Tài liệu Kinh tế phát triển - Kinh tế chính trị Mác-Lênin | Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Trước đó, vào chiều 29/10, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự kiến Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

lOMoARcPSD|47206521
lOMoARcPSD|47206521
cấu lại nền kinh tế nhằm tạo sự thay đổi nét
trong mô hình tăng trưởng
Thứ bảy, 30/10/2021 15:13 (GMT+7)
(ĐCSVN) - Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, sáng nay
(30/10) Quốc hội thảo luận trực tuyến về dự kiến kế hoạch cấu lại nền kinh tế
giai đoạn 2021-2025.
Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XV,
Trước đó, vào chiều 29/10, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của
Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự kiến Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-
2025.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu Nguyễn Chí Dũng cho biết, kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai
đoạn 2016-2020 đã được thực hiện và mang lại nhiều kết quả quan trọng. Trong đó, có 17/22 mục tiêu
của Kế hoạch đã được hoàn thành, 5 nhóm nhiệm vụ đã được tập trung triển khai. Kết quả thực hiện
kế hoạch đã góp phần quan trọng trong đổi mới hình cải thiện chất lượng tăng trưởng, củng cố
nền tảng kinh tế vĩ mô.
Về kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng nhấn mạnh, thời gian tới, bối cảnh
quốc tế, trong nước những hội, thuận lợi khó khăn, thách thức đan xen, đặc biệt, dịch bệnh
COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, còn thể kéo dài và những yếu tố bất định, tác động trực
tiếp tới các trung tâm kinh tế, đô thị lớn, gây đình trệ sản xuất, đứt gẫy chuỗi cung ứng, tác động đến
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - hội của đất nước. Trước bối cảnh đó, Kế
hoạch cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi, tận dụng hội
và tạo đà bứt phá cho giai đoạn tới.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đặt ra 5 quan điểm. Trong đó, nhấn mạnh tập
trung khắc phục những hạn chế, hoàn thành cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch giai đoạn
2016- 2020; bổ sung các nhiệm vụ nhằm tận dụng các cơ hội, các hình kinh doanh mới giải
quyết tốt các vấn đề chiến lược để phát triển nhanh và bền vững. Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực hiện đồng bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung
ương với địa phương, là bước đi cần thiết để đổi mớihình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn
vào khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Về mục tiêu, phải tạo sự thay đổi nét trong hình tăng trưởng theo hướng dựa vào tăng năng
suất, chất lượng, sức cạnh tranh, hiệu quả sử dụng nguồn lực, tính tự chủ khả năng thích ứng của
nền kinh tế, từng bước hướng tới nền kinh tế dựa vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đảm
bảo phát triển nhanh, bền vững, hài hòa với văn hóa, hội, môi trường quốc phòng- an ninh. Giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh cải cách thể chế; phát triển đầy đủ các loại hình thị trường; thúc
đẩy huy động, phân bổ s dụng nguồn lực hội. Hình thành cấu không gian kinh tế hợp ;
phát triển kinh tế đô thị; nâng cấp chuỗi giá trị của các ngành. Nâng cao nội lực của nền kinh tếcủa
doanh nghiệp Việt Nam.
Đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh)
Thảo luận tại phiên họp, Đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh) cho rằng, cấu lại nền kinh tế cần
bắt đầu từ việc phải xác định được những nút thắt của mỗi ngành, mỗi địa phương, nền kinh tế
phương thức tiếp cận từ thực tiễn. Những nút thắt này đang hiển hiện trong đời sống kinh tế xã hội của
đất nước, của nhân dân. cấu lại nền kinh tế phải giải quyết cho được những mâu thuẫn nội tại
đang ngăn cản sự phát triển. Đại biểu Trần Hữu Hậu đề nghị như thế bởi nếu cơ cấu lại nền kinh tế
không giải tỏa được những nút thắt thì như xây dựng đường cao tốc không giải tỏa được
những điểm nghẽn.
lOMoARcPSD|47206521
Nêu dụ cụ thể ngành điện. Đại biểu Trần Hữu Hậu cho rằng; Điện được coi như "máu" của nền
kinh tế, của sinh hoạt, đời sống của người dân. Thế nhưng chúng ta đang chứng kiến những mâu
thuẫn lớn của ngành này. Chỉ một thay đổi về chính sách, đất nước chúng ta từ chỗ luôn lo lắng về
thiếu điện đã dư điện. Đó là điện gió, năng lượng mặt trời đúng với xu thế phát triển năng lượng tái tạo
của thế giới, lại phần lớn được đầu nguồn vốn từ nước. Thế nhưng, đã dấy lên rồi lại phải tạm
ngưng phát triển. Những nơi đã phát điện lại phải cắt giảm công suất phát điện, lãng phí biết bao nhiêu
nguồn lực của xã hội
Đại biểu Trần Hữu Hậu cho rằng, trong cơ cấu lại nền kinh tế, nếu các ngành, các địa phương bắt đầu
từ những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, từ những bức xúc của người dân và
doanh nghiệp thì sẽ tìm tháo gỡ được những nút thắt tạo ra những thay đổi mang tính đột phá.
Đó là một phương thức nhằm cơ cấu lại nền kinh tế thiết thực nhất, mạnh mẽ nhất và hiệu quả nhất.
Lưu ý đến độmở lớn của nền kinh tế, đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TP Hồ Chí Minh), kiến nghị
Chính phủ cần có kịch bản ứng phó, không để kinh tế vĩ mô bất ổn trước những tác động từ kinh tế thế
giới. Đặc biệt việc các nước đang tung ra các gói kích thích nền kinh tế làm tăng tổng cầu thể
khiến chi phí giá cả tăng cao, nhất là giá xăng dầu,thể tác động đến lạm phát trong thời gian tới,
đặc biệt là các chi phí, dự toán đầu tư có thể thay đổi.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân đề nghị Chính phủ sớm xem xét can thiệp bình ổn giá xăng dầu vì hiện nay
xăng dầu tăng nhanh chúng ta còn địa, công cụ như các loại thuế, phí cần phải được sử dụng
khi giá xăng dầu tăng lên. Đại biểu Trần Hoàng Ngân cũng đề cập đến giải ngân đầu tư công. Theo đại
biểu, đây vẫn là điểm nghẽn, điểm yếu, cần rà soát, chỉ ra các nguyên nhân.
Về giải pháp, đại biểu kiến nghị, việc phân bổ vốn đầu cần thực hiện theo đúng mục tiêu cấu lại
nền kinh tế. Ưu tiên phân bổ vốn cho hạ tầng, liên kết vùng, liên kết ngành, hạ tầng kinh tế số, chuyển
đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội)
Khẳng định cấu lại nền kinh tế “không chỉ cần thiết rất cần thiết”, đại biểu Hoàng Văn Cường
(đoàn Nội) đặt ra 4 vấn đề cần quan tâm. Theo đại biểu, việc phân bổ nguồn lực nội địa mất cân
đối. Đại biểu Hoàng Văn Cường dẫn chứng về việc vốn trong doanh nghiệp nhà nước chiếm rất lớn
nhưng không sử dụng hiệu quả trong khi nhân lại khó tiếp cận. Cùng với đó, nhiều vùng tiềm năng
tốt nhưng chưa quan tâm đầu tương xứng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long hay vùng ven
biển…Cũng theo đại biểu, nền kinh tế thiếu trụ cột tạo nên phát triển tự chủ bền vững. Đại biểu
Hoàng Văn Cường dẫn số liệu FDI vẫn chiếm phần lớn trong xuất khẩu và nhấn mạnh quan điểm
muốn đạt mục tiêu trở thành quốc gia hùng cường phải trụ cột như các tập đoàn mạnh, không chỉ
làm chủ trong nước mà còn vươn ra thế giới...
Đại biểu Hoàng Văn Cường cũng nhắc đến tác động của Covid-19 cCách mạng công nghiệp 4.0
đòi hỏi việc tái cơ cấu lại nền kinh tế cần thực chất trên các lĩnh vực. Đại biểu Hoàng Văn Cường nhấn
mạnh Chúng ta muốn nước đi đầu trong thời đại 4.0 nhưng làm chủ được trong công nghệ? Hội
họp, học hành online vẫn dùng Team, Zoom. Tôi nghĩ hoàn toàn làm chủ được nếu đặt hàng doanh
nghiệp trong nước. Tái cơ cấu nền kinh tế cần cơ chế đột phá chứ không phải giải pháp thông thường.
Nhấn mạnh trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, nhất những tác động tiêu cực của
dịch Covid-19, đại biểu Trần Quốc Tuấn (đoàn Trà Vinh) cho rằng công tác dự báo hết sức quan
trọng trong thực hiện tái cấu kinh tế nói riêng phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Theo đó, đại
biểu Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh cần dành sự quan tâm đặc biệt hơn nữa đến công tác dự báo, đánh
giá tình hình để đề ra hướng đi, chiến lược đúng, chủ động ứng phó được với những tác động tiêu
cực, các diễn biến phức tạp về kinh tế ở khu vực và trong nước cũng như chủ động, nắm bắt, tận dụng
được tốt các cơ hội cho phát triển…
Khẳng định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn, nhất là trong giai đoạn dịch
Covid-19 vừa qua, song đại biểu Chu Thị Hồng Thái (đoàn Lạng Sơn) băn khoăn khi một nước nông
nghiệp, sản xuất gạo gần như lớn nhất thế giới nhưng Việt Nam
lOMoARcPSD|47206521
cũng nước nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ cho sản xuất rất lớn. Dẫn số liệu thống của Tổng
cục Hải quan kỳ 1 tháng 10-2021, đại biểu Chu Thị Hồng Thái cho biết số tiền chi trả để nhập khẩu các
mặt hàng thức ăn chăn nuôi, thuốc trừ sâu, nguyên liệu phân bón đều tăng so với cùng kỳ năm 2020.
Đặc biệt, theo đại biểu, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã khiến doanh nghiệp, các hộ chăn nuôi gặp
nhiều khó khăn và thua lỗ...
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái đề nghị, kế hoạch tái cơ cấu lại nền kinh tế thời gian tới cần đưa mục tiêu
ngành nông nghiệp phải giải pháp tự chủ về nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,
cùng với việc ứng dụng khoa học công nghệ để hỗ trợ người nông dân giảm chi phí sản xuất, nâng
cao chất lượng, giảm giá thành từ đó tăng khả năng cạnh tranh...
Buổi chiều, Quốc hội thảo luận trực tuyến v dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025)./.
Mạnh Hùng
lOMoARcPSD|47206521
Tái cấu nền kinh tế: Thách thức
và cơ hội
 !"#"$%
&'()*%+,"-./01234$%-567+8%9
%,:;&4!*%"77"<!

16/01/2021 06:45
1
Nhìn lại 05 năm qua, đã nhiều dấu ấn tích cực trong tái cấu nền kinh tế từ
thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế nhân trong nước, thu hút đầu trực tiếp
nước ngoài; đẩy mạnh công tác quy hoạch, cơ cấu lại ngành và vùng kinh tế, bước
đầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế; hình thành đồng bộ thúc đẩy phát triển các loại thị trường. Hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được thúc đẩy; chuyển đổi số, các biện pháp cải
thiện môi trường kinh doanh đã phát huy tác dụng, tạo được niềm tin của nhà đầu
tư... Nổi bật như:
cấu đầu chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỉ trọng đầu của Nhà
nước trong tổng vốn đầu hội. Theo Bộ Kế hoạch Đầu cho biết, tỉ trọng
này giảm dần từ 40,4% năm 2013 xuống 37,5% năm 2016, còn 33,3% năm 2018,
đạt 31,02% năm 2019, 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt 33,5% để đảm bảo sự
can thiệp hợp của Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế bị tác động nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng bình quân giai đoạn 2016-2020 vẫn chiếm khoảng
33,8%, đạt mục tiêu đề ra.
Cổ phần hóa, thoái vốn đã được đẩy mạnh so với giai đoạn trước được thực
hiện một cách công khai, minh bạch, theo chế thị trường, từng bước tách chức
năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tổng giá trị vốn chủ
sở hữu nhà nước được bảo toàn phát triển, tỉ lệ DNNN lãi tăng, một số
DNNN yếu kém đã trở lại hoạt động. Trong
lOMoARcPSD|47206521
giai đoạn 2016 đến tháng 11/2020, đã 178 doanh nghiệp được cấp thẩm
quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị 443.503 tỷ đồng, trong đó
giá trị vốn nhà nước 207.116 tỷ đồng; thoái 25.749 tỷ đồng, thu về 173.103 tỷ
đồng; tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt khoảng 217.300 tỷ đồng, gấp
2,8 lần tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn 2011-2015 (khoảng
78.000 tỷ).
Điều đáng mừng, các mục tiêu cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) đã bản
hoàn thành. Các ngân hàng bản đáp ứng tỉ lệ an toàn vốn theo quy định áp
dụng tiêu chuẩn Basel II tại Việt Nam. Tình trạng sở hữu chéo, đầu chéo trong
hệ thống TCTD đã được xử bản, tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng
được kiểm soát. Hệ thống TCTD đã được củng cố, nâng cao hơn năng lực quản
trị; xử nợ xấu tại các TCTD đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất,
hiệu quả hơn lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch
nhiều hơn vào các ngành sản xuất. Theo đó, tính từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân
hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm đồng bộ 03 lần lãi suất để hỗ trợ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và nền kinh tế trước tác động tiêu cực của dịch COVID-19. So
với các nước trong khu vực, Việt Nam hiện một trong những nước mức giảm
lãi suất điều hành mạnh nhất mức trung bình so với mặt bằng của các nước
có trình độ phát triển tương đồng.
=>
Mặc dù đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, việc triển khai cơ cấu lại nền kinh
tế, đổi mới hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 nước ta vẫn còn một số
hạn chế. Mô hình tăng trưởng thay đổi nhưng còn chậm. Tốc độ tăng năng suất
lao động nội ngành chưa cao; đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng
năng suất lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành chưa nét, chưa
bền vững. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động phân
khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Chẳng hạn như, ngành
dệt may hiện chủ yếu tham gia vào các khâu gia công (CMT) chiếm đến 60%
lOMoARcPSD|47206521
chỉ khoảng 5% xuất khẩu theo phương thức ODM (thiết kế trên ý tưởng sẵn,
sản xuất). Ngành điện tử hiện nay ngành tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị
toàn cầu, tuy nhiên, ngành điện tử Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp FDI)
hiện đang đứng vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị công đoạn lắp ráp gia
công sản phẩm.
Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh
phụ kiện nhập khẩu. Các ngành công nghiệp chủ đạo như dệt may, da giày, điện
tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu đồng thời phụ thuộc không nhỏ vào
một số thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan. Khu vực dịch vụ chưa
phát triển tương xứng với tiềm năng. Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước chậm; hiệu
quả sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chưa được
cải thiện đáng kể. Tiến độ, chất lượng xử nợ xấu, các TCTD yếu kém chưa theo
kịp yêu cầu. Khu vực nhân phát triển chưa tương xứng với quy độ mở
của nền kinh tế; mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm.
Mặt khác, còn những tồn tại, bất cập trong không ít quy định hiện hành đang
gây khó khăn việc thực hiện hiệu quả các giải pháp cấu lại nền kinh tế, đổi
mới hình tăng trưởng. Thị trường các yếu tố sản xuất chậm phát triển, chưa
chế chính trong phân bổ nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất. Cải cách
thể chế thực hiện các chương trình cấu lại nền kinh tế chưa được tiến hành
một cách nhất quán, toàn diện, đủ rộng đủ mạnh để chuyển sang kinh tế thị
trường đầy đủ, hiện đại để hình thành một cấu kinh tế hợp năng động
hơn.
?
Để đạt được các mục tiêu dự kiến đặt ra khát vọng phát triển đất nước trong
thập kỷ tới, quá trình cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai
đoạn 2021-2025 cần được đẩy nhanh hơn thực sự bứt phá. Theo đó, muốn trở
thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 quốc gia thu nhập cao
vào năm 2045, tốc độ tăng năng
lOMoARcPSD|47206521
suất lao động ít nhất phải đạt 6,5% hàng năm, cao hơn so với kết quả đạt được
giai đoạn 2016-2020 5,8%. Mặt khác, trong tình hình đại dịch COVID-19 diễn
biến phức tạp, trên thế giới đã xuất hiện các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư,
thương mại, chuyển đổi số sự thay đổi đổi nhanh chóng của các hình kinh
doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng…Đây vừa hội, vừa thách thức
cho quá trình tái cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam.
Nhằm tiếp tục phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt Nam, hiện nay Chính phủ xác định:
Đẩy mạnh cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới hình tăng trưởng; phối hợp
chặt chẽ, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ các chính sách khác để kích
thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng. Theo đó, tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực công đi đôi
với phát triển đồng bộ các yếu tố, các loại thị trường. Khuyến khích đổi mới sáng
tạo, tận dụng khai thác hội của công nghệ số. Xác định ràng hơn các trọng
tâm, trọng điểm cấu lại nền kinh tế theo ngành, vùng, nhóm địa phương để tận
dụng được lợi thế tập trung nguồn lực, tạo đột phá một số lĩnh vực tiềm
năng. Khắc phục sự thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp giữa các thành phần, các
địa bàn kinh tế; tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu chủ động dần nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị. Nâng cao
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường nội lực, khả năng chống chịu với
những cú sốc bên ngoài...
Với việc Việt Nam một trong số ít các quốc gia tăng trưởng dương, lọt TOP 10
quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm 2020, như Tổng thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa
phương “năm 2020 vẫn được xem năm thành công hơn năm 2019 năm
thành công nhất trong 5 năm vừa qua” vừa mới diễn ra. Đồng thời, Việt Nam được
nhiều tổ chức tài chính quốc tế cho rằng, thời gian qua đã tạo dựng được một nền
tảng quan trọng để bước vào năm 2021 với cơ hội, vận hội mới tốt đẹp hơn./.
lOMoARcPSD|47206521
@A
lOMoARcPSD|47206521
Cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam 5 năm tới:
Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là đột phá
=*%B* !*%CD!,
D%+E%)F-(4**GH%%I"J)K4"J!,)%
*
Hôm nay, Quốc hôịsẽ thảo lu∠về dự kiến kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế và quy hoạch sử dụng đất quốc
gia
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế đến 2025: Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được đặt ở vị trí nào?
Chiều 29-10, tiếp tục chương trình làm việc, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự kiến kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025.
B*%"*LM2NLMLM;!?)K
Tại phiên họp, Bộ trưởng B Kế hoạch Đầu Nguyễn Chí Dũng đã điểm lại một số kết
quả của kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu Nguyễn Chí Dũng khẳng định: Kế hoạch cấu lại nền
kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã được thực hiện mang lại nhiều kết quả quan trọng,
17/22 mục tiêu của Kế hoạch đã được hoàn thành, 5 nhóm nhiệm vụ đã được tập trung triển
khai.
“Kết quả thực hiện Kế hoạch đã góp phần quan trọng trong đổi mới hình cải thiện chất
lượng tăng trưởng, củng cố nền tảng kinh tế mô”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu
Nguyễn Chí Dũng nói.
Cụ thể, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,79% cao hơn
mức 4,27% giai đoạn 2011-2015; đóng góp của năng suất các yếu tố tổng
lOMoARcPSD|47206521
hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt bình quân 45,42% cao hơn nhiều so với mục tiêu
đặt ra là 30-35%....
Tuy vậy, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc đạt được
những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-
2020 vẫn còn một số hạn chế như sau: cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm chưa hoàn thành
theo mục tiêu đề ra.
Cùng với đó, hiệu quả đầu tư công chưa cao; giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn vướng mắc,
nhất là vốn ODA. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn chậm; hiệu
quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Việc xử các tổ chức
tín dụng yếu kém còn hạn chế.
Đặc biệt, thu ngân sách nhà nước chưa bền vững, nhất trong bối cảnh dịch Covid-19. Việc
quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công còn bất cập; tình trạng chuyển giá, trốn thuế còn diễn ra
gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Nợ công còn tiềm ẩn rủi ro.
Ngoài ra, khu vực kinh tế nhân chủ yếu doanh nghiệp nhỏ siêu nhỏ, khả năng cạnh
tranh hiệu quả hoạt động thấp. Hiệu ứng lan tỏa, tính liên kết của khu vực đầu nước
ngoài với khu vực trong nước chưa cao....
OJ)%PAI)K4"J!,)%*
Trước bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn
Chí Dũng cho biết, Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn tới cần được thực hiện nhằm
đẩy nhanh quá trình phục hồi, tận dụng cơ hội và tạo đà bứt phá cho giai đoạn tới.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
đưa ra 6 nhóm mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Trong đó, ngoài một số chỉ tiêu
lOMoARcPSD|47206521
cập nhật của kỳ kế hoạch trước, Kế hoạch này bổ sung các chỉ tiêu về phát triển các loại hình
thị trường, cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo.
"Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực hiện đồng
bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung ương với địa phương, bước đi cần thiết để đổi
mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Cùng với đó, cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện thực chất, hiệu quả hơn nữa trên
sở củng cố và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành linh hoạt phối hợp hài hòa, hiệu
quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, gắn với thực hiện 3
đột phá chiến lược và 6 nhiệm vụ trọng tâm theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Đặc biệt, lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá, lấy cơ cấu lại
không gian kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết đô thị - nông thôn
và vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn
làm nhiệm vụ trọng tâm.
Kế hoạch cũng đưa ra quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
hội, bảo vệ phục hồi môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng - an
ninh.
Đại diện quan thẩm tra, Chủ nhiệm ‰y ban Kinh tế của Quốc hội Hồng Thanh cũng đề
nghị, Kế hoạch cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 2025 cần nghiên cứu, bổ sung làm
nội hàm, các yếu tố cấu thành kinh tế số, làm sở để xác định mục tiêu “Kinh tế số chiếm
20% GDP, tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%”.
lOMoARcPSD|47206521
"Đây một nội dung mới nên cần phải được cụ thể hóa đối với từng ngành, lĩnh vực nhằm
bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện", Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh nói.
Ngoài ra, Chủ nhiệm Hồng Thanh cũng nhấn mạnh đến việc cấu lại nền kinh tế cần lấy
hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số đổi mới sáng tạo làm đột phá; gắn kết tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, hội, bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm
quốc phòng, an ninh; bảo đảm đa số người dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển...
=QR/ STUV
Đầu đúng đầy đủ cho nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế - xã hội
Thứ hai, 24/01/2022 14:30 (GMT+7)
(ĐCSVN) Nguồn nhân lực được đánh giá nhìn nhận rất cần thiết cho việc
điều hành cũng như quản chương trình tổng thể phục hồi phát triển kinh tế -
hội từ nay đến năm 2030, năm Việt Nam mong muốn đạt được 17 mục tiêu
phát triển bền vững quốc gia.
Đại dịch COVID-19 kéo dài trong hai năm 2020-2021 đã ảnh hưởng sâu rộng và nặng nề đến toàn nền
kinh tế Việt Nam, nhất là các ngành sản xuất, hàng không, du lịch, dịch vụ, cũng như thị trường tiêu thụ
trong nước, đặc biệt thị trường xuất khẩu... Do đó, để thể trỗi dậy từ sự bùng phát của đợt dịch
thứ 4 để tái phát triển kinh tế trong những năm tới, nền kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn, trung hạn
cũng như dài hạn cần khai thác, sử dụng phát huy thêm các nguồn lực, đặc biệt nguồn nhân lực
cần thiết cho việc điều hành quản chương trình tổng thể phục hồi phát triển kinh tế - hội từ
nay đến năm 2030, là năm Việt Nam mong muốn đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
lOMoARcPSD|47206521
Nguồn nhân lực cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội (Ảnh: HNV)
S*-W44***"+8%-:!?+,%
Đại dịch COVID-19 đã làm lộ ra nhiều yếu điểm của hệ thống nhận diện, đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực của Việt Nam, từ môi trường giáo dục trung học, đại học, đào tạo nghề, đến môi trường sản
xuất kinh doanh điều hành quản các chương trình dự án quốc gia. Việc học xong không đủ
kiến thức trình độ đi làm vẫn một vấn đề đặt ra. Con số sinh viên ra trường thất nghiệp hoặc
không tìm được việc làm đúng ngành học rất đáng báo động. Đã đến lúc cần gióng lên một hồi chuông
cảnh tỉnh để nhìn lại hình giáo dục đào tạo nước nhà hiện nay. Đại dịch COVID-19 nhu cầu
của thời đại 4.0 đòi hỏi một nguồn nhân lực mới, một mô hình đào tạo mới: học viên được qua đào tạo
phải được sử dụng ngay được giao công việc phù hợp với chuyên môn học tập, phù hợp với nhu
cầu thị trường, sự phát triển của địa phương, hay của quốc gia và thế giới.
Ngay từ cấp trung học, đến cấp cao đẳng hay 4 năm đại học, cần phải hướng học sinh sinh viên
theo hai kênh giáo dục và đào tạo có khác biệt rõ rệt. Giáo dụchình thức hayhình giúp học viên
học tập, thu thập kiến thức, các kỹ năng, để thể hoàn thiện, phát triển bản thân, đóng góp cho
hội, và góp phần tăng trưởng kinh tế. Hệ thống giáo dục có tính liên tục, chỉ có tính chất bắt buộc trong
những năm đầu đời của học sinh. Đến giai đoạn trưởng thành, sinh viên có thể tự học hoặc theo đuổi
môn học hay ngành nghề mong ước. Sinh viên thể ra trường với kiến thức của nhiều ngành từ văn
chuơng, kinh doanh, đến các ngành nghiên cứu chuyên sâu như toán, công nghệ tự đông, trí tuệ nhân
tạo... Khi lớn tuổi hay gần đến tuổi về hưu, họ vẫn có thể học để thêm kiến thức hay thêm kinh nghiệm
sống.
Trong thực tế, không phải tất cả các học sinh hay sinh viên đều có nhu cầu, đam mê, sở thích, hay khả
năng để theo đuổi hoàn thành nhiều năm học trung học hay đại học. Cần phát hiện, nhận diện các
học sinh hay sinh viên này, đặc biệt những người trẻ khuyết tật hay k khăn bẩm sinh khuyến
khích họ theo học tại các trường cao đẳng, trường dạy nghề hay thậm chí các trung tâm đào tạo hay
thực tập chuyên ngành do doanh nghiệp, các tổ chức thiện nguyện nhân hay địa phương tổ chức.
Chính sách giáo dục đa dạng này dựa trên một nguyên tắc rất nhân văn đó mọi người lứa tuổi
nào đều có quyền được hoàn thiện bản thân, mưu cầu hạnh phúc và trở thành những người có ích cho
xã hội và cộng đồng.
BE%4E%=+-!,X(!,
Việt Nam, sinh viên mới ra trường hay người trẻ thường được khuyến khích khởi nghiệp, buôn bán,
kinh doanh. Điều này giúp con số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới nhảy vọt,
lOMoARcPSD|47206521
tạo cảm giác kinh tế đất nước đi lên, khu vực tư nhân được tự do phát triển và con số thất nghiệp giảm
xuống rệt. Tuy nhiên chưa một nghiên cứu, khảo sát, đánh giá nào ràng về việc thành công,
sự tồn tại hay tính bền vững của các doanh nghiệp khởi nghiệp này.
Thực tế, các sinh viên ra trường, nhất những nguời trẻ thường thiếu tất c các yếu tố cần thiết để
khởi nghiệp thành công bền vững. Họ thường thiếu các ý tưởng kinh doanh được tính toán kỹ
lưỡng, các kế hoạch kinh doanh bài bản để có thể thuyết phục các nhà đầu thiên thần hỗ trợ, thiếu
vốn khởi nghiệp cần thiết, thiếu hiểu biết về nhu cầu của thị trường, chưa có đối tác hay khách hàng
tiềm năng, nhất không sản phẩm độc đáo hay khác lạ. Họ thể đánh giá thấp sự khốc liệt của
các đối thủ cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm quản điều hành doanh nghiệp trong giai đoạn khởi
nghiệp, phát triển và duy trì bền vững khi bị thử thách... Sự thiếu thốn một hay nhiều yếu tố quan trọng
để khởi nghiệp quan trọng này sẽ dẫn đến việc 95-97% các doanh nghiệp khởi nghiệp phải đóng cửa,
bị phá sản… kéo theo nhiều hệ lụy như nợ nần, mất vốn, thiếu tiền thuế,nhất là mất đi niềm tự hào
và sự tự tin để tiếp tục kinh doanh trở lại trong tương lai.
Thiết nghĩ, để tránh tình trạng thất bại sớm, người trẻ hay sinh viên thiếu kinh nghiệm cùng những yếu
tố kinh doanh cần thiết nhất thiết phải đi tìm việc và làm trong các doanh nghiệp một thời gian từ 1 đến
3 năm để được những kiến thức, kinh nghiệm quý báu, hay những bài học thành công hay thất bại
từ những người đi trước.
Trong thời đại 4.0 chuyển đổi số hiện tại, doanh nghiệp cần phải khởi nghiệp hay khởi nghiệp lại.
Khởi nghiệp không phải chỉ là đăng ký dinh doanh mới mà là việc sáng tạo lại sản phẩm, điều chỉnh
cấu tiến trình kinh doanh, tìm thị trường khách hàng mới… Đơn cử như: Công ty Kodak, thành
lập năm 1892 tại Hoa Kỳ, một thời làm mưa làm gió, đã bị khủng hoảng và gần như biến mất khỏi thị
truờng sau 130 năm kinh doanh máy và phim ảnh. Trong thời đại số, Kodak đã không theo kịp sự phát
triển hay chuyển đổi của công nghệ. Nói một cách khác, Kodak rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ hay bị phá sản đã không chịu khởi nghiệp lại, không theo kịp sự thay đổi của công nghệ thị
trường. Trong khi đó một công ty Hoa Kỳ khác, General Electric (GE), cũng thành lập năm 1892 đã đi
lên từ việc sản xuất những thiết bị gia dụng bình thường và trở thành một công ty hàng đầu thế giới về
năng lượng, sản xuất động cơ máy bay, máy tính công nghiệp, cung cấp tài chính...
Hơn nữa, trong thời đại công nghệ thông tin, chuyển đổi số, các công ty còn tồn tại, phát triển hay phát
triển bền vững đều đã tham gia vào việc tái đào tạo nguồn nhân lực chiến lược chuyển đổi số.
Chẳng hạn như: Amazon từ một công ty bán sách trên mạng thành lập năm 1994 Hoa Kỳ đã trở
thành một trong bốn công ty công nghệ hàng đầu nước Mỹ với doanh thu gần 400 tỷ đô la năm vừa
qua. Chỉ trong 10 năm (2006 -2016) doanh thu của Amazon đã tăng hơn 2000 phần trăm, từ 17,5 tỷ
lên 356 tỷ USD. Các công ty nổi tiếng như Sears, JC Penney, Nordstrom, một thời lững lẫy, doanh thu
đã sụt giảm từ 85-95%.
Để thể tồn tại phát triển bền vững, các công ty, các tổ chức đa quốc gia trong gần như mọi
ngành nghề đã mạnh dạn đầu vào con người nguồn nhân lực bất tận của doanh nghiệp của
các tổ chức quốc gia quốc tế. Cuộc cách mạng chuyển đổi số hiện tại đòi hỏi một nguồn nhân lực
mới, được tái đào tạo để thể nâng cao trình độ điều hành quản phù hợp với các thách thức
của thị trường và thế giới.
Việt Nam hiện có 98,5 triệu người đó một nguồn lực phong phú. lẽ, đã đến lúc phải các
chính sách hay các đề xuất để khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực này nhằm góp phần giúp phát
triển kinh tế theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW Tổng thư Nguyễn Phú Trọng đã
từ đầu năm 2019. Cần thiết phải xem khai thác, sử dụng phát huy nguồn nhân lực của nền kinh
tế một nhân tố mới hướng tới một mong muốn, một mục tiêu chung xây dựng nước Việt Nam
thịnh vượng và hùng cường. lẽ, không cần phải tìm kiếm đâu xa, chỉ cần đọc lại những đã được
khắc ghi trên tấm bia Tiến đầu tiên dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khoa thi năm 1442 “Hiền tài
nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu rồi xuống thấp. Bởi thế các Đức Thánh đế minh vương ai cũng lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”./.
lOMoARcPSD|47206521
GS. Tôn Vinh
Giám đốc Chương trình Đào tạo Lãnh đạo, California Miramar University, Hoa Kỳ
lOMoARcPSD|47206521
Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư
YQZ[=Q\QZ Q
Tạp chí Cộng sản
11:09, ngày 21-02-2020
=] %^X("_64%^X(+`%*"7%;
"."K,)(Ia#?9!bK%=*%6K&
?!%H%%c>+"%-5!!F&%4 4+,
4%"_6*G%aX-(%I%^X(+`%*
">%Ac9)(%"<!H%%7"7"+,
4?dKPhát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
nguồn nhân lực chất lượng cao một trong những yếu tố quyết định sự phát nhanh, bền
vững đất nước_Ảnh: Vietnam+
;".9%^X("K,)(Ia#?
Ông cha ta thường căn dặn: Hiền tài nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng, con
người yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler
nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất;
chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”(1).
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, sở vật chất - kỹ thuật, khoa
học - công nghệ,... mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế -
hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu
trí tuệ, chất xám ưu thế nổi bật không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác
sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác nhiều đến đâu cũng chỉ yếu tố hữu hạn
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Nguồn
nhân lực nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ tái tạo các nguồn lực
khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên
nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế thể tăng trưởng nhanh phát triển bền
vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức xứng tầm; lực
lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba.
lOMoARcPSD|47206521
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các thuyết tăng trưởng gần đây
chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh mức cao đều phải dựa trên ít
nhất ba trụ cột bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính con người, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao,
tức những người được đầu phát triển, kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm,
năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Trong bối
cảnh thế giới nhiều biến động cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những
quốc gia nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp thuận lợi cho đầu
và một môi trường chính trị - xã hội ổn định.
e"I!4(%aX-(%I%^X(9"+,*%
8f"J!,
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất trong thời kỳ đổi mới, quan điểm
chỉ đạo bản của Đảng ta đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển,
coi con người vừa mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm
này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, sự kế thừa tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”(2). Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đầu tiên công
việc đối với con người”(3); “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”(4)...
Tinh thần trên được phản ánh trong các bước phát triển về nhận thức, duy của Đảng
về con người, về phát triển nguồn nhân lực từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Kinh nghiệm vô giáchúng ta khái
quát được trong lịch sử lâu dài đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu
nhất, vai trò quyết định nhất nguồn lực con người Việt Nam; sức mạnh nội sinh
của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ
quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”(5).
Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng nhấn mạnh quan điểm: Phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực chất lượng cao một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”(6), “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi hình tăng trưởng lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh, hiệu quả bền vững”(7). Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển
hướng từ nhận thức tính chất luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người nguồn
nhân lực đến coi phát triển nguồn nhân lực nguồn nhân lực chất lượng cao một
trong 3 khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020.
lOMoARcPSD|47206521
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng
cao, thông qua quan điểm: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri
thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực
chủ yếu...”(8). Đại hội XII của Đảng cũng đưa ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn
nhân lực trong thời gian tới, đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó
tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp kỹ năng
thực hành”(9).
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chất
lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện nét nhất năng suất lao
động của toàn hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia. Tuy nhiên, nếu nghiêm khắc nhìn nhận thì những
thành tựu đạt được nêu trên so với nguồn lực đã đầu tư, công sức bỏ ra, với những điều
kiện, vận hội thời đem lại, nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam đang phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc dù trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
đã nhiều chính sách nhằm phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên, do tồn tại trong
một thời gian dài duy trì chế tập trung, quan liêu, bao cấp, nên sự thay đổi chính sách
vẫn chưa kịp thời. Hiện nay, còn không ít chính sách bất hợp lý và thiếu đồng bộ, gây cản
trở, chưa tạo điều kiện phát huy tốt nguồn nhân lực.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế không
thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực chất lượng cao, với
những con người đủ “đức”, “tài”. Xét dưới góc độ nguồn nhân lực, thể thấy, đội ngũ
cán bộ khoa học của nước ta so với các nước xung quanh còn có khoảng cách lớn không
dễ thu hẹp. Không ít chuyên gia đã chỉ rõ, nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng
còn thấp về nguồn nhân lực(10), sự bất cập của kết cấu hạ tầng, vật chất - kỹ thuật, thể chế
và năng lực quản lý nguồn nhân lực còn hẫng hụt về nhiều mặt.
Nhìn vào bức tranh tổng thể cho thấy, số lượng cán bộ khoa học đầu đàn, chuyên gia
trong các lĩnh vực còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong giai
đoạn mới. Những công trình khoa học chất lượng cao, được Đảng, Nhà nước
hội tôn vinh, ghi nhận còn ít. Ngoài ra, nhiều công trình các cấp được triển khai và nghiệm
thu nhưng tính ứng dụng - thực tiễn, chất lượng nhìn chung còn thấp.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng
tốt yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm còn thấp; khả năng quản lý, điều
hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hóa, biến chất, tham nhũng, buôn
lậu, nhũng nhiễu, gây phiền nhân dân, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyếtng
việc; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, bộc lộ những yếu kém, bất
cập. Đảng ta đánh giá: “Đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cấu
nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “Năng
lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái
lOMoARcPSD|47206521
hóa, biến chất”... Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín hiệu
quả lãnh đạo của Đảng quản của Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiếtphải cải cách, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức.
Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất vận hội, thời cơ đang
đến với đất nước. Nếu không nhanh chóng khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ
phải đối diện với những nguy cơ, những thách thức mới, sẽ kéo theo sự tụt hậu của đất
nước. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy khủng hoảng chất lượng nguồn nhân
lực, mà hệ quả củalà sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế; khó thoát khỏi “bẫy thu
nhập trung bình”; đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.
gX-(%4I%^X(+`%*">%Ac9?
!%H%%c>+*%8%,
Để có thể khắc phục được tình trạng: “Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng,
tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình
độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học công nghệ, lao động kỹ năng. Năng
suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực”;
“Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri
thức”; “chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cấu lao động chưa tương ứng
với chuyển dịch cấu sản xuất” như Đại hội XII của Đảng đã đánh giá, cần một hệ
thống giải pháp đồng bộ, toàn diện hơn trong thời gian tới.
Thí sinh Đội tuyển Việt Nam tham dự Kỳ thi Tay nghề thế giới lần thứ 45 tổ chức tại thành phố
Kazan (Cộng hòa Tatarstan, thuộc Liên bang Nga)_Ảnh: gdnn.gov.vn
Thứ nhất, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao cần chú trọng gắn kết 3
khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Việc đào tạo phải dựa trên xu hướng, nhu cầu phát triển
của nền kinh tế Việt Nam, đúng địa chỉ sử dụng; tiếp cận cách làm hay của thế giới.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đạt được thành công trong chiến lược
phát triển của mình thì phải chú trọng đến vai trò quan trọng của yếu tố con người, nhất là
nhân tài, là nguồn lực tạo ra thế mạnh cạnh tranh. Do đó, việc thu hút người tài cần trở
thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi tổ chức. Tuy vậy, các tổ chức cũng phải đối mặt với
ba áp lực lớn, đó là: biến động về con người, biến động nguồn vốn biến động trong tri
thức. Điều này khiến cho việc quản lý người tài trở nên khó khăn.
Thứ hai, để tăng cường quản nguồn nhân lực nước ta hiện nay, cần các phương
pháp quản lý phù hợp. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến 2 nhóm yếu tố: yếu tố nguồn nhân
lực (gồm sự phù hợp giữa con người với tổ chức, lương các khoản thu nhập, đào tạo
phát triển chức nghiệp, các hội thực hiện nhiệm vụ đầy thách thức) yếu tố tổ
chức (hành vi của lãnh đạo, mối quan hệ trong tổ chức, văn hóa các chính sách của tổ
chức, môi trường làm việc).
Cần chính sách phù hợp về chế lương, thưởng đặc biệt đối với nhân tài. Cần
nghiên cứu thành lập và sử dụng có hiệu quả nhất “Quỹ nhân tài” để
lOMoARcPSD|47206521
khuyến khích nhân tài phát triển, cống hiến, sáng tạo, gắn bó, đồng hành cùng tổ chức.
Về lâu dài, cần chế, chính sách về nhà ở, các phương tiện, điều kiện làm việc tốt
nhất cho nhân tài công tác, cống hiến cho sự phát triển của tổ chức, của quốc gia.
Thứ ba, đối với đội ngũ trí thức, nhân tài, cần quán triệt sâu sắc quan điểm: “Thực hành
dân chủ, tôn trọng phát huy tự do tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của
trí thức... Tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức.
Trọng dụng trí thức trên sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực kết quả cống hiến;
chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(11); đồng thời, nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhân tài vì sự nghiệp chung.
Trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đòi hỏi phải đổi mới trên nhiều phương diện,
phải một môi trường trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật được
coi làm chuẩn mực; tạo ra một môi trường văn hóa dẫn dắt sự phát triển nguồn nhân lực.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế
tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh bền vững; điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan tâm tạo mọi
điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí niềm tin... Nguồn nhân lực
chất lượng cao, với số lượng cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí khát vọng, lý
tưởng cách mạng soi sáng, sẽ động lực để sớm đưa nước ta bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay./.
------------------------------
(1) Alvin Toffler: Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thông tin luận, Hà Nội, 1992, tr. 41
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2011, t. 11, tr. 528
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 616
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 622
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Nội, 1998, tr. 93
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.
41.
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 130
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 90
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.
116
(10) Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP - Nội, xuất bản tháng 9-
2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại
hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc - học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của
mình, (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứutrong nước,chất lượng
giảng dạy chưa cao; nội dung ít lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở thiết bị đều
thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất
| 1/21

Preview text:

lOMoARcPSD|47206521 lOMoARcPSD|47206521
Cơ cấu lại nền kinh tế nhằm tạo sự thay đổi rõ nét
trong mô hình tăng trưởng
Thứ bảy, 30/10/2021 15:13 (GMT+7)
(ĐCSVN) - Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, sáng nay
(30/10) Quốc hội thảo luận trực tuyến về dự kiến kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XV,
Trước đó, vào chiều 29/10, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của
Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự kiến Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021- 2025.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai
đoạn 2016-2020 đã được thực hiện và mang lại nhiều kết quả quan trọng. Trong đó, có 17/22 mục tiêu
của Kế hoạch đã được hoàn thành, 5 nhóm nhiệm vụ đã được tập trung triển khai. Kết quả thực hiện
kế hoạch đã góp phần quan trọng trong đổi mới mô hình và cải thiện chất lượng tăng trưởng, củng cố
nền tảng kinh tế vĩ mô.
Về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng nhấn mạnh, thời gian tới, bối cảnh
quốc tế, trong nước có những cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, đặc biệt, dịch bệnh
COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, còn có thể kéo dài và có những yếu tố bất định, tác động trực
tiếp tới các trung tâm kinh tế, đô thị lớn, gây đình trệ sản xuất, đứt gẫy chuỗi cung ứng, tác động đến
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước bối cảnh đó, Kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi, tận dụng cơ hội
và tạo đà bứt phá cho giai đoạn tới.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đặt ra 5 quan điểm. Trong đó, nhấn mạnh tập
trung khắc phục những hạn chế, hoàn thành cơ cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch giai đoạn
2016- 2020; bổ sung các nhiệm vụ nhằm tận dụng các cơ hội, các mô hình kinh doanh mới và giải
quyết tốt các vấn đề chiến lược để phát triển nhanh và bền vững. Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi
là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực hiện đồng bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung
ương với địa phương, là bước đi cần thiết để đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn
vào khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Về mục tiêu, phải tạo sự thay đổi rõ nét trong mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào tăng năng
suất, chất lượng, sức cạnh tranh, hiệu quả sử dụng nguồn lực, tính tự chủ và khả năng thích ứng của
nền kinh tế, từng bước hướng tới nền kinh tế dựa vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đảm
bảo phát triển nhanh, bền vững, hài hòa với văn hóa, xã hội, môi trường và quốc phòng- an ninh. Giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh cải cách thể chế; phát triển đầy đủ các loại hình thị trường; thúc
đẩy huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực xã hội. Hình thành cơ cấu không gian kinh tế hợp lý;
phát triển kinh tế đô thị; nâng cấp chuỗi giá trị của các ngành. Nâng cao nội lực của nền kinh tế và của doanh nghiệp Việt Nam.
Đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh)
Thảo luận tại phiên họp, Đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh) cho rằng, cơ cấu lại nền kinh tế cần
bắt đầu từ việc phải xác định được những nút thắt của mỗi ngành, mỗi địa phương, nền kinh tế là
phương thức tiếp cận từ thực tiễn. Những nút thắt này đang hiển hiện trong đời sống kinh tế xã hội của
đất nước, của nhân dân. Cơ cấu lại nền kinh tế phải giải quyết cho được những mâu thuẫn nội tại
đang ngăn cản sự phát triển. Đại biểu Trần Hữu Hậu đề nghị như thế bởi vì nếu cơ cấu lại nền kinh tế
mà không giải tỏa được những nút thắt thì như xây dựng đường cao tốc mà không giải tỏa được những điểm nghẽn. lOMoARcPSD|47206521
Nêu ví dụ cụ thể là ngành điện. Đại biểu Trần Hữu Hậu cho rằng; Điện được coi như "máu" của nền
kinh tế, của sinh hoạt, đời sống của người dân. Thế nhưng chúng ta đang chứng kiến những mâu
thuẫn lớn của ngành này. Chỉ một thay đổi về chính sách, đất nước chúng ta từ chỗ luôn lo lắng về
thiếu điện đã dư điện. Đó là điện gió, năng lượng mặt trời đúng với xu thế phát triển năng lượng tái tạo
của thế giới, lại phần lớn được đầu tư nguồn vốn từ nước. Thế nhưng, đã dấy lên rồi lại phải tạm
ngưng phát triển. Những nơi đã phát điện lại phải cắt giảm công suất phát điện, lãng phí biết bao nhiêu nguồn lực của xã hội
Đại biểu Trần Hữu Hậu cho rằng, trong cơ cấu lại nền kinh tế, nếu các ngành, các địa phương bắt đầu
từ những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, từ những bức xúc của người dân và
doanh nghiệp thì sẽ tìm và tháo gỡ được những nút thắt và tạo ra những thay đổi mang tính đột phá.
Đó là một phương thức nhằm cơ cấu lại nền kinh tế thiết thực nhất, mạnh mẽ nhất và hiệu quả nhất.
Lưu ý đến độmở lớn của nền kinh tế, đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TP Hồ Chí Minh), kiến nghị
Chính phủ cần có kịch bản ứng phó, không để kinh tế vĩ mô bất ổn trước những tác động từ kinh tế thế
giới. Đặc biệt là việc các nước đang tung ra các gói kích thích nền kinh tế làm tăng tổng cầu có thể
khiến chi phí giá cả tăng cao, nhất là là giá xăng dầu, có thể tác động đến lạm phát trong thời gian tới,
đặc biệt là các chi phí, dự toán đầu tư có thể thay đổi.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân đề nghị Chính phủ sớm xem xét can thiệp bình ổn giá xăng dầu vì hiện nay
xăng dầu tăng nhanh và chúng ta còn dư địa, công cụ như các loại thuế, phí cần phải được sử dụng
khi giá xăng dầu tăng lên. Đại biểu Trần Hoàng Ngân cũng đề cập đến giải ngân đầu tư công. Theo đại
biểu, đây vẫn là điểm nghẽn, điểm yếu, cần rà soát, chỉ ra các nguyên nhân.
Về giải pháp, đại biểu kiến nghị, việc phân bổ vốn đầu tư cần thực hiện theo đúng mục tiêu cơ cấu lại
nền kinh tế. Ưu tiên phân bổ vốn cho hạ tầng, liên kết vùng, liên kết ngành, hạ tầng kinh tế số, chuyển
đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội)
Khẳng định cơ cấu lại nền kinh tế “không chỉ cần thiết mà là rất cần thiết”, đại biểu Hoàng Văn Cường
(đoàn Hà Nội) đặt ra 4 vấn đề cần quan tâm. Theo đại biểu, việc phân bổ nguồn lực nội địa mất cân
đối. Đại biểu Hoàng Văn Cường dẫn chứng về việc vốn trong doanh nghiệp nhà nước chiếm rất lớn
nhưng không sử dụng hiệu quả trong khi tư nhân lại khó tiếp cận. Cùng với đó, nhiều vùng tiềm năng
tốt nhưng chưa quan tâm đầu tư tương xứng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long hay vùng ven
biển…Cũng theo đại biểu, nền kinh tế thiếu trụ cột tạo nên phát triển tự chủ và bền vững. Đại biểu
Hoàng Văn Cường dẫn số liệu FDI vẫn chiếm phần lớn trong xuất khẩu và nhấn mạnh quan điểm
muốn đạt mục tiêu trở thành quốc gia hùng cường phải có trụ cột như các tập đoàn mạnh, không chỉ
làm chủ trong nước mà còn vươn ra thế giới...
Đại biểu Hoàng Văn Cường cũng nhắc đến tác động của Covid-19 và cả Cách mạng công nghiệp 4.0
đòi hỏi việc tái cơ cấu lại nền kinh tế cần thực chất trên các lĩnh vực. Đại biểu Hoàng Văn Cường nhấn
mạnh Chúng ta muốn là nước đi đầu trong thời đại 4.0 nhưng làm chủ được gì trong công nghệ? Hội
họp, học hành online vẫn dùng Team, Zoom. Tôi nghĩ hoàn toàn làm chủ được nếu đặt hàng doanh
nghiệp trong nước. Tái cơ cấu nền kinh tế cần cơ chế đột phá chứ không phải giải pháp thông thường.
Nhấn mạnh trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, nhất là những tác động tiêu cực của
dịch Covid-19, đại biểu Trần Quốc Tuấn (đoàn Trà Vinh) cho rằng công tác dự báo là hết sức quan
trọng trong thực hiện tái cơ cấu kinh tế nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Theo đó, đại
biểu Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh cần dành sự quan tâm đặc biệt hơn nữa đến công tác dự báo, đánh
giá tình hình để đề ra hướng đi, chiến lược đúng, chủ động ứng phó được với những tác động tiêu
cực, các diễn biến phức tạp về kinh tế ở khu vực và trong nước cũng như chủ động, nắm bắt, tận dụng
được tốt các cơ hội cho phát triển…
Khẳng định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn, nhất là trong giai đoạn dịch
Covid-19 vừa qua, song đại biểu Chu Thị Hồng Thái (đoàn Lạng Sơn) băn khoăn khi một nước nông
nghiệp, sản xuất gạo gần như lớn nhất thế giới nhưng Việt Nam lOMoARcPSD|47206521
cũng là nước nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ cho sản xuất rất lớn. Dẫn số liệu thống kê của Tổng
cục Hải quan kỳ 1 tháng 10-2021, đại biểu Chu Thị Hồng Thái cho biết số tiền chi trả để nhập khẩu các
mặt hàng thức ăn chăn nuôi, thuốc trừ sâu, nguyên liệu phân bón đều tăng so với cùng kỳ năm 2020.
Đặc biệt, theo đại biểu, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã khiến doanh nghiệp, các hộ chăn nuôi gặp
nhiều khó khăn và thua lỗ...
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái đề nghị, kế hoạch tái cơ cấu lại nền kinh tế thời gian tới cần đưa mục tiêu
ngành nông nghiệp phải có giải pháp tự chủ về nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,
cùng với việc ứng dụng khoa học công nghệ để hỗ trợ người nông dân giảm chi phí sản xuất, nâng
cao chất lượng, giảm giá thành từ đó tăng khả năng cạnh tranh...
Buổi chiều, Quốc hội thảo luận trực tuyến về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025)./. Mạnh Hùng lOMoARcPSD|47206521
Tái cơ cấu nền kinh tế: Thách thức và cơ hội
(Chinhphu.vn) - Đến nay, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam đã đạt những kết
quả tích cực, song trước đại dịch COVID-19 và những diễn biến khó lường của tình
hình thế giới, vẫn còn rất nhiều việc phải làm, trong đó có việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế.
16/01/2021 06:45 Dấu ấn
Nhìn lại 05 năm qua, đã có nhiều dấu ấn tích cực trong tái cơ cấu nền kinh tế từ
thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài; đẩy mạnh công tác quy hoạch, cơ cấu lại ngành và vùng kinh tế, bước
đầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế; hình thành đồng bộ và thúc đẩy phát triển các loại thị trường. Hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được thúc đẩy; chuyển đổi số, các biện pháp cải
thiện môi trường kinh doanh đã phát huy tác dụng, tạo được niềm tin của nhà đầu tư... Nổi bật như:
Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỉ trọng đầu tư của Nhà
nước trong tổng vốn đầu tư xã hội. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tỉ trọng
này giảm dần từ 40,4% năm 2013 xuống 37,5% năm 2016, còn 33,3% năm 2018,
đạt 31,02% năm 2019, và 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt 33,5% để đảm bảo sự
can thiệp hợp lý của Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế bị tác động nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng bình quân giai đoạn 2016-2020 vẫn chiếm khoảng
33,8%, đạt mục tiêu đề ra.
Cổ phần hóa, thoái vốn đã được đẩy mạnh so với giai đoạn trước và được thực
hiện một cách công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, từng bước tách chức
năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tổng giá trị vốn chủ
sở hữu nhà nước được bảo toàn và phát triển, tỉ lệ DNNN có lãi tăng, một số
DNNN yếu kém đã trở lại hoạt động. Trong lOMoARcPSD|47206521
giai đoạn 2016 đến tháng 11/2020, đã có 178 doanh nghiệp được cấp có thẩm
quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị 443.503 tỷ đồng, trong đó
giá trị vốn nhà nước là 207.116 tỷ đồng; thoái 25.749 tỷ đồng, thu về 173.103 tỷ
đồng; tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt khoảng 217.300 tỷ đồng, gấp
2,8 lần tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn 2011-2015 (khoảng 78.000 tỷ).
Điều đáng mừng, các mục tiêu cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) đã cơ bản
hoàn thành. Các ngân hàng cơ bản đáp ứng tỉ lệ an toàn vốn theo quy định áp
dụng tiêu chuẩn Basel II tại Việt Nam. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong
hệ thống TCTD đã được xử lý cơ bản, tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng
được kiểm soát. Hệ thống TCTD đã được củng cố, nâng cao hơn năng lực quản
trị; xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất,
hiệu quả hơn lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch
nhiều hơn vào các ngành sản xuất. Theo đó, tính từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân
hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm đồng bộ 03 lần lãi suất để hỗ trợ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và nền kinh tế trước tác động tiêu cực của dịch COVID-19. So
với các nước trong khu vực, Việt Nam hiện là một trong những nước có mức giảm
lãi suất điều hành mạnh nhất và ở mức trung bình so với mặt bằng của các nước
có trình độ phát triển tương đồng. Thách thức
Mặc dù đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, việc triển khai cơ cấu lại nền kinh
tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 ở nước ta vẫn còn một số
hạn chế. Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng còn chậm. Tốc độ tăng năng suất
lao động nội ngành chưa cao; đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng
năng suất lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành chưa rõ nét, chưa
bền vững. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân
khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Chẳng hạn như, ngành
dệt may hiện chủ yếu tham gia vào các khâu gia công (CMT) chiếm đến 60% lOMoARcPSD|47206521
và chỉ khoảng 5% xuất khẩu theo phương thức ODM (thiết kế trên ý tưởng có sẵn,
sản xuất). Ngành điện tử hiện nay là ngành tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị
toàn cầu, tuy nhiên, ngành điện tử Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp FDI)
hiện đang đứng ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị là công đoạn lắp ráp và gia công sản phẩm.
Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh
phụ kiện nhập khẩu. Các ngành công nghiệp chủ đạo như dệt may, da giày, điện
tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu đồng thời phụ thuộc không nhỏ vào
một số thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan. Khu vực dịch vụ chưa
phát triển tương xứng với tiềm năng. Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước chậm; hiệu
quả sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chưa được
cải thiện đáng kể. Tiến độ, chất lượng xử lý nợ xấu, các TCTD yếu kém chưa theo
kịp yêu cầu. Khu vực tư nhân phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở
của nền kinh tế; mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm.
Mặt khác, còn có những tồn tại, bất cập trong không ít quy định hiện hành đang
gây khó khăn việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng. Thị trường các yếu tố sản xuất chậm phát triển, chưa là
cơ chế chính trong phân bổ nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất. Cải cách
thể chế và thực hiện các chương trình cơ cấu lại nền kinh tế chưa được tiến hành
một cách nhất quán, toàn diện, đủ rộng và đủ mạnh để chuyển sang kinh tế thị
trường đầy đủ, hiện đại và để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn. Cơ hội
Để đạt được các mục tiêu dự kiến đặt ra và khát vọng phát triển đất nước trong
thập kỷ tới, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai
đoạn 2021-2025 cần được đẩy nhanh hơn và thực sự bứt phá. Theo đó, muốn trở
thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia thu nhập cao
vào năm 2045, tốc độ tăng năng lOMoARcPSD|47206521
suất lao động ít nhất phải đạt 6,5% hàng năm, cao hơn so với kết quả đạt được
giai đoạn 2016-2020 là 5,8%. Mặt khác, trong tình hình đại dịch COVID-19 diễn
biến phức tạp, trên thế giới đã xuất hiện các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư,
thương mại, chuyển đổi số và sự thay đổi đổi nhanh chóng của các mô hình kinh
doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng…Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức
cho quá trình tái cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam.
Nhằm tiếp tục phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt Nam, hiện nay Chính phủ xác định:
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; phối hợp
chặt chẽ, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để kích
thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng. Theo đó, tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực công đi đôi
với phát triển đồng bộ các yếu tố, các loại thị trường. Khuyến khích đổi mới sáng
tạo, tận dụng khai thác cơ hội của công nghệ số. Xác định rõ ràng hơn các trọng
tâm, trọng điểm cơ cấu lại nền kinh tế theo ngành, vùng, nhóm địa phương để tận
dụng được lợi thế và tập trung nguồn lực, tạo đột phá ở một số lĩnh vực có tiềm
năng. Khắc phục sự thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp lý giữa các thành phần, các
địa bàn kinh tế; tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu và chủ động dần nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị. Nâng cao
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường nội lực, khả năng chống chịu với
những cú sốc bên ngoài...
Với việc Việt Nam là một trong số ít các quốc gia tăng trưởng dương, lọt TOP 10
quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm 2020, như Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa
phương “năm 2020 vẫn được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm
thành công nhất trong 5 năm vừa qua” vừa mới diễn ra. Đồng thời, Việt Nam được
nhiều tổ chức tài chính quốc tế cho rằng, thời gian qua đã tạo dựng được một nền
tảng quan trọng để bước vào năm 2021 với cơ hội, vận hội mới tốt đẹp hơn./. lOMoARcPSD|47206521 Lê Việt lOMoARcPSD|47206521
Cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam 5 năm tới:
Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là đột phá
Trong Kế hoạch tái cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm tới,
tăng trưởng sẽ dựa nhiều vào khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Hôm nay, Quốc hôịsẽ thảo luâṇ về dự kiến kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế và quy hoạch sử dụng đất quốc gia
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế đến 2025: Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được đặt ở vị trí nào?
Chiều 29-10, tiếp tục chương trình làm việc, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự kiến kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 còn một số hạn chế
Tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã điểm lại một số kết
quả của kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định: Kế hoạch cơ cấu lại nền
kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã được thực hiện và mang lại nhiều kết quả quan trọng, có
17/22 mục tiêu của Kế hoạch đã được hoàn thành, 5 nhóm nhiệm vụ đã được tập trung triển khai.
“Kết quả thực hiện Kế hoạch đã góp phần quan trọng trong đổi mới mô hình và cải thiện chất
lượng tăng trưởng, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nói.
Cụ thể, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,79% cao hơn
mức 4,27% giai đoạn 2011-2015; đóng góp của năng suất các yếu tố tổng lOMoARcPSD|47206521
hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt bình quân 45,42% cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra là 30-35%....
Tuy vậy, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc dù đạt được
những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-
2020 vẫn còn một số hạn chế như sau: Cơ cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm chưa hoàn thành theo mục tiêu đề ra.
Cùng với đó, hiệu quả đầu tư công chưa cao; giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn vướng mắc,
nhất là vốn ODA. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn chậm; hiệu
quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Việc xử lý các tổ chức
tín dụng yếu kém còn hạn chế.
Đặc biệt, thu ngân sách nhà nước chưa bền vững, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19. Việc
quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công còn bất cập; tình trạng chuyển giá, trốn thuế còn diễn ra
gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Nợ công còn tiềm ẩn rủi ro.
Ngoài ra, khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, khả năng cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động thấp. Hiệu ứng lan tỏa, tính liên kết của khu vực đầu tư nước
ngoài với khu vực trong nước chưa cao....
Bổ sung chỉ tiêu về phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo
Trước bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn
Chí Dũng cho biết, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn tới cần được thực hiện nhằm
đẩy nhanh quá trình phục hồi, tận dụng cơ hội và tạo đà bứt phá cho giai đoạn tới.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
đưa ra 6 nhóm mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Trong đó, ngoài một số chỉ tiêu lOMoARcPSD|47206521
cập nhật của kỳ kế hoạch trước, Kế hoạch này bổ sung các chỉ tiêu về phát triển các loại hình
thị trường, cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo.
"Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực hiện đồng
bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung ương với địa phương, là bước đi cần thiết để đổi
mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Cùng với đó, cơ cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện thực chất, hiệu quả hơn nữa trên cơ
sở củng cố và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành linh hoạt và phối hợp hài hòa, hiệu
quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, gắn với thực hiện 3
đột phá chiến lược và 6 nhiệm vụ trọng tâm theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Đặc biệt, lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá, lấy cơ cấu lại
không gian kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết đô thị - nông thôn
và vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn
làm nhiệm vụ trọng tâm.
Kế hoạch cũng đưa ra quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã
hội, bảo vệ và phục hồi môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cũng đề
nghị, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025 cần nghiên cứu, bổ sung làm rõ
nội hàm, các yếu tố cấu thành kinh tế số, làm cơ sở để xác định mục tiêu “Kinh tế số chiếm
20% GDP, tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%”. lOMoARcPSD|47206521
"Đây là một nội dung mới nên cần phải được cụ thể hóa đối với từng ngành, lĩnh vực nhằm
bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện", Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh nói.
Ngoài ra, Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh cũng nhấn mạnh đến việc cơ cấu lại nền kinh tế cần lấy
hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá; gắn kết tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm
quốc phòng, an ninh; bảo đảm đa số người dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển... THẢO NGUYÊN
Đầu tư đúng và đầy đủ cho nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế - xã hội
Thứ hai, 24/01/2022 14:30 (GMT+7)
(ĐCSVN) – Nguồn nhân lực được đánh giá và nhìn nhận là rất cần thiết cho việc
điều hành cũng như quản lý chương trình tổng thể phục hồi và phát triển kinh tế -
xã hội từ nay đến năm 2030, là năm Việt Nam mong muốn đạt được 17 mục tiêu
phát triển bền vững quốc gia.
Đại dịch COVID-19 kéo dài trong hai năm 2020-2021 đã ảnh hưởng sâu rộng và nặng nề đến toàn nền
kinh tế Việt Nam, nhất là các ngành sản xuất, hàng không, du lịch, dịch vụ, cũng như thị trường tiêu thụ
trong nước, đặc biệt là thị trường xuất khẩu... Do đó, để có thể trỗi dậy từ sự bùng phát của đợt dịch
thứ 4 và để tái phát triển kinh tế trong những năm tới, nền kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn, trung hạn
cũng như dài hạn cần khai thác, sử dụng và phát huy thêm các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
cần thiết cho việc điều hành và quản lý chương trình tổng thể phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội từ
nay đến năm 2030, là năm Việt Nam mong muốn đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. lOMoARcPSD|47206521
Nguồn nhân lực cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội (Ảnh: HNV)
Giáo dục và Đào tạo - hai con đường dẫn về một hướng
Đại dịch COVID-19 đã làm lộ ra nhiều yếu điểm của hệ thống nhận diện, đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực của Việt Nam, từ môi trường giáo dục trung học, đại học, đào tạo nghề, đến môi trường sản
xuất kinh doanh và điều hành quản lý các chương trình và dự án quốc gia. Việc học xong không đủ
kiến thức và trình độ đi làm vẫn là một vấn đề đặt ra. Con số sinh viên ra trường thất nghiệp hoặc
không tìm được việc làm đúng ngành học rất đáng báo động. Đã đến lúc cần gióng lên một hồi chuông
cảnh tỉnh để nhìn lại mô hình giáo dục và đào tạo nước nhà hiện nay. Đại dịch COVID-19 và nhu cầu
của thời đại 4.0 đòi hỏi một nguồn nhân lực mới, một mô hình đào tạo mới: học viên được qua đào tạo
phải được sử dụng ngay và được giao công việc phù hợp với chuyên môn học tập, phù hợp với nhu
cầu thị trường, sự phát triển của địa phương, hay của quốc gia và thế giới.
Ngay từ cấp trung học, đến cấp cao đẳng hay 4 năm đại học, cần phải hướng học sinh và sinh viên
theo hai kênh giáo dục và đào tạo có khác biệt rõ rệt. Giáo dục là hình thức hay mô hình giúp học viên
học tập, thu thập kiến thức, các kỹ năng, để có thể hoàn thiện, phát triển bản thân, đóng góp cho xã
hội, và góp phần tăng trưởng kinh tế. Hệ thống giáo dục có tính liên tục, chỉ có tính chất bắt buộc trong
những năm đầu đời của học sinh. Đến giai đoạn trưởng thành, sinh viên có thể tự học hoặc theo đuổi
môn học hay ngành nghề mong ước. Sinh viên có thể ra trường với kiến thức của nhiều ngành từ văn
chuơng, kinh doanh, đến các ngành nghiên cứu chuyên sâu như toán, công nghệ tự đông, trí tuệ nhân
tạo... Khi lớn tuổi hay gần đến tuổi về hưu, họ vẫn có thể học để thêm kiến thức hay thêm kinh nghiệm sống.
Trong thực tế, không phải tất cả các học sinh hay sinh viên đều có nhu cầu, đam mê, sở thích, hay khả
năng để theo đuổi và hoàn thành nhiều năm học trung học hay đại học. Cần phát hiện, nhận diện các
học sinh hay sinh viên này, đặc biệt những người trẻ khuyết tật hay khó khăn bẩm sinh và khuyến
khích họ theo học tại các trường cao đẳng, trường dạy nghề hay thậm chí các trung tâm đào tạo hay
thực tập chuyên ngành do doanh nghiệp, các tổ chức thiện nguyện tư nhân hay địa phương tổ chức.
Chính sách giáo dục đa dạng này dựa trên một nguyên tắc rất nhân văn đó là mọi người dù ở lứa tuổi
nào đều có quyền được hoàn thiện bản thân, mưu cầu hạnh phúc và trở thành những người có ích cho xã hội và cộng đồng.
Khởi nghiệp và khởi nghiệp lại - Tư duy mới, nhân lực mới
Ở Việt Nam, sinh viên mới ra trường hay người trẻ thường được khuyến khích khởi nghiệp, buôn bán,
kinh doanh. Điều này giúp con số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới nhảy vọt, lOMoARcPSD|47206521
tạo cảm giác kinh tế đất nước đi lên, khu vực tư nhân được tự do phát triển và con số thất nghiệp giảm
xuống rõ rệt. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu, khảo sát, đánh giá nào rõ ràng về việc thành công,
sự tồn tại hay tính bền vững của các doanh nghiệp khởi nghiệp này.
Thực tế, các sinh viên ra trường, nhất là những nguời trẻ thường thiếu tất cả các yếu tố cần thiết để
khởi nghiệp thành công và bền vững. Họ thường thiếu các ý tưởng kinh doanh được tính toán kỹ
lưỡng, các kế hoạch kinh doanh bài bản để có thể thuyết phục các nhà đầu tư thiên thần hỗ trợ, thiếu
vốn khởi nghiệp cần thiết, thiếu hiểu biết về nhu cầu của thị trường, chưa có đối tác hay khách hàng
tiềm năng, nhất là không có sản phẩm độc đáo hay khác lạ. Họ có thể đánh giá thấp sự khốc liệt của
các đối thủ cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm quản lý và điều hành doanh nghiệp trong giai đoạn khởi
nghiệp, phát triển và duy trì bền vững khi bị thử thách... Sự thiếu thốn một hay nhiều yếu tố quan trọng
để khởi nghiệp quan trọng này sẽ dẫn đến việc 95-97% các doanh nghiệp khởi nghiệp phải đóng cửa,
bị phá sản… kéo theo nhiều hệ lụy như nợ nần, mất vốn, thiếu tiền thuế, và nhất là mất đi niềm tự hào
và sự tự tin để tiếp tục kinh doanh trở lại trong tương lai.
Thiết nghĩ, để tránh tình trạng thất bại sớm, người trẻ hay sinh viên thiếu kinh nghiệm cùng những yếu
tố kinh doanh cần thiết nhất thiết phải đi tìm việc và làm trong các doanh nghiệp một thời gian từ 1 đến
3 năm để có được những kiến thức, kinh nghiệm quý báu, hay những bài học thành công hay thất bại
từ những người đi trước.
Trong thời đại 4.0 và chuyển đổi số hiện tại, doanh nghiệp cần phải khởi nghiệp hay khởi nghiệp lại.
Khởi nghiệp không phải chỉ là đăng ký dinh doanh mới mà là việc sáng tạo lại sản phẩm, điều chỉnh cơ
cấu và tiến trình kinh doanh, tìm thị trường và khách hàng mới… Đơn cử như: Công ty Kodak, thành
lập năm 1892 tại Hoa Kỳ, một thời làm mưa làm gió, đã bị khủng hoảng và gần như biến mất khỏi thị
truờng sau 130 năm kinh doanh máy và phim ảnh. Trong thời đại số, Kodak đã không theo kịp sự phát
triển hay chuyển đổi của công nghệ. Nói một cách khác, Kodak và rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ hay bị phá sản vì đã không chịu khởi nghiệp lại, không theo kịp sự thay đổi của công nghệ và thị
trường. Trong khi đó một công ty Hoa Kỳ khác, General Electric (GE), cũng thành lập năm 1892 đã đi
lên từ việc sản xuất những thiết bị gia dụng bình thường và trở thành một công ty hàng đầu thế giới về
năng lượng, sản xuất động cơ máy bay, máy tính công nghiệp, cung cấp tài chính...
Hơn nữa, trong thời đại công nghệ thông tin, chuyển đổi số, các công ty còn tồn tại, phát triển hay phát
triển bền vững đều đã tham gia vào việc tái đào tạo nguồn nhân lực và chiến lược chuyển đổi số.
Chẳng hạn như: Amazon từ một công ty bán sách trên mạng thành lập năm 1994 ở Hoa Kỳ đã trở
thành một trong bốn công ty công nghệ hàng đầu nước Mỹ với doanh thu gần 400 tỷ đô la năm vừa
qua. Chỉ trong 10 năm (2006 -2016) doanh thu của Amazon đã tăng hơn 2000 phần trăm, từ 17,5 tỷ
lên 356 tỷ USD. Các công ty nổi tiếng như Sears, JC Penney, Nordstrom, một thời lững lẫy, doanh thu đã sụt giảm từ 85-95%.
Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, các công ty, các tổ chức đa quốc gia trong gần như mọi
ngành nghề đã mạnh dạn đầu tư vào con người là nguồn nhân lực bất tận của doanh nghiệp và của
các tổ chức quốc gia và quốc tế. Cuộc cách mạng chuyển đổi số hiện tại đòi hỏi một nguồn nhân lực
mới, được tái đào tạo để có thể nâng cao trình độ điều hành và quản lý phù hợp với các thách thức
của thị trường và thế giới.
Việt Nam hiện có 98,5 triệu người và đó là một nguồn lực phong phú. Có lẽ, đã đến lúc phải có các
chính sách hay các đề xuất để khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực này nhằm góp phần giúp phát
triển kinh tế theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
ký từ đầu năm 2019. Cần thiết phải xem khai thác, sử dụng và phát huy nguồn nhân lực của nền kinh
tế là một nhân tố mới hướng tới một mong muốn, một mục tiêu chung là xây dựng nước Việt Nam
thịnh vượng và hùng cường. Có lẽ, không cần phải tìm kiếm đâu xa, chỉ cần đọc lại những gì đã được
khắc ghi trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khoa thi năm 1442 “Hiền tài
là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu rồi xuống thấp. Bởi thế các Đức Thánh đế minh vương ai cũng lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”./. lOMoARcPSD|47206521 GS. Hà Tôn Vinh
Giám đốc Chương trình Đào tạo Lãnh đạo, California Miramar University, Hoa Kỳ lOMoARcPSD|47206521 Phát
triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
t rong bối cảnh cuộc Cách mạng c ông nghiệp lần thứ tư PHẠM THỊ HẠNH Tạp chí Cộng sản 11:09, ngày 21-02-2020
TCCS - Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò
quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước
ta càng đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế hiện nay.
Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát nhanh, bền
vững đất nước_Ảnh: Vietnam+
Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Ông cha ta thường căn dặn: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng, con
người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler
nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất;
chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”(1).
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, khoa
học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu
là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và
sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực
khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên
nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức xứng tầm; lực
lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba. lOMoARcPSD|47206521
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây
chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao đều phải dựa trên ít
nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tức là những người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm,
năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những
quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư
và một môi trường chính trị - xã hội ổn định.
Quan điểm và thực trạng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong thời kỳ đổi mới
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan điểm
chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển,
coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm
này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”
(2). Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đầu tiên là công
việc đối với con người”
(3); “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”
(4)...
Tinh thần trên được phản ánh trong các bước phát triển về nhận thức, tư duy của Đảng
về con người, về phát triển nguồn nhân lực từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái
quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu
nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh
của chính bản thân dân tộc Việt Nam
. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ
quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”(5).
Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”(6), “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”(7). Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển
hướng từ nhận thức có tính chất lý luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người và nguồn
nhân lực đến coi phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong 3 khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020. lOMoARcPSD|47206521
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng
cao, thông qua quan điểm: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri
thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực
chủ yếu...”(8). Đại hội XII của Đảng cũng đưa ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn
nhân lực trong thời gian tới, đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó
tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”(9).
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chất
lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao
động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia. Tuy nhiên, nếu nghiêm khắc nhìn nhận thì những
thành tựu đạt được nêu trên so với nguồn lực đã đầu tư, công sức bỏ ra, với những điều
kiện, vận hội và thời cơ đem lại, nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc dù trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chính sách nhằm phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên, do tồn tại trong
một thời gian dài duy trì cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, nên sự thay đổi chính sách
vẫn chưa kịp thời. Hiện nay, còn không ít chính sách bất hợp lý và thiếu đồng bộ, gây cản
trở, chưa tạo điều kiện phát huy tốt nguồn nhân lực.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế không
thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, với
những con người có đủ “đức”, “tài”. Xét dưới góc độ nguồn nhân lực, có thể thấy, đội ngũ
cán bộ khoa học của nước ta so với các nước xung quanh còn có khoảng cách lớn không
dễ thu hẹp. Không ít chuyên gia đã chỉ rõ, nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng
còn thấp về nguồn nhân lực(10), sự bất cập của kết cấu hạ tầng, vật chất - kỹ thuật, thể chế
và năng lực quản lý nguồn nhân lực còn hẫng hụt về nhiều mặt.
Nhìn vào bức tranh tổng thể cho thấy, số lượng cán bộ khoa học đầu đàn, chuyên gia
trong các lĩnh vực còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong giai
đoạn mới. Những công trình khoa học có chất lượng cao, được Đảng, Nhà nước và xã
hội tôn vinh, ghi nhận còn ít. Ngoài ra, nhiều công trình các cấp được triển khai và nghiệm
thu nhưng tính ứng dụng - thực tiễn, chất lượng nhìn chung còn thấp.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng
tốt yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm còn thấp; khả năng quản lý, điều
hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hóa, biến chất, tham nhũng, buôn
lậu, nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công
việc; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, bộc lộ những yếu kém, bất
cập. Đảng ta đánh giá: “Đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cơ cấu
nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “Năng
lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái lOMoARcPSD|47206521
hóa, biến chất”... Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết là phải cải cách, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất vận hội, thời cơ đang
đến với đất nước. Nếu không nhanh chóng khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ
phải đối diện với những nguy cơ, những thách thức mới, sẽ kéo theo sự tụt hậu của đất
nước. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng chất lượng nguồn nhân
lực, mà hệ quả của nó là sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế; khó thoát khỏi “bẫy thu
nhập trung bình”; đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong thời gian tới

Để có thể khắc phục được tình trạng: “Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng,
tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình
độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng
suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực”;
“Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri
thức”; “chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng
với chuyển dịch cơ cấu sản xuất” như Đại hội XII của Đảng đã đánh giá, cần có một hệ
thống giải pháp đồng bộ, toàn diện hơn trong thời gian tới.
Thí sinh Đội tuyển Việt Nam tham dự Kỳ thi Tay nghề thế giới lần thứ 45 tổ chức tại thành phố
Kazan (Cộng hòa Tatarstan, thuộc Liên bang Nga)_Ảnh: gdnn.gov.vn
Thứ nhất, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao cần chú trọng gắn kết 3
khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Việc đào tạo phải dựa trên xu hướng, nhu cầu phát triển
của nền kinh tế Việt Nam, đúng địa chỉ sử dụng; tiếp cận cách làm hay của thế giới.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đạt được thành công trong chiến lược
phát triển của mình thì phải chú trọng đến vai trò quan trọng của yếu tố con người, nhất là
nhân tài, là nguồn lực tạo ra thế mạnh cạnh tranh. Do đó, việc thu hút người tài cần trở
thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi tổ chức. Tuy vậy, các tổ chức cũng phải đối mặt với
ba áp lực lớn, đó là: biến động về con người, biến động nguồn vốn và biến động trong tri
thức. Điều này khiến cho việc quản lý người tài trở nên khó khăn.
Thứ hai, để tăng cường quản lý nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, cần có các phương
pháp quản lý phù hợp. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến 2 nhóm yếu tố: yếu tố nguồn nhân
lực (gồm sự phù hợp giữa con người với tổ chức, lương và các khoản thu nhập, đào tạo
và phát triển chức nghiệp, các cơ hội thực hiện nhiệm vụ đầy thách thức) và yếu tố tổ
chức (hành vi của lãnh đạo, mối quan hệ trong tổ chức, văn hóa và các chính sách của tổ
chức, môi trường làm việc).
Cần có chính sách phù hợp về cơ chế lương, thưởng đặc biệt đối với nhân tài. Cần
nghiên cứu thành lập và sử dụng có hiệu quả nhất “Quỹ nhân tài” để lOMoARcPSD|47206521
khuyến khích nhân tài phát triển, cống hiến, sáng tạo, gắn bó, đồng hành cùng tổ chức.
Về lâu dài, cần có cơ chế, chính sách về nhà ở, các phương tiện, điều kiện làm việc tốt
nhất cho nhân tài công tác, cống hiến cho sự phát triển của tổ chức, của quốc gia.
Thứ ba, đối với đội ngũ trí thức, nhân tài, cần quán triệt sâu sắc quan điểm: “Thực hành
dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của
trí thức... Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức.
Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến;
có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(11); đồng thời, nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhân tài vì sự nghiệp chung.
Trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đòi hỏi phải đổi mới trên nhiều phương diện,
phải có một môi trường trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật được
coi làm chuẩn mực; tạo ra một môi trường văn hóa dẫn dắt sự phát triển nguồn nhân lực
.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế
tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan tâm tạo mọi
điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin... Nguồn nhân lực có
chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí và khát vọng, có lý
tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay./. ------------------------------
(1) Alvin Toffler: Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thông tin Lý
luận, Hà Nội, 1992, tr. 41
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 528 (3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 616 (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 622
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 93
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41. (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 130
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 90 (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 116
(10) Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP - Hà Nội , xuất bản tháng 9-
2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại
hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc - học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của
mình, (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu ở trong nước, vì chất lượng
giảng dạy chưa cao; nội dung ít và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều
thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất