lOMoARcPSD| 61601779
LUYỆN TẬP TTHCM
Câu 1: Vai trò của văn hoá
- Văn hoá là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
+ Văn hoá là mục tiêu: Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với kinh
tế, chính trị, hội, thì văn hoá cũng nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến
trình cách mạng. Trong ởng Hồ Chí Minh, văn hoá mục tiêu, nói một cách
khát quát, là quyền sống, quyền tự do, quyền sung sướng, quyền được hưởng hạnh
phúc; khát vọng về các giá trị chân, thiện, mỹ của nhân dân. Đó là một hội dân
chủ (dân là chủ dân làm chủ), công bằng, văn minh, ai cũng được cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành; một hội đời sống tinh thần vật chất của nhân dân
luôn được quan tâm, không ngừng nâng cao. Con người đầy đủ điều kiện để phát
triển toàn diện.
+ Văn hoá động lực: Động lực các yếu tố, nhân tố thúc đẩy hội phát triển,
bao gồm động lực tinh thần vật chất, động lực cộng đồng và nhân, ngoại lực
và nội lực,… Tất cả đều quy tụ tại con người đềuthxem xét dưới góc nhìn
của văn hoá. Động lực của văn hthể được nhận thức các phương diện sau:
Văn hoá chính trị thì soi đường cho quốc dân di, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc
lập, tự cường, tự chủ; Văn hoá nghệ thuật nâng cao lòng yêu nước, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí quyết tâm, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách
mạng; Văn hoá giáo dục diệt giặc dốt, xoá nạn chữ, giúp cho con người hiểu
biết quy luật phát triển của xã hội; Văn hoá đạo đức nâng cao phẩm giá con người,
hướng con người đến các giá trị chân thiện mỹ; Văn hoá pháp luật bảo đảm trật tự,
kỷ cương, phép nước, dân chủ.
- Văn hoá một mặt trận: Văn hoá một trong bốn nội dung chính của đời sống
kinh tế-xã hội, quan trọng ngang với các vấn đề kinh tế, hội, chính trị. Nói mặt
trận văn hoá là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính chất độc lập, có mối quan hệ
chặt chẽ với các lĩnh vực khác; đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của
hoạt động văn hoá. Mặt trận văn hoá là cuộc chiến đấu cách mạng trên các lĩnh vực
văn hoá-tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hoá đa dạng, đấu tranh trên các lĩnh vực
tưởng, đạo đức, nối sống,…của các hoạt động văn nghệ, công tác lập luận, báo
chí, đặc biệt là định hướng giá trị chân thiện mỹ của văn hoá nghệ thuật. Văn hoá là
một mặt chận chiến đấu trên lĩnh vực văn hoá, nên các anh chị em văn nghệ sĩ đều
là một chiến sĩ trên chiến trường ấy. Giống như những chiến khác, chiến nghệ
thuật cũng có nhiệm vụ phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Để làm tròn nhiệm vụ
ấy, người chiến nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng vững chắc, ngòi bút là vũ
khí sắc bén, phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
những thói lãng phí, ời biếng, quan liêu, tham ô, ca tụng sự chân thành cũng
lOMoARcPSD| 61601779
những con người tốt, để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con em
ta ngày sau. Hồ Chí Minh từng nói “dân tộc ta một dân tộc anh hùng, thời đại ta
một thời đại vẻ vang”, vậy chiến nghệ thuật phải c tác phẩm phù hợp
với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
- Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân. tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng
hạnh phúc của của nhân dân. tưởng về n hoá của người cũng là nhân dân,
phục vụ cho nhân dân. Theo người, mọi hoạt động văn hoá phải trở về cuộc sống
thực tại của quần chúng, phản ánh tư tưởng và khát vọng của quần chúng. Văn hoá
phục vụ quần chúng thì phải miêu tả cho hay, cho thật và cho hùng biện, phải trả lời
được các câu hỏi: Viết cho ai, mục đích viết, lấy liệu đâu viết, viết như thế
nào? Chiến sĩ văn hoá phải phản ánh đúng quần chúng. Quần chúng là những người
sáng tác rất hay. chính họ cũng những người thẩm định khách quan, chính xác,
trung thực về các sản phẩm nghệ thuật. Nhân dân phải người hưởng thụ các giá
trị văn hoá.
Vận dụng: Ngày nay một bộ phận sinh viên rời xa truyền thống, lịch sử, văn hoá dân
tộc, lãng quên, thơ với dòng nhạc cách mạng, truyền thống, dòng nhạc dân xa, du
nhập những tưởng văn hoá tiêu cực, không phù hợp với thuần phong mỹ tục; đam
các trò chơi điện tử ảnh hưởng sức khoẻ. Trước những thử thách khó khăn
đất nước phải đối mặt, một sinh viên, em sẽ phấn đấu, rèn luyện bản thân tốt những
kỹ năng cần thiết; tích cực tham gia các cuộc thi tuyên truyền về lịch sửu hào hùng,
truyền thống văn hoá của dân tộc; tuyên truyền văn hoá tốt đẹp của dân tộc đến với mọi
người; phê phán biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân tương ái của tuổi trẻ.
Câu 2: Đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của
cách mạng. Trong tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải một
sách lược hay một thủ đoạn chính trị mà một chiến lược lâu dài, nhất quán của cách
mạng Việt Nam. Người nói rõ: Sử dạy ta rằng: c nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì
bị nước ngoài xâm lược.” Đây là vấn đề mang tính sống còn của n tộc Việt Nam
nên chiến lược này được duy trì trong cả cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cuộc cách mạng hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những
yêu cầu nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có
thể và cần thiết điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song không
bao giờ thay đổi chủ trương, đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì đó là nhân tố quyệt định
đến sự thành bại của cách mạngg. Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm mạng tính chất chân lý về vai
trò sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết sức mạnh của
lOMoARcPSD| 61601779
chúng ta”, “Đoàn kết một lực lượng địch của chúng ta”, Bây giờ còn một
điểm quan trọng, cũng là điểm mẹ, điểm này mà
thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: đó là đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận
“ĐOÀN KẾT, ĐOÀN KẾT, ĐẠI ĐOÀN KẾT
THÀNH CÔNG, THÀNH CÔNG, ĐẠI THÀNH CÔNG”
- Đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đối với Hồ Chí
Minh , đại đoàn kết không chỉ khẩu hiệu chiến lược còn mục tiêu lâu dài
của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng, nên tất yếu đại đoàn kết toàn
dân tộc phải được xác định nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Nhiệm vụ này phải
được triển khai trên mọi lĩnh vực từ đường lối, chính sách, chủ trường tới mọi hoạt
động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết ở buổi ra mắt Đảng lao động Việt Nam, Hồ
Chí Minh i: “Mục đích của Đảng Lao Động thể bảo gồm 8 chữ: ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Cách mạng sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng quần chúng. Đại đoàn kết toàn dân yêu cầu khách
quan của cách mạng, đồi hỏi khahcs uqan của nhân dân trong cuộc đấy tranh tự
giải phóng. Bởi, nếu không đại đoàn kết thì họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì
quyền lợi của chính mình. Nhận thức được điều đó, Đảng phải sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng chuyển từ những đòi hỏi khách quan, tự phát thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Tất cả vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Vận dụng: Nhận thức được vai trò của đại đoàn kết toàn quân, quán triệt được tư tưởng
đại đoàn kết vấn đề sống còn của dân tộc, sinh viên, em sẽ gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ của một công dân; tuyên truyền, vận động gia đình nhân dân trên địa bàn
thực hiện các chủ trương của đảng nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng. Tích cực
tham gia các hoạt động tổ chức của Đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền về tưởng đại
đoàn kết dân tộc. Tham gia vận động gia đình, hàng xóm tham gcác phong trào
thi đua yêu nước, xây dựng mối quan hệ gắn đại đoàn kết, xây dựng đời sống văn
hoá ở khu mình sống. )
Câu 3: Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc (lần 1)
- Độc lập dân tộc quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
mỗi người dân mất nước, cái quý nhất độc lập của Tổ Quốc, tự do của bản thân
và dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh, để bảo vệ cho nền độc lập dân tộc. Điều
đó trở thành giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh cũng là
hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập n tộc: “Độc lập cho tổ quốc tôi, tự do
cho đồng bảo tôi, đó tất cả những điều i muốn, đó tất cả những điều tôi hiểu”.
Trong suốt cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh thì người đã phấn đấu, hi sinh cho
mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong suốt hành trình đó thì Hồ Chí Minh đã tiếp thu
lOMoARcPSD| 61601779
những giá trị của các quan điểm trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu những giá trị
về quyền con người, từ đó nâng lên thành quyền dân tộc. Quyền độc lập, tư do được
Bác thể hiện trong suốt quá trình hình thành tưởng của mình, ở thực tiễn chỉ đạo
cách mạng của Người: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng tháng 8,…
“Nước Việt Nam có quyển hưởng tự do và độc lập, sự thật đã trở thành một nước
tự do, độc lập” (Tuyên ngôn độc lập). Sau y, khi thực dân Pháp đế quốc Mỹ
lăm le xâm lược nước ta thì Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định “Không có quý
hơn độc lập tự do” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mĩ). Đây không chỉ là tư tưởng
mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời, đây cũng
nguồn động viên, khích lệ cho toàn bộ nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân
các dân tộc bị áp bức quyết tâm giành lại độc lập. vậy, Người không chỉ được tôn
vinh “ Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam, n được thừa nhận
người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ
XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự dọ, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc của nhân dân và đây là vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc: “nước độc lập dân còn đói, rét thì độc lập đó
không có ý nghĩa”. Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn liền với cơm no, áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong
hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu “ Chúng ta phải làm cho
dân ăn, làm cho dân mặc, làm cho dân chỗ ở, làm cho dân học nh”.
Thông qua những câu chuyện, những quan điểm, tư tưởng của Bác, ta thấy được cả
cuộc đời của Người đều hướng tới mục tiêu độc lập cho dân tộc, cuộc sống đầy đủ,
ấm lo cho nhân dân.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình
đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
các chính phủ nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi “độc lập tự dogiả hiệu cho
nhân dân các nước thuộc địa, những thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn cướp”,
“giết người” của chúng. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự,
hoàn toàn triệt để trên tất cả lĩnh vực. Độc lập phải gắn liền với hoà bình, trong
đó bảo đảm nguyên tắc về sự công bằng trong mối quan hệ quốc tế, không sự
phân biệt giữa các quốc gia nhỏ và quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đây
đủ để chống lại sự xâm phạm của bên ngoài, chứ không phải dựa dẫm vào các nước
khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Trong lịch sử đấu tranh
giành độc lâoj dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ
thủ. Thực dân Pháp khi xâm lược chia nước ta thành 3 kỳ, mỗi kì có 1 chế độ cai trị
riêng. Hay sau cách mạng Tháng Tám, miền bắc ớc ta thì bị quân ởng Giới
lOMoARcPSD| 61601779
Thạch chiếm đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược. Khát vọng của Hồ Chí
Minh và nhân dân ta là giải phóng dân tộc, thống nhất non sông. Khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ thì chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam, Sông
có thể cạn, Núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, toàn vẹn lãnh thổ tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc (lần 2)
- Độc lập dân tộc quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
những người dân mất nước thì cái quý nhất độc lập cho Tổ Quốc, tự do cho bản
thân dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh để bảo vệ độc lập cho Tổ Quốc. Điều
đó đã trở thành một giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
ng hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập của dân tộc: “Độc lập cho tổ quốc
tôi, tự do cho đồng bào tôi. Đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi
hiểu”. Trong suốt cuộc đời của mình, Bác đã phấn đấu, hi sinh cho mục tiêu độc lập
của dân tộc. Trên hành trình ấy, Người đã tiếp thu những giá trị của các quan điểm
trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu gtrị về quyền con người, sau đó nâng lên
thành quyền dân tộc. Quyền tự do, độc lập được Hồ Chí Minh thể hiện trong suốt
quá trình hình thành tưởng của mình, thực tiễn chỉ đạo cách mạng: Bản yêu
sách của nhân dân An Nam, Cách mạng Tháng Tám, …. Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do, độc lập, sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.” (Tuyên ngôn
độc lập). Sau này, khi thực dân Pháp đế quốc Mỹ lăm le xâm lược ớc ta thì
Người đã một lần nữa khẳng định “Không quý hơn độc lập tự do” (Lời kêu
gọi kháng chiến chống Mỹ). Đây không chỉ tư tưởng còn lẽ sống, học thuyết
cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời đây còn là lời động viên, khích lệ nhân dân
trên khắp cả nước nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới quyết tâm giành
lại độc lập. Vì vậy, Hồ Chí Minh không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng
dân tộc” của Việt Nam, mà còn được công nhận là người khởi xướng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân đây nội dung cốt lõi trong tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: “Nước độc lập nhân dân còn đói, rét, thì độc
lập đó không có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập dân tộc còn gắn liền với m no, áo
ấm, hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước
hoàn cảnh nhân dân đói, rét, chữ. Hồ Chí Minh u cầu: “Chúng ta phải…làm
cho dân ăn, làm cho dân mặc, làm cho dân chỗ ở, làm cho dân học hành.”
Thông qua những câu chuyện, quan điểm, tưởng của Hồ Chí Minh, thì thấy cả
lOMoARcPSD| 61601779
cuộc đời người đều hướng tới mục tiêu độc lập cho dân tộc, cuộc sống đầy đủ, ấm
lo cho nhân dân.
- Độc lập dân tộc nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình đi
xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
các chỉnh phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi “độc lập, tự do” giả hiệu, thực
chất để che giấu cái bản chất “ăn cướp”, “giết người” của chúng. Theo Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc phải là nên độc lập thực sự, hoàn toàn, triệt để trên mọi lĩnh
vực. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, bảo đảm các nguyên tắc bình đẳng
trong mối quan hệ quốc tế, không có sự phân biệt giữa các quốc gia lớn và các quốc
gia nhỏ. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống quân m lược chứ không
phải là dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong suốt lịch sử đấu
tranh giành độc lập dân tộc, nước ta luôn được trước âm ưu chia cắt đất nước của kẻ
thù. Khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã chia nước ta thành 3 kì, mỗi kì có một
chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, nước ta bị chia làm hai miền, miền
Bắc bị quân của ởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc
chiếm hoàn toàn. Khát vọng của Hồ Chí Minh nhân dân cả nước luôn giải
phóng dân tộc, thống nhất non sông. Khi thực dân Pháp xâm lược ớc ta, trong bức
thư gửi đồng bào Nam Bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi”. tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc toàn
vẹn lãnh thổ tưởng xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 3: Độc lập dân tộc (lần 3)
- Độc lập dân tộc quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
mỗi người dân mất nước, thì cái quý nhất độc lập cho Tổ Quốc, tự do cho bản
thân dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh để bảo vệ độc lập cho Tổ Quốc. Điều
đó đã trở thành điều thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh cũng
là hiện thân cho mục tiêu, khát vọng của độc lập dân tộc: “Độc lập cho Tổ Quốc tôi,
tự do cho đồng bảo tôi. Đó là tất cả những tôi muốn, đó tất cả những tôi
hiểu”. Trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh thì Người luôn phấn đấu, hi sinh cho
mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong hành trình ấy, người đã tiếp thu những giá trị
của các quan điểm trên thế giới. Ban đầu, người tiếp thu những gtrị của quyền
con người, sau đó nâng lên thành quyền dân tộc. Quyền tự do, độc lập được Hồ Chí
Minh thể hiện trong suốt quá trình hình thành tưởng của mình, thực tiễn chỉ đạo
cuộc cách mạng: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng Tháng Tám,…
“Nước Việt Nam quyền được hưởng tự do, độc lập thực sự đã trở thành một
nước tự do, độc lập” (Tuyên ngôn độc lập). Sau này khi thực dân pháp đế quốc
mỹ lăm le xâm lược nước ta, Người một lần nữa khẳng định: “Không có gì quý hơn
lOMoARcPSD| 61601779
độc lập, tư do” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mĩ). Đây không chỉ là tư tưởng mà
còn là lẽ sống, học thuyết cách mạng của HChí Minh. Đồng thời, đó còn lời
động viên, khích lệ nhân dân cả nước và nhân dân các nước bị áp bức bóc lột quyết
tâm chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.
Chính vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh “Anh hùng giải phóng dân tộc” của
Việt Nam, còn được công nhận người khởi xướng cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước bị áp bức bóc lột trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải hướng tới tự do, hạnh phúc của nhân dân, đây nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: “ Nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập đó
không có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập gắn liền với cơm no, áo ấm, hạnh phúc của
nhân dân. Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước hoàn cảnh nhân
ta đói, rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “ chúng ta phải…làm cho dân có ăn, làm
cho dân mặc, làm cho dân chỗ ở, làm cho dân học hành.” Thông qua những
câu chuyện, tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, ta thấy trong suốt cuộc đời,
Người luôn hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ Quốc, cuộc sống ấm no, đầy đủ cho
nhân dân.
- Độc lập dân tộc phải nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình
xâm ợc các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
những chính quyền bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu,
thực chất để che giấu cái bản chất “ ăn cướp”, “giết người” của chúng. Theo Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải nên độc lập thực sự, hoàn toàn, triệt để trên mọi
lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, bảo đảm các nguyên tắc bình
đẳng trong mối quan hquốc tế. Không sự phân biệt giữa các quốc gia nhỏ
các quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống giặc ngoại xâm,
chứ không phải là dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong suốt lịch sử đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc, nước ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của
kẻ thù. Khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp chia nước ta thành ba kì, mỗi
một chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân của
Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc chiếm hoàn toàn.
Khát vọng của Hồ Chí Minh nhân dân ta luôn giành độc lập cho tổ quốc,
thống nhất toàn vẹn non sông. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong bức thư
Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ, Người khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông thể cạn, núi thể mòn, song chân đó không bao giờ
thay đổi.” tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
Quốc, toàn venh lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 61601779
Câu 4: Phân tích nguyên tắc hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tập trung dân chủ; Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Tập trung dân chủ: Đây nguyên tắc tổ chức bản nhất để xây dựng Đảng trở
thành một tổ chức chặt chẽ vừa phát huy được sức mạnh của mỗi người, vừa phát
huy được sức mạnh của tập thể. Tập trung: thống nhất về đường lối, ý chí, hành
động trong Đảng, “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng câos trên, bộ
phận phục tùng toàn thể, địa phương phục tùng trung ương, mọi đảng viên phải chấp
nhận vô điều kiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng”. Dân chủ: là tạo
điều kiện cho mọi Đảng viên phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến, có quyển bảo lưu
ý kiến. Theo Hồ Chí Minh, “Tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của một vấn đề, có
mối quan hệ biện chứng cho nhau.
Tập trung dân chủ luôn thống nhất, gắn chặt chẽ: Tập trung trên cơ sở dân chủ
nhằm chống quan lưu, độc đoán chuyên quyền. Dân chủ đi tới tập trung là cơ sở tập
trung, chứ không phải tổ chức, tuỳ tiện, phân tán “Tập trung trên nền tảng dân
chủ” “dân chủ dưới dự chỉ đạo của tập trung”. Phải chống thói Chính Phủ.
Điều kiện tiên quyết khi thực hiện nguyên tắc này là tổ chức phải trong sạch, vững
mạnh.
- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Hồ Chí Minh gọi đây là nguyên tắc lãnh đạo,
chế độ lãnh đạo của Đảng. Theo Người, nguyên tắc y quan hệ mật thiết với
nguyên tắc trên: “ Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”. Tập
thể lãnh đạo, nhân phụ trách dân chủ tập trung. Khi xây dựng nghị quyết, đường
lối, chính sách phải được tập thể bàn bạc, thảo luận. Hồ Chí Minh giải thích: Nhiều
người góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề mới được thấy rõ
mọi mặt”, “khôn bầy hơn khôn độc”, “Lãnh đạo không tập thể sẽ dẫn tới độc đoán,
bao biện, kết quả là hỏng việc.” Khi tập thể đã thảo luận, góp ý kiến, đã thành nghị
quyết thì theo đó mà thi hành. Thực hiện cá nhân phụ trách nghĩa là “ Việc gì đông
người bàn bạc kỹ lường rồi, kế hoạch ràng rồi, thì cần phải giao cho một người
hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch làm, như thế công việc mới chạy.”
“Không nhân phụ trách sẽ sinh ra tệ người này uỷ cho người kia, không ai thi
hành”. Kết quả “Việc cũng không xong”. Thực hiện nguyên tắc này phải linh
hoạt: “Không thể việc nhỏ nhặt vụn vặt cùng chờ tập thbàn bạc”, không thể vin
vào trách nhiệm cá nhân “để lấn át tập thể, dẫn đến độc đoán chuyên quyền”.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây
dựng, củng cố và giữ gìn khối đoàn kết trong Đảng và dân tộc, coi đó là sinh mệnh,
vấn đề sống còn của Đảng, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là nhân
tố tạo nên sức mạnh, quy luật tồn tại trưởng thành của Đảng. Theo Người, giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng là công việc, phải tiến hành thường xuyên, chứ
không phải giải pháp tình thế; yêu cầu tất yếu khách quan. Xây dựng sự đoàn
lOMoARcPSD| 61601779
kết thống nhất trong Đảng phải bắt đầu từ chi bộ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ
tốt thì mọi việc đều tốt”. Để giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong chi bộ, cần
tập trung vào ng tác đẩy mạnh giáo dục chính trị, tôn trọng lẫn nhau của các cán
bộ đảng viên. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết
và giác ngộ chính trị của mỗi đảng viên.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng có ý nghĩa cực kì quan trọng, vừa nhiệm vụ lâu
dài, vừa nhiệm vụ cấp bạch. Ngay từ khi thành lập cũng như các thời khác nhau
của cách mạnh, đoàn kết thống nhất vấn đề sống còn của cách mạng, điều
kiện thống nhất toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi., là nguyên tắc cơ bản
vị trí hàng đầu trong tổ chức hoạt động của Đảng. Đồng thời, Đảng coi sự chia
rẽ trong nội bộ Đảng là tội ác lớn nhất đối với Đảng.
Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình, đó ;à
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Đảng viên
ở cương vị lãnh đạo, giữ chức vụ càng quan trọng, càng phải gương mẫu và thường
xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình một cách trung thực, phải biết nghe sự phê bình
thẳng thắn cùa cấp ới, của đảng viên, của quần chúng để khắc phục, sửa chữa
những sai lầm thiếu sót.
Câu 4: Tập trung dân chủ + Đoàn kết thống nhấ trong Đảng
- Tập trung dân chủ: nguyên tắc bản nhất trong việc xây dựng Đảng trở thành
một tổ chức chặt chẽ, vừa phát huy được sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy
được sức mạnh của tập thể. Tập trung thống nhất đường lối, ý chí, hành động
trong Đảng. “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, bộ phận phục
tùng đoàn thể, địa phương phục tùng trung ương, mọi Đảng viên phải chấp hành vô
điều kiện các Điều lệ Đảng, c nghị quyết, chỉ thị của Đảng” Dân chủ tạo điều
kiện cho Đảng viên phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến có quyền bảo lưu ý kiến.
Theo Hồ Chí Minh, “tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của vấn đề, có quan hệ biện
chứng với nhau. Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: “Tập trung
trên cơ sở dân chủ” để chống thói quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền.
“Dân chủ để đi tới tập trung” là cơ sở của tập trung, chứ không phải vô tổ chức, tuỳ
tiện, phân tán. “Tập trung trên nền tảng dân chủ” và “Dân chủ phải dưới sự chỉ đạo
của tập trung”, chống thói vô Chính Phủ. Điều kiện tiên quyết để thực hiện nguyên
tắc trên thì là tổ chức phải trong sạch, vững mạnh.
- Tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách: Hồ Chí Minh gọi đây nguyên tắc lãnh đạo,
chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này có quan hệ mật thiết với nguyên tắc trên.
Tập thể lãnh đạo dân chủ, nhân phụ trách tập trung. Tập thể lãnh đạo,
nhân phụ trách dân chủ tập trung. Khi xây dựng nghị quyết, chính sách, đường
lối cần được tập thể bàn bạc, thảo luận. Người giải thích: “nhiều người góp kinh
nghiệm sự xem xét của nhiều người thì vấn đề mới được thấy mọi mặt.” “Khôn
lOMoARcPSD| 61601779
bầy hơn khôn độc”. “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ dẫn tới độc đoán, bao biện, kết
quả là hỏng việc.” Khi tập thể đã bàn luận, đưa ra nghị quyết, thì cứ theo đó mà thi
hành. “nhân phụ tránh” nghĩa khi việc đã được đông người bàn bạc, kế
hoạch rõ ràng rồi, thì phải giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo
kế hoạch làm, thì công việc mới chạy. Không nhân phụ trách sẽ dẫn tới tệ
người này uỷ người kia, không ai thi hành. Kết quả việc cũng không xong.
Thực hiện nguyên tắc này cần linh hoạt. Chđể việc nhỏ nhặt ng chờ tập thể
bàn bạc, không vin trách nhiệm nhân “lấn át tập thể, dẫn tới độc đoán, chuyên
quyền”.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng,
củng cố, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người coi đó sinh mệnh, vấn
đề sống còn của Đảng, nền tàng cho khối đại đoàn kết dân tộc, nhân tố tạo ra
sức mạnh, quy luật tồn tại trưởng thành của Đảng. Hồ Chí Minh xem việc giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng một công việc phải tiến hành thường xuyên,
chứ không phải là một biện pháp tình thế; là yêu cầu tất yếu khách quan.
Xây dựng đoàn kết thống nhất trong đảng phải bắt đầu từ chi bộ. Hồ CMinh khẳng
định: Chi btốt thì mọi việc đều tốt”. Để củng cố, giữ gìn đoàn kết thống nhất
trong chi bộ thì phải chú trọng đến việc giáo dục chính trị, tưởng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, bồi dưỡng tình u thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau giữa các
đảng viên. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải bắt nguồn từ sự hiểu biết giác
ngộ của mỗi Đảng viên.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng vấn đề ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa
nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách. Ngay từ khi mới thành lập cũng như
các thời kì khác nhau của cách mạng, đoàn kết thống nhất trong đảng luôn vấn đề
tính chất sống còn của cách mạng, điều kiện đoàn kết toàn n đưa cách
mạng đến thắng lợi, nguyên tắc bản vị trí hàng đầu trong tổ chức hoạt
động của Đảng. Đảng coi việc chia rẽ trong nội bộ Đảng tội ác lớn nhất đối với
Đảng.
Đảng phải thực hiện dân chủ rộng rãi, thường xuyên phê bình, tự phê bình, đó
cách tốt nhất để củng cố và phát triển đoàn kết, thống nhất trong đảng. Phê bình, tự
phê bình không phải công việc nhất thời, phải được thực hiện thường xuyên
mọi cấp bộ đảng đối với mọi đảng viên. Đảng viên cương vị lãnh đạo, giữ
chức vụ càng quan trọng thì càng phải gương mẫu, thường xuyên tự phê bình bản
thân một cách trung thực, phải biết lắng nghe lời phê bình của cấp dưới, đảng viên
khác và quần chúng nhân dẫn để khắc phục sửa đổi những sai lầm, thiếu sót.
Câu 5: Phân tích nguyên tắc hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: tự phê bình
và phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
lOMoARcPSD| 61601779
- Tự phê bình và phê bình: Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đàng,
quy luật phát triển của Đảng. Phê bình nêu ưu điểm khuyết điểm của đồng
chí mình. Tự phê bình nêu ưu điểm khuyết điểm của bản thân mình. Tự p
bình và phê bình là để nhận rõ ưu khuyết điểm của bản thân mình và đồng chí mình
để có hướng phát huy và khắc phục. Với mỗi cán bộ, đảng viên Hồ
Chí Minh nói: “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm”. Phải tự phê bình trước, phải biết mình phải quấy chỗ nào trước khi phê bình
người khác. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” phải hiểu là như vậy.
- Mục đích của phê bình tự phê bình: đphát huy ưu điểm, khắc phục khuyết
điểm, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ. Chính là cách mỗi người tự đánh giá
để vừa thấy được “cái hay”, “cái dở” của mình, vừa tạo điều kiện để những người
xung quanh đóng góp ý kiến, giúp bản thân sửa chữ khuyết điểm, phát huy ưu điểm,
giúp nhau tiến bộ, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm; làm cái ác mất dần đi, cái
thiện nảy nở sinh sôi, để làm việc tốt hơn; toàn Đảng sẽ dần hết khuyết điểm, ưu
điểm ngày càng nhiều thêm.
- Thái độ tinh thần tự phê bình: Triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt;
phải tinh thần nhân ái, “phê bình việc làm chứ không phê bình người”; “không
soi mói chua cay, mỉa mai, đâm thọc”; không phải đập cho tơi bời, không trù dập
người phê bình mình.
- Phương pháp phê bình: Công khai có tổ chức; phải thực sự dân chủ, mềm dẻo, khéo
léo; phải cụ thể, chính xác, nói sách, mách có chứng. Phê bình trong nội bộ Đảng
đồng thời tự phê bình trước quần chúng. Người nói: “dân ta rất tốt, ai khuyết
điểm mà thành thật tự phê bình trước dân, quyết tâm sửa chữa thì dân sẵn sàng tha
cho”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục, đảm bảo công khai, dân chủ, ttrên xuống
từ dưới lên, gắn với sửa chữa, biểu dương, khen thưởng thì mới phát huy được
tác dụng. Trong tự phê bình và phê bình cần tránh tình trạng: sợ mất thành tích của
tập thể, của lãnh đạo mà che giấu khuyết điểm, hoặc bao che, chạy tội cho đồng chí
mình. Tình trạng phê bình tự phê bình như vậy chẳng khác nào “cũng như
bệnh giấu bệnh. Không m uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không
chết “cũng la lết qudưa”. Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng
chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế khác nào thấy đồng chí nh
ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết
điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình.”
Câu 1: Vai trò của văn hoá.
- Văn hoá là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp cách mạng.
lOMoARcPSD| 61601779
+ Văn hoá là mục tiêu, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Như vậy, cùng với chính
trị, xã hội và kinh tế, văn hoá cũng nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình
cách mạng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hoá mục tiêu, nói một cách
khái quát, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền u cầu hạnh
phúc; là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân thiện mỹ. Đó là một xã hội dân
chủ (dân chủ, n làm chủ), công bằng, n minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành; một hội đời sống của nhân dân được quan tâm không
ngừng nâng cao, con người có điều kiện để phát triển toàn diện. + Văn hoá là động
lực. Động lực những yếu tố, nhân tố góp phần thúc đẩy hội phát triển, bao gồm
động lực vật chất tinh thần, động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực.
Tất cả quy tụ tại con người, và có thể được xem xét dưới góc độ văn hoá. Động lực
của văn hoá có thể nhận thức các phương diện chủ yếu sau: Văn hoá chính trị
ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ. Văn hoá đạo đức ng cao phẩm giá của con người, ớng con người
đến những giá trị chân thiện mỹ. n hoá văn nghệ giúp nâng cao lòng yêu ớc,
tình cảm đồng đội, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm niềm tin vào một chiến thắng
cuối cùng của cách mạng. Văn hoá giáo dục diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ giúp
con người hiểu được quy luật phát triển của xã hội. Văn hoá pháp luật đảm bảo trật
tự, kỷ cương, phép nước và dân chủ.
- Văn hoá một mặt trận. Văn hoá một trong bốn nội dung chính của đời sống
kinh tế-xã hội, quan trọng ngang với các vấn đề kinh tế, chính trị, hội. Nói n
hoá là một mặt trận là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính chất độc lập, có quan
hệ chặt chẽ với c lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt
của hoạt động văn hoá. Mặt trận văn hoá là một cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh
vực văn hoá, tưởng. Nội dung của văn hoá phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực
tưởng, đạo đức, lối sống,… của hoạt động nghệ thuật, báo chí, ng tác luận,
đặc biệt là định hướng giá trị chân thiện mỹ trong văn hoá nghệ thuật. Mặt trận văn
hoá là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hoá, vì vậy mỗi anh chị em nghệ
sĩ đều là một chiến sĩ. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
phụng sự Tổ Quốc, phục sự nhân dân. Đ hoàn thành nhiệm vụ ấy, chiến nghệ
thuật phải lập trường ởng vững vàng; ngòi bút khí sắc bén. Người chiến
sĩ nghệ thuật phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
những thói lãng phí, tham nhũng, quan liêu, lười biếng và ca tụng sự chân thật của
những người tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay giáo dục con cháu ta
đời sau. Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta một dân tộc anh hùng, thời đại ta một
thời đại vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ nghệ thuật phải có những tác phẩm xứng đáng với
dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
lOMoARcPSD| 61601779
- Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân. tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát
vọng hạnh phúc của nhân dân. tưởng của Người về văn hoá cũng là vì nhân dân,
phục vụ cho nhân dân. Theo người, mọi hoạt động văn hoá phải trở về với đời sống
thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng khát vọng của quần chúng. Văn
hoá phục vụ quần chúng phải miêu tả cho hay, cho thật, phải trả lời được các câu
hỏi: Viết cho ai, viết như thế nào, tài liệu đâu mà viết, mục đích viết? Văn hoá phải
hiểu phản ánh đúng quần chúng. Quần chúng những người sáng tác rất, cũng
là những người thẩm định khách quan, chân thực và chính xác
các sản phẩm nghệ thuật. Nhân dân phải những người hưởng thụ các giá trị văn
hoá.
- Vận dụng: Hiện nay, giới trẻ Việt Nam đã bcuốn vào những hoạt động văn hoá
tiêu cực, không phù hợp. Họ rời xa văn hoá, truyền thống các giá trị nghệ thuật
của dân tộc; lãng quên dòng nhạc ch mạng, dòng nhạc dân ca. Họ cũng bị cuốn
theo các loại game online, gây ảnh hưởng tới sức khoẻ vè học tập. Là một sinh viên
nói chung và sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội nói chung thì em nghĩ mình phải
trước hết phải nhận thức đầy đủ về vai trò của văn hoá truyền thống trong đời
sống hiện tại. Em sẽ học tập các tinh hoa n hoá trên thế giới một cách chọn
học, đồng thời luôn ý thức giữ gìn truyền thống văn hoá n tộc. Tích cực tham
gia các cuộc thi của Đoàn trường về tuyên truyền văn hoá truyền thống của dân tộc.
Em sẽ tuyên truyền cho bạn bè và gia đình cũng nhau giữ gìn truyền thống văn hoá
dân tộc và nên án phê phán những người đang làm xấu văn hoá nước nhà.
Câu 2: Chuẩn mực đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư nội dung cố lõi của đạo đức cách mạng, đó
những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người.
vậy, Hồ CMinh đã đề cập phẩm chất y nhiều nhất, thường xuyên nhất. Cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư cùng là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là khái niệm cũ về
đạo đức truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh đã loại bỏ những nội dung không
phù hợp thêm vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. + Cần
tức là “siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả
hơn, thì phải kế hoạch trong mọi công việc. Cần tức lao động cần cù, siêng
năng, kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, phải thấy rõ: “Lao động nghĩa vụ thiêng liêng,
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta
+ Kiệm là tiết kiệm, không lãng phí, không xa xỉ, không bừa bãi. Kiệm là tiết kiệm
sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền bạc của bản thân, của nhân dân, của
đất nước; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén. Tiết kiệm không
phải bủn xỉn. Việc không cần làm thì một xu cũng không được tiêu, việc đáng
lOMoARcPSD| 61601779
làm, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước thì tốn bao nhiêu tiền, mất bao nhiêu
công, cũng vui lòng. Việc đáng tiêu không tiêu bủn xỉn chứ không phải biết
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Kiệm luôn đi đôi với Cần, như hai
chân của con người. Hồ Chí Minh yêu cầu: phải cần kiệm xây dựng nước nhà”. +
Liêm là trong sạch, không tham lam, là liêm khiết, luôn tôn trọng giữ gìn của công,
của dân. “Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc mình”, vì vậy mà thấy quang minh chính đại.
Chỉ một thứ ham học học, ham làm, ham tiến bộ. Chữ Liêm phải đi đôi với
chứ Kiệm, như chữ Kiệm đi đôi với chữ Cần. Có kiệm thì mới liêm được. + Chính
tức không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Cái không thẳng thắn, đứng đắn tức
tà. Chính được thể hiệntrong 3 mối quan hệ: “Đối với mình, chớ tự cao, tự đắc.
Đối với người, chớ kinh thường người dưới, nịnh hót người trên. Đối với việc, thì
phải đặt việc ng, việc nước lên trên việc nhà, việc tư.” Việc thiện nhmấy
cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh cho rằng các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với
nhau, ai cũng phải thực hiện. Song các cán bộ, đảng viên phải người thực hiện
trước để làm gương cho nhận dân. Người thưởng nhắc nhở cán bộ, viên chức, nhân
viên trong công sở đều ít hay nhiều quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở thành sâu mọt của dân.
+ Chí công hoàn toàn lợi ích chung, không lợi; hết sức công bằng,
không thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân của
đất nước lên trên hết, trước hết; chỉ biết Đảng, dân “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”. Chí công chống chủ nghĩa nhân. Chí công về thực chất
tiếp nối của “cần, kiệm, liêm, chính”. Người quan niệm: “Một dân tộc biết cần
kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần; là một dân tộc
văn minh, tiến bộ.” Cần, kiệm, liêm, liêm, chính còn là nền tảng cho đời sống mới,
của các phong trào thi đua yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt,
thì phải hội tụ đầy đủ cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần kiệm liêm chính
bốn đức tính bản của con người, như bốn mùa của trời, bốn phương của đất.
Thiết một đức thì không thành người.
Vận dụng: Hiểu được các giá trị cốt lõi của 4 phẩm chất cần kiệm liêm chính,
một sinh viên, em sẽ tích cực lao động rèn luyện đạo đức thật tốt. Kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh lười biếng và lối sống hưởng thụ. Đồng thời,
em sẽ lên án, tố cáo các trường hợp quan liêu, tham những. Trong thi cử, em sẽ
nghiêm túc, trung thực làm bài, không thành tích những hành vi gian lận.
Câu 3: Đại đoàn kết dân tộc.
- Đaị đoàn kết dân tộc vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải
lOMoARcPSD| 61601779
là một sách lược hay một thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của
cách mạng Việt Nam. Người nói rõ: “Sử dạy ta rằng lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì đất nước độc lập, tự do; trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì
bị nước ngoài xâm lấn.” Đây vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam,
nên chiến lược này ợc duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chnhân dân
cách mạng hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn, trước những yêu cầu nhiệm
vụ khác nhau, chính ch phương pháp đại đoàn kết toàn dân tộc thể cần
thiết điều chính cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Song, không bao giờ
thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân
tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Từ thực tiễn xây dựng khối đãn đoàn
kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành những luận điểm mang tính chân
lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của
chúng ta”, “Đoàn kết lực lượng địch của chúng ta”. “Bây giờ còn một điểm
rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt: đó đoàn kết.” Người đã đi đến kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu
dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng, nên tất yếu đại đoàn kết
dân tộc được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng phải được quán triệt trên
tất cả lĩnh vực từ đường lối, chinh sách, chủ trương tới mọi hoạt động thực tiễn của
Đảng. Trong lời kết của buổi ra mắt Đảng Lao Động Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “Mục đích của Đảng Lao Động có thể bao gồm 8 chữ sau Đoàn Kết Toàn
Dân, Phụng Sự Tổ Quốc”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng
quần chúng. Đại đoàn kết n tộc yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng, nếu không đoàn kết thì họ sẽ tự thất bại trong cuộc chiến vì lợi ích của chính
mình. Nhận thức được điều đó, Đảng phải sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hưỡng dẫn
quần chúng, chuyển từ những đòi hỏi khách quan, tự phát thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức
mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
hạnh phúc cho con người.
Vận dụng: Nhận thức được vai trò quan trọng của đại đoàn kết dân tộc với sự sống
còn của dân tộc, sinh viên em sẽ tự ý thức về trách nhiệm của nh trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Em sẽ gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân,
đồng thời tuyên truyền cho mọi người xung quanh thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng Nhà nước. Em sẽ tích cực tham gia các hoạt động tổ
chức của Đoàn thanh niên về tưởng đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, em sẽ tham
lOMoARcPSD| 61601779
gia vận động các thành viên trong gia đình nhân dân địa phương nơi mình sống
xây dựng mối quan hệ gắn bó, đoàn kết với nhau, để tạo nên đời sống văn hoá tốt ở
quê nhà.
Câu 4: Tinh hoa văn hoá Phương Đông.
Chủ tịch HChí Minh đã tiếp thu một cách chọn lọc những tưởng văn hoá tiến
bộ của Phương Đông, thể kể đến Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, hay một số tương
tưởng tiến bộ như chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Cụ thể:
+ Nho giáo: Hồ Chí Minh phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực như: bảo vệ chế
độ phong kiến, trọng nam khinh nữ, phân chia đẳng cấp, kinh thường nghề lao động
chân tay, lao động hội, coi trọng thi cử, suy nghĩa bảo thủ, chỉ đề cao nghề đọc
sách,…; tiếp nhận những yếu tố tích cực, tiến bộ, đưa vào đó những nội dung và ý
nghĩa mới, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ của cách mạng: Quan điểm về một
hội lý tưởng “thế giới đại đồng”. Khổng Tử nói: “Thiên hạ sẽ thái bình, khi thế giới
đại đồng”. Quan niệm về triết nhân sinh, từ thiên tử đến thứ n đều phải lấy tu
thân làm gốc: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Quan niệm về đạo đức: nhân
nghĩa, lễ, trí, tín (thương yêu mọi người, sống ngay thẳng, lấy việc đáng làm thì làm,
thấy việc đáng nói thì nói, không mưu cầu cá nhân, tuân thủ những quy tắc ứng xử
trong gia đình ngoài hội, hiểu được lẽ phải, giữ được chữ tín). Đề cao học
hành chú trọng hiền tài. Quan niệm về thân dân, đối với người trị nước thì cần
lấy dân làm gốc: dân vi quý, tắc thứ chí, quân vi khinh. Dân vừa sức đẩy
thuyền, vừa có sức lật thuyền; được lòng dân thì bền vững, mất lòng dân thì sụp đổ.
+ Phật giáo: phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm, ngay cả khi Nho giáo đã trở thành
quốc giáo thì phật giáo vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn
trong văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục, tập quán,
lối sống,Đồng thời, Phật giáo cũng những yếu ttiêu cực: thế giới quan duy
tâm, tưởng an phận, bi quan yếu thế. Hồ Chí Minh đã loại bỏ những yếu tố hạn
chế của Phật giáo tiếp thu những ởng tiến bộ của Phật giáo như: tưởng
vị tha, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống đạo đức,
trong sạch, chăm làm việc thiện; Đề cao lao động, chống ời biếng; tưởng h
đồng (lục hoà). Phật giáo du nhập vào Việt Nam gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã hình thành nên dòng Phật
“Thiền phái trúc lâm”. Chủ trương sống gần gũi, gắn với cộng đồng, với dân, với
nước với cuộc đấu tranh của dân tộc. Những quan điểm tích cực trong triết
đạo Phật đã được Hồ Chí Minh vận dụng ng tạo để đoàn kết đồng bảo theo đạo
Phật, đoàn kết toàn n tộc một nước Việt Nam hoà nh, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh.
+ Lão giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa tưởng của Lão tử, khuyên con người sống
gắn bó, hoà đồng với thiên nhiên, ít lòng ham muốn vật chất, hành động đúng với
lOMoARcPSD| 61601779
quy luật của tự nhiên xã hội. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta tổ chức tết trồng cây
để bảo vệ môi trường sinh thái của chúng ta. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển
tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán
bộ, đảng viên ít tham muốn về vật chất, thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công
tư; hành động theo đạo đức với ý nghĩa hành động đúng với quy luật của tự
nhiên, xã hội.
+ Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Ngoài ra, còn có thể thấy những trích dẫn
về Lão Tử, Mặc Tử, Quân Tử trong những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng
như sau này, khi trở thành người mác-xit, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với
điều kiện của nước ta.” Các tiêu chí của chủ nghĩa tam dân là dân ch-độc lập, dân
quyền-tự do, dân sinh-hạnh phúc, đã được Người rút ngắn trong quốc hiệu của
nước ta “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. người mác-xít tỉnh táo sáng suốt, Hồ
Chí Minh đã khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hoá phương Đông
để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Vận dụng: Văn hoá phương Đông có nhiều mặt tốt, nhưng vẫn còn những hạn chế.
Là một sinh viên, em sẽ tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng văn hoá phương Đông.
Đặc trưng của văn hoá phương Đông khi hành động thì luôn nghĩa đến cộng đồng,
tập thể và xã hội. Sinh viên cần sống có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội, tránh
tư duy “tiểu nông”. Ta cần học tập lý thuyết gắn liền với thực hành.
Đồng thời, chúng ta cần nên án, phê phán những tư tưởng hạn chế.
Câu 5: Tinh hoa văn hoá phương Tây.
Tư tưởng văn hoá tiến bộ phương Tây đã chi phối con đường cứu nước của Hồ Chí
Minh là đúng.
Ngay từ khi còn học trường tiểu học Vinh (Nghệ An), Đông Ba (Huế), trường
quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hoá Pháp. Cũng trải qua thời kì ở
đây, Bác mới được nghe đến ba từ “Tự do, bình đẳng, bắc ái” từ những bài giảng
của thầy cô. Từ đó nảy sinh trong Người câu hỏi: “Đằng sau những từ Tự do bình
đẳng bác ái đó là gì?”. Hồ Chí Minh đã có bước chuyển mình quan trọng trong suy
nghĩ và hướng đi trong công cuộc tìm đường cứu nước. Người lựa chọn đi sang các
nước phương Tây, chứ không đi theo các tiền bối trước-những người bị ảnh hưởng
bởi giáo dục Nho giáo nên đã đi sang phương Đông. Bác thì hướng sang Pháp, đến
với tinh hoa văn hoá phương Đông với quan điểm “muốn đánh đuổi kẻ thù thì phải
biết được, hiểu rõ được kẻ thù thì mới đánh được.” Mở đầu trong hành trình, thì
người đến với n hoá Pháp, quê hương của tưởng Tự do, Bình đẳng, Bắc
Ái”, để Bác khám phá xem người Pháp họ làm như thế nào, đằng sau những từ đó
là gì.
lOMoARcPSD| 61601779
Ba mươi năm buôn ba tìm đường cứu nước, hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh
chủ yếu sống châu Âu, nên Người chịu nh hưởng sâu rộng của nền văn hoá
phương Tây.
+ tưởng dân chủ của các nhà tưởng phong trào Khai sáng như Vôn tê,
Rút xô, Mông tét xki ơ, thể hiện trong những tác phẩm “Khế ước hội” của Rút
(1762), “Tinh thần pháp luật” của Mông tét xki ơ (1748). Trong các tác phẩm
này nội dung định hướng cho việc xây dựng xã hội công dân (thiết chế dân chủ, thể
chế dân chủ, chế độ dân chủ) nhà nước pháp quyền (tam quyền phân lập) bảo
đảm cho công dân tự do, bình đẳng. Bác bước đầu hình thành được phong cách dân
chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiền.
+ Tư tưởng về quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
(1776), trong đó đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc; tưởng tự do bình bằng bác ái được ghi trong Tuyên ngôn nhân
quyền dân quyền của nước Pháp (1791), đề cập đến tưởng nhân văn, giải
phóng con người khỏi thần quyền sự thống trị của những mối quan hệ phong
kiến. Đồng thời, người cũng chỉ ra những hạn chế những nghịch đằng sau
những lời lẽ hoa mỹ đó sự bất bình đẳng nghèo đói của những người lao động,
là nạn nhân phân biệt chủng tộc với người da đen…”tiếng cộng hdân chủ,
kỳ thực trong thì ớc lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”. + Lòng
nhân ái cao cả của Thiên chúa giáo. Với tư duy nhạy bén và tinh thần đấu tranh
cho công và tự do của con người, Bác đã thấy được những quan điểm tốt đẹp của
Thiên chúa thay coi đó công cụ xâm lược như thực dân Pháp. Kế thừa lòng
nhân ái đức hi sinh của Thiên chúa giáo, Người hiện thân của lòng nhân ái ,
đức hi sinh cao cả khi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột.
Trong quá trình hình thành, phát triển hoàn thiện tưởng của mình về con đường
cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
vừa thâm tóm, gạn lọc để thể từ tầm cao trí thức nhân loại suy nghĩ, lựa chọn,
kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển tư tưởng nâng lên một trình độ mới.
Vận dụng: Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, sinh viên cần phát triển toàn diện là con
người văn hoá, thấm nhuần văn hoá dân tộc Việt Nam, năng lực tiếp thu văn hoá
nhân loại, làm giàu cho kho tàng trí thức của bản thân. Sinh viên cần có ý thức tiếp thu có
chọn lọc các nét văn hoá phương Tây. Người phương Tây sống tự do, phóng thoáng, theo
chủ nghĩa duy vật, tôn sùng lợi nhuận; có tư tưởng tình yêu phóng thoáng, giá trị hôn nhân
độc đáo, khác với chúng ta. Nên chúng ta cần tiếp thu vận dụng những điều tốt và bài
trừ những yếu tố hạn chế. Chúng ta cùng làm giàu vốn tri thức bản thân mang những
điều tốt đẹp ấy về cho đất nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận, tránh để những
lOMoARcPSD| 61601779
văn hoá đó làm xâm hại đến văn hoá cốt lõi của dân tộc. Chúng ta hãy cùng nhau giữn
và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trên con đường hội nhập quốc tế.
Câu 6: Độc lập dân tộc.
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối
với những người dân mất nước thì cái quý gnhất độc lập cho Tổ Quốc, tự do
cho bản thân dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh hi sinh để bảo vệ sự độc lập, do
cho dân tộc. Điều đó đã trở thành giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính
Hồ Chí Minh cũng hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập của dân tộc: Độc
lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi. Đó tất cả những tôi muốn, đó
tất cả những tôi hiểu.” Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã luôn phấn đấu,
hi sinh cho mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong hành trình đó, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu những giá trị quan điểm trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu giá trị về quyền
con người, từ đó nânng lên thành quyền dân tộc. Quyền độc lập, tự do được người
thể hiện trọng suốt quá trình hình thành tư tưởng của mình trong thực tiễn lãnh đạo
cuộc cách mạng: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng tháng 8,… “Nước
Việt Nam có quyền tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.”
(Tuyên ngôn độc lập). Sau này khi thực dân Pháp đề quốc Mỹ lăm le xâm lược
nước ta thì Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do.” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ). Đây không chỉ tưởng còn lẽ
sống, học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời đây cũng là nguồn động
viên cho nhân dân toàn quốc nhân dân các nước bị áp bức trên toàn thế giới,
quyết tâm đấu tranh giành lại độc lập. vậy, Người không chỉ được tôn vinh
“Anh hùng giải phóng dân tộc” còn được công nhận người khởi xướng cuộc
đấu tranh giải phóng trận các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đây là vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc: “nước độc lập dân còn đói,rét thì độc lập đó không
có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập dân tộc còn gắn với cơm no, áo ấm hạnh phúc
của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm
1945, trước hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta
phải…làm cho dânăn, làm cho dân mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân
học hành”. Thông qua những câu chuyện, những quan điểm, tưởng của H
Chí Minh, ta thấy được cả cuộc đời người đều hướng về mục tiêu độc lập, cuộc sống
ấm lo, hạnh phúc cho nhân dân.
- Độc lập phải nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình đi
xâm lược các nước , bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho nhân
dân các nước thuộc địa, nhưng thực chất nhằm che đậy bản tính “ăn cướp”
lOMoARcPSD| 61601779
“giết người” của chúng. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự,
hoàn toàn và triệt để trên các lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn với hoà bình, trong
đó bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế, không sự phân biệt giữa quốc
gia nhỏ quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống lại giặc
ngoại xâm, chứ không phải dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ Quốc, nước ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt của kẻ thù. Thực
dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta thành 3 kỳ, mỗi kỳ một chế đcai
trị riêng. Hay sau cách mạng Tháng Tám, miền bắc ớc ta bquân Tưởng Giới
Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc chiếm hoàn toàn. Khát vọng
của chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân cả ớc giải phóng dân tộc, thống nhất
non sông. Khi thực n Pháp xâm lược nước ta, trong bức thư gửi đồng o Nam
Bộ thì Hồ CMinh khẳng định: Đồng bào Nam Bộ là dân ớc Việt Nam,
sông có thể cạn, núi thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.” tưởng
độc lập gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, toàn vẹn lãnh thổ ởng xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Vận dụng: Để có nền độc lập ngày nay, đã có biết bao thế hệ anh cha ta đã ngã xuống,
hi sinh để giành được nó. sinh viên em sẽ ý thức trong việc giữ gìn bảo vệ
nền độc lập dân tộc. Em sẽ tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền chtrương
độc lập dân tộc của Đảng. Cùng với đó, em sẽ cảnh giác trước những hành động sai
trái, những tưởng chia rẽ do các thế lực thù địch tạo ra; gặp trường hợp nào thì báo
ngay cho cơ quan có thẩm quyền. Mỗi sinh viên cần cố gắng học tốt học phần giáo dục
quốc phòng để luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc. Tuyên truyền cùng nhau
học hỏi và làm theo Đạo đức Hồ Chí Minh.
Câu 7: Nguyên tắc trong hoạt động cuả Đảng: Tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất
trong đảng
- Tập trung dân chủ: Đây nguyên tắc tổ chức bản nhất để xây dựng Đảng trở
thành một tổ chức chặt chẽ vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức
mạnh của tập thể. Tập trung thống nhất về đường lối, ý chí, hành động trong Đảng,
“thiểu số phục tùng đa số, nhân phục tùng đoàn thể, cấp dưới phục tùng cấp
trên, địa phương phục tùng trung ương, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện
Điều lệ, các nghị quyết chỉ thị của Đảng”. Dân chủ là tạo điều kiện cho mỗi người
được phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến và bảo lưu ý kiến của mình. Theo Hồ Chí
Minh, “tập trung” “dân chủ” hai mặt của một vấn đề, quan hệ biện chứng
với nhau. Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: Tập trung trên cơ
sở dân chủ để chống quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Dân chủ để đi tới tập trung
sở của tập trung, chứ không phải thói tổ chức, tuỳ tiện, phân tán. “Tập trung

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601779 LUYỆN TẬP TTHCM
Câu 1: Vai trò của văn hoá
- Văn hoá là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
+ Văn hoá là mục tiêu: Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với kinh
tế, chính trị, xã hội, thì văn hoá cũng nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến
trình cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hoá là mục tiêu, nói một cách
khát quát, là quyền sống, quyền tự do, quyền sung sướng, quyền được hưởng hạnh
phúc; là khát vọng về các giá trị chân, thiện, mỹ của nhân dân. Đó là một xã hội dân
chủ (dân là chủ và dân làm chủ), công bằng, văn minh, ai cũng được cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành; một xã hội mà đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân
luôn được quan tâm, không ngừng nâng cao. Con người có đầy đủ điều kiện để phát triển toàn diện.
+ Văn hoá là động lực: Động lực là các yếu tố, nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển,
bao gồm động lực tinh thần và vật chất, động lực cộng đồng và cá nhân, ngoại lực
và nội lực,… Tất cả đều quy tụ tại con người và đều có thể xem xét dưới góc nhìn
của văn hoá. Động lực của văn hoá có thể được nhận thức ở các phương diện sau:
Văn hoá chính trị thì soi đường cho quốc dân di, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc
lập, tự cường, tự chủ; Văn hoá nghệ thuật nâng cao lòng yêu nước, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí quyết tâm, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách
mạng; Văn hoá giáo dục diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ, giúp cho con người hiểu
biết quy luật phát triển của xã hội; Văn hoá đạo đức nâng cao phẩm giá con người,
hướng con người đến các giá trị chân thiện mỹ; Văn hoá pháp luật bảo đảm trật tự,
kỷ cương, phép nước, dân chủ.
- Văn hoá là một mặt trận: Văn hoá là một trong bốn nội dung chính của đời sống
kinh tế-xã hội, quan trọng ngang với các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Nói mặt
trận văn hoá là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính chất độc lập, có mối quan hệ
chặt chẽ với các lĩnh vực khác; đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của
hoạt động văn hoá. Mặt trận văn hoá là cuộc chiến đấu cách mạng trên các lĩnh vực
văn hoá-tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hoá đa dạng, đấu tranh trên các lĩnh vực
tư tưởng, đạo đức, nối sống,…của các hoạt động văn nghệ, công tác lập luận, báo
chí, đặc biệt là định hướng giá trị chân thiện mỹ của văn hoá nghệ thuật. Văn hoá là
một mặt chận chiến đấu trên lĩnh vực văn hoá, nên các anh chị em văn nghệ sĩ đều
là một chiến sĩ trên chiến trường ấy. Giống như những chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ
thuật cũng có nhiệm vụ phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Để làm tròn nhiệm vụ
ấy, người chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng vững chắc, ngòi bút là vũ
khí sắc bén, phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
những thói lãng phí, lười biếng, quan liêu, tham ô, và ca tụng sự chân thành cũng lOMoAR cPSD| 61601779
những con người tốt, để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con em
ta ngày sau. Hồ Chí Minh từng nói “dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta
là một thời đại vẻ vang”, vì vậy chiến sĩ nghệ thuật phải có các tác phẩm phù hợp
với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
- Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng
hạnh phúc của của nhân dân. Tư tưởng về văn hoá của người cũng là vì nhân dân,
phục vụ cho nhân dân. Theo người, mọi hoạt động văn hoá phải trở về cuộc sống
thực tại của quần chúng, phản ánh tư tưởng và khát vọng của quần chúng. Văn hoá
phục vụ quần chúng thì phải miêu tả cho hay, cho thật và cho hùng biện, phải trả lời
được các câu hỏi: Viết cho ai, mục đích viết, lấy tư liệu đâu mà viết, viết như thế
nào? Chiến sĩ văn hoá phải phản ánh đúng quần chúng. Quần chúng là những người
sáng tác rất hay. Và chính họ cũng là những người thẩm định khách quan, chính xác,
trung thực về các sản phẩm nghệ thuật. Nhân dân phải là người hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Vận dụng: Ngày nay một bộ phận sinh viên rời xa truyền thống, lịch sử, văn hoá dân
tộc, lãng quên, thờ ơ với dòng nhạc cách mạng, truyền thống, dòng nhạc dân xa, du
nhập những tư tưởng văn hoá tiêu cực, không phù hợp với thuần phong mỹ tục; đam
mê các trò chơi điện tử ảnh hưởng sức khoẻ. Trước những thử thách và khó khăn mà
đất nước phải đối mặt, là một sinh viên, em sẽ phấn đấu, rèn luyện bản thân tốt những
kỹ năng cần thiết; tích cực tham gia các cuộc thi tuyên truyền về lịch sửu hào hùng,
truyền thống văn hoá của dân tộc; tuyên truyền văn hoá tốt đẹp của dân tộc đến với mọi
người; phê phán biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân tương ái của tuổi trẻ.
Câu 2: Đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của
cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải là một
sách lược hay một thủ đoạn chính trị mà một chiến lược lâu dài, nhất quán của cách
mạng Việt Nam. Người nói rõ: “ Sử dạy ta rằng: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì
bị nước ngoài xâm lược.” Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam
nên chiến lược này được duy trì trong cả cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những
yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có
thể và cần thiết điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song không
bao giờ thay đổi chủ trương, đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì đó là nhân tố quyệt định
đến sự thành bại của cách mạngg. Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm mạng tính chất chân lý về vai
trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “ Đoàn kết là sức mạnh của lOMoAR cPSD| 61601779
chúng ta”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta”, “ Bây giờ còn một
điểm quan trọng, cũng là điểm mẹ, điểm này mà
thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: đó là đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận
“ĐOÀN KẾT, ĐOÀN KẾT, ĐẠI ĐOÀN KẾT
THÀNH CÔNG, THÀNH CÔNG, ĐẠI THÀNH CÔNG”
- Đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đối với Hồ Chí
Minh , đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài
của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng, nên tất yếu đại đoàn kết toàn
dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Nhiệm vụ này phải
được triển khai trên mọi lĩnh vực từ đường lối, chính sách, chủ trường tới mọi hoạt
động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết ở buổi ra mắt Đảng lao động Việt Nam, Hồ
Chí Minh có nói: “Mục đích của Đảng Lao Động có thể bảo gồm 8 chữ: ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết toàn dân là yêu cầu khách
quan của cách mạng, là đồi hỏi khahcs uqan của nhân dân trong cuộc đấy tranh tự
giải phóng. Bởi, nếu không đại đoàn kết thì họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì
quyền lợi của chính mình. Nhận thức được điều đó, Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng chuyển từ những đòi hỏi khách quan, tự phát thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Tất cả vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Vận dụng: Nhận thức được vai trò của đại đoàn kết toàn quân, quán triệt được tư tưởng
đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, là sinh viên, em sẽ gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ của một công dân; tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân trên địa bàn
thực hiện các chủ trương của đảng và nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng. Tích cực
tham gia các hoạt động tổ chức của Đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền về tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc. Tham gia và vận động gia đình, hàng xóm tham giá các phong trào
thi đua yêu nước, xây dựng mối quan hệ gắn bó đại đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá ở khu mình sống. )
Câu 3: Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc (lần 1)
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
mỗi người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ Quốc, tự do của bản thân
và dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh, để bảo vệ cho nền độc lập dân tộc. Điều
đó trở thành giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh cũng là
hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập dân tộc: “Độc lập cho tổ quốc tôi, tự do
cho đồng bảo tôi, đó là tất cả những điều tôi muốn, đó là tất cả những điều tôi hiểu”
.
Trong suốt cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh thì người đã phấn đấu, hi sinh cho
mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong suốt hành trình đó thì Hồ Chí Minh đã tiếp thu lOMoAR cPSD| 61601779
những giá trị của các quan điểm trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu những giá trị
về quyền con người, từ đó nâng lên thành quyền dân tộc. Quyền độc lập, tư do được
Bác thể hiện trong suốt quá trình hình thành tư tưởng của mình, ở thực tiễn chỉ đạo
cách mạng của Người: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng tháng 8,…
“Nước Việt Nam có quyển hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước
tự do, độc lập”
(Tuyên ngôn độc lập). Sau này, khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
lăm le xâm lược nước ta thì Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mĩ). Đây không chỉ là tư tưởng
mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời, đây cũng
là nguồn động viên, khích lệ cho toàn bộ nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân
các dân tộc bị áp bức quyết tâm giành lại độc lập. Vì vậy, Người không chỉ được tôn
vinh là “ Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam, mà còn được thừa nhận là
người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự dọ, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc của nhân dân và đây là vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc: “nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập đó
không có ý nghĩa”
. Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn liền với cơm no, áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong
hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu “ Chúng ta phải làm cho
dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”.
Thông qua những câu chuyện, những quan điểm, tư tưởng của Bác, ta thấy được cả
cuộc đời của Người đều hướng tới mục tiêu độc lập cho dân tộc, cuộc sống đầy đủ, ấm lo cho nhân dân.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình
đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho
nhân dân các nước thuộc địa, những thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn cướp”,
“giết người” của chúng. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự,
hoàn toàn và triệt để trên tất cả lĩnh vực. Độc lập phải gắn liền với hoà bình, trong
đó bảo đảm nguyên tắc về sự công bằng trong mối quan hệ quốc tế, không có sự
phân biệt giữa các quốc gia nhỏ và quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đây
đủ để chống lại sự xâm phạm của bên ngoài, chứ không phải dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong lịch sử đấu tranh
giành độc lâoj dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ
thủ. Thực dân Pháp khi xâm lược chia nước ta thành 3 kỳ, mỗi kì có 1 chế độ cai trị
riêng. Hay sau cách mạng Tháng Tám, miền bắc nước ta thì bị quân Tưởng Giới lOMoAR cPSD| 61601779
Thạch chiếm đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược. Khát vọng của Hồ Chí
Minh và nhân dân ta là giải phóng dân tộc, thống nhất non sông. Khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ thì chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam, Sông
có thể cạn, Núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc (lần 2)
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
những người dân mất nước thì cái quý nhất là độc lập cho Tổ Quốc, tự do cho bản
thân và dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh để bảo vệ độc lập cho Tổ Quốc. Điều
đó đã trở thành một giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
cũng là hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập của dân tộc: “Độc lập cho tổ quốc
tôi, tự do cho đồng bào tôi. Đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi
hiểu”
. Trong suốt cuộc đời của mình, Bác đã phấn đấu, hi sinh cho mục tiêu độc lập
của dân tộc. Trên hành trình ấy, Người đã tiếp thu những giá trị của các quan điểm
trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu giá trị về quyền con người, sau đó nâng lên
thành quyền dân tộc. Quyền tự do, độc lập được Hồ Chí Minh thể hiện trong suốt
quá trình hình thành tư tưởng của mình, ở thực tiễn chỉ đạo cách mạng: Bản yêu
sách của nhân dân An Nam, Cách mạng Tháng Tám, …. “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.”
(Tuyên ngôn
độc lập). Sau này, khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ lăm le xâm lược nước ta thì
Người đã một lần nữa khẳng định “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (Lời kêu
gọi kháng chiến chống Mỹ). Đây không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, học thuyết
cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời đây còn là lời động viên, khích lệ nhân dân
trên khắp cả nước và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới quyết tâm giành
lại độc lập. Vì vậy, Hồ Chí Minh không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng
dân tộc” của Việt Nam, mà còn được công nhận là người khởi xướng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: “Nước độc lập mà nhân dân còn đói, rét, thì độc
lập đó không có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập dân tộc còn gắn liền với cơm no, áo
ấm, hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước
hoàn cảnh nhân dân đói, rét, mù chữ. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải…làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.”
Thông qua những câu chuyện, quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, thì thấy cả lOMoAR cPSD| 61601779
cuộc đời người đều hướng tới mục tiêu độc lập cho dân tộc, cuộc sống đầy đủ, ấm lo cho nhân dân.
- Độc lập dân tộc là nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình đi
xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
các chỉnh phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập, tự do” giả hiệu, thực
chất là để che giấu cái bản chất “ăn cướp”, “giết người” của chúng. Theo Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc phải là nên độc lập thực sự, hoàn toàn, triệt để trên mọi lĩnh
vực. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, bảo đảm các nguyên tắc bình đẳng
trong mối quan hệ quốc tế, không có sự phân biệt giữa các quốc gia lớn và các quốc
gia nhỏ. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống quân xâm lược chứ không
phải là dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong suốt lịch sử đấu
tranh giành độc lập dân tộc, nước ta luôn được trước âm ưu chia cắt đất nước của kẻ
thù. Khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã chia nước ta thành 3 kì, mỗi kì có một
chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, nước ta bị chia làm hai miền, miền
Bắc bị quân của Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc
chiếm hoàn toàn. Khát vọng của Hồ Chí Minh và nhân dân cả nước luôn là giải
phóng dân tộc, thống nhất non sông. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong bức
thư gửi đồng bào Nam Bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh có khẳng định “ Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi”. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc và toàn
vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 3: Độc lập dân tộc (lần 3)
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối với
mỗi người dân mất nước, thì cái quý nhất là độc lập cho Tổ Quốc, tự do cho bản
thân và dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh, hi sinh để bảo vệ độc lập cho Tổ Quốc. Điều
đó đã trở thành điều thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh cũng
là hiện thân cho mục tiêu, khát vọng của độc lập dân tộc: “Độc lập cho Tổ Quốc tôi,
tự do cho đồng bảo tôi. Đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi
hiểu”. Trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh thì Người luôn phấn đấu, hi sinh cho
mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong hành trình ấy, người đã tiếp thu những giá trị
của các quan điểm trên thế giới. Ban đầu, người tiếp thu những giá trị của quyền
con người, sau đó nâng lên thành quyền dân tộc. Quyền tự do, độc lập được Hồ Chí
Minh thể hiện trong suốt quá trình hình thành tư tưởng của mình, ở thực tiễn chỉ đạo
cuộc cách mạng: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng Tháng Tám,…
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một
nước tự do, độc lập” (Tuyên ngôn độc lập). Sau này khi thực dân pháp và đế quốc
mỹ lăm le xâm lược nước ta, Người một lần nữa khẳng định: “Không có gì quý hơn lOMoAR cPSD| 61601779
độc lập, tư do” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mĩ). Đây không chỉ là tư tưởng mà
còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời, đó còn là lời
động viên, khích lệ nhân dân cả nước và nhân dân các nước bị áp bức bóc lột quyết
tâm chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.
Chính vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của
Việt Nam, mà còn được công nhận là người khởi xướng cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước bị áp bức bóc lột trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải hướng tới tự do, hạnh phúc của nhân dân, đây là nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: “ Nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập đó
không có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập gắn liền với cơm no, áo ấm, hạnh phúc của
nhân dân. Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước hoàn cảnh nhân
ta đói, rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “ chúng ta phải…làm cho dân có ăn, làm
cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.” Thông qua những
câu chuyện, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, ta thấy trong suốt cuộc đời,
Người luôn hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ Quốc, cuộc sống ấm no, đầy đủ cho nhân dân.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình
xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
những chính quyền bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu,
thực chất là để che giấu cái bản chất “ ăn cướp”, “giết người” của chúng. Theo Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải là nên độc lập thực sự, hoàn toàn, triệt để trên mọi
lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, bảo đảm các nguyên tắc bình
đẳng trong mối quan hệ quốc tế. Không có sự phân biệt giữa các quốc gia nhỏ và
các quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống giặc ngoại xâm,
chứ không phải là dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong suốt lịch sử đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc, nước ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của
kẻ thù. Khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp chia nước ta thành ba kì, mỗi kì có
một chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân của
Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc chiếm hoàn toàn.
Khát vọng của Hồ Chí Minh và nhân dân ta luôn là giành độc lập cho tổ quốc, và
thống nhất toàn vẹn non sông. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong bức thư
Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ, Người khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ
thay đổi.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
Quốc, toàn venh lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 61601779
Câu 4: Phân tích nguyên tắc hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tập trung dân chủ; Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản nhất để xây dựng Đảng trở
thành một tổ chức chặt chẽ vừa phát huy được sức mạnh của mỗi người, vừa phát
huy được sức mạnh của tập thể. Tập trung: thống nhất về đường lối, ý chí, hành
động trong Đảng, là “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng câos trên, bộ
phận phục tùng toàn thể, địa phương phục tùng trung ương, mọi đảng viên phải chấp
nhận vô điều kiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng”. Dân chủ: là tạo
điều kiện cho mọi Đảng viên phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến, có quyển bảo lưu
ý kiến. Theo Hồ Chí Minh, “Tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của một vấn đề, có
mối quan hệ biện chứng cho nhau.
Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: Tập trung trên cơ sở dân chủ
nhằm chống quan lưu, độc đoán chuyên quyền. Dân chủ đi tới tập trung là cơ sở tập
trung, chứ không phải vô tổ chức, tuỳ tiện, phân tán “Tập trung trên nền tảng dân
chủ” và “dân chủ dưới dự chỉ đạo của tập trung”. Phải chống thói vô Chính Phủ.
Điều kiện tiên quyết khi thực hiện nguyên tắc này là tổ chức phải trong sạch, vững mạnh.
- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Hồ Chí Minh gọi đây là nguyên tắc lãnh đạo,
là chế độ lãnh đạo của Đảng. Theo Người, nguyên tắc này quan hệ mật thiết với
nguyên tắc trên: “ Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”. Tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Khi xây dựng nghị quyết, đường
lối, chính sách phải được tập thể bàn bạc, thảo luận. Hồ Chí Minh giải thích: “ Nhiều
người góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề mới được thấy rõ
mọi mặt”, “khôn bầy hơn khôn độc”, “Lãnh đạo không tập thể sẽ dẫn tới độc đoán,
bao biện, kết quả là hỏng việc.” Khi tập thể đã thảo luận, góp ý kiến, đã thành nghị
quyết thì theo đó mà thi hành. Thực hiện cá nhân phụ trách nghĩa là “ Việc gì đông
người bàn bạc kỹ lường rồi, kế hoạch rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người
hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch mà làm, như thế công việc mới chạy.”
“Không cá nhân phụ trách sẽ sinh ra tệ người này uỷ cho người kia, không ai thi
hành”. Kết quả là “Việc gì cũng không xong”. Thực hiện nguyên tắc này phải linh
hoạt: “Không thể việc nhỏ nhặt vụn vặt cùng chờ tập thể bàn bạc”, không thể vin
vào trách nhiệm cá nhân “để lấn át tập thể, dẫn đến độc đoán chuyên quyền”.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây
dựng, củng cố và giữ gìn khối đoàn kết trong Đảng và dân tộc, coi đó là sinh mệnh,
là vấn đề sống còn của Đảng, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là nhân
tố tạo nên sức mạnh, quy luật tồn tại và trưởng thành của Đảng. Theo Người, giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng là công việc, phải tiến hành thường xuyên, chứ
không phải là giải pháp tình thế; là yêu cầu tất yếu khách quan. Xây dựng sự đoàn lOMoAR cPSD| 61601779
kết thống nhất trong Đảng phải bắt đầu từ chi bộ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ
tốt thì mọi việc đều tốt”. Để giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong chi bộ, cần
tập trung vào công tác đẩy mạnh giáo dục chính trị, tôn trọng lẫn nhau của các cán
bộ đảng viên. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết
và giác ngộ chính trị của mỗi đảng viên.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng có ý nghĩa cực kì quan trọng, vừa là nhiệm vụ lâu
dài, vừa là nhiệm vụ cấp bạch. Ngay từ khi thành lập cũng như các thời kì khác nhau
của cách mạnh, đoàn kết và thống nhất là vấn đề sống còn của cách mạng, là điều
kiện thống nhất toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi., là nguyên tắc cơ bản có
vị trí hàng đầu trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Đồng thời, Đảng coi sự chia
rẽ trong nội bộ Đảng là tội ác lớn nhất đối với Đảng.
Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình, đó ;à
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Đảng viên
ở cương vị lãnh đạo, giữ chức vụ càng quan trọng, càng phải gương mẫu và thường
xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình một cách trung thực, phải biết nghe sự phê bình
thẳng thắn cùa cấp dưới, của đảng viên, của quần chúng để khắc phục, sửa chữa
những sai lầm thiếu sót.
Câu 4: Tập trung dân chủ + Đoàn kết thống nhấ trong Đảng
- Tập trung dân chủ: là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng Đảng trở thành
một tổ chức chặt chẽ, vừa phát huy được sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy
được sức mạnh của tập thể. Tập trung là thống nhất đường lối, ý chí, hành động
trong Đảng. “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, bộ phận phục
tùng đoàn thể, địa phương phục tùng trung ương, mọi Đảng viên phải chấp hành vô
điều kiện các Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng” Dân chủ là tạo điều
kiện cho Đảng viên phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến và có quyền bảo lưu ý kiến.
Theo Hồ Chí Minh, “tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của vấn đề, có quan hệ biện
chứng với nhau. Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: “Tập trung
trên cơ sở dân chủ” để chống thói quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền.
“Dân chủ để đi tới tập trung” là cơ sở của tập trung, chứ không phải vô tổ chức, tuỳ
tiện, phân tán. “Tập trung trên nền tảng dân chủ” và “Dân chủ phải dưới sự chỉ đạo
của tập trung”, chống thói vô Chính Phủ. Điều kiện tiên quyết để thực hiện nguyên
tắc trên thì là tổ chức phải trong sạch, vững mạnh.
- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Hồ Chí Minh gọi đây là nguyên tắc lãnh đạo,
chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này có quan hệ mật thiết với nguyên tắc trên.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Khi xây dựng nghị quyết, chính sách, đường
lối cần được tập thể bàn bạc, thảo luận. Người giải thích: “nhiều người góp kinh
nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề mới được thấy rõ mọi mặt.” “Khôn lOMoAR cPSD| 61601779
bầy hơn khôn độc”. “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ dẫn tới độc đoán, bao biện, kết
quả là hỏng việc.” Khi tập thể đã bàn luận, đưa ra nghị quyết, thì cứ theo đó mà thi
hành. “Cá nhân phụ tránh” có nghĩa là khi việc gì đã được đông người bàn bạc, kế
hoạch rõ ràng rồi, thì phải giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo
kế hoạch mà làm, thì công việc mới chạy. Không cá nhân phụ trách sẽ dẫn tới tệ
người này uỷ người kia, không ai thi hành. Kết quả là việc gì cũng không xong.
Thực hiện nguyên tắc này cần linh hoạt. Chớ để việc nhỏ nhặt gì cũng chờ tập thể
bàn bạc, không vin trách nhiệm cá nhân mà “lấn át tập thể, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền”.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng,
củng cố, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người coi đó là sinh mệnh, là vấn
đề sống còn của Đảng, là nền tàng cho khối đại đoàn kết dân tộc, là nhân tố tạo ra
sức mạnh, quy luật tồn tại và trưởng thành của Đảng. Hồ Chí Minh xem việc giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng là một công việc phải tiến hành thường xuyên,
chứ không phải là một biện pháp tình thế; là yêu cầu tất yếu khách quan.
Xây dựng đoàn kết thống nhất trong đảng phải bắt đầu từ chi bộ. Hồ Chí Minh khẳng
định: “ Chi bộ tốt thì mọi việc đều tốt”. Để củng cố, giữ gìn đoàn kết thống nhất
trong chi bộ thì phải chú trọng đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau giữa các
đảng viên. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải bắt nguồn từ sự hiểu biết và giác
ngộ của mỗi Đảng viên.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa là
nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách. Ngay từ khi mới thành lập cũng như
các thời kì khác nhau của cách mạng, đoàn kết thống nhất trong đảng luôn là vấn đề
có tính chất sống còn của cách mạng, là điều kiện đoàn kết toàn dân và đưa cách
mạng đến thắng lợi, là nguyên tắc cơ bản có vị trí hàng đầu trong tổ chức và hoạt
động của Đảng. Đảng coi việc chia rẽ trong nội bộ Đảng là tội ác lớn nhất đối với Đảng.
Đảng phải thực hiện dân chủ rộng rãi, thường xuyên phê bình, tự phê bình, đó là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển đoàn kết, thống nhất trong đảng. Phê bình, tự
phê bình không phải là công việc nhất thời, mà phải được thực hiện thường xuyên
ở mọi cấp bộ đảng và đối với mọi đảng viên. Đảng viên ở cương vị lãnh đạo, giữ
chức vụ càng quan trọng thì càng phải gương mẫu, thường xuyên tự phê bình bản
thân một cách trung thực, phải biết lắng nghe lời phê bình của cấp dưới, đảng viên
khác và quần chúng nhân dẫn để khắc phục sửa đổi những sai lầm, thiếu sót.
Câu 5: Phân tích nguyên tắc hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: tự phê bình
và phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng. lOMoAR cPSD| 61601779
- Tự phê bình và phê bình: Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đàng,
là quy luật phát triển của Đảng. Phê bình là nêu ưu điểm và khuyết điểm của đồng
chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê
bình và phê bình là để nhận rõ ưu khuyết điểm của bản thân mình và đồng chí mình
để có hướng phát huy và khắc phục. Với mỗi cán bộ, đảng viên Hồ
Chí Minh nói: “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm”. Phải tự phê bình trước, phải biết mình phải quấy chỗ nào trước khi phê bình
người khác. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” phải hiểu là như vậy.
- Mục đích của phê bình và tự phê bình: Là để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết
điểm, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ. Chính là cách mỗi người tự đánh giá
để vừa thấy được “cái hay”, “cái dở” của mình, vừa tạo điều kiện để những người
xung quanh đóng góp ý kiến, giúp bản thân sửa chữ khuyết điểm, phát huy ưu điểm,
là giúp nhau tiến bộ, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm; làm cái ác mất dần đi, cái
thiện nảy nở sinh sôi, để làm việc tốt hơn; toàn Đảng sẽ dần hết khuyết điểm, ưu
điểm ngày càng nhiều thêm.
- Thái độ tinh thần tự phê bình: Triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt;
phải có tinh thần nhân ái, “phê bình việc làm chứ không phê bình người”; “không
soi mói chua cay, mỉa mai, đâm thọc”; không phải đập cho tơi bời, không trù dập người phê bình mình.
- Phương pháp phê bình: Công khai có tổ chức; phải thực sự dân chủ, mềm dẻo, khéo
léo; phải cụ thể, chính xác, nói có sách, mách có chứng. Phê bình trong nội bộ Đảng
đồng thời tự phê bình trước quần chúng. Người nói: “dân ta rất tốt, ai có khuyết
điểm mà thành thật tự phê bình trước dân, quyết tâm sửa chữa thì dân sẵn sàng tha cho”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục, đảm bảo công khai, dân chủ, từ trên xuống
và từ dưới lên, gắn với sửa chữa, biểu dương, khen thưởng thì mới phát huy được
tác dụng. Trong tự phê bình và phê bình cần tránh tình trạng: sợ mất thành tích của
tập thể, của lãnh đạo mà che giấu khuyết điểm, hoặc bao che, chạy tội cho đồng chí
mình. Tình trạng phê bình và tự phê bình như vậy chẳng khác nào “cũng như có
bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không
chết “cũng la lết quả dưa”. Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng
chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế khác nào thấy đồng chí mình
ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết
điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình.”
Câu 1: Vai trò của văn hoá.
- Văn hoá là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp cách mạng. lOMoAR cPSD| 61601779
+ Văn hoá là mục tiêu, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính
trị, xã hội và kinh tế, văn hoá cũng nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình
cách mạng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hoá là mục tiêu, nói một cách
khái quát, là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc; là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân thiện mỹ. Đó là một xã hội dân
chủ (dân là chủ, dân làm chủ), công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành; một xã hội mà đời sống của nhân dân được quan tâm và không
ngừng nâng cao, con người có điều kiện để phát triển toàn diện. + Văn hoá là động
lực. Động lực là những yếu tố, nhân tố góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, bao gồm
động lực vật chất và tinh thần, động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực.
Tất cả quy tụ tại con người, và có thể được xem xét dưới góc độ văn hoá. Động lực
của văn hoá có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu sau: Văn hoá chính trị có
ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ. Văn hoá đạo đức nâng cao phẩm giá của con người, hướng con người
đến những giá trị chân thiện mỹ. Văn hoá văn nghệ giúp nâng cao lòng yêu nước,
tình cảm đồng đội, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào một chiến thắng
cuối cùng của cách mạng. Văn hoá giáo dục diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ và giúp
con người hiểu được quy luật phát triển của xã hội. Văn hoá pháp luật đảm bảo trật
tự, kỷ cương, phép nước và dân chủ.
- Văn hoá là một mặt trận. Văn hoá là một trong bốn nội dung chính của đời sống
kinh tế-xã hội, quan trọng ngang với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Nói văn
hoá là một mặt trận là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính chất độc lập, có quan
hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt
của hoạt động văn hoá. Mặt trận văn hoá là một cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh
vực văn hoá, tư tưởng. Nội dung của văn hoá phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực
tư tưởng, đạo đức, lối sống,… của hoạt động nghệ thuật, báo chí, công tác lý luận,
đặc biệt là định hướng giá trị chân thiện mỹ trong văn hoá nghệ thuật. Mặt trận văn
hoá là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hoá, vì vậy mỗi anh chị em nghệ
sĩ đều là một chiến sĩ. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
phụng sự Tổ Quốc, phục sự nhân dân. Để hoàn thành nhiệm vụ ấy, chiến sĩ nghệ
thuật phải có lập trường tư tưởng vững vàng; ngòi bút là vũ khí sắc bén. Người chiến
sĩ nghệ thuật phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
những thói lãng phí, tham nhũng, quan liêu, lười biếng và ca tụng sự chân thật của
những người tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu ta
đời sau. Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một
thời đại vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ nghệ thuật phải có những tác phẩm xứng đáng với
dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang. lOMoAR cPSD| 61601779
- Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát
vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng của Người về văn hoá cũng là vì nhân dân,
phục vụ cho nhân dân. Theo người, mọi hoạt động văn hoá phải trở về với đời sống
thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần chúng. Văn
hoá phục vụ quần chúng phải miêu tả cho hay, cho thật, phải trả lời được các câu
hỏi: Viết cho ai, viết như thế nào, tài liệu đâu mà viết, mục đích viết? Văn hoá phải
hiểu và phản ánh đúng quần chúng. Quần chúng là những người sáng tác rất, cũng
là những người thẩm định khách quan, chân thực và chính xác
các sản phẩm nghệ thuật. Nhân dân phải là những người hưởng thụ các giá trị văn hoá.
- Vận dụng: Hiện nay, giới trẻ Việt Nam đã bị cuốn vào những hoạt động văn hoá
tiêu cực, không phù hợp. Họ rời xa văn hoá, truyền thống và các giá trị nghệ thuật
của dân tộc; lãng quên dòng nhạc cách mạng, dòng nhạc dân ca. Họ cũng bị cuốn
theo các loại game online, gây ảnh hưởng tới sức khoẻ vè học tập. Là một sinh viên
nói chung và sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội nói chung thì em nghĩ mình phải
trước hết phải có nhận thức đầy đủ về vai trò của văn hoá truyền thống trong đời
sống hiện tại. Em sẽ học tập các tinh hoa văn hoá trên thế giới một cách có chọn
học, đồng thời luôn có ý thức giữ gìn truyền thống văn hoá dân tộc. Tích cực tham
gia các cuộc thi của Đoàn trường về tuyên truyền văn hoá truyền thống của dân tộc.
Em sẽ tuyên truyền cho bạn bè và gia đình cũng nhau giữ gìn truyền thống văn hoá
dân tộc và nên án phê phán những người đang làm xấu văn hoá nước nhà.
Câu 2: Chuẩn mực đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư là nội dung cố lõi của đạo đức cách mạng, đó
là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất. Cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư cùng là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là khái niệm cũ về
đạo đức truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh đã loại bỏ những nội dung không
phù hợp và thêm vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. + Cần
tức là “siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả
hơn, thì phải có kế hoạch trong mọi công việc. Cần tức là lao động cần cù, siêng
năng, có kế hoạch, có sáng tạo và có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, phải thấy rõ: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”
+ Kiệm là tiết kiệm, không lãng phí, không xa xỉ, không bừa bãi. Kiệm là tiết kiệm
sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền bạc của bản thân, của nhân dân, của
đất nước; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén. Tiết kiệm không
phải là bủn xỉn. Việc không cần làm thì một xu cũng không được tiêu, việc đáng lOMoAR cPSD| 61601779
làm, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước thì tốn bao nhiêu tiền, mất bao nhiêu
công, cũng vui lòng. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải biết
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Kiệm luôn đi đôi với Cần, như hai
chân của con người. Hồ Chí Minh yêu cầu: phải cần kiệm xây dựng nước nhà”. +
Liêm là trong sạch, không tham lam, là liêm khiết, luôn tôn trọng giữ gìn của công,
của dân. “Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc mình”, vì vậy mà thấy quang minh chính đại.
Chỉ có một thứ ham là học học, ham làm, ham tiến bộ. Chữ Liêm phải đi đôi với
chứ Kiệm, như chữ Kiệm đi đôi với chữ Cần. Có kiệm thì mới liêm được. + Chính
tức là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Cái gì không thẳng thắn, đứng đắn tức là
tà. Chính được thể hiện rõ trong 3 mối quan hệ: “Đối với mình, chớ tự cao, tự đắc.
Đối với người, chớ kinh thường người dưới, nịnh hót người trên. Đối với việc, thì
phải đặt việc công, việc nước lên trên việc nhà, việc tư.” Việc thiện dù nhỏ mấy
cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh cho rằng các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với
nhau, ai cũng phải thực hiện. Song các cán bộ, đảng viên phải là người thực hiện
trước để làm gương cho nhận dân. Người thưởng nhắc nhở cán bộ, viên chức, nhân
viên trong công sở đều có ít hay nhiều quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở thành sâu mọt của dân.
+ Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng,
không thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân và của
đất nước lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư về thực chất
là tiếp nối của “cần, kiệm, liêm, chính”. Người quan niệm: “Một dân tộc biết cần
kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần; là một dân tộc
văn minh, tiến bộ.” Cần, kiệm, liêm, liêm, chính còn là nền tảng cho đời sống mới,
của các phong trào thi đua yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt,
thì phải hội tụ đầy đủ cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần kiệm liêm chính
là bốn đức tính cơ bản của con người, như bốn mùa của trời, bốn phương của đất.
Thiết một đức thì không thành người.
Vận dụng: Hiểu được các giá trị cốt lõi của 4 phẩm chất cần kiệm liêm chính, Là
một sinh viên, em sẽ tích cực lao động và rèn luyện đạo đức thật tốt. Kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh lười biếng và lối sống hưởng thụ. Đồng thời,
em sẽ lên án, tố cáo các trường hợp quan liêu, tham những. Trong thi cử, em sẽ
nghiêm túc, trung thực làm bài, không vì thành tích mà có những hành vi gian lận.
Câu 3: Đại đoàn kết dân tộc.
- Đaị đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải lOMoAR cPSD| 61601779
là một sách lược hay một thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của
cách mạng Việt Nam. Người nói rõ: “Sử dạy ta rằng lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì đất nước độc lập, tự do; trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì
bị nước ngoài xâm lấn.” Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam,
nên chiến lược này dược duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn, trước những yêu cầu và nhiệm
vụ khác nhau, chính sách và phương pháp đại đoàn kết toàn dân tộc có thể và cần
thiết điều chính cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Song, không bao giờ
thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân
tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Từ thực tiễn xây dựng khối đãn đoàn
kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành những luận điểm mang tính chân
lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của
chúng ta”, “Đoàn kết là lực lượng vô địch của chúng ta”. “Bây giờ còn một điểm
rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt: đó là đoàn kết.” Người đã đi đến kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu
dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng, nên tất yếu đại đoàn kết
dân tộc được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và phải được quán triệt trên
tất cả lĩnh vực từ đường lối, chinh sách, chủ trương tới mọi hoạt động thực tiễn của
Đảng. Trong lời kết của buổi ra mắt Đảng Lao Động Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “Mục đích của Đảng Lao Động có thể bao gồm 8 chữ sau Đoàn Kết Toàn
Dân, Phụng Sự Tổ Quốc”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng
và vì quần chúng. Đại đoàn kết dân tộc là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng, nếu không đoàn kết thì họ sẽ tự thất bại trong cuộc chiến vì lợi ích của chính
mình. Nhận thức được điều đó, Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hưỡng dẫn
quần chúng, chuyển từ những đòi hỏi khách quan, tự phát thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức
mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và
hạnh phúc cho con người.
Vận dụng: Nhận thức được vai trò quan trọng của đại đoàn kết dân tộc với sự sống
còn của dân tộc, là sinh viên em sẽ tự ý thức về trách nhiệm của mình trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Em sẽ gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân,
đồng thời tuyên truyền cho mọi người xung quanh thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Em sẽ tích cực tham gia các hoạt động tổ
chức của Đoàn thanh niên về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, em sẽ tham lOMoAR cPSD| 61601779
gia vận động các thành viên trong gia đình và nhân dân địa phương nơi mình sống
xây dựng mối quan hệ gắn bó, đoàn kết với nhau, để tạo nên đời sống văn hoá tốt ở quê nhà.
Câu 4: Tinh hoa văn hoá Phương Đông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách có chọn lọc những tưởng văn hoá tiến
bộ của Phương Đông, có thể kể đến Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, hay một số tương
tưởng tiến bộ như chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Cụ thể:
+ Nho giáo: Hồ Chí Minh phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực như: bảo vệ chế
độ phong kiến, trọng nam khinh nữ, phân chia đẳng cấp, kinh thường nghề lao động
chân tay, lao động xã hội, coi trọng thi cử, suy nghĩa bảo thủ, chỉ đề cao nghề đọc
sách,…; tiếp nhận những yếu tố tích cực, tiến bộ, đưa vào đó những nội dung và ý
nghĩa mới, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ của cách mạng: Quan điểm về một xã
hội lý tưởng “thế giới đại đồng”. Khổng Tử nói: “Thiên hạ sẽ thái bình, khi thế giới
đại đồng”. Quan niệm về triết lý nhân sinh, từ thiên tử đến thứ dân đều phải lấy tu
thân làm gốc: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Quan niệm về đạo đức: nhân
nghĩa, lễ, trí, tín (thương yêu mọi người, sống ngay thẳng, lấy việc đáng làm thì làm,
thấy việc đáng nói thì nói, không mưu cầu cá nhân, tuân thủ những quy tắc ứng xử
trong gia đình và ngoài xã hội, hiểu được lẽ phải, giữ được chữ tín). Đề cao học
hành và chú trọng hiền tài. Quan niệm về thân dân, đối với người trị nước thì cần
lấy dân làm gốc: dân vi quý, xã tắc thứ chí, quân vi khinh. Dân vừa có sức đẩy
thuyền, vừa có sức lật thuyền; được lòng dân thì bền vững, mất lòng dân thì sụp đổ.
+ Phật giáo: phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm, ngay cả khi Nho giáo đã trở thành
quốc giáo thì phật giáo vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn
trong văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục, tập quán,
lối sống,… Đồng thời, Phật giáo cũng có những yếu tố tiêu cực: thế giới quan duy
tâm, tư tưởng an phận, bi quan yếu thế. Hồ Chí Minh đã loại bỏ những yếu tố hạn
chế của Phật giáo và tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo như: Tư tưởng
vị tha, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống có đạo đức,
trong sạch, chăm làm việc thiện; Đề cao lao động, chống lười biếng; tư tưởng hoà
đồng (lục hoà). Phật giáo du nhập vào Việt Nam gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã hình thành nên dòng Phật
“Thiền phái trúc lâm”. Chủ trương sống gần gũi, gắn bó với cộng đồng, với dân, với
nước và với cuộc đấu tranh của dân tộc. Những quan điểm tích cực trong triết lý
đạo Phật đã được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bảo theo đạo
Phật, đoàn kết toàn dân tộc vì một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
+ Lão giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa tư tưởng của Lão tử, khuyên con người sống
gắn bó, hoà đồng với thiên nhiên, ít lòng ham muốn vật chất, hành động đúng với lOMoAR cPSD| 61601779
quy luật của tự nhiên xã hội. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta tổ chức tết trồng cây
để bảo vệ môi trường sinh thái của chúng ta. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển
tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán
bộ, đảng viên ít tham muốn về vật chất, thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư; hành động theo đạo đức với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật của tự nhiên, xã hội.
+ Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Ngoài ra, còn có thể thấy những trích dẫn
về Lão Tử, Mặc Tử, Quân Tử trong những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng
như sau này, khi trở thành người mác-xit, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với
điều kiện của nước ta.” Các tiêu chí của chủ nghĩa tam dân là dân chủ-độc lập, dân
quyền-tự do, dân sinh-hạnh phúc, và đã được Người rút ngắn trong quốc hiệu của
nước ta “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ
Chí Minh đã khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hoá phương Đông
để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Vận dụng: Văn hoá phương Đông có nhiều mặt tốt, nhưng vẫn còn những hạn chế.
Là một sinh viên, em sẽ tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng và văn hoá phương Đông.
Đặc trưng của văn hoá phương Đông là khi hành động thì luôn nghĩa đến cộng đồng,
tập thể và xã hội. Sinh viên cần sống có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội, tránh
tư duy “tiểu nông”. Ta cần học tập lý thuyết gắn liền với thực hành.
Đồng thời, chúng ta cần nên án, phê phán những tư tưởng hạn chế.
Câu 5: Tinh hoa văn hoá phương Tây.
Tư tưởng văn hoá tiến bộ phương Tây đã chi phối con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là đúng.
Ngay từ khi còn học ở trường tiểu học Vinh (Nghệ An), Đông Ba (Huế), trường
quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hoá Pháp. Cũng trải qua thời kì ở
đây, Bác mới được nghe đến ba từ “Tự do, bình đẳng, bắc ái” từ những bài giảng
của thầy cô. Từ đó nảy sinh trong Người câu hỏi: “Đằng sau những từ Tự do bình
đẳng bác ái đó là gì?”. Hồ Chí Minh đã có bước chuyển mình quan trọng trong suy
nghĩ và hướng đi trong công cuộc tìm đường cứu nước. Người lựa chọn đi sang các
nước phương Tây, chứ không đi theo các tiền bối trước-những người bị ảnh hưởng
bởi giáo dục Nho giáo nên đã đi sang phương Đông. Bác thì hướng sang Pháp, đến
với tinh hoa văn hoá phương Đông với quan điểm “muốn đánh đuổi kẻ thù thì phải
biết được, hiểu rõ được kẻ thù thì mới đánh được.” Mở đầu trong hành trình, thì
người đến với văn hoá Pháp, là quê hương của tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bắc
Ái”, để Bác khám phá xem người Pháp họ làm như thế nào, đằng sau những từ đó là gì. lOMoAR cPSD| 61601779
Ba mươi năm buôn ba tìm đường cứu nước, hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh
chủ yếu sống ở châu Âu, nên Người chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá phương Tây.
+ Tư tưởng dân chủ của các nhà tư tưởng phong trào Khai sáng như Vôn tê,
Rút xô, Mông tét xki ơ, thể hiện trong những tác phẩm “Khế ước xã hội” của Rút
xô (1762), “Tinh thần pháp luật” của Mông tét xki ơ (1748). Trong các tác phẩm
này nội dung định hướng cho việc xây dựng xã hội công dân (thiết chế dân chủ, thể
chế dân chủ, chế độ dân chủ) và nhà nước pháp quyền (tam quyền phân lập) bảo
đảm cho công dân tự do, bình đẳng. Bác bước đầu hình thành được phong cách dân
chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiền.
+ Tư tưởng về quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
(1776), trong đó đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc; tư tưởng tự do bình bằng bác ái được ghi trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của nước Pháp (1791), đề cập đến tư tưởng nhân văn, giải
phóng con người khỏi thần quyền và sự thống trị của những mối quan hệ phong
kiến. Đồng thời, người cũng chỉ ra những hạn chế và những nghịch lý đằng sau
những lời lẽ hoa mỹ đó là sự bất bình đẳng và nghèo đói của những người lao động,
là nạn nhân phân biệt chủng tộc với người da đen…”tiếng là cộng hoà và dân chủ,
kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. + Lòng
nhân ái cao cả của Thiên chúa giáo.
Với tư duy nhạy bén và tinh thần đấu tranh
cho công lý và tự do của con người, Bác đã thấy được những quan điểm tốt đẹp của
Thiên chúa thay vì coi đó là công cụ xâm lược như thực dân Pháp. Kế thừa lòng
nhân ái và đức hi sinh của Thiên chúa giáo, Người là hiện thân của lòng nhân ái ,
đức hi sinh cao cả khi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột.
Trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện tư tưởng của mình về con đường
cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
vừa thâm tóm, gạn lọc để có thể từ tầm cao trí thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn,
kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển tư tưởng nâng lên một trình độ mới.
Vận dụng: Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, sinh viên cần phát triển toàn diện là con
người có văn hoá, thấm nhuần văn hoá dân tộc Việt Nam, có năng lực tiếp thu văn hoá
nhân loại, làm giàu cho kho tàng trí thức của bản thân. Sinh viên cần có ý thức tiếp thu có
chọn lọc các nét văn hoá phương Tây. Người phương Tây sống tự do, phóng thoáng, theo
chủ nghĩa duy vật, tôn sùng lợi nhuận; có tư tưởng tình yêu phóng thoáng, giá trị hôn nhân
độc đáo, khác với chúng ta. Nên chúng ta cần tiếp thu và vận dụng những điều tốt và bài
trừ những yếu tố hạn chế. Chúng ta cùng làm giàu vốn tri thức bản thân và mang những
điều tốt đẹp ấy về cho đất nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận, tránh để những lOMoAR cPSD| 61601779
văn hoá đó làm xâm hại đến văn hoá cốt lõi của dân tộc. Chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn
và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trên con đường hội nhập quốc tế.
Câu 6: Độc lập dân tộc.
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Đối
với những người dân mất nước thì cái quý giá nhất là độc lập cho Tổ Quốc, tự do
cho bản thân và dân tộc. Họ sẵn sàng đấu tranh hi sinh để bảo vệ sự độc lập, tư do
cho dân tộc. Điều đó đã trở thành giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chính
Hồ Chí Minh cũng là hiện thân cho mục tiêu, khát vọng độc lập của dân tộc: “Độc
lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi. Đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là
tất cả những gì tôi hiểu.” Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã luôn phấn đấu,
hi sinh cho mục tiêu độc lập của dân tộc. Trong hành trình đó, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu những giá trị quan điểm trên thế giới. Đầu tiên người tiếp thu giá trị về quyền
con người, từ đó nânng lên thành quyền dân tộc. Quyền độc lập, tự do được người
thể hiện trọng suốt quá trình hình thành tư tưởng của mình trong thực tiễn lãnh đạo
cuộc cách mạng: Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Cách mạng tháng 8,… “Nước
Việt Nam có quyền tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.”
(Tuyên ngôn độc lập). Sau này khi thực dân Pháp và đề quốc Mỹ lăm le xâm lược
nước ta thì Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do.” (Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ). Đây không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đồng thời đây cũng là nguồn động
viên cho nhân dân toàn quốc và nhân dân các nước bị áp bức trên toàn thế giới,
quyết tâm đấu tranh giành lại độc lập. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là
“Anh hùng giải phóng dân tộc” mà còn được công nhận là người khởi xướng cuộc
đấu tranh giải phóng trận các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc
phải đưa tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đây là vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc: “nước độc lập mà dân còn đói,rét thì độc lập đó không
có ý nghĩa gì”. Ngoài ra, độc lập dân tộc còn gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm
1945, trước hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta
phải…làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân
có học hành”. Thông qua những câu chuyện, những quan điểm, tư tưởng của Hồ
Chí Minh, ta thấy được cả cuộc đời người đều hướng về mục tiêu độc lập, cuộc sống
ấm lo, hạnh phúc cho nhân dân.
- Độc lập phải là nền độc lập thực sự, gắn liền với hoà bình. Trong quá trình đi
xâm lược các nước , bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân, thành lập
chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho nhân
dân các nước thuộc địa, nhưng thực chất là nhằm che đậy bản tính “ăn cướp” và lOMoAR cPSD| 61601779
“giết người” của chúng. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự,
hoàn toàn và triệt để trên các lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn với hoà bình, trong
đó bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế, không có sự phân biệt giữa quốc
gia nhỏ và quốc gia lớn. Độc lập dân tộc với khả năng đầy đủ để chống lại giặc
ngoại xâm, chứ không phải dựa dẫm vào các nước khác.
- Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ Quốc, nước ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt của kẻ thù. Thực
dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta thành 3 kỳ, mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng. Hay sau cách mạng Tháng Tám, miền bắc nước ta bị quân Tưởng Giới
Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp độc chiếm hoàn toàn. Khát vọng
của chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân cả nước là giải phóng dân tộc, thống nhất
non sông. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong bức thư gửi đồng bào Nam
Bộ thì Hồ Chí Minh có khẳng định: “ Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam,
sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.” Tư tưởng
độc lập gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Vận dụng: Để có nền độc lập ngày nay, đã có biết bao thế hệ anh cha ta đã ngã xuống,
hi sinh để giành được nó. Là sinh viên em sẽ có ý thức trong việc giữ gìn và bảo vệ
nền độc lập dân tộc. Em sẽ tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền chủ trương
độc lập dân tộc của Đảng. Cùng với đó, em sẽ cảnh giác trước những hành động sai
trái, những tư tưởng chia rẽ do các thế lực thù địch tạo ra; gặp trường hợp nào thì báo
ngay cho cơ quan có thẩm quyền. Mỗi sinh viên cần cố gắng học tốt học phần giáo dục
quốc phòng để luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc. Tuyên truyền cùng nhau
học hỏi và làm theo Đạo đức Hồ Chí Minh.
Câu 7: Nguyên tắc trong hoạt động cuả Đảng: Tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất trong đảng
- Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản nhất để xây dựng Đảng trở
thành một tổ chức chặt chẽ vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức
mạnh của tập thể. Tập trung là thống nhất về đường lối, ý chí, hành động trong Đảng,
là “thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng đoàn thể, cấp dưới phục tùng cấp
trên, địa phương phục tùng trung ương, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện
Điều lệ, các nghị quyết và chỉ thị của Đảng”. Dân chủ là tạo điều kiện cho mỗi người
được phát biểu ý kiến, trình bày sáng kiến và bảo lưu ý kiến của mình. Theo Hồ Chí
Minh, “tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng
với nhau. Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: Tập trung trên cơ
sở dân chủ để chống quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Dân chủ để đi tới tập trung
là cơ sở của tập trung, chứ không phải thói vô tổ chức, tuỳ tiện, phân tán. “Tập trung