


Preview text:
lOMoARcPSD| 49220901
Giả sử rằng vì một lý do nào đó mà một làn sóng bi quan lan ra toàn nền kinh tế. Lý
do có thể là một vụ xì căng đan ở Nhà Trắng, sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán
hay sự bùng nổ một cuộc chiến tranh ở nước ngoài. Do biến cố này, nhiều người mất
lòng tin vào tương lai và thay đổi kế hoạch của họ. Các hộ gia đình giảm tiêu dùng,
trì hoãn các khoản mua sắm lớn và các doanh nghiệp tạm ngừng việc mua thiết bị mới.
Làn sóng bi quan này ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào? Một biến cố như thế sẽ
làm giảm tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nghĩa là, tại bất cứ mức giá nào, các hộ
gia đình và các doanh nghiệp giờ đây cũng muốn mua ít hàng hoá và dịch vụ hơn.
Như hình 8 cho thấy, đường tổng cầu dịch sang trái và từ AD1 đến AD2.
Trong hình này, chúng ta có thể xem xét các ảnh hưởng của sự suy giảm tổng cầu. Trong ngắn hạn
Hình 8. Sự suy giảm tổng cầu. Sự suy giảm tổng cầu, có thể do làn sóng bi quan trong
nền kinh tế gây ra, được biểu diễn bằng sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu
từ AD1 đến AD2. Nền kinh tế chuyển từ điểm A đến điểm B. Sản lượng giảm từ Y1
xuống Y2 trong khi mức giá giảm từ P1 xuống P2. Theo thời gian, nhận thức, tiền
lương và giá cả điều chỉnh, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2,
và nền kinh tế đạt tới điểm C, nơi đường tổng cầu mới cắt đường tổng cung dài hạn.
Mức giá giảm xuống P3, và sản lượng quay về mức tự nhiên Y1. nền kinh tế di
chuyển dọc từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1 . Khi nền kinh
tế chuyển từ A dến B, sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống
P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế rơi vào suy thoái. Mặc dù không
được biểu thị trong hình vẽ, các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán
ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm. Do vậy, sự bi quan khiến cho đường tổng
cầu dịch chuyển, trong một chừng mực nào đó lại chính là do tự bản thân chúng ta:
nghĩa là sự bi quan về tương lai làm cho thu nhập giảm và thất nghiệp tăng.
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc suy thoái như
vậy? Mộtkhả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu. Như chúng ta đã
nhấn mạnh ở phần trước, sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ hay cung ứng tiền tệ
đều làm tăng tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mọi mức giá, làm cho đường tổng
cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà hoạch định chính sách hành động kịp thời và
chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng cầu, đẩy nó trở
về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận
kỹ hơn về cách mà chính sách tài khoá và tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu và những
khó khăn trong việc sử dụng những chính sách này trong thực tế.
Ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái
cũng sẽ tự phục hồi sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm
xuống. Có thể, kỳ vọng bắt theo kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự lOMoARcPSD| 49220901
giảm sút của mức giá dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó
làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong hình
8. Theo thời gian, quá trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần
đến điểm C, điểm mà đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn. Tại
điểm cân bằng dài hạn C, sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan
làm giảm tổng cầu, nhưng sự giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để triệt tiêu sự dịch
chuyển của đường tổng cầu. Như vậy trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng
cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà không có một ảnh hưởng nào tới sản
lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự dịch chuyển đường tổng cầu là làm
thay đổi biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ không phải làm thay đổi biến thực
tế (sản lượng như cũ). Tóm lại, sự dịch chuyển của đường tổng cầu đem lại cho
chúng ta hai bài học quan trọng: Trong ngắn hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu
gây ra sự biến động về sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Trong dài hạn,
sự dịch chuyển của đường tổng cầu ảnh hưởng tới mức giá chung, nhưng không ảnh
hưởng đến sản lượng.
Những ảnh hưởng do sự thay đổi của tổng cung
Một lần nữa, bạn hãy tưởng tượng ra một nền kinh tế đang nằm trong trạng thái cân
bằng dàihạn. Giả sử một số doanh nghiệp đột nhiên phải đối mặt với chi phí sản xuất
cao hơn. Ví dụ ở những bang sản xuất nông nghiệp, thời tiết xấu phá họai mùa màng,
làm chi phí sản xuất lương thực tăng. Hoặc cuộc chiến nổ ra ở vùng Vịnh làm tắc
nghẽn việc vận chuyển dầu, đẩy chi phí sản xuất các sản phẩm dầu mỏ lên cao. Hình
10. Sự dịch chuyển bất lợi trong tổng cung. Khi biến cố nào đó làm tăng chi phí của
các doanh nghiệp, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2. Nền kinh
tế chuyển từ điểm A đến điểm B. Kết quả là hiện tượng lạm phát kèm suy thoái: sản
lượng giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Ảnh hưởng kinh tế
vĩ mô của sự gia tăng chi phí sản xuất là gì? Ở mỗi mức giá bất kỳ cho trước, các
doanh nghiệp muốn cung ứng ra ít hàng hoá và dịch vụ hơn. Như trong hình 10 cho
thấy, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. (Tuỳ theo
biến cố, đường tổng cung dài hạn cũng có thể dịch chuyển. Nhưng để giữ cho sự việc
đơn giản, chúng ta giả định nó không dịch chuyển.) Trong hình này, chúng ta có thể
theo dõi những ảnh hưởng của việc đường tổng cung dịch chuyển sang trái. Trong
ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản
lượng của nền kinh tế giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do
nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm) và vừa trải qua lạm phát (mức giá
tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Hình 11. Thích ứng
với sự dịch chuyển bất lợi của đường tổng cung. Trước sự dịch chuyển bất lợi của
đường tổng cung từ AS1 đến AS2, các nhà hoạch định chính sách - những người có
khả năng ảnh hưởng đến tổng cầu - dịch chuyển đường tổng cầu từ AD1 đến AD2. lOMoARcPSD| 49220901
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm A tới C. Chính sách này có thể ngăn chặn không cho
sự dịch chuyển trong cung làm giảm sản lượng trong ngắn hạn, nhưng mức giá sẽ
tăng từ P1 lên P2 và duy trì ở mức đó.
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi phải đối mặt với tình trạng suy thoái
kèm lạm phát? Như chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn trong phần sau của cuốn sách này,
không có những lựa chọn dễ dàng. Một khả năng là không làm gì cả. Trong trường
hợp này, sản lượng hàng hoá và dịch vụ tiếp tục ở mức thấp Y2 trong một thời gian.
Nhưng cuối cùng, tình trạng suythoái sẽ tự hiệu chỉnh khi nhận thức, tiền lương và
giá cả điều chỉnh đối với chi phí sản xuất cao hơn. Ví dụ, thời kỳ có sản lượng thấp
và thất nghiệp cao gây áp lực làm cho tiền lương công nhân giảm. Đến lượt nó, tiền
lương thấp hơn làm tăng sản lượng. Theo thời gian khi mà đường tổng cung ngắn hạn
dịch chuyển trở lại AS1, mức giá giảm và sản lượng tiến tới mức tự nhiên. Trong dài
hạn, nền kinh tế trở lại điểm A, nơi đường tổng cầu cắt đường tổng cung dài hạn.
Phương án khác là các nhà hoạch định chính sách –những người nắm quyền kiểm
soát chính sách tài khóa và tiền tệ- có thể muốn triệt tiêu ảnh hưởng của sự dịch
chuyển đường tổng cung ngắn hạn bằng cách làm dịch chuyển đường tổng cầu. Khả
năng này được biểu diễn trong hình 11. Trong trường hợp này, những thay đổi trong
chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, vừa đủ để ngăn chặn
không cho sự dịch chuyển đường tổng cung tác động đến sản lượng. Nền kinh tế di
chuyển trực tiếp từ điểm A đến điểm C. Sản lượng duy trì ở mức tự nhiên và mức giá
tăng từ P1 đến P3. Trong trường hợp này, các nhà hoạch định chính sách đã thích ứng
với sự dịch chuyển của đường tổng cung, bởi vì họ cho phép sự gia tăng chi phí ảnh
hưởng lâu dài tới mức giá.
Tóm lại, sự dịch chuyển của đường tổng cung có hai hàm ý quan trọng:
Sự dịch chuyển của đường tổng cung có thể gây ra lạm phát đi kèm suy thoái, tức là
kết hợp giữa suy thoái (sản lượng giảm) và lạm phát (mức giá tăng).
Các nhà hoạch định chính sách, những người có thể ảnh hưởng đến tổng cầu, không
thể đồng thời làm triệt tiêu cả hai ảnh hưởng bất lợi này.