
nghiên cứu đặt ra. Giả thuyết cần được chứng minh hoặc bác bỏ.
Còn giả thiết là điều kiện giả định của nghiên cứu, do người nghiên cứu đặt ra để lý tưởng hóa điều
kiện thực nghiệm. Giả thiết không cần phải chứng minh nhưng có thể bị bác bỏ nêu điều kiện giả
định này quá lý tưởng.
Khi đặt giả thiết trong nghiên cứu thì kết quả nghiên cứu phải được biện luận. Biện luận kết quả
nghiên cứu là điều bắt buộc trong nghiên cứu khoa học, bởi vì, không bao giờ có điều kiện lý tưởng
như đã giả định trong nghiên cứu. Có hai hướng biện luận: (1) hoặc là kết quả thực nghiệm hoàn toàn
lý tưởng như trong giả thiết. (2) Hoặc là kết quả sẽ sai lệch như thế nào nếu có sự tham gia của các
biến đã giả định là không có trong nghiên cứu.ă
Ti pă cậnă trongă nghiênă cứuă khoaă họcă làă gì?ă Trìnhă bàyă n iă dungă cácă ph ơngă phápă ti pă cận th ngăgặp?
“Tiếp cận” là chọn chỗ đứng để quan sát đối tượng nghiên cứu, là cách thức xử sự, xem xét đối tượng
nghiên cứu. Nó là bước khởi đầu của nghiên cứu khoa học và suy rộng ra nó là bước khởi đầu của
quá trình thu thập thông tin. Có một số phương pháp tiếp cận như sau:
Tiếp cận nội quan và ngoại quan
Tiếp cận nội quan là nghĩ theo ý mình. Nội quan rất cần cho nghiên cứu khoa học. Tiếp cận ngoại
quan là nghĩ theo ý người khác. Tuy nhiên, dù nghĩ theo ý mình hay ý người khác thì cuối cùng vẫn
phải kiểm chứng, để đảm bảo rằng nó đúng theo quy luật khách quan. Không có nội quan thì không
có một nghiên cứu nào được bắt đầu, nhưng chỉ với nội quan thì không một nghiên cứu nào được kết thúc.
Tiếp cận quan sát hoặc thực nghiệm
Có thể quan sát hoặc thực nghiệm để thu thập thông tín, cho việc hình thành luận cứ. Tiếp cận quan ht ps:/ s dáotcs. t goog hườle.co ng ms/do ử cument/d dụng /t1XOcQ rong GaEnT nghiirH ê tT n 8cJjgiu ứu mK m zU ô JT tảH, 4NWH nghifxjêya n IW c Z0 ứu 5k/ gimảoib itleb híasi c c? h. pli=
Đ 1ối với nghiên cứu giải pháp bắt 7/14 20/5/2016 huong dan on tap
sát thường sử dụng trong nghiên cứu mô tả, nghiên cứu giải thích. Đối với nghiên cứu giải pháp bắt
buộc phải sử dụng tiếp cận thực nghiệm.
Tiếp cận cá biệt và so sánh
Tiếp cận cá biệt cho phép quan sát sự vật một cách cô lập với sự vật khác. Tiếp cận so sánh cho phép
quan sát sự vật trong tương quan.
Tiếp cận lịch sử và logic
Là cách tiếp cận xem xét sự vật qua những sự kiện trong quá khứ, tìm hiểu quy luật tất yếu chi phối
quá trình, từ đó nhận biết được lôgic tất yếu của quá trình phát triển.
Tiếp cận phân tích và tổng hợp
Phân tích sự vật là sự chia nhỏ sự vật thành những bộ phận có bản chất khác biệt nhau. Còn tổng hợp
là xác lập những liên hệ tất yếu giữa các bộ phận đã được phân tích.
Trìnhăbàyăcácăkháiăni măvềăph ơngăphápănghiênăcứuăkhoaăhọc
Phương pháp nghiên cứu khoa học là một vấn đề phức tạp, có thể được hiểu trên những góc độ khác nhau:
Trên phương diện thông tin: nó là cách thức, con đường, phương tiện thu thập và xử lý thông tin khoa
học nhằm giải quyết các vấn đề nghiên cứu. Đó chính là phương thức thiết lập và xử lý thông tin
khoa học, qua đó tạo nên các mối quan hệ phụ thuộc có tính quy luật và xây dựng lý luận khoa học mới.
Trên phương diện hoạt động: nó là hoạt động có đối tượng, có chủ thể, sử dụng những biện pháp,
thao tác tác động để khám phá đối tượng.
Như vậy có thể nói, phương pháp nghiên cứu khoa học là sự tích hợp của các phương pháp bao gồm:
phương pháp luận, phương pháp hệ và phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Phương pháp luận: đó là lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học, là lý luận tổng quát, quan
điểm chung, là cách tiếp cận đối tượng.
Phương pháp hệ: là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực khoa học, hay
một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuật, hoặc các biện pháp để thực thực hiện theo trình tự, có
hiệu quả trong nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: là tổ hợp các cách thức mà nhà khoa học sử dụng để tác động, khám
phá đối tượng, để thu thập và xử lý thông tin. Nó gắn chặt với nội dung của vấn đề nghiên cứu.
Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách
có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó.
Cácăđặcăđiểmăcủaăph ơngăphápănghiênăcứuăkhoaăhọc?
Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào đối tượng cụ thể, cho nên nó gắn
chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là
năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức các quy
luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng.
Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng,
phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có tính khách quan. Mặt khách quan
quy định việc chọn cách này hay cách khác trong hoạt động của chủ thể. Trong nghiên cứu khoa học,
cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan.
Giữa mặt chủ quan và tính khách quan của phương pháp nghiên cứu khoa học có quan hệ với nhau như sau:
Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích. Mục đích nghiên cứu
khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương
pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, chính xác hơn.
Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình
thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài
khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống các phương pháp đặc trưng.
Hệ thống các thao tác được xắp xếp một cách hợp lý, logic, bao gồm nhiều hành động nhỏ, từ mục
đích chung M, chuyển hóa qua các mục tiêu thứ cấp Mi. tất cả các hành động nhỏ đều nằm trong sự
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 8/14 20/5/2016 huong dan on tap
đích chung M, chuyển hóa qua các mục tiêu thứ cấp Mi. tất cả các hành động nhỏ đều nằm trong sự
thống nhất và hướng tới mục chung tiêu M.
Phương pháp khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kĩ thuật hiện đại với
độ chính xác cao. Mối quan hệ giữa mục đích, nội dung và phương pháp thể hiện như sau:
N iădungăcủaăph ơngăphápăquanăsátăkhoaăhọc?ăChứcănĕngăvàăquáătrìnhăti năhànhăquanăsát khoaăhọc?
Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về
đối tượng. Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian rộng hay hẹp,
đối tượng nhiều hay ít tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của các đề tài. Có hai loại quan sát khoa
học: quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp.
Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong thực tế bằng mắt thường hay
bằng các phương tiện kĩ thuật như: máy quan trắc, kính thiên văn, kính hiển vi… để thu thập thông tin một cách trực tiếp.
Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương tác giữa đối tượng cần quan
sát với các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng không thể quan sát trực tiếp được,
Quan sát khoa học có ba chức năng:
Chức năng thu thập thông tin thực tiễn: đây là chức năng quan trọng nhất. Các tài liệu này qua xử lý
cho ra những thông tin có giá trị về đối tượng.
Chức năng kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có: trong nghiên cứu khoa học khi cần xác
minh tính đúng đắn của các lý thuyết hay giả thuyết nào đó, vì vậy cần phải thu thập các tài liệu từ
thực tiễn để kiểm chứng.
Chức năng đối chiếu các kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để tìm ra sự sai lệch của chúng,
mà tìm cách bổ khuyết, hoàn thiện lý thuyết.
Quá trình quan sát được tiến hành như sau:
Xác định đối tượng quan sát: trên cơ sở mục đích của đề tài đồng thời xác định cả các phương diện
cụ thể của đối tượng cần phải quan sát.
Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người quan sát, phương diện cụ thể
của đối tượng cần phải quan sát.
Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quan sát bằng mắt thường hay
bằng các phương tiện kĩ thuật; quan sát một lần hay nhiều lần; số người quan sát; địa điểm; thời điểm
và khoảng cách thời gian cho mỗi lần quan sát…
Xử lý tài liệu: Các tài liệu do quan sát được là tài liệu cảm tính, mang tính chủ quan, chưa phải là tài
liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xử lý bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê
toán học, bằng máy tính… mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin cô đọng và khái quát về đối tượng.
Cácăhìnhăthứcăcơăbảnăcủaăph ơngăphápăđiềuătra?ăChoăvíădụăvềăcácăcâuăhỏiăđóng,ăcâuăhỏiăm ăvà
câuăhỏiăđóngătr ớcăm ăsau?
Phương pháp điều tra: là phương pháp dùng các câu hỏi (hoặc bài toán) nhất loạt đặt ra cho nhiều
người để thu thập những thông tin khách quan nhằm biết được ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp này có 2 hình thức cơ bản:
+ Phương pháp phỏng vấn: là phương pháp dùng một hệ thống các câu hỏi miệng để người được
phỏng vấn trả lời bằng miệng nhằm thu thập thông tin đối với vấn đề được hỏi.
+ Phương pháp điều tra bằng ankét: là phương pháp dùng một hệ thống các câu hỏi được chuẩn bị
sẵn trên giấy theo những nội dung xác định, người được hỏi sẽ trả lời bằng cách viết trong một thời
gian nhất định. Hiệu quả của việc điều tra bằng ankét (phiếu hỏi, phiếu phỏng vấn, phiếu trưng
cầu…) phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bản ankét chuẩn có khả năng đem lại cho người
nghiên cứu những thông tin đầy đủ, chính xác về đối tượng nghiên cứu. Mặt khác, một ankét được
thiết kế chuẩn sẽ giúp cho việc tổng hợp, thống kê, xử lý các thông tin thu thập được dễ dàng, thuận lợi.
Có 3 loại ankét: ankét đóng; ankét mở và ankét kết hợp cả hai loại đóng và mở. Víădụ:
a) Theo anh (chị) việc thực hiện nghiên cứu khoa học có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình học
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 9/14 20/5/2016 huong dan on tap
a) Theo anh (chị) việc thực hiện nghiên cứu khoa học có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình học
tập? ●ăRất có lợi Tương đối có lợi Không có lợi
b) Những khó khăn mà anh (chị) gặp phải khi thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học là gì?
Trả lời: …………………………………………………………………………..
c)ăNhững khó khăn chủ yếu khi triển khai thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học hiện nay của anh (chị) là:
Không có thời gian. Cơ sở vật chất hạn chế. Không có hứng thú
Những khó khăn khác: …………………………………………………………….
Trìnhăbàyăn iădungăvềăph ơngăphápăphânătíchăvàătổngăhợpălýăthuy t.
Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu lý luận khác nhau
về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận, từng mặt theo lịch sử thời gian, để
hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện. Phân tích lý thuyết còn nhằm phát hiện ra những xu hướng,
những trường phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng phục vụ
cho đề tài nghiên cứu của mình.
Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ
các lý thuyết đã thu thập được để được tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề
nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thực hiện khi ta đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về
một đối tượng. Tổng hợp cho chúng ta tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã có.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song chúng lại thống nhất
biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp và tổng hợp lại giúp cho phân tích càng sâu sắc hơn.
Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu trúc các lý thuyết, các
trường phái, các xu hướng phát triền của lý thuyết. Từ phân tích người ta lại tổng hợp chúng lại để
xây dựng thành một hệ thống khái niệm, phạm trù, tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới.
N iădungăcủaăph ơngăphápăgiảăthuy tăkhoaăhọc?
Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách dự đoán bản chất của đối
tượng và tìm cách chứng minh các dự đoán đó. Như vậy, phương pháp giả thuyết có hai chức năng:
chức năng dự đoán và chức năng chỉ đường, trên cơ sở dự đoán mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai
chức năng đó giả thuyết đóng vai trò là một phương pháp nhận thức.
Trong nghiên cứu khoa học khi phát hiện ra các hiện tượng lạ mà với kiến thức đã có, không thể giải
thích được, người ta thường tiến hành bằng so sánh hiện tượng chưa biết với các hiện tượng đã biết,
tri thức cũ với trí tưởng tượng sáng tạo mà hình dung cái cần tìm. Đó chính là thao tác xây dựng giả
thuyết. Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định suy diễn, có tính xác suất, cho nên
cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp.
Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy
luận để rút ra luận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh khẳng định rằng phản luận đề là
gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực.
Với tư cách là phương pháp biện luận, giả thuyết được sử dụng như là một thí nghiệm của tư duy, thử
nghiệm thiết kế các hành động lý thuyết. Suy diễn để rút ra các kết luận chân thực từ giả thuyết là
thao tác logic quan trọng của quá trình nghiên cứu khoa học.
Mụcăđíchăsửădụngăcủaăph ơngăphápătoánăhọcătrongănghiênăcứuăkhoaăhọc
Sự phát triền mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã dẫn đến hai xu hướng phát triển trong nghiên cứu khoa học:
Khoa học sử dụng các thiết bị kĩ thuật hiện đại để tiến hành các hoạt động nghiên cứu.
Khoa học sử dụng các lý thuyết toán học vào việc tìm ra các lý thuyết chuyên ngành.
Khoa học hiện đại sử dụng toán học với hai mục đích:
+ Sử dụng toán học thống kê như một công cụ xử lý các tài liệu đã thu thập được từ các phương pháp
nghiên cứu khác nhau như: quan sát, điều tra hay thực nghiệm làm cho các kết quả nhu cầu trở nên
chính xác, đảm bảo độ tin cậy;
+ Sử dụng các lý thuyết toán học và phương pháp logic toán học để xây dựng các lý thuyết chuyên
ngành. Nhiều công thức toán học đặc biệt được dùng để tính toán các thông số có liên quan tới đối
tượng, từ đó tìm ra được các quy luật của đối tượng.
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 10/14 20/5/2016 huong dan on tap
tượng, từ đó tìm ra được các quy luật của đối tượng.
Phương pháp này còn là công cụ xử lý các tài liệu (xử lý thông tin định lượng qua các con số và các
bảng rời rạc; xử lý thông tin định tính bằng các biểu đồ) đã thu được từ các phương pháp khác. Từ
đó, sử dụng các lý thuyết toán học và phương pháp logic học, các máy tính điện tử… để xây dựng
các lý thuyết chuyên ngành.
Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, toán học thật sự là một công cụ đắc lực. Khoa học tự nhiên và
toán học đi liền với nhau, thiếu vắng phương pháp toán học không thể tiến hành nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Trong nghiên cứu khoa học xã hội, từ sự xác định, chọn mẫu nghiên cứu, toán học đã tham gia một
cách tích cực và khi xử lý tài liệu toán học đã làm tăng tính chính xác, khách quan của các kết quả
nghiên cứu và nhờ đó các kết luận của các công trình nghiên cứu có tính thuyết phục cao.
Ph ơngăphápăxửălýăthôngătinătrongănghiênăcứuăkhoaăhọc?
Kết quả thu thập thông tin từ công việc nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê, quan sát hoặc thực
nghiệm khoa học tồn tại dưới hai dạng: Thông tin định tính & Thông tin định lượng
Các thông tin định tính và định lượng cần được xử lý để xây dựng các luận cứ, khái quát hóa để làm
bộc lộ các quy luật phục vụ cho việc chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết khoa học. Có hai
phương pháp xử lý thông tin:
Xử lý đối với các thông tin định lượng: Đây là việc sử dụng phương pháp thống kê toán học để xác
định xu hướng diễn biến của tập hợp số liệu thu thập được, tức là xác định quy luật thống kê của tập
hợp số liệu. Thông tin định lượng được thu thập từ các tài liệu thống kê hoặc kết quả quan sát, thực
nghiệm. Tùy thuộc tính hệ thống và khả năng thu thập thông tin, số liệu có thể được trình bày dưới
nhiều dạng từ thấp đến cao gồm: con số rời rạc; bảng số liệu; biểu đồ; đồ thị.
Con số rời rạc: Con số rời rạc được sử dụng trong trường hợp số liệu thuộc các sự vật riêng lẻ,
không mang tính hệ thống, không biến đổi theo chuỗi thời gian.
Bảng số liệu: Bảng số liệu được sử dụng khi số liệu mang tính hệ thống, thể hiện một cấu trúc hay một xu thế.
Biểu đồ: Đối với số liệu so sánh, nghiên cứu có thể chuyển từ bảng số liệu sang dạng biểu đồ để cung
cấp cho người đọc một hình ảnh trực quan về tương quan giữa các đại lượng cần so sánh.
Xử lý logic đối với các thông tin định tính: Đây là việc đưa ra các phán đoán về bản chất các sự kiện
đồng thời thể hiện những liên hệ logic của các sự kiện. Kết quả sẽ giúp người nghiên cứu mô tả được
dưới dạng sơ đồ hoặc dưới dạng biểu thức toán học.
Trìnhăbàyăcácăb ớcăđểăth căhi năm tăđềătàiănghiênăcứuăkhoaăhọc?ăĐặcăđiểmăđánh
giáăm tăđềătàiătốt?ăNh ngăl uăýăkhiăl aăchọnăđềătài? 1) Thiết lập sự kiện 2) Lựa chọn đề tài
3) Xây dựng đề cương nghiên cứu
4) Lập kế hoạch nghiên cứu
5) Thu thập và xử lý thông tin.
6) Viết báo cáo và công bố kết quả nghiên cứu.
Về mặt phương pháp, một đề tài tốt phải khuyến khích một quá trình học tập có tính sáng tạo và lâu
dài của sinh viên về các phương pháp nghiên cứu cũng như kĩ thuật trình bày ý tưởng và kết quả thu
thập được. Một đề tài nghiên cứu được đánh giá là tốt khi:
Có phạm vi giới hạn: vì phạm vi càng hẹp vấn đề sẽ càng được đào sâu, trong khi một vấn đề có
phạm vi rộng sẽ dễ dẫn đến nguy cơ dàn trải, thiếu tập trung, xử lí các vấn đề chỉ ở trên bề mặt;
Có tính mới và độc đáo: kết quả nghiên cứu phải mang lại một sự tiến bộ nhất định trong tri thức
khoa học chuyên ngành, không trùng lặp với những kết quả, công trình đã công bố trước đó;
Xử lí vấn đề tương đối trọn vẹn: sao cho kết quả thu được giúp rút ra những kết luận rõ ràng, góp
phần giải quyết hầu hết các vấn đề cơ bản cần nghiên cứu đã đặt ra (thể hiện qua tên đề tài);
Thể hiện bằng một bản báo cáo kết quả nghiên cứu: chặt chẽ trong phương pháp tiến hành, rõ ràng
trong phong cách trình bày và... dễ đọc.
Do đó, để hướng đến một kết quả tốt cho công tác nghiên cứu, cần lưu ý những điểm sau khi chọn đề tài: + Khả năng thực địa;
+ Khả năng truy cập các nguồn thông tin, tài liệu chuyên ngành;
+ Sự hỗ trợ của các chuyên gia và nhà chuyên môn;
+ Các điều kiện, phương tiện, thiết bị nghiên cứu;
+ Những thói quen, yêu cầu, xu hướng về chuyên môn và quản lí, v.v.
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 11/14 20/5/2016 huong dan on tap
+ Những thói quen, yêu cầu, xu hướng về chuyên môn và quản lí, v.v.
Tất cả phải đáp ứng đủ yêu cầu để có thể tiến hành được đề tài nghiên cứu và đạt được đến đích mong muốn.
Mụcătiêuănghiênăcứuălàăgì?ăHưyăxácăđịnhăcácămụcătiêuăvàămụcăđíchănghiênăcứuătrongăđềătài:
“Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò trung tâm kinh tế của thủ đô Hà nội”. Tiêuăchuẩnăđể
đánhăgiáăm tăđềătàiătốt?
Mục tiêu là cụm từ chỉ những nội dung cần được xem xét và làm rõ trong khuôn khổ đối tượng
nghiên cứu đã xác định. Thực chất đó là sự phân tích chi tiết hóa đối tượng nghiên cứu.
Mục tiêu là cái đích cần phải đạt tới để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó, nó là những gì mà người
nghiên cứu cần phải đạt được sau khi nghiên cứu.
Mục tiêu trong đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò trung tâm kinh tế của thủ đô Hà nội” là:
a) Mô tả thực trạng với vai trò trung tâm kinh tế của thủ đô;
b) Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới vai trò ấy;
c) Tìm các giải pháp phát huy vai trò đó. Còn mục đích của nghiên cứu là cung cấp chứng cứ khoa
học cho việc quy hoạch thủ đô Hà nội.
Một mục tiêu tốt cần phải đáp ứng 5 tiêu chuẩn SMART như sau:
+ S (specific) – rõ ràng, cụ thể.
+ M (Measurable) – đo lường được kết quả.
+ A (Achievable) – có thể đạt được.
+ R (Reasonable) – hợp lý, chấp nhận được.
+ T (Time) – thời gian xác định.
Phạmăviănghiênăcứuălàăgì?ăChoăvíădụăvềăphạmăviănghiênăcứu
Phạmăviănghiênăcứu không phải là đối tượng nghiên cứu và đối tượng khảo sát được xem xét toàn
diện trong mọi thời gian mà nó là đối tượng được giới hạn trong một số phạm vi nhất định. Đó chính
là việc xác định rõ về phạm vi không gian, thời gian, những yếu tố, chỉ số cần điều tra, quan sát của đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi quy mô. Ví dụ, đề tài “cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Hà nội” thì người nghiên cứu
cần khảo sát hiện trạng các doanh nghiệp nhà nước, nhưng không thể đi hết hàng trăm doanh nghiệp
nhà nước mà chỉ có thể khảo sát được một số doanh nghiệp thôi. Số doanh nghiệp đó là một phạm vi
về quy mô của mẫu khảo sát.
Phạm vi không gian của sự vật. Chẳng hạn trong hàng ngàn hecta cồn cát trên dải đất miền trung
người ta chỉ có thể chọn vài chục hecta đề khảo sát. Đó chính là phạm vi về không gian của mẫu khảo sát.
Phạm vi về thời gian của sự vật. Diễn biến của bất kì sự vật nào cũng bị thay đổi theo thời gian, vì
vậy người ta phải giới hạn phạm vi khảo sát trong một khoảng thời gian nào đó, trong khoảng thời
gian đó diễn biến của quy luật có thể khảo sát được.
Phạm vi nội dung nghiên cứu. Có thể một đối tượng nghiên cứu có hàng chục nội dung, nhưng vì
eo hẹp thời gian và khả năng, người nghiên cứu chỉ chọn một vài nội dung bức thiết nhất để làm…
Cácăn iădungăcơăbảnăkhiăxâyăd ngăm tăđềăc ơngănghiênăcứu?
a/ Lý do chọn đề tài hay tính cấp thiết của đề tài: xuất phát từ yêu cầu thực tế trong công tác
hay từ nhu cầu của xã hội; Lý do là mục đích nghiên cứu, vì vậy cần giải đáp các câu hỏi: Tại
sao nghiên cứu đề tài này? Khi trả lời ta cần làm rõ các nội dung sau:
+ Phân tích sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước đây có
liên quan đến vấn đề mà chúng ta sẽ nghiên cứu bao gồm: điểm mạnh, điểm yếu trong các công trình đó;
+ Những thiếu sót cần được bổ sung hoàn thiện... điều này nhằm chứng minh cho việc đề tài
nghiên cứu của ta không trùng lặp với các đề tài và các kết quả nghiên cứu trước đó.
b/ Mục tiêu nghiên cứu (trả lời câu hỏi: Tôi sẽ làm gì?):Mục tiêu nghiên cứu thường được
chi tiết hóa dưới dạng cây mục tiêu nhằm cụ thể hóa nội dung nghiên cứu. Từ cây mục tiêu ta
khẳng định được nhiệm vụ nghiên cứu.
c/ Giả thuyết khoa học: là một mô hình giả định, một dự đoán về bản chất sự vật do người
nghiên cứu đưa ra nhằm chứng minh hoặc bác bỏ.
d/ Phương pháp nghiên cứu (sử dụng phương pháp nào?): sử dụng phối hợp các phương ht ps:/ docs. phá goog p, c le.com hú t /docume rọng tnt/ớdi/1XOcQG phươ aEnTirHtT ng phá8Jjgium p nà KzUJTH4NW o phù hợ Hfxjya p đeIW mZ l05 ạ k/imo hi biệlebasic?p u quả li=
c 1ho quá trình nghiên cứu. 12/14 20/5/2016 huong dan on tap
pháp, chú trọng tới phương pháp nào phù hợp đem lại hiệu quả cho quá trình nghiên cứu.
Đây là phần dài nhất vì chi tiết nhất so với 2 phần trước. e/ Cái mới của đề tài
Cái mới là giá trị thực của công trình khoa học và cũng là tiêu chuẩn, yêu cầu phải đạt được
của công trình nghiên cứu.
f) Dàn ý của nội dung công trình nghiên cứu
Dàn ý nội dung công trình có tính dự kiến, thường có 3 phần chính:
Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận.
Trong đó phần nội dung phải là phần cơ bản, chiếm tỷ trọng về sự đầu tư nghiên cứu là lớn
nhất. Trong phần này có thể chia thành các chương, mục và tiêu mục… với số lượng bao
nhiêu là tùy thuộc vào đề tài và cách trình bày của tác giả.
N iădungăcơăbảnăcủaăm tăK ăhoạchănghiênăcứu?
Đây là văn bản dự kiến triển khai đề tài về mọi phương diện, những ý đồ, cách thức và các bước cụ
thể, định hướng cho toàn bộ công việc. Kế hoạch được xây dựng theo các giai đoạn diễn ra nối tiếp và xen kẽ nhau. Giai đoạn chuẩn bị
+ Chọn đề tài, xác định đối tượng, nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu. Tìm kiếm các công trình và thành
tựu có liên quan, tham khảo các kết quả mới nhất của các công trình. Đánh giá các kết quả đó, trao
đổi ý kiến với người hướng dẫn hoặc các nhà khoa học.
Giai đoạn triển khai thực hiện bao gồm các bước sau đây:
Lập thư mục các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu
Phát hiện thực trạng phát triển của đối tượng bằng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Kiểm tra giả thuyết bằng việc lặp lại các thí nghiệm.
Tổ chức các hội thảo khoa học.
Giai đoạn viết công trình nghiên cứu
Viết nháp cho riêng mình, trên cơ sở tổng hợp các tài liệu thu nhập được.
Sửa chữa bản thảo theo đề cương chi tiết.
Sửa chữa lần cuối sau khi tiếp thu ý kiến của các chuyên gia. Viết hoàn chỉnh văn bản báo cáo (luận án, luận văn).
Giai đoạn nghiệm thu và bảo vệ công trình nghiên cứu
Giai đoạn nghiệm thu hay bảo vệ công trình là giai đoạn cuối cùng để xác nhận các kết quả nghiên cứu.
Cấuătrúcălogicăcủaăm tăthuy tătrìnhănghiênăcứuăkhoaăhọc?
Cấu trúc logíc của thuyết trình khoa học gồm 4 phần:
Vấn đề thuyết trình: đây chính là câu hỏi đặt ra cho mỗi bản thuyết trình. Mỗi khi chuẩn bị thuyết
trình, người nghiên cứu cần phải tự trả lời cho mình câu hỏi: “Cần đưa luận điểm nào ra trước hội
đồng?”. Nêu được vấn đề, tức câu hỏi sẽ giúp cho bản thuyết trình có nội dung phong phú và làm
xuất hiện nhiều ý tưởng hay cho bản thuyết trình.
Luận điểm thuyết trình: Mỗi bản thuyết trình cần có ít nhất một luận điểm. Lưu ý rằng mỗi bản
thuyết trình phải trả lời được câu hỏi: “định chứng minh điều gì đây?”, Luận điểm nêu ra phải rõ ràng không được chung chung.
Luận cứ thuyết trình: Luận cứ trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng cái gì?”. Bản thuyết trình phong
phú nhờ luận cứ, càng nhiều luận cứ thì luận điểm càng có sức thuyết phục. Các luận cứ phải được
chuẩn bị từ nhiều góc độ khác nhau.
Phương pháp thuyết trình: Có 3 phương pháp thuyết trình: diễn dịch, quy nạp, loại suy.
Diễn dịch: là phép suy luận đi từ cái chung đến cái riêng, từ lý thuyết đến thực tiễn. Người đối thoại
là tri thức rất thích nghe lập luận diễn dịch.
Quy nạp: là phép suy luận đi từ cái riêng đến cái chung, từ sự kiện thực tế để khái quát hoá thành lý
thuyết. Đối với nhóm có trình độ học vấn thấp thì phương pháp lập luận quy nạp tỏ ra hiệu quả hơn.
Loại suy: Là phép suy luận đi từ cái riêng đến cái riêng. Những chủ đề khó cần ưu tiên sử dụng phương pháp này.
Vận dụng phương pháp thuyết trình nào cho thích hợp với người đối thoại vừa mang tính chất kĩ
thuật vừa mang tính chất nghệ thuật. Tuy nhiên, tuỳ từng lúc người nghiên cứu cũng có thể kết hợp ht ps:/ c dáocs. c l goo oạ gile.com/d phươ ocument/d ng phá /1X p tOcQGa huyế Etn tTir rì HtT8Jjg
nh nàiuym.KzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 13/14 20/5/2016 huong dan on tap
thuật vừa mang tính chất nghệ thuật. Tuy nhiên, tuỳ từng lúc người nghiên cứu cũng có thể kết hợp
các loại phương pháp thuyết trình này. TH CăHÀNH
Cácăcâuăth căhànhătừăcâuăsốă30ăđ nă34ătuyătheoăkhảănĕngălàmăbàiăth căt ăcủaăsinhăviênănênăkhông cóăđápăánăcụăthể.
Điểmăcủaăcácăcâuăth căhànhălàă4ăđiểm. H T. TR NGăB ăMÔN ăăHOÀNGăVĔNăHU
ht ps:/ docs.google.com/document/d/1XOcQGaEnTirHtT8JjgiumKzUJTH4NWHfxjyaIWZ05k/mobilebasic?pli=1 14/14