
































Preview text:
Câu 1. Leonardo Davinci 
 Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp – Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), là 
cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống 
lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Thời kì này chính là bước ngoặt 
quan trọng của nền mỹ thuật toàn thế giới. Những tác phẩm tranh của thời kì này cho 
đến nay vẫn luôn được đánh giá là đỉnh cao của hội họa. 
 Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ 
thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực 
như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối 
cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… và cũng là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, 
nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới như: Giotto di Bondone, 
Leonardo Da Vinci, Raphael Santi (1483 – 1520), Hoạ sĩ Botticel i 1445-1510,...Trong 
đó, danh họa người Italia- Leonardo Da Vinci được coi là thiên tài toàn năng nhất lịch 
sử nhân loại, bởi ông không chỉ được biết đến với vai trò là một họa sĩ, mà còn là một 
nhà phát minh, y học, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà giải phẫu và còn là nhà triết học  đại tài. 
1.1 khái quát về thời kì Phục hưng: 
- Phong trào Phục Hưng bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó 
đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, 
cũng như từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ tư bản.Đặc tính cơ bản của thời kỳ này là 
sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh 
thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng 
thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm 
điêu khắc, triết học,…và hơn cả đó là hội hoạ). 
- Nét độc đáo trong hội họa Phục hưng : Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng 
nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang 
khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp – La mã. 
Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da 
mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc 
liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, 
ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần… 
 1.2.Tác giả Leonardo Davinci 
- Leonardo da Vinci sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại Vinci, Cộng hòa Florence, Ý và 
mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp. Cho đến tận ngày nay, ông vẫn được 
công nhận là một trong những nhà hội họa đại tài, có ảnh hưởng nhất lịch sử. Ngay từ 
nhỏ, Leonardo da Vinci đã có biểu hiện thiên tài. 
 Đôi nét về cuộc đời 
 Ông là con ngoài giá thú của một phụ nữ quý tộc và nông dân Florentine,bởi vậy, ông 
không được đi học theo kiểu chính quy truyền thống khi còn nhỏ. Suốt giai đoạn trưởng 
thành, ông đã phát triển tình yêu thiên nhiên và bắt đầu bộc lộ tài năng học tập và nghệ 
thuật đáng nể của mình ngay từ khi còn nhỏ. Năm 1466, ông chuyển đến Florence và 
vào làm tại xưởng vẽ của nghệ nhân Verrocchio. Ban đầu, phong cách sáng tạo của Da 
Vinci khá giống người thầy của mình nhưng dần dần ông sớm phát triển một phong 
cách nghệ thuật mới và vượt xa phong cách cứng nhắc cũ đó. Tác phẩm nghệ thuật 
đầu tay có ý nghĩa của ông là “Sự tôn thờ của các đạo sĩ” do các tu sĩ của San Donato 
a Scopeto ủy quyền. Mặc dù chưa hoàn thành nhưng đây là một kiệt tác lớn và khơi gợi 
nhiều ý tưởng mới. Đặc biệt, ông đã đưa ra các chủ đề về chuyển động và kịch. Ông 
cũng đi tiên phong trong việc sử dụng Chiaroscuro – đây là kỹ thuật xác định các hình 
thức thông qua sự tương phản của ánh sáng và bóng tối. Kỹ thuật này sau đó đã được 
sử dụng để tạo hiệu ứng tuyệt vời trong bức phẩm Mona Lisa. 
 Đôi nét về sự nghiệp LD: 
- Năm 1478, ở tuổi 25, Leonardo rời khỏi xưởng của người thầy để bắt đâfu 1 họa sĩ  độc lập. 
- Năm 1482, ô chuyển đến Milan và phục vụ dưới trướng Ludovico Sforza- công tước 
của Milan. Tại đây, ông ko chỉ vẽ tranh, điêu khắc, thiết kế các bữa tiệc cung đình mà 
còn thiết kế, chế tạo vũ khí, máy móc. Ông đã dành 17 năm làm việc tạo đây cho tới khi 
Ludovico bị mất quyền lực vào năm 1499. 
- Trong 16 năm tiếp theo, LV đã đi khắp nước Ý để làm việc cho những người bảo trợ 
khác nhau. Khaongr năm 1503, ông được cho là đã bắt đầu công việc vẽ “ Mona Lisa”. 
- Từ năm 1513 đến năm 1516, L làm việc tại Rome, duy trì 1 xưởng và thực hiện nhiều  dự án cho Giáo hoàng. 
- Năm 1516, LV rời nước Ý để đến Pháp khi vua Pháp lúc bấy h là Francis I rất ngưỡng 
mộ và phong tặng ông danh hiệu “ Họa sĩ, kiến trúc sư và kĩ sư hàng đầu của nhà vua” 
- Năm 1519, LV qua đời sau 1 cơn đột quỵ ở tuổi 67. Ông dc chôn cất gần đó trong nhà 
thờ của cung điện Saint- Florentin. 
 LV là một thiên tài kiệt xuất trong nhiều lĩnh vực: 
 Không chỉ ở hội họa, LV còn bộc lộ tài năng trên nhiều lĩnh vực khác:toán học, kiến 
trúc, điêu khắc, giải phẫu... 
- Toán học: Ô bị ám ảnh bởi hình học, Leonardo thực hiện nhiều phép đo trong tự nhiên, tìm 
kiếm mối liên hệ và mô hình, sau đó diễn đạt thông qua toán học. Ông đặc biệt hứng thú với tỷ lệ  cơ thể người. 
- Kĩ sư và kiến trúc sư: Một vài năm sau khi hoàn thành Gran Cavallo, Leonardo đã ký thỏa 
thuận với Cesare Borgia, thường được gọi là Công tước Valentinois, Hoàng tử của Andria và 
Venafri, Bá tước Diois, Lãnh chúa Piombino, Camerino, Urbino, Gonfalonier, là một tướng lĩnh 
quân sự của Giáo hội Cơ Đốc La Mã, tướng đánh thuê Ý. Leonardo có 10 năm đảm nhiệm chức 
vụ kiến trúc sư và kỹ sư quân đội. Bởi vậy, ông có cơ hội đặt chân tới các thuộc địa của Borgia. 
Ông cũng đã xây dựng rất nhiều kế hoạch và bản đồ địa hình cho thành phố, điểm đặc biệt là 
những tấm bản đồ này đều đi trước thời đại rất nhiều. 
- Phát minh: Rất nhiều phát minh hiện đại lấy cảm hứng từ ý tưởng của Leonardo, bao gồm dù, 
máy mài gương, kéo, cầu di động, khóa mitre (dùng ở các kênh đào) và bộ truyền động lò xo 
(chủ yếu dùng trong đồ chơi). Ông có thể được công nhận nhiều nhất trong lĩnh vực bay, rất lâu 
trước khi cỗ máy bay được đầu tiên trở thành hiện thực. 
- Giải phẫu: Leonardo ghi chép nghiên cứu về giải phẫu người qua hình vẽ và ghi chú đi kèm, hé 
lộ những chi tiết chưa bao giờ được mô tả trước đây 
1.3 Các tác phẩm hội họa tiêu biểu : 
 Bức bích họa “ Bữa ăn tối cuối cùng” của Leonardo da Vinci. 
 Bữa ăn tối cuối cùng được Leonardo da Vinci vẽ trong khoảng thời gian 1495 - 1498 cho tu 
viện Santa Maria delle Grazie ở Milan. Bức bích họa mô tả cảnh Chúa Giê-su thông báo rằng 
một trong những tông đồ ngồi đây sẽ phản bội ngài. Mặc dù đã có rất nhiều họa sĩ thể hiện chủ 
đề này nhưng tác phẩm của họa sĩ Leonardo vẫn được đánh giá nồi bật hơn cả bởi khả năng thể 
hiện biêu cảm phi thường của các nhân vật trong tranh. Một điều thú vị nữa là, khuôn mặt mà 
Leonardo tham khảo đề về Chúa và Judas (kẻ phản Chúa) lại đến từ cùng một người. Ngoài ra, 
thay vì vẽ trên thạch cao ướt theo truyền thống cho hầu hết các bức bích họa Leonardo đã chọn 
vẽ lên bức tường khô đề đạt được độ chỉ tiết hơn trong tác phâm của mình.  Monalisa 
 Đây được xem là bức tranh nôi tiếng nhất qua mọi thời đại. Mona Lisa được danh họa 
Leonardo da Vinci hoàn thành trong khoảng thời gian 1503 - 1519. còn được gọi là La 
Gioconda, được cho là bức chân dung của Lisa Gherardini; vợ của một thương gia Florentine tên 
là Francesco del Gioconda. Bức chân dung bán thân đầy sáng tạo cho thấy người phụ nữ ngồi 
trên ghế với một tay đặt trên ghế và một tay đặt trên cánh tay. Việc sử dụng sfumatocreates một 
cảm giác êm ái mềm mại; mà phát ra từ cô ấy, và ảnh hưởng đến cảnh quan nền với một chủ 
nghĩa hiện thực sâu sắc. Chiaroscuro tạo ra một chiều sâu sâu sắc trong phần này; giúp mắt di 
chuyển qua bức tranh. Nhưng đó là nụ cười bí ẩn của cô, từ từ hóa người xem, cùng với những bí 
ẩn về những gì đằng sau nụ cười nổi tiếng đó. 
 Tác phẩm này là một trong những tác phẩm mang tính biểu tượng nhất của Leonardo vì 
nhiều lý do. Các bức chân dung trước tập trung vào việc trình bày bề ngoài của người; tính cách 
của chủ thể chỉ được gợi ý qua các vật thể, quần áo hoặc cử chỉ tượng trưng. Tuy nhiên, trong 
bức tranh này, ước muốn của Leonardo là thu hút nhiều hơn. 
 Leonardo da Vinci muốn thể hiện một cái gì đó của linh hồn, mà ông đã thực hiện với sự 
nhấn mạnh lớn lao của mình vào nụ cười kỳ lạ độc đáo của cô. Cô ấy không đơn giản mỉm cười 
với nghệ sĩ; cô ấy bị bắt trong một khoảnh khắc đặc biệt của cảm giác. Người xem bị bỏ lại để tự 
hỏi cô đang nghĩ gì; nụ cười có thể có ý nghĩa gì và cô là ai. Sự mơ hồ của biểu hiện mời gọi 
chúng ta tham gia với tác phẩm ở cấp độ cá nhân khi chúng ta cộng hưởng với sự mô tả rất nhân 
văn về việc bị bắt giữa cảm xúc. 
 Nụ cười bí ân cùng danh tính thật sự của người phụ nữ trong tranh đến nay vẫn là một bí ần 
đồi với cả nhân loại. Trong suốt 5 thế kỷ, người ta vẫn tranh cãi rằng liệu cô ấy có đang thực sự 
mim cười hay không, cô ấy đang vui hay đang buồn. Với sự phát triển của chương trình máy tính 
"nhận dạng cảm xúc" vào năm 2005 bởi các nhà nghiên cứu Hà Lan, nụ cười của Mona Lisa 
được tiết lộ là 83% vui vẻ, 9% ghê tởm, 6% sợ hãi, 2% tức giận, ít hơn 1% trung lập và 0% ngạc  nhiên. 
 -Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về Chúa và thần thoại cũng được Leonardo 
thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức Mẹ Litta, Leda… Từ năm 1500 – 
1516 Leonardo dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tác một bộ Bách 
khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”. Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời. 
KẾT LUẬN : Có thể nói tài năng phi thường của Leonardo da Vinci cho đền nay vẫn chưa 
ai có thể sánh nồi. Những ý tưởng, phát minh cách đây 5 thể kỷ của ông vẫn khiến nhân loại phải 
sửng sốt, thán phục. Còn những bí ân trong những tác phẩm hội họa của ông có lẽ sẽ mãi là 
những bí ân không có lời giải.    Câu 2: Paul Gauguin 
Hậu Ấn tượng thực chất không phải một trường phái nghệ thuật chính thống. Nó là tên gọi 
chung của một nhóm nhỏ họa sĩ độc lập với mong muốn khắc phục những điểm hạn chế của 
trường phái Ấn tượng vào cuối thế kỷ 19. Họ hình thành nhiều phong cách hội họa mới, tập 
trung vào yếu tố cảm xúc, kết cấu cùng tôn giáo còn thiếu sót trong Trường phái Ấn tượng. 
Những tìm tòi của nghệ sĩ Hậu Ấn tượng là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của hội họa đương 
đại sau này. Hàng loạt những gương mặt nổi bật của trường phái Ấn tượng như Vincent Van 
Gogh, Paul Cézanne, Paul Gauguin và Georges Seurat đã phá bỏ mọi rào cản để tự do sáng tạo, 
qua đó đặt nền móng cho hội họa thế kỉ 20. 
Vài nét về chủ nghĩa Hậu Ấn tượng: 
Trường phái Ấn tượng là phong trào mở đường cho hội họa đương đại. Trường phái Hậu Ấn tượng bắt 
đầu từ Châu Âu từ cuối thế kỉ 19. Hậu ấn tượng là tên gọi chung đề chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ 
sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những quan 
niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi 
theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung 
là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Rogcr Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul 
Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối Tập khuôn theo chủ nghĩa 
ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, 
màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm 
mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ân tượng mà họ cùng tham gia trước đó. 
Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Paul Guiguin 
Paul Gauguin (1848 - 1903), tên đầy đủ Eugène Henri Paul Gauguin sinh ra tại Paris (Pháp) trong một gia 
đình công chức. Thân phụ của Gauguin là một nhà báo gốc Orleans và mẹ là người Peru. khi chỉ mới 18 
tháng tuổi ông cùng mẹ mình đã đến Peru sau những biến động của thời kỳ cách mạng châu Âu và sự ra 
đi đột ngột của cha mình. Khi lên 6 tuổi Paul Gauguin bắt đầu nhận được sự nuôi dạy đặc quyền tại Peru 
nhờ người chú làm tổng thống Peru của mình. Tại đây ông đã thấm nhuần những hình ảnh của cuộc 
sống sôi động Nam Mỹ, những hình ảnh ấn tượng này đã theo ông suốt đời và ảnh hưởng đến phong 
cách vẽ tranh của ông sau này. 
 Cuộc đời của Paul Gauguin trải qua không biết bao thăng trầm. Mới 15 tuổi (năm 1863), Gauguin đã 
gia nhập ngành hàng hải. Ông từng là thuyền phó; là một hải quân; từng đi vòng quanh thế giới; từng là 
nhà môi giới chứng khoán khá thành công ở Paris và cũng từng thử buôn bán quần áo… “Tất cả lỗi là ở 
trật tự xã hội. Tôi phải tiếp tục sống để làm tròn bổn phận của mình” - Gauguin suy nghĩ. Đồng thời ông 
xác định: “Toàn bộ sự hiện tồn của tôi là: Tôi đứng trên mặt bờ vực mà không rơi xuống đó”. 
 Đối với hội họa, ban đầu Paul Gauguin đến với bộ môn nghệ thuật này như một người “ngoại đạo”. 
Năm 1870, Paul Gauguin bắt đầu vẽ những bức tranh đầu tiên. Ông vẽ sau những giờ làm việc căng 
thẳng ở nhà băng. Năm 1874, Gauguin đi xem cuộc triển lãm đầu tiên của Trường phái Ấn tượng và thực 
hiện việc sưu tập tranh của các họa sĩ thuộc trường phái này. Cùng thời gian trên, Gauguin đăng ký học 
vẽ tại Viện Hàn lâm Colarossi và tham gia những cuộc triển lãm với nhóm Ấn Tượng. Năm 1883 là năm 
đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với cuộc đời, sự nghiệp của Paul Gauguin. Đó là việc ông quyết 
định từ bỏ công việc kinh doanh để trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ngay sau đó Gauguin 
đã phải “nếm mùi” cay đắng. Toàn bộ những bức tranh của Gauguin không bán được bức nào. Trong 
khó khăn, Gauguin buộc lòng phải bán những tác phẩm của các họa sĩ Ấn Tượng mà ông từng bao năm 
sưu tập. Năm 1886, sau cuộc triển lãm cuối cùng của các họa sĩ Trường phái Ấn Tượng, Paul Gauguin 
đến sống và vẽ như “một người hoang dã” ở Bretagne - Pont-Aven. Tại đây, ông đã vẽ những bức tranh 
với những “ý tưởng lạ lùng”. Ông trăn trở: “Tôi cảm thấy mình đúng trong nghệ thuật, song liệu tôi có đủ 
sức thể hiện điều đó bằng một phương cách dứt khoát hay không”. Đây cũng là thời điểm mà Gauguin 
hoàn toàn đoạn tuyệt với Trường phái Ân Tượng. 
- Năm 1888, cùng với họa sĩ Bernard, Paul Gauguin đã sáng lập ra một truờng phái hội họa mới mang tên 
Tượng Trưng (Symbolism). Nếu như các họa sĩ tiền Ấn Tượng thường lệ thuộc vào tự nhiên, còn các họa 
sĩ hậu Ấn Tượng thường quá chú trọng đến yếu tố khoa học thì Gauguin lại quan tâm đến phương pháp 
Tổng hợp và Tượng Trưng. Ông thường sử dụng đường nét, màu sắc có vẻ trái tự nhiên để đạt được 
hiệu quả cảm xúc mãnh liệt. Theo Gauguin hình thể trong tranh ông được tạo từ những mẫu hình về 
màu sắc, đường nét hài hòa, nhịp nhàng. Nghĩa là, cho dù đường nét trong tranh của ông bị “bẻ cong”, 
màu sắc không giống tự nhiên, nhưng lại có ý nghĩa gợi lên hình ảnh hay ý tưởng chứ không phải chỉ để 
ghi nhận kinh nghiệm thị giác. Đáng lưu ý, Paul Gauguin là một trong những danh họa đầu tiên quan tâm 
nghiên cứu, học hỏi, vận dụng lối vẽ của nghệ thuật nguyên thủy, các bộ tộc cổ xưa và tranh khắc gỗ 
truyền thống Nhật Bản. 
Đặc điểm trong tranh Gauguin: 
- Ông thích hội hoạ Án tượng nhưng cho răng nó còn nông cạn, chưa đề cập tới bí ân của tình cảm và 
tâm hỏn. Ông giữ màu sắc theo kiểu An tượng và nghiên cửu sâu thêm.Ông đi vào chiều sâu, Vẻ huyền 
bí biểu cảm của màu sắc. 
- Ông cho rằng những bức tranh châu Âu truyền thống đã trở lên quá định hình và thiếu đi độ sâu tượng 
trưng, ngược lại nghệ thuật châu Á và châu Phi lại là những biểu tượng tràn đầy sức sống và sự mê hoặc 
đặc biệt là văn hóa Nhật Bản. Điều này đã ảnh hưởng đến phong cách vẽ tranh của ông khi các bức tranh 
đều có những vùng màu sắc và viền đậm nét hơn, thể hiện rõ nét hơn bản chất của các vật thể trong  tranh của mình. 
- Khác hẳn với phái Ấn Tượng, tranh của Gauguin giai đoạn này thường sử dụng những mảng màu 
phẳng, nguyên tươi, rực rỡ đầy chất tượng trưng và biểu cảm. Điển hình trong số này là bức tranh “Ảo 
ảnh sau bài thuyết giảng”. 
 - Gauguin muốn làm cho nghệ thuật “trẻ” lại , muồn trở vẻ lói sống nguyên sơ đưa nghệ thuật về cội  nguồn cảm xúc. 
- Tranh của ông là những mảng màu phẳng tương phản mạnh mẽ, ông muốn gợi ra cái đẹp huyền bí ân  sau phong cảnh thực tại 
- Gauguin đi sâu khai thác độ sâu sắc, sự biểu hiện của mầu sắc. Tranh ông mang nhiều chất trang trí. 
Chủ yêu là nghệ thuật sắp xếp các mảng hình màu chặt chẽ hợp lí vả biểu hiện. Ông thích dùng màu 
tương phản mạnh; hình thể giản lước, đơn giản, khoẻ khoắn. 
 - Ông đạt tới lỏi vẽ thiên về trang trí, mang tính tượng trưng và biểu hiện cao độ.Tính tư tưởng trong 
tranh ông ần sâu sau các hình tượng nhân vật, sau vẻ lộng lẫy của màu sau mà người xem tự cảm nhận 
chứ không thể nhìn bằng mặt. 
Các tác phẩm tiêu biểu: Chúng ta từ đaau tới? Chúng ta là ai ? Chúng ta đi đâu? “, “ Gần bờ biển”, Le 
Sorcier d'Hiva Oa, Bức tranh Night Café at Arles , Khi nào em lấy chồng, Te Reroia 
- Khi nào em lấy chồng của Paul Gauguin giá 300 tr USD 
Bức tranh When wil you marry? được Paul Gauguin vẽ năm 1892. Năm 1891, Gauguin đến Tahiti (một 
hòn đảo thuộc Pháp) với hy vọng tìm thấy một thiên đường, nơi ông có thể tạo ra thứ nghệ thuật tinh 
khiết, nguyên thủy. Tuy nhiên, khi đến nơi, Tahiti đã khiến ông vỡ mộng. Nơi đây đã bị chiếm làm thuộc 
địa trong thế kỷ 18, hai phần ba người dân bản địa bị chết bởi bệnh tật, điều quan trọng là văn hóa 
"nguyên thủy" đã bị xóa sổ. Tuy vậy, Paul Gauguin vẫn vẽ nhiều tranh về phụ nữ bản xứ, có bức là tranh 
khỏa thân, có bức mặc trang phục truyền thống bản xứ... 
- When wil you marry? được vẽ với chất liệu sơn dầu. Phía trước và mặt đất được tạo thành bởi các 
mảng màu xanh lá cây, màu vàng và màu xanh dương. Ở vị trí trung tâm, một cô gái trẻ mặc trang phục 
truyền thống với áo trắng, cài hoa trên tai biểu thị cho việc sẵn sàng kết hôn. Sau cô là một cô gái mặc 
trang phục kín đáo, cử chỉ bàn tay giống một Phật tử đang ra hiệu. 
- Bức Te Reroia của Paul Gauguin, 1 năm trc khi ông mất 
Tranh mang một vẻ buồn ủ ê qua cách thể hiện ánh sáng lạ thường và màu sắc trầm buồn. Cảnh trí bên 
ngoài cửa hiện ra như một bức tranh trên tường và ta nhận ra nhờ màu sắc bên ngoài sáng hơn. Hai 
người phụ nữ ngồi đơn giản, như tượng, họ có ánh mắt đăm chiêu, khó hiểu. Nét tượng trưng gợi lên 
thế giới mơ mộng như tựa tranh muốn nhắn gửi. (thông điệp như bức của Van Gohg Hà lan) 
- ‘The Yellow Christ’ là một trong những tác phẩm Hậu Ấn tượng tiêu biểu của Gauguin. Xuất hiện trong 
tranh là khung cảnh những người phụ nữ Brento truyền thống đang cầu nguyện bên đường. Một số nhà 
phê bình cho rằng bức tranh là tiền thân của chủ nghĩa biểu tượng, đồng thời là nỗ lực của tác giả để thu 
hút sự chú ý của dân chúng về những vấn đề tôn giáo nhức nhối đang diễn ra lúc bấy giờ. Được truyền 
cảm hứng từ hình ảnh cây thánh giá bằng gỗ tại một nhà thờ vùng Tremalo, Gauguin đã đưa nó vào như 
chủ thể của bức họa. Ngoài ra, ông còn sử dụng kỹ thuật tối giản hóa, kết hợp các nét vẽ đậm cùng 
những gam màu táo bạo nhằm đạt tối đa hiệu quả biểu cảm. 
 Thông qua các tác phẩm hội họa thuộc hai giai đoạn trên, Gauguin đã chứng minh năng lực biểu cảm 
tiềm ẩn của sắc màu, là tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Dã thú. 
Câu 3: Picasso 
- Khi nhắc đến nghệ thuật hiện đại, nếu Claude Monet với bảng màu sống động tiêu biểu là tác 
phẩm Impression, Sunrise nổi bật ở trường phái Ấn tượng (Impressionism), Paul Gauguin hay 
Vincent van Gogh với những phong cách độc đáo thể hiện sự quan tâm đến cảm xúc qua các 
tác phẩm thời kì chủ nghĩa Hậu ấn tượng ... thì ở trường phái lập thể, ngta phải nhắc ngay đến 
Picasso- cha đẻ của những bức tranh xoay, tác phẩm điêu khắc đa chiều và ảnh cắt dán tiên 
tiến, Được đặc trưng bởi các yếu tố phá cách, đứt gãy. Chủ nghĩa Lập thể đánh dấu sự chuyển 
hướng của nghệ thuật hiện đại sang trừu tượng. 
Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của họa sĩ, nhà điêu khắc Picasso:  
- Pablo Ruiz Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4 năm 1973, tại Málaga, miền 
nam Tây Ban Nha. thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc 
người Tây Ban Nha. Picasso được coi là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng 
với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc. Ông là một 
trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The  Times, Anh, công bố. 
- Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể 
lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây 
Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, 
ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công 
nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha  mình. 
- Thừa hưởng “zen hội hoạ” của thân phụ- một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông 
José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ 
tạo hình của Barcelona. Ngay từ niên thiếu, Picasso đã tỏ ra là một “thần đồng mỹ thuật”. Mới 3-4 tuổi 
Picasso đã biết vẽ và 5 tuổi đã vẽ khá nhiều tranh với một trí tưởng tượng kỳ lạ. Khoảng 7 tuổi Pablo đã 
được thân phụ dạy học môn hình hoạ. 
- Năm 1895, mới 14 tuổi, Picasso đã thi đậu và Trường Cao đẳng Mỹ thuật Barcelona với kết quả điểm 
ưu. Thậm chí từng có giai thoại rằng: Thời gian của bài thi là 1 tháng nhưng Picasso chỉ làm trong 1 ngày. 
- Mới học năm thứ nhất, Picasso đã tham gia Triển lãm Mỹ thuật thủ đô Madrid. Tại triển lãm, tác 
phẩm “Khoa học và lòng nhân ái” (Science and Charity) của chàng hoạ sĩ trẻ Picasso đã được trao bằng 
danh dự. Sau đó, tại Triển lãm Mỹ thuật Malaga, tác phẩm trên đã đoạt Huy chương vàng. “Sự kiện” này 
đã làm cho Pablo Picasso nổi tiếng khắp Tây Ban Nha. 
- Một năm sau (1897), Picasso trở thành sinh viên Học viện Hoàng gia Fernando. Tuy vậy, lối đào 
tạo kinh viện của Học viện Hoàng gia không làm hấp dẫn chàng sinh viên Picasso bằng “Âm vang 
Mỹ thuật” từ Paris (Pháp) – “Kinh đô” của nghệ thuật. 
- Tháng 10/1899, Picasso sang Pháp và năm 1904, ông chính thức sống, sáng tác tại đây. Cũng 
chính tại Paris, tài năng của Picasso ngày càng phát triển và lan toả khắp thế giới. 
- Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi 
các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp 
nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ 
Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân 
tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919). 
- Giai đoạn đầu đến với hội họa , cũng như nhiều họa sĩ khác, Picasso có cách thể hiện rất gần 
với cảm nhận thị giác thực tế mặc dù tiềm ẩn những sáng tạo mới mẻ. Trước khi tìm ra hội họa 
Lập thể, ông đã thử nghiệm sáng tác qua rất nhiều trường phái khác nhau, bao gồm cả Hiện 
thực, đến thời kỳ lam, thời kì hồng và sau đó bị quyến rũ bởi các tác phẩm của Henri Matisse và 
Henri “Le Douanier” Rousseau. 
  + Trước 1901: Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu 
này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã 
hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn 
tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "không nghi ngờ gì nữa, đây là 
một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha". 
  + Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa 
tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và  tím không tự nhiên. 
 + Thời kỳ Xanh (1901–1904) The soup (Picasso 1902) các tác phẩm của Picasso có tông 
màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. 
 + Thời kỳ Hồng (1905–1907): Các tác phẩm mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều 
màu cam và hồng. Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các 
họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối 
quan hệ nồng ấm giữa hai người. Tiêu biểu như bức tranh màu phấn Autoportrait à la palette 
(Bức tự họa với bảng màu), mùa thu năm 1906 
 + Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909) bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô 
nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông 
cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản 
hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó. 
 + Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) Bức: Nhạc sĩ phong cầm, (The Accordionist) - 
Picasso 1911 sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được tách 
thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ phận này. 
 + Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919) Bức: Ly rượu absinthe (Absinthe Glass) - 
Picasso 1914 có sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán 
bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật. 
 + Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực Guernica (Picasso -1937)Sau Chiến tranh thế giới thứ 
nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một 
trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì 
này. mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha. 
 + Giai đoạn sau: Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triểm lãm điêu khắc 
quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.Trong thập 
niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa 
trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet,  Courbet và Delacroix. 
 - Picasso Bị ảnh hưởng từ phong cách của họ như cách vẽ đơn giản, không lệ thuộc vào 
hiện thực và hình họa cổ điển cũng như những cảm hứng thu được từ điêu khắc vùng Iberia, 
điêu khắc châu Phi và tác phẩm của Gauguin được Picasso dung hòa trở thành tài liệu sơ khai  cho hội họa Lập thể 
 -Trong số các chủ đề của tác phẩm từ danh họa người Tây Ban Nha, chúng ta có thể thấy 
nổi lên hình ảnh những người phụ nữ đã đi qua đời ông. Các tác phẩm Lập thể về phụ nữ của 
Picasso luôn có một nét riêng hết sức đặc biệt. Chúng luôn có nét gì đó phức tạp, méo mó và 
thậm chí có phần đáng sợ – đúng theo tinh thần muốn phản ánh tình cảm đầy mâu thuẫn của 
Picasso dành cho mỗi một đối tượng miêu tả nói riêng và phụ nữ nói chung; rằng ông sợ hãi 
phụ nữ trước tác động của sức ảnh hưởng về tinh thần, về cá tính mạnh mẽ của họ đối với ông 
theo một số nhà nghiên cứu về cuộc đời danh họa này. 
Các tác phẩm tiêu biểu: "Nude in a black armchair", “Les Demoiselles d’Avignon” 
-Tác phẩm “Chân dung bà Gertrude Stein”: Sự khác thường nổi bật ở cách thể hiện gương mặt 
nhân vật như một chiếc mặt nạ, với các mảng màu nhấn mạnh sắc nét, cố ý bộc lộ hình khối  thật rõ ràng. 
- “Những cô gái Avignon”: lần đầu tiên Picassso xử lí hình khối theo lối phân tích chúng thành 
nhiều diện thô, mạnh và không theo bất cứ góc nhìn thông thường nào. Cảm nhận rõ nhất về 
quan niệm Lập thể của Picasso vẫn là từ nét mặt các cô gái trong tranh, những khuôn mặt méo 
mó biến dạng khó xác định đang hướng về phía nào. Đồng thời phương thức tạo hình nhân vật 
cho thấy rất rõ ảnh hưởng của nghệ thuật châu Phi. 
- “Guernica”: không từ bỏ thiên hướng xã hội trong sáng tác của mình với sự thể hiện gai góc, 
dữ dội với các vấn đề nóng bỏng trong đời sống xã hội như chiến tranh, thân phận con người, 
tác phẩm toát lên không khí kinh hoàng của các mảng sáng chói chồng chéo, phân chia tàn bạo 
bằng những nét cắt nổi bật trên nền tối sẫm cùng những hình ảnh đáng sợ và dị quái như cái 
đầu bò, hình người vặn xéo nát vụn , chân tay giày xéo lẫn nhau đầy gân guốc. 
  Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của 
ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu 
tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không để 
lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được 
trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho 
khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso  Málaga. 
Câu 4: Các trường phái nghệ thuật: 
Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ 
thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng các tác 
phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ 
“trường phái” dùng để chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung 
những kỹ thuật và phương pháp thể hiện. Vậy có bao nhiêu trường phái hội họa trên thế giới? 
Trường phái nào có sức ảnh hưởng lớn nhất ? Ai đã lập ra các trường phái ấy?...Có lẽ sẽ không 
có câu trả lời nào hoàn toàn chính xác cả, nhưng chúng ta đều có thể công nhận sự đóng góp 
của các trường phái đó đối với hội họa thế giới là vô cùng to lớn, nổi bật là các trường phái hội 
họa châu Âu như:“Trừu tượng” “Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là các trường phái lớn (bắt nguồn từ 
Châu Âu) có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới. 
Trong đó để lại ấn tượng sâu sắc nhất với em là trường phái hội họa 
1. Hội Họa Baroque  Khai niệm: 
- Trước tiên, ta cần tìm hiểu Hội họa Baroque là gì ? 
 Baroque là một phong cách nghệ thuật bắt nguồn từ Phục Hưng Ý, được đặt tên theo 
barroco – một cụm từ trong tiếng Bồ Đào Nha chỉ những viên ngọc trai với hình dáng lạ 
kỳ, thời kỳ Baroque được định nghĩa bởi nghệ thuật và kiến trúc tráng lệ, sang trọng. Bắt 
nguồn từ Rome, trào lưu lan rộng khắp nước Ý và các quốc gia phương Tây vào giữa 
1600 và 1750, trở nên đặc biệt ưa chuộng tại Pháp, Tây Ban Nha, và Áo.  - Lịch sử ra đời 
 Phong trào nghệ thuật Baroque bùng phát từ Hội đồng Trent, một phiên họp trong 
Phong trào Phản cải cách Công giáo, là lời đáp trả đối với Cải cách Tin lành. Hội đồng kết 
luận rằng các nghệ sĩ có thể sử dụng nghệ thuật trang trí công phu để quảng bá tín điều 
và sự cao cả của Thiên Chúa Giáo. 
 Nghệ thuật Baroque được đánh dấu bằng cuộc cách mạng ở thế kỷ 17 và mở đầu cho 
thời kỳ Khai sáng. Baroque nảy nở và phát triển nhờ các nhân tố là nhà thờ, hoàng gia và  tầng lớp thị dân. 
 Nghệ thuật baroque phát triển ở nhiều nơi thuộc châu Âu. Một trong những trung tâm 
lớn nhất là xứ Flandre, vùng đất ngày nay bao gồm Bỉ, Hà Lan và một phần nước Pháp. 
Rất nhiều họa sĩ baroque sinh sống ở xứ Flandre: Peter Paul Rubens, Rembrandt... Đây 
cũng là một thời kỳ hoàng kim của vùng đất này. 
-Đặc điểm của nghệ thuật Baroque 
 Phong cách Baroque đặc trưng bởi chuyển động phóng đại và chi tiết rõ ràng được sử 
dụng để tạo ra sự kịch tính, hoa mỹ và hùng vĩ trong điêu khắc, hội họa, kiến trúc, văn 
học, khiêu vũ và âm nhạc. Hình tượng Baroque trực tiếp, rõ ràng và kịch tính, có ý định 
thu hút các giác quan và cảm xúc hơn tất cả.   Hội họa Baroque: 
- Trong hội họa đặc trung của trường phái Baroque là kịch tính, màu sắc trầm, ánh sáng 
ấn tượng, bóng sắc nét và nền tối. Trong khi nghệ thuật Phục hưng nhằm làm nổi bật sự 
bình tĩnh và hợp lý, thì các nghệ sĩ Baroque lại nhấn mạnh sự tương phản rõ ràng, 
- Nhìn chung, “bức tranh Baroque”mang cảm giác hùng vĩ (hoặc phong phú gợi cảm), và 
nội dung cảm xúc rõ ràng. Chính nhờ hai yếu tố này, các họa sĩ Baroque, đã tìm cách 
khơi gợi những trạng thái cảm xúc nơi người xem bằng cách lôi cuốn các giác quan, 
thường là theo những cách kịch tính. 
- Các họa sĩ Baroque nổi bật nhất có nguồn gốc từ Hà Lan, Ý và Tây Ban Nha quan tâm 
đến chủ thể hoặc chủ thể con người và miêu tả những cảnh tương tự, Các lĩnh vực 
quyền lực thời phục hưng vẫn thống trị các định hướng nghệ thuật của nền văn hóa của 
họ, và theo đó, hầu hết các tác phẩm là chân dung hoàng gia, cảnh tôn giáo, mô tả cuộc 
sống hoàng gia và xã hội. 
- Tuy nhiên, cùng với thời đại Baroque, lịch sử và tranh phong cảnh đã nổi lên, cũng như 
chân dung, thể loại cảnh và tĩnh vật. Những bức tranh như vậy đặc biệt phát triển mạnh 
ở Hà Lan. Các họa sĩ Baroque vĩ đại của Hà Lan bao gồm Rembrandt van Rijn, Johannes 
Vermeer và Peter Paul Rubens. Sự thành thạo của họ về phương diện này đã được săn 
đón bởi các ngôi nhà hoàng gia trên khắp châu Âu. 
- Phong cách được yêu thích nhất và chức năng đặc trưng của hội họa Baroque là trang 
trí theo chủ nghĩa ảo tưởng trên các bức tường của nội thất. Rõ ràng là việc sử dụng một 
bức tường để trưng bày một bức tranh khung cảnh, hoặc các hoạt động của con người 
không phải là mới.Tuy nhiên, trong thời kỳ Baroque, nó đã trở thành một quy tắc gần 
như tuyệt đối, kết hợp tất cả các tính năng thẩm mỹ của thời đó: sự hùng vĩ, tính sân 
khấu, chuyển động, sự đại diện của vô cực, và thêm vào đó là một kỹ năng kỹ thuật gần 
như siêu phàm. Nó cho thấy xu hướng kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để 
tạo ra một hiệu quả thống nhất, vốn là đặc điểm nổi bật nhất của thời đại. 
-Trên các bức tường, và đặc biệt hơn là trên trần nhà, của các nhà thờ và cung điện, họ 
vẽ những khung cảnh rộng lớn, bận rộn, có xu hướng tạo ra cho người xem một ấn 
tượng khó tin rằng các bức tường hoặc trần nhà không còn tồn tại, hoặc ít nhất là khiến 
các bức tường này trở nên gợi mở, thú vị hơn. 
Các tác giả tác phẩm tiêu biểu: 
- Một trong những đại diện tiêu biểu nhất cho trường phái hội họa Baroque, không thể 
không kể tới Michelangelo Merisi, nổi tiếng với tên gọi là Caravaggio (1571-1610) từ tên 
của thị trấn nhỏ nơi ông sinh ra. 
Những bức tranh của ông cho thấy nhiều nhân vật thuộc nhiều tầng lớp khác nhau như 
người nông dân cường tráng, chủ quán trọ hay những con bạc; và mặc dù đôi khi họ có 
thể được ăn mặc như những vị thánh, những sứ đồ và những người cha của Giáo hội, họ 
đã thể hiện thực tại một cách thô thiển và khắc nghiệt nhất. Bản thân điều này đã là một 
đoạn tuyệt với nghệ thuật thời Phục hưng, với những hình tượng quý tộc và môi trường 
xung quanh được lý tưởng hóa. 
Tuy nhiên, khía cạnh quan trọng nhất của hội họa Baroque không phải là những gì được 
thể hiện mà là cách nó được thể hiện. Bức tranh không được chiếu sáng đồng nhất mà 
thành từng mảng; các chi tiết bị đánh bởi ánh sáng mạnh, sáng xen kẽ với các vùng bóng  tối. 
- Nếu phân tích một cách sâu sắc nhất, một bức tranh thời Phục hưng là bức vẽ màu với 
ánh sáng tổng thể, thì bức tranh vẽ trên vải của Caravaggio là làn da của một con báo 
với ánh sáng mạnh và bóng sâu, cường độ cao, trong đó những điểm nổi bật mang tính 
biểu tượng; và điều này đã cho thấy tầm quan trọng của bố cục. Đó là một phong cách 
hội họa kịch tính, bạo lực, dày vò, đặc biệt phù hợp với thời đại có sự tương phản thẩm 
mỹ mạnh mẽ, như thời kỳ Baroque. 
- Các tác phẩm của Caravagio cũng mang lại tầm ảnh hưởng nhất định tới nhiều danh 
họa nổi tiếng ở khắp Châu Âu, đặc biệt là Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, có thể kể tới những cái 
tên như Battistello Caracciolo (1578-1635), Jusepe Ribera (1591-1652), Francisco 
Ribalta (1565–1628), Gerrit van Honthorst (1592-1656), Georges de la Tour (1593-1652), 
Mattia Preti (1613-1669) và Domenico Fetti (1589-1624). 
- Peter Paul Rubens, ‘Samson and Delilah (1609-1610): Kết hợp với bố cục mạnh mẽ, 
Rubens nắm bắt kịch tính qua bảng màu dày dạn và rực rỡ của mình. “Rubens tránh vẽ 
theo kiểu màu chìm. Độ sặc sỡ rõ ràng trong tranh là bằng chứng cho kỹ nghệ tuyệt vời 
của ông,” nghệ sĩ Max Doerner giải thích trong sách The Materials of the Artist and Their 
Use in Painting. “Màu sắc của ông tươi sáng và liên kết với chất liệu trong tranh, tựa như 
ảnh của Van Eyck, chúng dường như có một lớp bóng mờ không thể nào xoá bỏ.”       
 Khẳng định : Phong cách Baroque đặc trưng bởi chuyển động phóng đại và chi tiết rõ ràng 
được sử dụng để tạo ra sự kịch tính, hoa mỹ và hùng vĩ trong điêu khắc, hội họa, kiến trúc, 
văn học, khiêu vũ và âm nhạc. Hình tượng Baroque trực tiếp, rõ ràng và kịch tính, có ý định 
thu hút các giác quan và cảm xúc hơn tất cả.  Liên hệ : 
Vậy, thế hội họa Việt Nam Như Thế nào? Đã đang và sẽ tiếp thu, kế thừa và phát triển các 
trường phái nghệ thuật. 
 Thông qua các biến động lịch sử 
 So với các nước châu Á khác và theo một số nhà bình luận nghệ thuật, Việt Nam là quốc 
gia sớm nhất gia nhập vào dòng chảy của mỹ thuật hiện đại cả về hình thức lẫn nội 
dung. Điều này có thể dễ dàng nhìn thấy khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời đầu 
những năm 1930 với sự hiện diện của các giáo sư người Pháp. 
 Kỹ thuật và cách sử dụng màu sắc của phong cách phương Tây là những gì thế hệ học 
sinh đầu tiên được đào tạo ở trường này học được. Các kỹ thuật này đã được các họa sĩ 
tốt nghiệp sử dụng để miêu tả bản chất thẩm mỹ của Việt Nam, đặc biệt là sự tự do và 
lòng quảng đại của một tâm hồn châu Á. Sự khởi đầu cơ bản như vậy đã đặt nền móng 
cho các thế hệ trẻ noi theo và dẫn họ đến thành công. 
 Trong những năm 1930, 1940 và 1950, thế hệ đầu tiên của Việt Nam tham gia vào thị 
trường nghệ thuật quốc tế là những họa sĩ hiện đại và được đánh giá cao tại Việt Nam 
cũng như nước ngoài. Từ đó, họ có danh tiếng và được vinh danh như những bậc thầy 
của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Trong số đó có Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, 
Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Tiến 
Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên. 
 Các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc Mỹ vô tình phân chia mỹ thuật hiện 
đại Việt Nam thành nhiều phong cách khác nhau, mỗi phong cách đều có cái hay riêng. 
Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất trong các tác phẩm mỹ thuật của miền Bắc và miền 
Nam thời kì hai miền bị chia cắt. Một mặt những cuộc chiến khốc liệt, tinh thần chiến 
đấu của nhân dân đã được phản ánh. Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực-phê bình, chủ nghĩa 
lãng mạn, và chủ nghĩa thoát ly với ước mơ hòa bình tràn ngập trong các sáng tác của  các họa sĩ miền Nam.   
Quá khứ và hiện tại 
 Trước năm 1975, mỹ thuật đương đại miền Bắc phát triển theo hướng hiện thực xã hội, 
với sự thành lập của trường Mỹ thuật Kháng chiến trong những ngày đầu của cuộc cách 
mạng những năm 1940. Tinh thần chiến đấu, làm việc vẫn được mô tả trong các tác 
phẩm tranh vẽ của các họa sĩ kháng chiến. Những tác phẩm này trong mắt các nhà sưu 
tầm nghệ thuật phản ánh những hoài niệm cho thời đại anh hùng của Việt Nam. 
 Trong thời gian nước ta đấu tranh cho độc lập và tự do, 45 họa sĩ và nhà điêu khắc của 
Trường Mỹ thuật và Trang trí và trường Cao đẳng Nghệ thuật Sài Gòn tham gia cách 
mạng. Tham gia vào cuộc chiến tranh cách mạng, hai thế hệ giáo viên và học sinh nuôi 
dưỡng cùng một lòng nhiệt thành yêu nước và sáng tạo nghệ thuật. 
 Sau năm 1975, con số 45 giảm xuống còn 36 người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. 
Nhiều người trong số họ hiện là giáo sư tại Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí 
Minh nhưng cũng không từ bỏ nghiệp nghệ thuật của mình. Cổ Tấn Long Châu, Lê Văn 
Kinh, Nguyễn Sáng, Huỳnh Công Nhãn, Quách Phong, Nguyễn Văn Sơn, Lê Vinh, Hoàng 
Trầm là một vài ví dụ. 
Các tác phẩm của họ trong 30 năm lịch sử đã được các nhà sưu tầm nghệ thuật đánh giá 
cao. Nhiều phòng trưng bày tư nhân hay liên kết của các nghệ sĩ kháng chiến đã thu hút 
một số lượng lớn người xem, và rất nhiều bức tranh của họ đã thành công về mặt tài  chính. 
- Giai đoạn những năm 1960 - 1970, các thành viên của Hội Họa sĩ trẻ gồm Nguyễn Trung, Lâm 
Triết, Nghi Cao Uyên, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Đỗ Quang Em, Trịnh Cung… đã 
mang lại làn gió tươi mát của sự sáng tạo, tạo dựng được danh tiếng ở Việt Nam và thế giới. 
- Bên cạnh đó, các họa sĩ trẻ của chủ nghĩa siêu thực, trường phái nghệ thuật bán trừu tượng 
và trừu tượng dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Trung và Ca Lê Thắng đã thổi một bầu không khí 
sáng tạo mới, giúp đẩy nhanh quá trình hội nhập của mỹ thuật đương đại Việt Nam vào thế  giới. 
Mỹ thuật Việt Nam tại thị trường quốc tế và nội địa 
 Khoảng thời gian từ 1988 - 1990 có thể được xem như là cột mốc khi ở Việt Nam và đặc 
biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh, thị trường nghệ thuật đã ra đời. Trước đó, vào đầu 
những năm 1980, một số người Việt định cư ở nước ngoài như Mỹ, Úc và Canada đã trở 
lại Việt Nam để thu thập tranh của các họa sĩ nổi tiếng Sài Gòn trước năm 1975, như 
Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Duy Thanh,… và tác phẩm của các nghệ sĩ danh tiếng như Nguyễn 
Gia Trí, Bùi Xuân Phái,… Hoạt động của họ dần dần trở thành một chất xúc tác cho sự 
xuất hiện của thị trường nghệ thuật thú vị từ năm 1990 trở về sau.   
 Trước năm 1990, một tác phẩm tranh vẽ được bán với giá trên 1.000 USD là điều hiếm 
thấy. Nhưng kể từ đầu năm 1992, giá của các bức tranh Việt Nam đã tăng lên đáng kể 
do chất lượng riêng biệt của các tác phẩm. Giá 3.000 USD cho một bức tranh là khá phổ 
biến. Năm 1993, bức tranh sơn mài trừu tượng của Hồ Hữu Thủ đã được bán ở mức giá 
15.000 USD cho một nhà sưu tầm người Nhật Bản. Vào cuối năm 1995, tại phòng trưng 
bày Lã Vọng ở Hong Kong, bức sơn dầu thực tế “The kettle and the Tea-cup” của Đỗ 
Quang Em đã được bán với giá 50.000 USD. 
 Cũng từ năm 1990, khi nhiều nghệ sĩ Việt Nam được các nhà sưu tầm, phòng trưng bày 
và Hiệp hội Văn hóa Thế giới ngỏ lời muốn trưng bày các tác phẩm của họ tại các triển 
lãm quốc tế ở Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Australia, Hong Kong, Singapore, Nhật Bản, 
Malaysia và Thái Lan, kỹ năng nghệ thuật của họ được đánh giá cao bởi cộng đồng nghệ 
thuật quốc tế. Từ đó về sau thị trường dịch thuật xuất hiện với số lượng những người 
sưu tầm quốc tế đến Việt Nam mua tranh tại chỗ và mời các nghệ sĩ cá nhân hoặc nhóm 
nghệ sĩ tham gia triển lãm ở nước ngoài ngày càng tăng. 
 Những việc này cho phép mỹ thuật Việt Nam nhanh chóng tái gia nhập với mỹ thuật thế 
giới sau nhiều năm gián đoạn. Tuy nhiên, cơ hội cho đại đa số các họa sĩ tham gia trao 
đổi với thế giới vẫn còn hạn chế. Đối với một số họa sĩ tài năng, điều kiện tài chính khó 
khăn là trở ngại lớn vì họ không dễ có được cơ hội tiếp xúc với các nhà sưu tầm nghệ  thuật. 
 Cơ hội là ngang nhau cho cộng đồng nghệ sĩ tham gia giao lưu trong nước và quốc tế, 
đặc biệt là tham gia giao lưu về nghệ thuật thị giác - một điều kiện tiên quyết cần thiết 
cho các nghệ sĩ để đưa các tác phẩm sáng tạo của họ đến đỉnh cao. Đây là một mục tiêu 
cho thế giới nói chung và đối với Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 
 Kể từ cuối năm 2018, tại Hà Nội, nhà đấu giá chuyên nghiệp Chon và tiếp đến là PI 
House ra đời, cũng có nhiều thay đổi đáng kể qua các phiên đấu giá, các buổi triển lãm 
hàng tháng, thể hiện sức sống mới lạ của mỹ thuật đương đại của Việt Nam ở nội địa và  cả quốc tế   
Liên hệ bản thân :  - Bút pháp: 
 Kỹ thuật sử dụng sự tương phản cực độ của ánh sáng và bóng tối. 
Chuyển động, ánh sáng và bóng tối, hiệu ứng sân khấu 
 Ý tưởng về phong trào cũng được củng cố bởi các yếu tố khác như chân tảng phân chia, 
cột Solomonic và hình bầu dục. Ánh sáng cũng là yếu tố cơ bản trong kiến trúc Baroque, 
vì nó cho phép tạo ra các hiệu ứng chiaroscuro và chuyển động, như cũng có thể thấy  trong hội họa. 
 Để chơi với ánh sáng, kiến trúc sư đã tạo ra các bề mặt không liên tục có các hốc sâu 
được chiếu sáng bởi mặt trời trong khi mặt còn lại vẫn ở trong bóng tối, tạo ra hiệu ứng 
của chiaroscuro và độ tương phản. 
 Đổi lại, kiến trúc Baroque đã làm phong phú và phức tạp hóa bất kỳ yếu tố truyền thống 
nào như mái vòm và phào chỉ, trong số những yếu tố khác. Mục đích là để đạt được 
hiệu ứng sân khấu và ngoạn mục, vì vậy yếu tố trang trí che đi cấu trúc thực của tòa nhà. 
sự đồ sộ và hoành tráng, chuyển động, chuỗi không gian, ánh sáng ấn tượng, và nội thất phong 
phú. Bằng cách sử dụng kết cấu bề mặt tương phản, màu sắc sống động và vật liệu sang trọng 
để nâng cao hình thể của cấu trúc tức thì và khơi gợi niềm vui thích cho người xem. 
Để lại các tác phẩm đáng giá cho nhân loại: 
Nhà thờ II Gesú ở Rome 
Một trong những ví dụ đầu tiên của kiến trúc Baroque nảy sinh với nhà thờ này, nó tượng trưng 
cho sự kết thúc của thời kỳ Phục hưng và sự khởi đầu của chủ nghĩa Baroque. Một số đặc điểm 
của mặt tiền của tòa nhà này đã được lặp lại ở những nơi khác như Tây Ban Nha và thậm chí cả 
Mỹ Latinh; vì lý do này, nó là một trong những tòa nhà quan trọng nhất. 
Trong giai đoạn đầu, nó vẫn là một lối chơi Baroque thoải mái, vì vậy nó không có một trò chơi 
quá mức về đường cong và đường cong ngược. Tuy nhiên, Il Gesú có những phần lõm và hình 
chiếu trên mặt tiền của nó báo trước giai đoạn tiếp theo của phong trào này. 
Nhà thờ thánh Peter: tác phẩm của Gianlorenzo Bernini 
Vương cung thánh đường San Pedro, do Michelangelo khởi xướng, mang một số nét đặc trưng 
của thời kỳ Phục hưng, như có thể thấy trong sơ đồ nhà thờ của nó. Tuy nhiên, Gianlorenzo 
Bernini đã được thuê để hoàn thành phần trang trí của tòa nhà này. 
Trong số các chi tiết do Bernini thực hiện, phổ biến nhất là chiếc hói nằm bên trong nhà thờ 
này, là một ví dụ chính xác về các yếu tố của Baroque: nó bao gồm rất nhiều đồ mạ vàng, 
chuyển động và vacui kinh dị, vì không có một không gian nào của đối tượng này thiếu các chi  tiết trang trí.  Trong hội họa:  nét đặc trưng 
Đối với hội họa baroque, nó vẫn duy trì những đặc điểm tương tự của kiến trúc và điêu khắc, 
chẳng hạn như chiaroscuro, sự mất cân bằng, sự chuyển động, sự cuồng nhiệt của tôn giáo, sự 
gợi cảm và những kế hoạch phức tạp. 
Hội họa Baroque hấp dẫn chủ nghĩa tự nhiên, vì vậy mọi thứ được thể hiện khi người nghệ sĩ 
đánh giá cao chúng, cho dù chúng đẹp, xấu, dễ chịu hay khó chịu. 
 Ví dụ: bạn có thể tìm thấy cảnh những chiếc bánh Cupcakes đẹp mắt (chẳng hạn như 
Magdalene sám hối, của Muril o), nhưng bạn cũng có thể thấy những bức chân dung kỳ cục 
(chẳng hạn như Bài học giải phẫubởi Rembrandt). 
Tranh Baroque cũng nổi bật nhờ sự thể hiện phong phú của phong cảnh, tĩnh vật và tĩnh vật, 
trong đó màu sắc chiếm ưu thế hơn bất kỳ yếu tố nào khác. Ngoài ra, các nghệ sĩ baroque đặt 
cược (và đặt cược) vào sự hùng vĩ, bởi vì chúng là những bức tranh lớn có thể đo chiều rộng lên  đến ba mét. 
Tuy nhiên, ánh sáng là nhân vật chính chính trong các bức tranh Baroque. Trong thời kỳ Phục 
hưng, ánh sáng được phụ thuộc vào các hình thức, nhấn mạnh đường viền của chúng; trong 
Baroque, hình thức là thứ phụ thuộc vào ánh sáng. Điều này đã làm nảy sinh một trong những 
trào lưu nổi bật nhất của Baroque, chẳng hạn như chủ nghĩa tenebrism. 
Sự kiên định của Caravaggio 
Chủ nghĩa nguyên lý tạo thành toàn bộ giai đoạn đầu tiên của hội họa Baroque và bao gồm sự 
tương phản dữ dội giữa bóng và ánh sáng. Người tiên phong cho kỹ thuật này là Caravaggio, 
người cùng thời với El Greco, mặc dù phong cách của họ rất khác nhau.  Ấn tượng 
Khái niệm:(tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ 
thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước 
tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi 
tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).  Ra đời: 
 Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát 
và là chủ đề của trường phái ấn tượng 
 Khởi nguồn của trường phái Ấn tượng (Impressionism): Giữa thế kỷ XIX, hoàng đế 
Napoléon III thực hiện nhiều cuộc cải cách quan trọng ở Pháp, đặc biệt là tại thủ đô 
Paris. Trong lĩnh vực nghệ thuật, Viện hàn lâm Mỹ thuật Pháp (Académie des Beaux-
Arts) là cơ quan có thẩm quyền đưa ra những quyết định quan trọng đối với ngành nghệ 
thuật Pháp mỗi năm, họ sẽ tổ chức triển lãm Salon de Paris để trưng bày những tác 
phẩm hội họa xuất sắc. Những họa sỹ muốn thành danh phải có tranh được trưng bày  tại đây. 
 Đặc biệt, Viện hàn lâm quan niệm tranh vẽ giống thật. Các tác phẩm phải có chủ đề thần 
thoại, tôn giáo hoặc lịch sử thì mới có giá trị. Còn tranh phong cảnh và tĩnh vật thì  không. 
 Nhóm họa sỹ trẻ do Claude Monet khởi xướng đặt nền móng cho sự thay đổi 
 Đầu những năm 1860, bốn chàng họa sỹ trẻ Claude Monet, Pierre-Auguste Renoir, 
Alfred Sisley và Frédéric Bazille lại rất thích vẽ cảnh vật. Tranh thường mô tả các hoạt 
động hằng ngày, gần gũi với cuộc sống. Cả bốn người gặp nhau khi cùng theo học thầy 
Charles Gleyre tại xưởng dạy vẽ hàng đầu Paris của ông. 
 Monet, Renoir, Sisley và Bazil e thường hẹn nhau đến các miền quê nước Pháp để vẽ 
tranh ngoài trời. Nhóm dần dần thu nhận thêm thành viên. Đó là Édouard Manet, 
Camille Pissarro, Paul Cézanne, hay Arman Guillaumin. Về sau, tất cả họ đều trở thành 
những họa sỹ lừng danh của trường phái Ấn tượng. 
- Trở thành trường phái nghệ thuật 
-Năm 1863, nhóm Monet gửi tranh cho Salon de Paris và bị từ chối. Nhưng hoàng đế Napoléon 
III đặc cách cho phép nhóm họa sỹ trẻ mở triển lãm riêng. Họ đã trưng bày những bức tranh 
phong cảnh này. Nhóm đặt tên triển lãm là Phòng triển lãm tranh bị từ chối (Salon des Refusés). 
Một cách giễu nhại và tự trào hóm hỉnh! 
- Khán giả đến đây chỉ để mua vui, cười cợt. Tuy vậy, Salon des Refusés thu hút lượng khách 
tham quan còn nhiều hơn cả Salon chính thống. Triển lãm khiến công chúng chú ý đến sự tồn 
tại của một xu hướng mới trong nghệ thuật.   
Vì sao trường phái hội họa này tên là Ấn tượng? 
Nói đến đây, phải kể tiếp đến năm 1873. Lúc này, tuy bị thành Paris chế giễu, nhóm Monet 
không nản chí. Họ còn tuyên bố sẽ tổ chức triển lãm độc lập đầu tiên và không thuộc khuôn khổ 
SalonTriển lãm này diễn ra vào tháng 4/1874. Địa điểm triển lãm là studio của nhiếp ảnh gia 
đam mê nghệ thuật Nadar. Tại đây, Bức tranh của Claude Monet, “Ấn tượng mặt trời mọc” 
(Impression, soleil levant), bị nhà phê bình Louis Leroy châm biếm. Ông cho rằng nó chỉ là một 
tác phẩm cẩu thả, lòe nhòe, chưa hoàn thiện. Louis Leroy dùng chính cụm từ “Ấn tượng” 
(Impression) để đặt tên cho trường phái mà nhóm Monet theo đuổi. Chủ nghĩa “Ấn tượng” (L’ 
Impressionisme, tức Impressionism) cũng trở thành tên gọi chính thức cho trường phái nghệ 
thuật mới này từ đây. 
Đặc điểm của trường phái ấn tượng 
 Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ mảnh, nhỏ, 
song vẫn có thể nhìn thấy rõ, bố cục thoáng, kèm theo sự pha trộn không hạn chế giữa 
các màu với nhau và nhấn mạnh độ miêu tả chính xác về sự thay đổi chất lượng của ánh 
sáng trong tranh (thường để làm nổi bật rõ ảnh hưởng của dòng thời gian),vật mẫu đời 
thường, và góc nhìn khác lạ. Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: bức tranh 
được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung 
cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với 
trường phái hiện thực,tự nhiên. 
 Thay vì vẽ trong xưởng vẽ, việc vẽ tranh ngoài trời, theo mẫu sống, và tìm cách thu tóm 
những biểu hiện thoáng qua của bầu khí quyển mới được cho là nghệ thuật thời kì này, 
bởi sự phát triển của khoa học kĩ thuật, máy ảnh ra đời đã khiến việc “ chép tranh” trong 
xưởng vẽ theo họ là vô nghĩa. 
 Họ không quan tâm đến việc vẽ lại lịch sử, thần thoại hay cuộc đời của những vĩ nhân, và 
họ cũng không tìm kiếm sự hoàn hảo về hình thức thị giác. 
 Thay vào đó, như tên gọi của họ, những nghệ sĩ theo trường phái Ấn tượng đã cố gắng 
tạo ra trên toan vẽ một “ấn tượng” về cách mà phong cảnh, sự vật và con người hiện 
diện trước họ vào một thời điểm nhất định, tập trung vào thế giới mà họ nhìn thấy, vốn 
không hề hoàn hảo dù theo bất kỳ cách nào. Điều này thường có nghĩa là việc họ sử 
dụng nét vẽ nhẹ nhàng hơn, lỏng tay hơn nhiều so với các hoạ sĩ trước đó. Tư tưởng 
khoa học trong thời đại Ấn tượng bắt đầu nhận ra rằng những gì mắt cảm nhận và 
những gì não bộ hiểu là hai điều hoàn toàn khác nhau. Nghệ sĩ Ấn tượng đã tìm cách để 
nắm bắt được những gì mắt cảm nhận – những hiệu ứng quang học của ánh sáng – để 
truyền tải bản chất thoáng qua của khoảnh khắc hiện tại, bao gồm những yếu tố của bầu 
không khí như những sự thay đổi của thời tiết, trên toan vẽ của họ. Nghệ thuật của họ 
không nhất thiết phải dựa trên những miêu tả mang tính tả thực. 
 phong cách ngẫu hứng, thích vẽ ánh sáng tự nhiên và màu sắc sáng thì Édouard Manet 
chuộng màu đen. Tuy mỗi người một phong cách, các tác phẩm hội họa Ấn tượng 
thường có chủ đề gần gũi, tự nhiên. Ví dụ như hay vẽ nắng, gió, cuộc sống đời thường… 
hết sức lãng mạn, sinh động, tinh tế và tràn đầy xúc cảm. 
 Trường phái Ấn tượng ghi lại những ảnh hưởng của cuộc cải tạo lớn ở Paris vào giữa thế kì 
XIX, do nhà quy hoạch đô thị Georges-Eugène Haussmann dẫn dắt. Các tác phẩm tập trung vào 
quang cảnh về giải trí công cộng – đặc biệt là cảnh những quán cà phê và quán rượu – thường 
truyền tải cảm giác tha hóa mới mẻ mà cư dân của đô thị hiện đại đầu tiên trải qua. 
Dù vấp phải các ý kiến trái chiều, các họa sỹ vẫn kiên trì theo đuổi trường phái nghệ thuật mới. 
Họ thực hiện tám buổi triển lãm từ 1874 đến 1886. Các buổi triển lãm tạo được tiếng vang, 
danh tiếng lan rộng từ Paris đến khắp châu Âu. Nhà báo và phê bình nghệ thuật Thédore Duret 
mua tranh và xuất bản quyển Lịch sử Ấn tượng vào năm 1904. 
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ phong 
trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình thuộc 
phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida 
Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley 
Các họa sĩ tiêu biểu 
Claude Monet (1840 – 1926)  - 
là một họa sĩ vĩ đại của nước Pháp. Ông được xem là cha đẻ của trường phái hội họa ấn  tượng.  - 
Claude Monet còn được coi là “Họa sĩ của những khoảnh khắc phù du”, “nhà biểu tượng 
của màu sắc”. Tranh của ông chú ý tới thiên nhiên, coi trọng diễn tả ánh sáng và màu sắc, ghi lại 
sự tươi mới của ấn tượng ban đầu một cách trung thực tuyệt đối.  - 
Ông thường vẽ về đống rơm, về nhà thờ, về hoa súng, hoa trên cánh đồng, về cầu 
Waterloo và trong loạt tranh vẽ ở những khu vườn. Những bức tranh về khu vườn, hoa súng 
của ông được công chúng đặc biệt yêu thích. 
Tác phẩm: Phố, Thiếu nữ trong vườn, Cây cầu Nhật Bản, Nhà thờ,… 
Mary Stevenson Cassatt (1844 –1926)  - 
 là một nữ họa sĩ người Mỹ. Bà sinh ra tại Allegheny, bang Pennsylvania (hiện thuộc 
Pittsburgh) nhưng sống phần lớn quãng đời trưởng thành tại Pháp, nơi bà kết bạn với Edgar 
Degas. Nhiều bức tranh của Cassatt phác họa hình ảnh người phụ nữ cũng như tình mẫu tử 
trong cuộc sống thường ngày.  - 
Tranh sơn dầu và màu sắc của bà đều thể hiện bảng màu rực rỡ. Tranh sơn dầu cho thấy 
nét cọ phóng khoáng, trong khi tranh màu sáp lấy cảm hứng từ chất liệu thường dùng của 
Degas thì rực rỡ và phá cách 
Tác phẩm: "tắm của trẻ em", "Maternite", "Hai phụ nữ Ném Flowers Trong Carnival",. 
Camille Pissarro (1830 - 1903)  - 
là một họa sĩ nổi tiếng người Pháp, một trong những gương mặt tiêu biểu của Trường 
phái ấn tượng và Ấn tượng mới.  - 
Yêu thích tự nhiên, Pissarro đặc biệt quan tâm đến phong cảnh nông thôn. Những cảnh 
lao động trên đồng là nguồn cảm hứng lớn của ông,  - 
Georges Seurat và tỏ ra thích thú kỹ thuật chấm màu của họa sĩ này. Pissarro đã áp dụng 
và tìm ra một cách diễn tả tự do hơn. 
Tác phẩm : Vườn Maubuisson,Pontoise; Đê la Marne, Đường Versail es,…   
ỨNG DỤNG TRONG THIẾT KÊ 
Là một trường phái nghệ thuật có sức lan tỏa rộng rãi cả về không gian và thời gian: trên nhiều 
lĩnh vực và từ xưa đến nay và cả trong tương lai vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nghệ thuật ấn  tượng. 
- Trong hội họa: các họa sĩ đã để lại tri thức về bố cục, màu sắc cho đến ánh sáng, và cả quan 
niệm” vẽ là phải ra ngoài trải nghiệm chứ ko phải chép nguyên mẫu”. Bản thân chúng em đã và 
đang được tiếp thu những nguyên lý đó trong môn học hình họa : từ vẽ tĩnh vật, kí họa hay vẽ 
hình họa người đều phải nhìn mẫu thực tế, đặt bố cục hợp lí, pha trộn màu sắc, ánh sáng theo 
những gì mình nhìn thấy và cảm nhận. Chính điều đó đã mang lại cảm xúc cho tác phẩm của 
chúng em, bởi mỗi người đều có góc nhìn riêng, cảm nhận riêng mà bút pháp thể hiện riêng, 
như vậy sáng tạo mới là không giới hạn. 
- Trong thiết kế: Nguyên lí về bố cục , màu sắc độc đáo, tổng thể hài hòa là điều rất cần thiết  trong mọi thiết kế. 
-Các chất liệu từ thiên nhiên, từ cuộc sống ...qua mắt nhìn của các họa sĩ trường phái ấn tượng 
cũng có thể khai thác đề đưa vào thiết kế 
Bên cạnh đó, chúng em còn được học bài học về sự kiên trì, quyết tâm làm điều mình muốn, vẽ 
điều mình thích, bỏ ngoài tai lời chê bai, cười cợt của người ngoài. Điều đó làm em có động lực 
làm thiết kế sáng tạo và phát huy được khả năng tư duy của mình. 
- Các triển lãm tổ chức ở trg hầu hết sẽ có sự góp mặt của ít nhất 1-2 tác phẩm theo trường 
phái nghệ thuật ấn tượng. Được tham gia các triển lãm ở trường ko chỉ làm chúng em tự hào 
mà còn học hỏi được sự kế thừa và ứng dụng của hội họa ấn tượng trong mĩ thuật hiện đại  ngày nay. 
 Trong đó không thể không kể đến ngành thiết kế. Cho đến ngày nay, những cuộc triển lãm vẫn 
thường xuyên tổ chức và thu hút lượng lớn khán giả. 
Hậu Ấn Tượng(1885-1905) 
Từ Hậu ấn tượng được đặt ra do một nhà phê bình người Anh tên là RPhơrai. Nghệ thuật Hậu 
Ấn tượng từ đó mà ra đời. Nghệ thuật này để chỉ ra một số hoạ sĩ phần lớn là người Pháp – xuất 
hiện sau phong trào Tân ấn tượng, nhưng có những quan điểm hội hoạ dường như biệt lập vì 
họ muốn vượt qua giới hạn cũ của Ấn tượng và Tân ấn tượng, tìm ra con đường đi khác.  Bối Cảnh 
Những năm 1880 bị đánh dấu bởi những cuộc tranh giành lãnh thổ thuộc địa đẫm máu giữa các 
nước phương Tây. Nước Pháp là một trong những đế quốc thành công và phát triển ổn định 
chuẩn bị thực thi một vài chính sách thuộc địa với nghĩa vụ văn minh hóa những “chủng tộc hạ 
đẳng.” Cuộc Triển lãm Quốc tế năm 1889 được tổ chức tại Paris. Với mục tiêu truyền bá thông 
điệp rằng nước chủ nhà là “điểm xuất phát, đối với cả thế giới, để đến với một kỷ nguyên mới”, 
họ đã trưng bày vô vàn sản phẩm di sản văn hóa từ các nước khu vực viễn Đông, Trung Đông, 
và Bắc Phi, cũng như những khu vực bị xem là các thế giới “nguyên thủy” như Trung Phi hay  quần đảo Polynesia. 
Tuy nhiên đối với một vài nhà tư tưởng và nghệ sĩ, sự văn minh được tung hô này thực chất chỉ 
là bề nổi, là lớp vỏ che đậy phần lõi mục ruỗng, ngập tràn vấn đề xã hội. Thời kỳ mà nghệ thuật, 
âm nhạc và sân khấu kịch phát triển rực rỡ - tuy nhiên những loại hình đó chỉ phục vụ một vài 
nhóm người nhất định. Tại Paris, sự phân cực giàu nghèo giữa giai cấp tư sản và vô sản càng trở  nên rõ ràng. 
Các nghệ sĩ cấp tiến thường thuộc nhóm sau. Mặc dù một số đồng nghiệp Ấn tượng của họ 
đang dần trở nên giàu có hơn nhờ buôn bán tranh, những nghệ sĩ trẻ hơn vẫn chật vật để 
chứng tỏ khả năng của mình. 
Thuật ngữ ‘Hậu Ấn tượng’ được khai sinh bởi nhà phê bình nghệ thuật người Anh Roger Fry vào 
năm 1910, khi ông đang tổ chức buổi triển lãm nghệ thuật Pháp hiện đại tại London. Những 
nghệ sĩ được xếp vào nhóm này đều theo đuổi những hướng đi riêng, nhưng tất cả đều xuất 
phát từ chủ nghĩa Ấn tượng . Họ đi tìm cảm hứng từ nhiều loại hình nghệ thuật - bao gồm vải 
vóc Nhật Bản, cửa kính màu cổ điển, và nghệ thuật của những nhóm người “nguyên thủy”, 
những nghiên cứu về quang học và thuyết màu sắc, - để sáng tạo ra các tác phẩm giàu cảm xúc 
và ẩn chứa nhiều chi tiết mang tính biểu tượng. 
Đặc điểm nghệ thuật Hậu Ấn Tượng 
Hậu ấn tượng không phải là đoạn kéo dài của xu hướng ấn tượng, thậm chí không chấp nhận 
những luận điểm khoa học - nghệ thuật của xu hướng này, Mục đích của họ là miêu tả cảm xúc 
và trí tuệ. Trong việc theo đuổi những mục tiêu cá nhân, lý thuyết... 
Hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo xu hướng ấn tượng, tìm cách làm bật lên cá tính từng 
người một cách đặc biệt, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình hoạ, màu sắc và cách giải 
quyết chủ đề. Họ thực sự làm nền một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác  nhau  Họa sĩ tiêu biểu  Paul Cézanne (1839-1906) 
- Ông tôn trọng cảm xúc, ấn tượng của mình trước thiên nhiên Quan tâm đến hai yếu tố: hinh 
khối và màu sắc cộng với sự cân bằng và mạch lạc vững chắc của bố cục - Chú ý đến mối tương 
quan đậm nhạt,tương quan  nóng lạnh của màu sắc 
- Ở tranh Cezanne các sự vật hình tượng lên khối khoe rõ rằng, cách lên khối mạnh mẽ nhờ 
những nhất bút, mảng mẫu không nhoẻ mở như cách vẽ khối của hoạ sĩ thời Phục Hing. 
- Trong tranh Cezanne mọi vật đều có mối liên quan chặt chẽ. Ông nghiên cứu kĩ binh thể của 
sự vật, năm chắc môi tương quan giữa hình nọ và hình kia: mọi vật tồn tại đều ở trong những 
hỉnh, khối cụ thể, và cũng chỉ có một số hình khối cơ bản, tất cả đều là các hình biển dạng của 
hình khối cơ bản đó. - Ông được coi là “Cha đẻ của hội hoạ hiện đại” 
Tác phẩm : Những người tắm, bà Cezanne, Tĩnh vật, Núi Saint de Victorie 
Vincent Van Gogh.( 1853 – 1890) 
Vincent Willem van Gogh (30/3/1853, mát 29/7/1890), một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái 
hậu ấn tượng. Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất 
lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trưởng phải dã thú (Fauvism) và trường phải biểu hiện  tại Đức. 
-Vangogh thể nghiệm tìm tôi nhiều bút pháp khác nhau để tìm ra cho mình phong cách riêng  biệt độc đảo. 
- Tranh Vangogh là những nét bút cuồn cuộn, quần quại với những mảng màu mạnh mẽ cuồng 
nhiệt, tươi sáng. Ông khai thác triệt để sự biểu hiện của nét bút, của cường độ màu sắc và đẩy  nó lên đỉnh cao nhất. 
Phong cách vẽ cuồng nhiệt của Vangogh đã ảnh hưởng tới rất nhiều hoạ sĩ ở các nước khác trên 
thế giới - Ông là một trong những hoạ sĩ đi tiên phong của nghệ 
thuật mới, hiện đại. Tác phẩm: Chân dung bác sĩ Gachet, Đêm đầy sao, Đêm ở quán cà phê 
Terrace, Hoa hướng dương. Tự họa, Hoa 
diễn vĩ, Căn phòng họa sĩ... 
Paul Gauguin (1848-1903) 
Gauguin muốn làm cho nghệ thuật “trẻ” lại, muốn trở về lối sống nguyên sơ đưa nghệ thuật về  cội nguồn cảm xúc. 
- Tranh của ông là những mảng màu phẳng tương phán mạnh mẽ, ông muốn gọi ra cái đẹp 
huyền bí ẩn sau phong cảnh thực tại 
- Gauguin đi sâu khai thác độ sâu sắc, sự biểu hiện của màu sắc. Tranh ông mang nhiều chất 
trang trí. Chủ yếu là nghệ thuật sắp xếp các mảng hình màu chặt chẽ hợp lí và biểu hiện. Ông 
thích dùng màu tương phản mạnh, hình thể giản lước, đơn giản, khoẻ khoắn. 
- Ông thích hội hoạ Ấn tượng nhưng cho rằng nó còn nông cạn, chưa đề cập tới bí ẩn của tình 
cảm và tâm hồn. Ông giữ màu sắc theo kiểu Ấn tượng và nghiên cứu sâu thêm.Ông đi vào chiều 
sâu, vẻ huyền bí biểu cảm của màu sắc 
- Ông đạt tới lối vẽ thiên về trang tri, mang tính tượng trưng và biểu hiện cao độ.Tinh tư tưởng 
trong tranh ông ẩn sâu sau các hình tượng nhân vật, sau vẻ lộng lẫy của màu sau mà người xem 
tự cảm nhận chứ không thể nhìn bằng mát. 
Tác phẩm: Chúng ta từ đâu đến?Chúng ta là ai? Chúng ta đi đâu?, Đức mẹ, Bóng ma . Những cô  gái  LIÊN HỆ TRONG THIẾT KẾ 
 Sự cân bằng của bố cục, hình khối hài hòa với mối tương quan đậm nhạt, màu sắc là 
yếu tố quan trọng trong nghệ thuật k chỉ có hội họa mà còn ở thiết kế. 
 Bút pháp của Paul Cézanne trong viẹc thể hiện hình khối rõ ràng, mạnh mẽ xuất phát từ 
hình khối cơ bản là điều mà nghệ thuật hiện đại luôn luôn hướng đến. 
 Sử dụng hình khối để qui ước hóa đối tượng 
 Sử dụng mảng màu lớn đặt cạnh nhau tạo nên hiệu ứng thị giác 
Tổng kết Hậu ấn tượng 
Ba hoạ sĩ Cezanne, Gauguin, Vangogh mở ra ki nguyên mới của hội hoạ hiện đại. Nghệ thuật của 
các ông là nghệ thuật biểu hiện, nghệ thuật sử dụng các yếu tố thuộc ngôn ngữ hội hoạ để diễn 
tả cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên sự sống. Ở Cezanne là sự tìm tòi nghiên cứu 
say mê về hình khối, tương quan nóng lạnh của màu sắc, tương quan đậm nhạt do hiệu quả của 
ảnh sáng tạo nên và bố cục chặt chẽ, mạch lạc. Vangogh là những nét bút bốc lửa, màu sắc 
cường độ mạnh, cực đoan. Gauguin là sự thẩm sâu, hoang dã của các mảng màu tương phản 
trang trí. Ba người với ba phong cách hiện thức làm phong phú đa dạng mở đầu cho các trào 
lưu nghệ thuật thế kỷ XX.  Câu 3: Dã Thú 
Mỹ thuật Dã Thú - Fauvism 
So với tk 19, những biến động về chính trị, xã hội và tư tưởng chính trị của tk 20 còn mãnh liệt 
hơn rất nhiều. Do đó sự phân hóa trên các mặt, các lĩnh vực cũng triệt để và mãnh liệt hơn. 
Những đảo lộn xã hội ngày càng tăng, mẫu thuẫn XH ngày càng gay gắt thì tâm trạng con người 
ngày cảng trở nên rối ren phức tạp trước những nhu cầu bức xúc của XH. Con người muốn tìm 
đến 1 thứ NT mới, trong đó các khái niệm về năng lượng, tốc độ chuyển động đều phải được đề  cập. 
Trong NT tạo hình, sau những cuộc triển lãm lien tiếp các họa sĩ hậu Ấn tượng đã thu hút được 
rất nhiều hs trẻ để từ đó đã hình thành 1 nền Nghệ Thuật với diện mạo khác hẳn, xuất hiện 
nhiều khám phá táo bạo. Sự phủ nhận “ khuôn vàng thước ngọc” của Nghệ thuật truyền thống 
với những phản kháng mãnh liệt hơn, các họa sĩ có xu thế hướng tới quan niệm của Phương 
Đông của Châu Phi, Châu Mỹ ngày càng nhiều hơn. Rõ cả tỉnh người vẽ hơn rất nhiều 
Sự tim tòi những hình thức NT mới ngày càng nhiều, liên tục xuất hiện các khuynh hướng NT 
khác nhau: Dã thú, biểu hiện, lập thể, vị lai, siêu thực, triu tượng .... Lịch sử gọi trào lưu NT này  là NT hiện đại. 
Nguồn gốc ra đời trường phái Dã Thú 
Năm 1905, triển lãm Mùa thu ở Paris là một phỏng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc 
biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau vị có một sự that là 1 loạt 
tiêu chí hội họa cổ điển bị phá vỡ 
Trong đó có 1 pho tượng của Marque mang phong cách cổ diễn và nhà phê bình Luis Vauxceller 
thot " Donatello giữa bầy Dã thú" Ông gọi phòng tranh của các họa sĩ là Chuồng Dã Thú. Cái tên 
DT bước vào lịch sử hội họa thế giới. Tên gọi đó không nhằm để nói theo nghĩa bóng là sự man 
rợ hãi hung mà ở đây chỉ những bức tranh có màu sắc dữ dội. tương phản mạnh mẽ. 
Đặc điểm nghệ thuật Dã Thú 
- Tranh của các họa sĩ Dã thú đều bắt nguồn từ hiện thực, những hiện thực ấy mang tính đơn 
giản và ước lệ hóa cao 
- Hội họa Dã Thú là : đó, xanh, vàng và cái tôi của họa sĩ - Hội họa Dã Thủ đô là cái nhìn chủ 
quan của người về (ms Ấn tượng - là khoa học con ms DT là chủ quan của người vẽ) 
- rút ngắn chiều sâu không gian ( chỉ còn 2 chiều . giàu tinh trang trí và đồ họa – đặc biệt là với  Matisse) 
- đường nét hình thể trong tranh Dã thủ được cường điệu hóa 
- tranh Dã thú mang cái nhìn hồn nhiên, ngây thơ như tranh trẻ em  Họa sĩ tiêu biểu  Henri Matisse (1869-1954), 
-Ông đứng đầu trường phái Dã thú. Trong đó Matisse được xem là bậc thầy đầu tiên có ảnh 
hưởng rất lớn đối với hội họa Pháp thế kỷ 20 
- Ông đến với hội họa tỉnh cờ và thành danh sớm 
 -Tranh ông là sự sắp xếp các mảng màu phẳng dẹt rực rỡ. tươi sáng. . Ông sử dụng màu sắc táo 
bạo, màu sắc trong tranh ông phát triển tự do và tạo những bất ngờ. Giới Mỹ thuật phong 
Matisse danh hiệu ông vua của Màu sắc 
- Tranh ông còn kết hợp với đường nét khiến tranh vửa mang tính trang trí, vừa mang tính đồ  họa 
- Tác phẩm : Thiếu phụ và chiếc mũ, Tĩnh vật bát và hoa quả, Trả chuyện. Âm nhục, Nhảy múa 
 Lúc bắt đầu sự nghiệp, ông thích những gam màu mạnh, từ do theo tinh thần Dã thủ 
Giai đoạn sau, tranh ông dặm thăm, ý nhị và duyên dáng. bộc lộ tài năng sắp xếp, phân bố các 
mảng màu chủ đạo và điểm xuyết. 
- Tranh ông chịu nhiều ảnh hưởng của Nghệ thuật Ba tư và Trung Đông. Là sự kết hợp nhuần 
nhuyễn tinh thần phương Đông với nghệ thuật hiện đại phương Tây. 
- Ông là hs tiên phong và có ảnh hưởng lớn đến hộ đương đjai. Nhà Danh Hoạ Bậc Nhất của  Nước Pháp  Maurice Vlaminck 
- Được xem là hs đã thủ nhất trong nhóm đã thú. Ô xuất thân ở giai cấp bình dân 
-- Nghệ thuật của Vlaminck là sự sáng tác theo bản năng của con người có tình cảm quyết liệt, 
táo bạo, phá cách. Ông căm ghét những quy tắc, công thức thẩm mỹ kinh viện. -Vlaminck bộc lộ 
cảm xúc trên mặt tranh thông qua sự chuyển động của nét bút và màu sắc nguyên thủy. 
Vlaminck còn làm tranh khắc gỗ , vẽ bia sách , trang trí và kiếm tiền khả 
Tác phẩm : Buổi trưa ở nhà hang Marly , Phong cảnh với những cây đỏ  Andre Derain 
 - Một trong 3 tg đậm chất Dã thú nhất . Chủ đề ưa thích là tranh phong cảnh 
- Tranh đậm chất trữ tỉnh hơn Metisse và Vlaminck những vẫn là những màu nguyên rực rỡ . 
Dùng nhiều màu : lam , xanh lá , tím 
- “ Màu sắc trở thành chất nổ , nó bùng cháy dưới ánh sáng ” - Tranh của Derain với nét bút 
phóng khoảng mạnh mẽ , sắc độ tương phản mạnh 
Tác phẩm : Cầu London , Những con thuyền ở Colliour , Westminter 
Tổng kết Hội họa Đã Thú : Tuy chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn , lúc mới xuất hiện không 
được nhiều sự ủng hộ nhưng giới nghệ thuật lại tìm thấy ở đó nguồn cảm hứng cho những sáng 
tạo mới . Hội họa Dã Thú là trường phải đầu tiên đưa đến sự tiếp cận hiện đại của nghệ thuật 
tạo hình , tử bỏ nguyên tắc cổ điển thành công , Hội họa DÃ thú góp phần mở ra đường mới 
cho nghệ thuật thế kỷ XX . 
LIÊN HỆ: Điểm nổi bật của Dã thú là tạo hình thoát ly khỏi tư tưởng kinh viện. Về màu sắc, đó là 
sự nổi loạn với những sắc đỏ, xanh cobalt, xanh lá cây, vàng nguyên chất rực rỡ. 
Phong cách tạo hình được áp dụng nhiều vào thiết kế logo và tạo hình nhân vật. Logo thoát ly 
khỏi tả thực và mang khuynh hướng mạnh mẽ, đơn giản, gây ấn tượng mạnh cho thương hiệu. 
Màu sắc nổi loạn , rực rỡ đc sử dụng trong poster về công nghệ tương lai hay đồ chơi cho trẻ  con,…    Câu 4: Lập thể 
Trường phái Lập thể, còn gọi là chủ nghĩa Lập thể, (Cubism) được sáng lập bởi danh họa Pablo 
Picasso và Georges Braque đã tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc những năm đầu 
thế kỷ 20. Phong trào không tồn tại lâu dài hay vang rộng ở lúc đương thời, nhưng nó đã bắt 
đầu cho sự bùng nổ sáng tạo to lớn và vang dội trong xuyên suốt dòng chảy nghệ thuật của thế  kỷ. 
Trường phái Lập thể là gì? 
 Trường phái Lập thể là một trường phái nghệ thuật thị giác có sức ảnh hưởng rất lớn 
của thế kỷ 20, được sáng lập bởi Pablo Picasso và Georges Braque tại Paris từ 1907 đến 
1920. Phong cách Lập thể nhấn mạnh vào hình phẳng 2D, loại bỏ những kỹ thuật biểu 
hiện truyền thống về phối cảnh và bác bỏ lý thuyết nghệ thuật bấy lâu vốn đề cao sự bắt 
chước tự nhiên. Những họa sĩ phái Lập thể không bị ràng buộc vào việc sao chép hình 
dáng, cấu trúc bề mặt, màu sắc hay không gian mà thay vào đó, họ giới thiệu đến người 
xem một dạng thức mới của hiện thực qua các tác phẩm miêu tả đối tượng bị phân chia 
thành nhiều mảng với nhiều diện từ nhiều góc độ được biểu hiện cùng một lúc. 
Sự xuất hiện của phái Lập thể 
 Trường phái Lập thể là một trào lưu hội họa có tính cách mạng, phát triển ở Paris đầu 
thế kỷ 20. Sự ra đời chính thức của nó, theo nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật, được 
đánh dấu bằng sự ra đời của tác phẩm “Những cô gái Avignon” (1907). Có thể nói, phái 
Lập thể là một trường phái hội họa nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Cũng như phái Dã thú trước 
đó, trường phái Lập thể không có một quá trình phát triển lâu dài. Dần dà khởi đầu từ 
1906-1907, trường phái hội họa này đạt đến cao trào những năm 1909-1912 và gần như 
kết thúc cùng với sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các nhà nghiên cứu cho 
rằng ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, trường phái Lập thể có phần nào đó liên 
quan đến chủ nghĩa Dã thú, là trường phái đề cao sự thuần khiết của nghệ thuật và quan 
tâm đến tạo hình trong nghệ thuật châu Phi. 
Đặc điểm nghệ thuật Lập Thể : 
 Chủ nghĩa lập thể đã tạo ra một cách nhìn thế giới hoàn toàn thay đổi , họa sĩ quan niệm 
nếu như nhìn sự vật theo quy luật thị giác thông thường, một điểm nhìn, là phiếm diện 
không thấy được hình ảnh toàn diện của sự vật , họ chủ trương nhin từ nhiều điểm nhìn 
khác nhau tổ hợp trên cùng một sự vật . 
 Nghệ thuật lập thể chia làm 3 thời kỳ  I. 
Từ năm 1907-1909 Lập thể Kỳ hà ( Lập thể Cezanne ) : nghiên cứu về hình thể của sự vật 
và quy về hình kỳ hà đơn giản, gợi mở cho các họa sĩ đẩy cao hơn việc nghiên cứu về các hình  thể của sự vật.  II. 
Từ năm ( 1909-1912 ) Lập thể phân tích : Phá vỡ hình thể tự nhiên của sự vật bố cục và 
cấu trúc gồm nhiều hình , góc vẽ đè lên nhau, nhiều hình riêng xếp lên nhau một cách hài hòa 
tạo thành những hình thù gợi cảm, tháo rời các bộ phận thành từng mảnh sau đó lắp ráp lại 
theo nhận thức của họa sĩ để đạt được hình thể mới đem lại cho người xem được cốt lõi chủ 
yếu của nghệ thuật. Nhà thơ Apollinaire đã gọi phong cách đó là lập thể phân tích. Chủ nghĩa 
lập thể để đạt tới đỉnh cao có lúc nó xa rời hẳn hình hài bên ngoài của sự vật, thể hiện theo trí 
tưởng tượng và xúc cảm của họa sĩ.  III. 
Từ năm ( 1912-1914 ) Lập thể tổng hợp : Phong cách này giàu tính trang trí , đã bỏ cách 
dùng từng mảng hình nét trong bố cục để đi vào một thể tổng hợp các đồ vật trên mặt phẳng rõ 
ràng và dễ nhìn hơn . Lập thể tổng hợp tạo sự vật mới chưa từng thấy có trong thiên nhiên , 
được người họa sĩ sáng tạo ra , hoàn toàn tuân theo ý niệm của minh về sự vật . Hình thể cuối 
cùng có khi không còn bóng dáng gì của nguyên mẫu , mà chi còn là một tổ hợp của rất nhiều  mảng khối, chất liệu. 
 Với quan niệm trên , Lập thể hoàn toàn khước từ hiện thực, chuyển sang cách nhìn cách 
giải quyết của Hội họa trừu tượng . Họ coi khuynh hướng này là con đường tất yếu dẫn 
đến hội họa Trìu tượng. 
 Trường phái Lập thể quan niệm có hai loại hình thức hữu cơ và hình thức có thể nhận 
thấy cảm thấy. Nguyên tắc lập thể đưa ra nhiều điểm nhìn thu nhận ở nhiều dạng từng 
khác nhau của sự vật tổng hợp lại thành các thụ cảm thị giác ghi nhận hình ảnh một cách  toàn vẹn nhất. 
 Nghệ thuật lập thể là sự tìm tòi thay đổi về chất liệu: chủ trương tìm chất liệu mới ngoài 
sơn dầu. Tranh được thể hiệu bằng chất liệu tổng hợp, ngay trên mặt tranh các chất 
liệu đã cho ta cảm giác về khối. Lập thể còn dùng kỹ thuật cắt dán. Tranh Lập thể ban 
đầu chú trọng tìm hình thể mới, sau đó tìm cách thể hiện nhiều hòa sắc mới lạ, phù hợp 
với mỹ cảm công nghiệp. Những danh hoạ tiêu biểu cho trường phái này là Picasso,  Georges Braque,...  PICASSO ( 1881-1973 ) 
Picasso sinh ngày 25/10/1881 ở Malaga thuộc Tây Ban Nha , thường được biết tới với tên Pablo 
Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Picasso được coi là một 
trong những họa sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng 
lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc. Ông là một trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong 
top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ XX. Cha ông làm nghề dạy vẽ và có sở thích vẽ 
chim bồ câu, 14 tuổi Picasso vào học Mỹ thuật Barcelona , sau đó học trường Mỹ thuật Madrit. 
Bức vẽ đầu tiên của Picasso được đăng bảo năm 1900, khi ông 19 tuổi.  - 
Từ ( 1901-1904 ): Giai đoạn màu lam với những tác phẩm Người đàn bà bên bờ biển , 
Ngôi nhà xanh, Hai người Do Thái Thằng hề, Bữa ăn của một người mù …  - 
Từ ( 1905-1906 ): Giai đoạn màu hồng chứa chất nhiều xúc cảm buồn nản, chán chưởng 
của Picasso thể hiện rõ trong các tác phẩm được sử dụng bằng các motip “ đường nét ” họa sĩ 
miêu tả cuộc sống hết sức nặng nhọc của những người sống lang thang với những tác phẩm: Em 
bé đứng trên quả cầu , Gia đình ...  - 
Từ 1907 : Picasso vẽ bức tranh Những cô gái Avignon . Bức tranh được coi là tác phẩm 
mở đầu cho một xu hướng nghệ thuật mới. Điều làm cho mọi người sửng sốt đó là cách Picasso 
vẽ khỏa thân. Tranh của ông những hình người đc gọt đẽo như những pho tượng. Trong việc đề 
xướng Chủ nghĩa Lập thể , Picasso đi từ sự khái quát hóa có tính tổng hợp và tính hình học theo 
thần thái nghệ thuật của Cezanne đến sự tăng cường tính phân tích các hình thể thành từng 
yếu tố hình học , khiến cho các hình tượng dường như bị tiêu hủy hoàn toàn cái chất thực vốn  có của chúng.  - 
Từ 1912 : Picasso và các họa sĩ Lập thể khác thôi không còn miêu tả hay phân tích các 
vật thể có thực vào sáng tác của mình mà thay vào đó là những bức tranh “ cắt dán ” hay những 
tác phẩm với sắc màu hư ảo. 
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân 
cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã 
được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức 
trong Nội chiến Tây Ban Nha.  Geogre Braque ( 1882-1963 ) 
Năm 1908 Braque vẽ hàng loạt phong cảnh Estaque, sau khi xem tranh, nhà phê bình Luix 
Vauxcelle đã gán cho tên Lập thể. Ông là người đầu tiên cắt dán chữ , dùng bàn chải , lược tạo 
nét .... đã dạng hóa chất liệu trong sáng tác . 1909- 1911 : ông cũng Picasso chuyển sang Lập thể 
phân tich - 1912 : ông sáng tác tranh cắt dán đầu tiên . - 1913 : chuyển sang phong cách Lập thể 
tổng hợp với bức tranh Đàn guilar và chương trình phim . 
Tổng kết nghệ thuật Lập Thể : 
Tóm lại, chủ nghĩa Lập thể là một trong những trào lưu hội họa lớn nhất thế kỷ XX. Sự ra đời của 
chủ nghĩa Lập thể đã mở ra sự bùng nổ về hình thức theo hướng chia cắt một cách hình học 
hóa, được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao mặc dù thời gian tồn tại không dài. Đây chính là 
tiền đề cho các họa sĩ thế hệ tiếp theo, bứt phá ra khỏi các khuôn khổ và sáng tạo, mở đường 
cho một loạt các trào lưu hội họa có cách biểu đạt cao và tạo hình mới mẻ, phóng khoáng.  LIÊN HỆ : 
 Tóm lại, trường phái Lập thể là một trong những trào lưu hội họa lớn nhất thế kỷ 20. Sự 
ra đời của trường phái Lập thể đã mở ra sự bùng nổ về hình thức theo hướng chia cắt 
một cách hình học hóa, được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao mặc dù thời gian tồn 
tại không dài. Đây chính là tiền đề cho các họa sĩ thế hệ tiếp theo, bứt phá ra khỏi các 
khuôn khổ và sáng tạo, mở đường cho một loạt các trào lưu hội họa có cách biểu đạt 
cao và tạo hình mới mẻ, phóng khoáng. 
- Một số thiết kế em đã lm theo trường phái lập thể: thiết kế bìa sách ‘ Làm Đĩ”- Vũ Trọng 
Phụng: nhờ việc sử dụng các hình khối , mảng màu xen kẽ đã khiến tranh vẽ cô gái khỏa 
thân ko còn tục tĩu mà đầy tính nghệ thuật, gây hiệu ứng thị giác mạnh 
- Tranh vẽ con mèo trong thiết kế thiệp chúc năm mới: hình cô đọng, hàm súc chỉ từ những 
hình cơ bản, con mèo có dù không giống thật hay mượt mà, mềm mại nhưng vẫn rất có hồn 
từ thể hiện đôi mắt. 
 Là trường phái nổi tiếng, nó cũng ảnh hưởng rất nhiều tới phong cách hiện đại. Tuy 
nhiên, những mảng màu độc đáo, xen kẽ đã tạo nên những mảng hình khối tuyệt vời tạo 
hiệu quả thị giác mới lạ, kịch tính, trừu tượng. 
 Có thể nói, lập thể được đưa vào trong đồ họa với những khối màu nổi bật, hình dáng 
trừu tượng. Điều quan trọng là nó được kết hợp với nhau một cách ăn ý. Bạn có thể thấy 
sự hòa quyện hoàn hảo đem lại cảm giác đã mắt, ấn tượng mạnh với người xem để dễ 
truyền tải thông tin.    Câu 5: Trừu tượng 
- Mỹ thuật ứng dụng cũng như các ngành thiết kế nói chung luôn bị ảnh hưởng bởi tinh thần 
thời đại và những dòng nghệ thuật chủ lưu chi phối nghệ thuật thời kỳ đó. Trong thiết kế đồ 
họa ứng dụng hiện nay, có thể có sự ảnh hưởng của rất nhiều xu thế nghệ thuật đương đại, 
mang tính chất thời đại như các trào lưu nghệ thuật Hiện đại (Lập thể, Biểu hiện, Trừu tượng, 
Siêu thực…). Các họa sĩ thiết kế biết tiếp thu, phát triển và kế thừa tính thẩm mỹ ở một trong 
những trào lưu hội họa chủ lưu lúc bấy giờ, đó là hội họa trừu tượng. Sự ảnh hưởng của trừu 
tượng tạo thành những tác phẩm thiết kế đồ họa mang sắc thái mới đạt đến tính sáng tạo của 
nghệ thuật mới. Các yếu tố ngôn ngữ của hội họa trừu tượng như màu sắc ,điểm, tuyến, diện, 
cả tư duy hình tượng cũng như các thành tố chủ quan và tình cảm rất gần gũi với tư duy hiện 
đại vị nhân sinh trong thiết kế mỹ thuật ứng dụng và đặc biệt là thiết kề đồ họa hiện đại.   
1. Nghệ thuật trừu tượng: 
-Thuật ngữ “Trừu tượng” (Abstract) dùng để chỉ những gì khái quát, chung nhất của tư duy. 
Trừu tượng hóa là khả năng tổng hợp, khái quát để chọn ra những đặc điểm, tính chất chung 
nhất, tiêu biểu nhất của một hay nhiều sự vật, hiện tượng. 
- Hội họa Trừu tượng hay còn là trào lưu nghệ thuật “không hình tượng” hay nói cách khác 
nghệ thuật không lây vật thể làm đối tượng sáng tác, không căn cứ vào thực tế để vẽ mà chỉ 
sáng tác theo chủ quan của nghệ sĩ. Nghệ thuật trừu tượng ra đời vào đầu thế kỷ XX đã làm 
thay đổi cơ bản nghệ thuật tạo hình trên thế giới. Từ đây, phản ánh hiện thực không còn là nỗi 
ám ảnh của họa sỹ nữa. 
Lịch sử, nguồn gốc ra đời trường phái Trừu tượng : 
Nghệ thuật hiện đại đầu thế kỷ XX tạo nên một cuộc cách mạng trong thế giới nghệ thuật bằng 
sự khai phá , đổi mới của ngôn ngữ nghệ thuật. Cùng một lúc đầu thế kỷ XX xuất hiện nhiều 
khuynh hướng nghệ thuật khác nhau như : Lập thể, Trừu tượng, Biểu hiện, Vị lai, Siêu thực . 
Mặc dù cùng chung xuất phát điểm là mang tính phi hiện thực, phản đối mục đích tái hiện thế 
giới hiện thực như nghệ thuật cũ, nhưng mỗi trào lưu nghệ thuật này đều xây dựng cho mình 
những tôn chỉ, quan niệm. Một trong những trào lưu điển hình cho lý tưởng này là nghệ thuật  Trìu tượng. 
Chủ nghĩa Trừu tượng là nghệ thuật không hình tượng hay nói cách khác là nghệ thuật tạo hình 
không lấy vật thể làm đối tượng , không căn cứ vào thực tế để vẽ mà chì sáng tác theo cảm 
quan của nghệ sĩ. Về xuất xứ ra đời của nghệ thuật Trừu tượng : Có nhiều ý kiến về xuất xứ của 
nghệ thuật Trừu tượng :  - 
Tranh Trừu tượng xuất hiện ở Nga với các tác phẩm của Kandinsky , Malevich.  - 
1909 các họa sĩ Lập thể ủng tác một cách tự do các phương tiện hội họa , không lệ thuộc 
vào hiện thực tạo nên nghệ thuật Trừu tượng.  - 
Chủ nghĩa Trừu tượng chẳng qua là một nghệ thuật mới sản sinh trong hoàn cảnh mới.  - 
Ý kiến được mọi người tán đồng nhiều nhất là sự xuất phát ban đầu của nó rất giản dị 
khi Kandinsky phát hiện ra rằng tự thân các màu đều có tiếng nói riêng, giúp họa sĩ thể hiện 
những tư duy tình cảm mà không cần phải mượn cảnh vật để biểu hiện. 
Đặc điểm nghệ thuật Trừu Tượng : 
Ở nghệ thuật Trừu tượng khó tìm thấy hình tượng cụ thể , hay đề tài , chủ đề của tác phẩm. 
Ngôn ngữ sử dụng những ký hiệu trìu tượng rất khó lĩnh hội một cách thông thường. Trừu  tượng chia làm 2 nhánh:  - 
Trừu tượng trữ tình : Kandinsky đại diện bởi sự gợi cảm của đường nét, sự sôi động của 
màu sắc trong tranh, tranh đầy chất thơ, sinh ra từ tâm hồn thơ  - 
Trừu tượng cấu trúc : Modrian làm đại diện, ông tra sự chính xác mang tính hình học, sự 
kết hợp mang tính nhịp điệu của đường nét và màu sắc nhưng vẫn cân bằng về cảm xúc.  Họa sĩ tiêu biểu 
Kandinsky ( 1886-1944 ) là họa sỹ trừu tượng và nhà lý luận về nghệ thuật trừu tượng đầu tiên. 
Ông là người khai sinh ra chủ nghĩa trừu tượng. Kandinsky diễn đạt những xúc cảm nội tâm chủ 
yếu bằng tác dụng của màu sắc . Thời kỳ đầu nghệ thuật của ông ảnh hưởng từ nghệ thuật Dã 
thú. Từ khi sáng lập ra nghệ thuật trừu tượng , nghệ thuật của ông là tiêu biểu cho phong cách 
hội họa nay. Năm 1910 ông viết sảng lý luận về hội hoạ Trừu tượng. Với ông nghệ thuật là cái 
rất riêng tư , rất chủ quan của mỗi tác giả trong một hoàn cảnh nào đó , nó là nhu cầu của tâm 
linh Kandinsky chủ chương dùng màu nguyên chất tươi tắn và mạnh mẽ hoặc màu bổ túc rực rỡ 
tươi sáng với những hình thể trừu tượng bằng nét, hình học.  Ông chia làm 3 sáng tác :  - 
Cảm xúc ngoại cảnh để vẽ : Cảm giác  - 
Nội tâm thôi thúc tạo cảm hứng vẽ : Ngẫu hứng đột phá  - 
Có suy nghĩ sắp đặt mà vẽ : Bố cục 
Tác phẩm tiêu biểu của ông : Màu vàng màu đỏ màu xanh , Bố cục , Hải chiến,…  Paul Klee ( 1879-1940 ) 
Paul Klee là một họa sỹ Thụy Sĩ và sống gần hết cuộc đời ở Đức, là họa sỹ kiêm nhạc sỹ. Ông thử 
nghiệm phương pháp mới về xử lý hình thể : liên kết đường nét, bỏng mở và màu sắc dần dần 
hình thể xuất hiện. Klee là họa sỹ điều sắc lớn nhất của lịch sử hội họa và là người sử dụng đồng 
nét xuất sắc, tranh ông cũng rất giàu chất thơ. 
Tác phẩm: Cá vàng, Dune giữa rừng gió thu, Đêm xanh, Vườn hoa hồng,…  Mondrian ( 1872-1944 ) 
Ông là người Hà Lan, chịu ảnh hưởng lớn tử Lập Thế nhưng lại khước từ lập thể. Ông thường 
ngả về lý tưởng thần học, cho rằng nét ngang nét dọc đối nhau thể hiện tinh hoa của cuộc sống. 
Tranh ông loại trừ hình tròn trong tác phẩm chỉ còn đường ngang dọc, hình vuông , chữ nhật và  màu sắc trong tác phẩm. 
Tác phẩm : Cây táo , Cây táo nở hoa , Bố cục Đỏ xanh vàng , Bố cục và lưới , Broadway Boogie,..  Malevitch ( 1878-1935 ) 
Họa sĩ người Nga. Ban đầu ông vẽ theo bút pháp Hiện thực sau đó vẽ theo khuynh hướng Lập 
thể. Tiêu biểu cho nghệ thuật Trừu tượng với tác phẩm Hình vuông đen - Hình vuông của 
Malevitch trở thành biểu tượng của nền nghệ thuật mới , ảnh hưởng tới nhiều tranh của họa sĩ 
và các công trình kiến trúc thời đó . 
Tác phẩm : Hình vuông đen , Hình vuông đỏ và đen , Chủ nghĩa tối thượng 50, Tám hình chữ  nhật màu đỏ. 
Tổng kết nghệ thuật Trừu tượng 
Nghệ thuật Trừ Tượng ra đời thu hút nhiều họa sĩ và làm thay đổi cơ bản nghệ thuật tạo hình 
trên thế giới . Từ những năm 1930 trở đi nghệ thuật tạo hình trong hình thức này hay những 
hình thức khác là bộ mặt tiêu biểu và thường gặp nhất thế kỷ XX .  LIÊN HỆ 
2. Sự ảnh hưởng giữa hội họa trừu tượng trong thiết kế đồ họa: 
- Giai đoạn đầu thế kỷ XX, hai cuộc chiến tranh thế giới đã xảy ra, thời gian giữa các cuộc chiến 
tranh được đánh dầu bằng những biến động xã hội và kinh tế sâu sắc trong các nước công 
nghiệp. Năm 1919, trường thiết kế Bauhaus được thành lập ở Weimar. Bauhaus được coi là cái 
nôi của chủ nghĩa Công năng hiện đại. Ở Bauhaus, người ta đề cao những nguyên tắc cơ bản, 
đặc biệt là nguyên tắc bố cục, lý thuyết màu sắc cơ bản. Wassily Kandinsky, Paul Klee, Modrian 
là những giáo sư giảng dạy về lý thuyết tạo hình và nhấn mạnh vào lý thuyết màu. Thiết kế đồ 
họa thời kỳ này chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa cấu trúc và hội họa trừu tượng. Như thiết 
kế áp phích (Hình 1) ta thấy các nhà thiết kế đương thời sử dụng những mảng miếng hình khối 
cơ bản kết hợp trong bố cục, màu sắc sử dụng là những màu sắc rực rỡ, những màu “nguyên” 
kết hợp đặt cạnh nhau. Cách sử dụng yếu tố tạo hình này khác hẳn với lối thiết kế minh họa 
quảng cáo những sản phẩm cùng thời thường vẽ những hình trực quan của vật thể. 
- Một thế kỷ qua đi, đồ họa ứng dụng phát triển rất mạnh mẽ. Ấn phẩm đồ họa sử dụng các yếu 
tố cơ bản của trừu tượng ngày càng nhiều và đa dạng lĩnh vực hơn. Nếu khởi đầu ấn phẩm đồ 
họa sử dụng ngôn ngữ trừu tượng thường gắn với những trường thiết kế mỹ thuật, rồi lan dần 
sang lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật (như âm nhạc, thời trang, lễ hội…) và đến giờ xuất hiện gần 
như ở tất cả các lĩnh vực khác (dịch vụ, thương mại…). Có chăng yếu tố trừu tượng được sử 
dụng ở mức độ nào đó. Ảnh hưởng của hội họa trừu tượng trong thiết kế đồ họa được hiểu 
nghĩa sát hơn là việc sử dụng ngôn ngữ trừu tượng vào trong thiết kế đồ họa. Ngôn ngữ trừu 
tượng đưa vào trong thiết kế sẽ chia thành 2 cấp bậc: 
- Sử dụng hoàn toàn các yếu tố tạo hình trong hội họa trừu tượng vào thiết kế (phi vật thể  khách quan). (Hình 2). 
- Sử dụng một phần các yếu tố tạo hình của hội họa trừu tượng vào trong thiết kế (vẫn còn vật 
thể khách quan). (Hình 3). 
Giá trị ngôn ngữ hội họa trừu tượng trong sáng tác thiết kế: 
 Quá trình sử dụng yếu tố tạo hình của hội họa trừu tượng vào trong thiết kế đồ họa làm 
gia tăng giá trị cho tác phẩm, làm tác phẩm thiết kế trở nên nghệ thuật hơn, mang tinh 
thần của hội họa trừu tượng và vẫn đáp ứng được công năng vốn có của sản phẩm ứng 
dụng. Với ấn phẩm sử dụng ngôn ngữ tạo hình trừu tượng sẽ có giá trị cao về lịch sử,  văn hóa và nghệ thuật. 
 Nghệ thuật thiết kế đồ họa có sự dịch chuyển từ thiết kế đơn thuần hình tượng sang thể 
hiện có gợi ý từ các xu hướng hội họa hiện đại. Trên tinh thần miêu tả sự vật, đối tượng 
nhưng nhà thiết kế bắt đầu quan tâm chi tiết hơn đến hình ảnh sinh động có nội dung 
truyền tải phù hợp với tình hình xã hội. 
 Giá trị nghệ thuật thiết kế: Yếu tố nổi bật trong cả hội họa trừu tượng và ấn phẩm đồ 
họa đó là màu sắc. Cách sử dụng màu sắc và những mảng màu ngoài yếu tố tác động 
mạnh đến thị giác, nó còn biểu đạt sâu sắc về văn hóa. Màu sắc có ngôn ngữ riêng của 
nó mà chúng ta phải tự cảm nhận, có sức mạnh làm tâm hồn chúng ta rung động. 
 Ấn phẩm đồ họa sử dụng ngôn ngữ trừu tượng tức sẽ mang luôn cái tinh thần trừu 
tượng tức là cảm xúc. Cảm xúc ai cũng có nhưng nó mạnh hơn ở người nghệ sĩ, chính vì 
vậy ấn phẩm đồ họa sử dụng ngôn ngữ trừu tượng hoàn toàn sẽ thích hợp với những đề 
tài về nghệ thuật, các sự kiện/ chương trình nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, thiết kế,  thời trang. 
 Bên cạnh đó, đối với những dạng ấn phẩm đồ họa thương mại hoặc chính trị thì yếu tố 
thông tin và thông điệp rõ ràng để ai cũng lĩnh hội được nên yếu tố trừu tượng sẽ được 
người thiết kế tiết chế bớt đi, chỉ sử dụng một phần, bổ sung và tương trợ cho yếu tố 
minh họa khác trong tác phẩm. Dạng tác phẩm kết hợp này sẽ vẫn rõ ràng về hình ảnh 
về nội dung mà vẫn ngập tràn cảm xúc trong tác phẩm, cảm xúc mà người thiết kế định 
hướng để người xem sẽ phải có. 
 Ấn phẩm đồ họa sử dụng ngôn ngữ trừu tượng trong thiết kế sẽ có giá trị cao về mặt 
nghệ thuật. Họa sĩ thiết kế phải khai thác những ngôn ngữ khác biệt (ngôn ngữ trừu 
tượng) tạo nên những biểu đạt khác làm tác phẩm thiết kế của mình độc đáo, nổi bật 
mang nhiều giá trị về mặt nghệ thuật. Người xưa vẫn nói “ít lời nhiều ý”, đúng với mọi 
lúc mọi thời điểm, thiết kế sử dụng yếu tố tạo hình trừu tượng cũng vậy, cái cuối cùng 
đọng lại với người xem chính là cảm xúc. 
 Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng. Trí tuệ và sự sáng tạo trong các lĩnh vực 
khoa học cập nhật liên tục, nhịp sống công nghiệp đòi hỏi phải tiết kiệm thời gian. Khả 
năng nhận thức và tiếp nhận của con người chỉ có mức độ. Vì vậy, đòi hỏi người nghệ sĩ 
phải có ý tưởng và tư duy tổng hợp, chắt lọc, khái quát cao trong tạo hình và màu sắc 
phản ánh sâu sắc đặc điểm đối tượng cần quảng bá.  Ngày nay các nhà thiết kế 
(designer) trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã khai thác ứng dụng cái đẹp 
của các tác phẩm nghệ thuật hội họa trừu tượng vào trong tạo hình sản phẩm nghệ 
thuật thiết kế ứng dụng như thiết kế Thời trang, Kiến trúc, Nội thất, Đồ họa v.v… trong 
đời sống xã hội đương đại. Họ muốn phá bỏ ranh giới giữa nghệ thuật với thiết kế 
(design). Và sự kết hợp tinh tế giữa hai lĩnh vực nghệ thuật ấy đã tạo ra một đời sống 
mới cho Mỹ thuật ứng dụng phục vụ nhân loại. 
 Cho đến ngày nay vẫn có ảnh hưởng quyết định lên thẩm mỹ hiện đại, đặc biệt là nghệ 
thuật thiết kế, áp dụng vào trong thiết kế và Tạo dáng công nghiệp, Thương mại, Kiến 
trúc, Nội thất, Thời trang… trong đời sống xã hội hàng ngày. Nghệ thuật trừu tượng, 
cũng như các trường phái hội họa hiện đại khác, không thể hiện một cách hiện thực như 
mắt nhìn thấy mà biểu thị những ý niệm, cảm xúc của nghệ sỹ về một vài nét nào đó của  đối tượng. 
Các nhà thiết kế đương thời sử dụng những mảng miếng hình khối cơ bản kết hợp trong bố cục, 
màu sắc sử dụng là những màu sắc rực rỡ, những màu “nguyên” kết hợp đặt cạnh nhau. Cách 
sử dụng yếu tố tạo hình này khác hẳn với lối thiết kế minh họa quảng cáo những sản phẩm cùng 
thời thường vẽ những hình trực quan của vật thể. 
VD :Poster của Coca Cola sử dụng mảng miếng lặp lại vs màu sắc rực rõ để tạo hình