Tài liệu môn tư tưởng Hồ Chí Minh chương 2: Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc. | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh

Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chương 2: Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện
trong Di chúc.
2.1 Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc
2.1.1.Tư tưởng đoàn kết
Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến
vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại
đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có
đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết.
Suốt cuộc đời mình, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết
nhằm tập hợp lực lượng, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức
mạnh quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
trên được thể hiện rõ nét qua Di chúc của Người.
a. Về đoàn kết trong Đảng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn ai hết vai trò quan trọng
của sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, Người khẳng định: "Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta" . Chính nhờ "đoàn kết chặt
1
chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, cho
nên từ ngày thành lập tới nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân
dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này tới thắng lợi khác" .
2
Với mong muốn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trở thành truyền thống của Đảng
ta, Người đã căn dặn: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"
3
. Theo Người,
đoàn kết không phải chỉ là việc tập hợp lực lượng, mà còn phải thống nhất lực
lượng đó về ý chí và hành động. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quan
trọng hàng đầu của Đảng. Truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ
truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử và trên cơ sở nhận thức
đúng đắn từ lập trường cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh cần phải giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Đó chính là sự giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất
từ trung ương đến các chi bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Không chỉ căn dặn toàn Đảng giữ gìn sự đoàn kết, Bác cũng chỉ rõ cách thức,
phương pháp để thực hiện đoàn kết trong Đảng. Bác nói nguyên lý đoàn kết:
"Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.120.
2
Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T15, tr. 622.
3
Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T15, tr. 622.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần th 3, H, 2011,
t.15, tr.611.
được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền, không dân chủ trong
Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được". Theo TS Chu Đức Tính, Giám đốc Bảo
tàng Hồ Chí Minh, gần 30 năm nghiên cứu về Bác, nhận thấy ý nghĩa gốc rễ, có
tính nền tảng của nửa dòng chữ duy nhất Bác viết thêm vào Di chúc năm 1966:
Bác viết: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau" . Bác dạy Đảng ta: “Phê
4
bình việc chứ không phê bình người. Học tập Chủ nghĩa Mác là phải sống với
nhau có tình có lý. Ta xử lý dựa trên nguyên tắc, điều lệ Đảng, nhưng thấm đẫm
tình người...”
Cũng theo TS Chu Đức Tính, vấn đề mất đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giải quyết một cách bao dung, nhẹ nhàng mà thấm thía. Đây vẫn sẽ là một bài
học quý báu trong xử lý vấn đề mất đoàn kết trong Đảng đang diễn ra ở một số
nơi hiện nay. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn
kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác" . Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ đoàn kết chặt chẽ mà mới
5
tròn một tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930
-1931; 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhờ đoàn
kết, thống nhất mà Đảng đã tập hợp được lực lượng, phát huy được sức mạnh
của cả dân tộc và thời đại vào cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 30 năm, đánh
thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải
phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
b. Về đoàn kết toàn dân
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thấy một trong những truyền thống cực kỳ q
báu của dân tộc Việt Nam là đoàn kết. Trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng mọi ý đồ xâm lược,
phá vỡ khối đoàn kết dân tộc sẽ bị đánh bại: ''Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà" . Khi đất nước bước
6
vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: dựa vào lực lượng vĩ đại
của khối đoàn kết dân tộc, chúng ta sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ, cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên toàn đất nước Việt Nam. Sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam không chỉ
là phép tính giản đơn của sự đoàn kết trong Đảng cộng với khối đoàn kết của
những người ngoài Đảng, mà chính là sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết, sự
gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đặt trọn niềm tin
vào truyền thống đó. Với Người, tương lai của đất nước, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống đoàn kết, những dòng Di
chúc cuối cùng của Hồ Chí Minh được viết ra với tâm nguyện: ''Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống
5
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, NXB CTQG, Hà Nội, 2011, tr 621- 624.
6
Bác Hồ viết Di chúc và Di chúc của Bác Hồ. NXB Chính trị quốc gia 2007, trang
422.
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, khối đoàn kết dân tộc được quyết định bởi sự
quan tâm, tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh
gọi đó là ''công việc đối với con người''. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã để lại
những lời căn dặn không chỉ về quan điểm tư tưởng mà cả những chỉ dẫn khá cụ
thể, tỉ mỉ. Đó không chỉ là việc đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ mà còn là lựa chọn những người đã trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng để họ trở thành ''đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta''. Đối với những người ở hậu phương, nông
nhân, công dân, thanh niên, phụ nữ… sự quan tâm đó cũng chu đáo đầy đủ. Hồ
Chí Minh là người đầu tiên đã nghĩ đến và có giải pháp thích hợp để biến chủ
nghĩa anh hùng trong chiến đấu thành tinh thần phấn đấu, niềm say mê trong
xây dựng hoà bình. Di chúc của Người có đoạn: ''Trong bao năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào
nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp
của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn
thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất'' . Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo
7
rộng rãi, mạnh mẽ và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những
người từ phía ''bên này'' mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự
nghiệp xây dựng đất nước cần đến lực lượng của tất cả mọi người, ''không để sót
một người nào''. Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: ''Đối với những nạn nhân của
chế độ cũ, thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện" . Đây không chỉ là
8
quan điểm tập hợp lực lượng hết sức rộng rãi mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng
bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh.
c. Về đoàn kết quốc tế
Một trong những tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng đoàn kết
quốc tế.
Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và nhất
quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp
được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam
chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ toàn dân luôn đoàn kết
một lòng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về
tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên
toàn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày
7
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 504.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 617
thắng lợi "Sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong
phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và
giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta" .
9
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với
con người. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc
lập, tự do của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và
phát triển tình đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-
tinh...Người chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp
bạn là tự giúp mình”; coi trọng, thắt chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân
thế giới và các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam.
Đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lc, tự cường, tạo
điều kiện làm chuyển biến lực lượng có lợi cho cách mạng trong nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập
riêng của mình, mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hòa bình thế
giới. Ngay đối với Mỹ là nước đưa quân sang xâm lược Việt Nam, Người cũng nhắc
nhở mỗi chúng ta phải biết phân biệt sự khác nhau giữa những người Mỹ xâm
lược và nhân dân Mỹ, được biểu hiện thông qua bức Thư gửi nhân dân Mỹ tháng
12-1961, trong đó nêu rõ: "Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không
oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ
chống chủ nghĩa thực dân (1775 – 1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ
hữu nghị với các bạn… Hiện nay, Chính phủ Mỹ đang dùng quân sự can thiệp vào
nội bộ Việt Nam, đang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam chúng tôi.
Chúng tôi buộc phải đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Và chúng tôi
mong các bạn hành động ngay để ngăn cản Chính phủ Mỹ phát động một cuộc
chiến tranh phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam"
10
.
2.1.2 Tư tưởng nhân văn
Ánh sáng của các tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Người đã, đang và
sẽ mãi tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đường của nhân dân ta đi đến
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
a. Quan điểm vì con người và giải phóng con người
Trong Di chúc của Người, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa
cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con người.
Xuyên suốt trong Di chúc của Người đó là
9
Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.618.
10
Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.307.
tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Người chỉ rõ, khi đất
nước đã trải qua những năm dài chiến tranh, việc hàn gắn những vết thương của
thời hậu chiến là công việc rất nặng nề, phức tạp, nhưng cũng rất vẻ vang, bởi nó
luôn mang nội dung tư tưởng nhân văn cao cả là chiến đấu chống lại những gì đã
cũ, hư hỏng đem lại cho xã hội và mọi người những cái mới mẻ, tốt tươi; "Đảng
cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân" . Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải
11
có những chính sách, việc làm cụ thể đối với từng đối tượng, từ những anh hùng
liệt sĩ, thương binh và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ
trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và các
lực lượng thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp xương máu và công sức cho
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tư tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó,
bởi đối tượng quan tâm của Người còn là "những nạn nhân của chế độ xã hội cũ,
như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo
dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao
động lương thiện" .
12
Đối với các liệt sĩ, Người căn dặn phải làm những việc cần thiết nhất để "ghi sự
hy sinh anh dũng của các liệt sĩ", đồng thời "để đời đời giáo dục tinh thần yêu
nước cho nhân dân ta".
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng
thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp
tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không
để họ bị đói, bị rét.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Người căn dặn: chúng ta
phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống
tự lập, tự lực cánh sinh.
Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu Người yêu cầu "Đảng và
Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành,
các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng
tốt, lập trường cách mạng vững chắc", làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt
xây dựng thành cô ng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh và văn minh trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thường nhắc nhở chúng ta: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15.
những con người xã hội chủ nghĩa” . Do đó Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo
13
công tác giáo dục, đào tạo, rèn luyện cho lớp người trẻ tuổi để kế tục sự nghiệp
cách mạng, trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” . Người chỉ rõ cần phải sửa đổi
14
chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào
tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Đối với phụ nữ, Người luôn dành sự quan tâm chăm lo đặc bit, trong Di chúc
Người chỉ rõ mục tiêu vươn tới mang tính nhân văn cao cả của người phụ nữ
trong chế độ mới: "Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ". Người yêu cầu: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo" .
15
Mang trong mình đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”, với đối tượng là nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một
năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào ta đã ra sức góp của,
góp người, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Theo Người, chủ nghĩa xã hội không
phải là cái gì khác mà chính là làm mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung
sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định: "Nếu nước nhà độc lập mà dân
không không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì"
16
. Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ
nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản.
b. Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể
hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng.
Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Tháng 5/1968,
khi soạn thảo Di chúc, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến việc hoàn thiện
công việc lãnh đạo của Đảng, Người đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân văn trong việc
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành với nhân dân. Xã hội
mới theo hướng lấy con người làm trung tâm ở nước ta trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là
chống áp bức, bóc lột, mang những giá trị chân chính của con người trả lại cho
con người. Bản chất của xã hội lấy con người làm trung tâm hoà
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H,
2011, t.13, tr. 66.
14
Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15. H. Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 622.
15
Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 509 - 510.
16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 264
quyện và thống nhất với mục đích lý tưởng của Đảng. Với lý tưởng tiền tiến và
đạo đức cao đẹp, nhân cách người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm
của xã hội mới. Đó là những con người biết đặt lợi ích ca Đảng của nhân dân lên
trên hết và trước hết. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người
làm trung tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên
có đạo đức cách mạng là những người có văn hoá; phải xung phong gương mẫu
làm trước thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ; cái gì lợi cho Đảng, cho
dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng, đến dân thì kiên quyết chống lại.
Là người đầy tớ trung thành của nhân dân thì những người lãnh đạo phải thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ lao động của mình.
2.2 Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc
Từ tác phẩm Đường cách mệnh đến Di chúc, tùy theo từng đối tượng và các mối
quan hệ, Hồ Chí Minh có nhiều cách giải thích về đạo đức cách mạng với ý nghĩa
quan trọng khác nhau, trong đó Người đặt phẩm chất chí công vô tư lên hàng
đầu. Dưới đây trình bày 4 phẩm chất đạo đức cơ bản:
Thứ nhất, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với đất
nước, nhân dân, cách mạng, với Đảng.
Chi công vô tư là phẩm chất đạo đức cao nhất. Hồ Chí Minh cho rằng một trong
những cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của người cách mạng là “phải giữ
vững đạo đức cách mạng, cao nhất là chí công vô tư” . Khi nói tóm tắt về đạo
17
đức cách mạng, Người khẳng định: “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất” . Bàn về người cán bộ cách mạng, Người
17
viết: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo
đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng
có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước.
Tận hiếu với dân .
18
Chí công vô tư phải thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc,
hiếu với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì
khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm” .
19
Những tính tốt mà Hồ Chí Minh đề cập đến là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm,
Chính, Cần, Kiệm.
Chí công vô tư là luôn biết đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc, của Đảng, của
nhân dân lên trên,
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.290.
18
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.603.
19
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr.354.
lên trước lợi ích cá nhân. Có chí công vô tư thì lòng dạ mới trong trẻo, đầu óc mới
sáng suốt để tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ, một đảng viên
phải thật thà, trung thành, hăng hái. Trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh
của mình. Phải hy sinh lợi ích cá nhân của mình cho Đảng. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ
ở đâu, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích
của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để
lại sau; phải giữ đúng nguyên tắc, ra sức đấu tranh chống những tư tưởng và
hành vi sai lầm, để củng cố sự sinh hoạt tập thể của Đảng, củng cố quan hệ giữa
Đảng và quần chúng. Chăm lo đến Đảng và quần chúng hơn chăm lo đến cá
nhân, săn sóc đến người khác hơn săn sóc đến mình.
Chi công vô tư là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào.
Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, một lẽ tự nhiên như bốn mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo
chất người của mỗi người, vì “thiếu một đức thì không thành người”. Cần, kiệm,
liêm, chính đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người có
quyền, nếu thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn ca đút. Trên cái nền
“làm người”, cán bộ, đảng viên là những người có trình độ cao, có trách nhiệm
lớn. Cán bộ, đảng viên mà suy thoái đạo đức, tha hóa thì ảnh hưởng lớn đến
thanh danh của Đảng, đến nhiệm vụ cách mạng. Đảng viên sai lầm sẽ đưa quần
chúng đến sai lầm. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ
của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu v
vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” .
20
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái
cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại.
Thứ ba, yêu thương con người
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với người
khác.
Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình
thương yêu con người dành cho con người đang sống thực trên đời này, bị áp
bức, đói nghèo, bệnh tật. Đó là tình yêu thương như nhân loại đã ngợi ca: “Bất cứ
nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh
bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới
mới, chống lại đói nghèo, ở đó
20
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.128.
có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao” . Tình thương yêu con người
21
của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời của việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác-
Lênin. Theo Người, “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” . Đó là một tình thương yêu không chỉ trong
22
phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
2.3 Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc – nơi thể hiện và
kết tinh cả tư tưởng và đạo đức của Người.
Nói tới phong cách là nói tới một hệ thống. Từ phong cách tư duy, phong cách
trình bày, diễn đạt (nghĩ, nói và viết), phong cách làm việc đến phong cách ứng
xử, đặc biệt là ứng xử với mình, với người, với việc. Phong cách Hồ Chí Minh thể
hiện trong Di chúc nổi bật ở những điểm sau:
Một là, thể hiện một năng lực và bản lĩnh văn hóa sâu sắc và tinh tế: chữ ít nhất
mà nhiều nghĩa nhất, hàm súc, cô đọng, mang phong cách hiền triết Á Đông và
đậm bản sắc Việt Nam. Phong cách này được thể hiện ở nhiều đoạn, chỉ riêng về
chủ nghĩa xã hội, Di chúc nói ít nhất về chủ nghĩa xã hội, xét về phương diện
ngôn ngữ, chỉ có hai lần dùng từ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội nhưng lại
nói được nhiều nhất về chủ nghĩa xã hội, xét về phương diện nội dung tư tưởng.
Toàn bộ tinh thần và lời văn trong Di chúc đã nói được quan niệm hiện đại của
Người về chủ nghĩa xã hội, bản chất, đặc trưng, mục tiêu và phương thức đi tới
chủ nghĩa xã hội: từ phát triển kinh tế và văn hóa, từ quản lý xã hội, chính sách
xã hội, từ con người đến tổ chức, từ dân tộc đến quốc tế, từ xã hội đến môi
trường, từ xây dựng chủ nghĩa xã hội đến bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là, thể hiện một tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt, chắc chắn vào thắng
lợi. “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy
sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc
chắn”.
Ba là, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng. Di chúc hàm chứa tư tưởng đổi mới và hội
nhập, phải làm những việc cấp bách, trước mắt mà cũng lo toan những trù tính
chiến lược trong tương lai, kế hoạch xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, tươi đẹp
hơn. Đó chính là mục tiêu sâu xa và động lực căn bản của chủ nghĩa xã hội đã
được đề cập trong Di chúc. Đó đơn giản cũng là chăm lo cho cuộc sống của nhân
dân, lấy con người làm mục tiêu và động lực, mà quan trọng và trực tiếp nhất là
phải bảo đảm lợi ích và dân chủ, là thực hành dân chủ, nhất là thực hành dân
chủ trong Đảng.
21
Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb.Lao động
– Nxb.Quân đội nhân dân, H.1993, tr.90
22
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.668.
Bốn là, thể hiện sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ
lượng và thủy chung tình nghĩa. Đó là sự hoàn chỉnh Chân – Thiện – Mỹ mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động
muôn triệu trái tim Người.
Năm là, thể hiện một nhân cách vĩ đại và cao thượng. Di chúc bộc lộ những dằn
vặt đau đớn của Người về tình trạng bất hòa giữa các đảng anh em. Người rất ít
khi nói tới nỗi đau, vậy mà trước khi ra đi, Người đã phải nói rõ nỗi lòng mình
Càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao
nhiêu thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh
em”. Ta hiểu, phải dằn vặt đêm ngày, phải đau nỗi đau như có máu và nước mắt,
Người mới phải thốt lên như vậy. Và Người cũng “ tin chắc rằng các đảng anh em
và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”. Nỗi đau nhân sinh thế sự và
niềm tin này là của một nhân cách vĩ đại và cao thượng – Hồ Chí Minh.
Cao hơn tất cả, Di chúc đã thể hiện đức tính khiêm nhường cao quý và tình
thương bao la của Người, Người chỉ coi đây là một bức thư, là mấy lời để lại cho
đồng bào, đồng chí, cho đảng viên và cán bộ, cho bạn bè đồng chí gần xa, quốc
tế, thế giới và nhân loại. Người ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, không có điều gì
phải ân hận. Người chỉ tiếc là tiếc rằng “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa” chứ không phải là không được sống lâu hơn nữa như một lẽ thường
tình. Đây là nơi kết đọng sự sâu sắc, cao cả của trí tuệ, đạo đức, tâm hồn của Hồ
Chí Minh, suốt một đời chỉ biết hy sinh và dâng hiến.
Tài liệu tham khảo
1. Bác Hồ về đoàn kết, thống nhất trong Đảng
https://hatinh.dcs.vn/ho-chi-minh/news/bac-ho-ve-doan-ket-thong-nhat-trong-
dang.html
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng
https://btgtu.thanhhoa.dcs.vn/portal/pages/2021-8-24/TU-TUONG-HO-CHI-MINH-
VE-DOAN-KET-THONG-NHAT-TRONG-9jaijj7mrwck.aspx
3. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
http://hvlq.vn/trang-chu/hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-
chi-minh/tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-doan-ket-
quoc-te2.html
4. Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/819653/cham-lo-doi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-
trong-giai-doan-hien-nay.aspx#
5. “Di chúc” và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hiện an sinh xã hội
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3079-
%E2%80%9Cdi-chuc%E2%80%9D-va-quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-
thuc-hien-an-sinh-xa-hoi.html
6. 50 năm thực hiện Di chúc Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt
Nam
http://www.hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/50-nam-thuc-hien-di-chuc-ho-chi-
minh-ve-quyen-binh-%C4%91ang-cua-phu-nu-viet-nam-31150-10.html
7. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh
8. Thông tin chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh
| 1/13

Preview text:

Chương 2: Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc.
2.1 Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc
2.1.1.Tư tưởng đoàn kết
Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến
vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại
đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có
đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết.
Suốt cuộc đời mình, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết
nhằm tập hợp lực lượng, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức
mạnh quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
trên được thể hiện rõ nét qua Di chúc của Người.
a. Về đoàn kết trong Đảng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn ai hết vai trò quan trọng
của sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, Người khẳng định: "Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta"1. Chính nhờ "đoàn kết chặt
chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, cho
nên từ ngày thành lập tới nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân
dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này tới thắng lợi khác"2.
Với mong muốn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trở thành truyền thống của Đảng
ta, Người đã căn dặn: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"3. Theo Người,
đoàn kết không phải chỉ là việc tập hợp lực lượng, mà còn phải thống nhất lực
lượng đó về ý chí và hành động. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quan
trọng hàng đầu của Đảng. Truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ
truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử và trên cơ sở nhận thức
đúng đắn từ lập trường cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh cần phải giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Đó chính là sự giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất
từ trung ương đến các chi bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Không chỉ căn dặn toàn Đảng giữ gìn sự đoàn kết, Bác cũng chỉ rõ cách thức,
phương pháp để thực hiện đoàn kết trong Đảng. Bác nói nguyên lý đoàn kết:
"Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.120.
2 Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T15, tr. 622.
3 Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T15, tr. 622.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.15, tr.611.
được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền, không dân chủ trong
Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được". Theo TS Chu Đức Tính, Giám đốc Bảo
tàng Hồ Chí Minh, gần 30 năm nghiên cứu về Bác, nhận thấy ý nghĩa gốc rễ, có
tính nền tảng của nửa dòng chữ duy nhất Bác viết thêm vào Di chúc năm 1966:
Bác viết: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau"4. Bác dạy Đảng ta: “Phê
bình việc chứ không phê bình người. Học tập Chủ nghĩa Mác là phải sống với
nhau có tình có lý. Ta xử lý dựa trên nguyên tắc, điều lệ Đảng, nhưng thấm đẫm tình người...”
Cũng theo TS Chu Đức Tính, vấn đề mất đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giải quyết một cách bao dung, nhẹ nhàng mà thấm thía. Đây vẫn sẽ là một bài
học quý báu trong xử lý vấn đề mất đoàn kết trong Đảng đang diễn ra ở một số
nơi hiện nay. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn
kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác"5. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ đoàn kết chặt chẽ mà mới
tròn một tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930
-1931; 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhờ đoàn
kết, thống nhất mà Đảng đã tập hợp được lực lượng, phát huy được sức mạnh
của cả dân tộc và thời đại vào cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 30 năm, đánh
thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải
phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
b. Về đoàn kết toàn dân
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thấy một trong những truyền thống cực kỳ quý
báu của dân tộc Việt Nam là đoàn kết. Trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng mọi ý đồ xâm lược,
phá vỡ khối đoàn kết dân tộc sẽ bị đánh bại: ''Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"6. Khi đất nước bước
vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: dựa vào lực lượng vĩ đại
của khối đoàn kết dân tộc, chúng ta sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ, cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên toàn đất nước Việt Nam. Sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam không chỉ
là phép tính giản đơn của sự đoàn kết trong Đảng cộng với khối đoàn kết của
những người ngoài Đảng, mà chính là sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết, sự
gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đặt trọn niềm tin
vào truyền thống đó. Với Người, tương lai của đất nước, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống đoàn kết, những dòng Di
chúc cuối cùng của Hồ Chí Minh được viết ra với tâm nguyện: ''Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống
5 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, NXB CTQG, Hà Nội, 2011, tr 621- 624.
6 Bác Hồ viết Di chúc và Di chúc của Bác Hồ. NXB Chính trị quốc gia 2007, trang 422.
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, khối đoàn kết dân tộc được quyết định bởi sự
quan tâm, tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh
gọi đó là ''công việc đối với con người''. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã để lại
những lời căn dặn không chỉ về quan điểm tư tưởng mà cả những chỉ dẫn khá cụ
thể, tỉ mỉ. Đó không chỉ là việc đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ mà còn là lựa chọn những người đã trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng để họ trở thành ''đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta''. Đối với những người ở hậu phương, nông
nhân, công dân, thanh niên, phụ nữ… sự quan tâm đó cũng chu đáo đầy đủ. Hồ
Chí Minh là người đầu tiên đã nghĩ đến và có giải pháp thích hợp để biến chủ
nghĩa anh hùng trong chiến đấu thành tinh thần phấn đấu, niềm say mê trong
xây dựng hoà bình. Di chúc của Người có đoạn: ''Trong bao năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào
nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp
của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn
thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất''7. Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo
rộng rãi, mạnh mẽ và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những
người từ phía ''bên này'' mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự
nghiệp xây dựng đất nước cần đến lực lượng của tất cả mọi người, ''không để sót
một người nào''. Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: ''Đối với những nạn nhân của
chế độ cũ, thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện"8. Đây không chỉ là
quan điểm tập hợp lực lượng hết sức rộng rãi mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng
bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh.
c. Về đoàn kết quốc tế
Một trong những tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng đoàn kết quốc tế.
Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và nhất
quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp
được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam
chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ toàn dân luôn đoàn kết
một lòng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về
tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên
toàn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày
7 Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 504.
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 617
thắng lợi "Sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong
phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và
giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta"9.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với
con người. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc
lập, tự do của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và
phát triển tình đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-
tinh...Người chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp
bạn là tự giúp mình”; coi trọng, thắt chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân
thế giới và các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam.
Đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo
điều kiện làm chuyển biến lực lượng có lợi cho cách mạng trong nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập
riêng của mình, mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hòa bình thế
giới. Ngay đối với Mỹ là nước đưa quân sang xâm lược Việt Nam, Người cũng nhắc
nhở mỗi chúng ta phải biết phân biệt sự khác nhau giữa những người Mỹ xâm
lược và nhân dân Mỹ, được biểu hiện thông qua bức Thư gửi nhân dân Mỹ tháng
12-1961, trong đó nêu rõ: "Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không
oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ
chống chủ nghĩa thực dân (1775 – 1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ
hữu nghị với các bạn… Hiện nay, Chính phủ Mỹ đang dùng quân sự can thiệp vào
nội bộ Việt Nam, đang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam chúng tôi.
Chúng tôi buộc phải đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Và chúng tôi
mong các bạn hành động ngay để ngăn cản Chính phủ Mỹ phát động một cuộc
chiến tranh phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam"10. 2.1.2 Tư tưởng nhân văn
Ánh sáng của các tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Người đã, đang và
sẽ mãi tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đường của nhân dân ta đi đến
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
a. Quan điểm vì con người và giải phóng con người
Trong Di chúc của Người, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa
cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con người.
Xuyên suốt trong Di chúc của Người đó là
9 Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.618.
10 Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.307.
tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Người chỉ rõ, khi đất
nước đã trải qua những năm dài chiến tranh, việc hàn gắn những vết thương của
thời hậu chiến là công việc rất nặng nề, phức tạp, nhưng cũng rất vẻ vang, bởi nó
luôn mang nội dung tư tưởng nhân văn cao cả là chiến đấu chống lại những gì đã
cũ, hư hỏng đem lại cho xã hội và mọi người những cái mới mẻ, tốt tươi; "Đảng
cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"11. Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải
có những chính sách, việc làm cụ thể đối với từng đối tượng, từ những anh hùng
liệt sĩ, thương binh và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ
trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và các
lực lượng thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp xương máu và công sức cho
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tư tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó,
bởi đối tượng quan tâm của Người còn là "những nạn nhân của chế độ xã hội cũ,
như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo
dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện"12.
Đối với các liệt sĩ, Người căn dặn phải làm những việc cần thiết nhất để "ghi sự
hy sinh anh dũng của các liệt sĩ", đồng thời "để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta".
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng
thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp
tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không
để họ bị đói, bị rét.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Người căn dặn: chúng ta
phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống
tự lập, tự lực cánh sinh.
Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu Người yêu cầu "Đảng và
Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành,
các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng
tốt, lập trường cách mạng vững chắc", làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt
xây dựng thành cô ng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh và văn minh trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thường nhắc nhở chúng ta: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15.
những con người xã hội chủ nghĩa”13. Do đó Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo
công tác giáo dục, đào tạo, rèn luyện cho lớp người trẻ tuổi để kế tục sự nghiệp
cách mạng, trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”14. Người chỉ rõ cần phải sửa đổi
chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào
tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đối với phụ nữ, Người luôn dành sự quan tâm chăm lo đặc biệt, trong Di chúc
Người chỉ rõ mục tiêu vươn tới mang tính nhân văn cao cả của người phụ nữ
trong chế độ mới: "Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ". Người yêu cầu: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo"15.
Mang trong mình đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”, với đối tượng là nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một
năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào ta đã ra sức góp của,
góp người, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Theo Người, chủ nghĩa xã hội không
phải là cái gì khác mà chính là làm mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung
sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định: "Nếu nước nhà độc lập mà dân
không không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì"16. Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ
nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản.
b. Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể
hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng.

Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Tháng 5/1968,
khi soạn thảo Di chúc, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến việc hoàn thiện
công việc lãnh đạo của Đảng, Người đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân văn trong việc
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành với nhân dân. Xã hội
mới theo hướng lấy con người làm trung tâm ở nước ta trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là
chống áp bức, bóc lột, mang những giá trị chân chính của con người trả lại cho
con người. Bản chất của xã hội lấy con người làm trung tâm hoà
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.13, tr. 66.
14 Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15. H. Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 622.
15 Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 509 - 510.
16 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 264
quyện và thống nhất với mục đích lý tưởng của Đảng. Với lý tưởng tiền tiến và
đạo đức cao đẹp, nhân cách người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm
của xã hội mới. Đó là những con người biết đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lên
trên hết và trước hết. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người
làm trung tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên
có đạo đức cách mạng là những người có văn hoá; phải xung phong gương mẫu
làm trước thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ; cái gì lợi cho Đảng, cho
dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng, đến dân thì kiên quyết chống lại.
Là người đầy tớ trung thành của nhân dân thì những người lãnh đạo phải thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ lao động của mình.
2.2 Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc
Từ tác phẩm Đường cách mệnh đến Di chúc, tùy theo từng đối tượng và các mối
quan hệ, Hồ Chí Minh có nhiều cách giải thích về đạo đức cách mạng với ý nghĩa
quan trọng khác nhau, trong đó Người đặt phẩm chất chí công vô tư lên hàng
đầu. Dưới đây trình bày 4 phẩm chất đạo đức cơ bản:
Thứ nhất, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với đất
nước, nhân dân, cách mạng, với Đảng.
Chi công vô tư là phẩm chất đạo đức cao nhất. Hồ Chí Minh cho rằng một trong
những cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của người cách mạng là “phải giữ
vững đạo đức cách mạng, cao nhất là chí công vô tư”17 . Khi nói tóm tắt về đạo
đức cách mạng, Người khẳng định: “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”17 . Bàn về người cán bộ cách mạng, Người
viết: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo
đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng
có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”18.
Chí công vô tư phải thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc,
hiếu với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì
khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm”19.
Những tính tốt mà Hồ Chí Minh đề cập đến là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Chính, Cần, Kiệm.
Chí công vô tư là luôn biết đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc, của Đảng, của nhân dân lên trên,
17 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.290.
18 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.603.
19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr.354.
lên trước lợi ích cá nhân. Có chí công vô tư thì lòng dạ mới trong trẻo, đầu óc mới
sáng suốt để tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ, một đảng viên
phải thật thà, trung thành, hăng hái. Trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh
của mình. Phải hy sinh lợi ích cá nhân của mình cho Đảng. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ
ở đâu, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích
của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để
lại sau; phải giữ đúng nguyên tắc, ra sức đấu tranh chống những tư tưởng và
hành vi sai lầm, để củng cố sự sinh hoạt tập thể của Đảng, củng cố quan hệ giữa
Đảng và quần chúng. Chăm lo đến Đảng và quần chúng hơn chăm lo đến cá
nhân, săn sóc đến người khác hơn săn sóc đến mình.
Chi công vô tư là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào.
Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, một lẽ tự nhiên như bốn mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo
chất người của mỗi người, vì “thiếu một đức thì không thành người”. Cần, kiệm,
liêm, chính đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người có
quyền, nếu thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút. Trên cái nền
“làm người”, cán bộ, đảng viên là những người có trình độ cao, có trách nhiệm
lớn. Cán bộ, đảng viên mà suy thoái đạo đức, tha hóa thì ảnh hưởng lớn đến
thanh danh của Đảng, đến nhiệm vụ cách mạng. Đảng viên sai lầm sẽ đưa quần
chúng đến sai lầm. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ
của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về
vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”20 .
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái
cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại.
Thứ ba, yêu thương con người
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với người khác.
Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình
thương yêu con người dành cho con người đang sống thực trên đời này, bị áp
bức, đói nghèo, bệnh tật. Đó là tình yêu thương như nhân loại đã ngợi ca: “Bất cứ
nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh
bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới
mới, chống lại đói nghèo, ở đó
20 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.128.
có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”21. Tình thương yêu con người
của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời của việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác-
Lênin. Theo Người, “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” 22. Đó là một tình thương yêu không chỉ trong
phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
2.3 Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc – nơi thể hiện và
kết tinh cả tư tưởng và đạo đức của Người.
Nói tới phong cách là nói tới một hệ thống. Từ phong cách tư duy, phong cách
trình bày, diễn đạt (nghĩ, nói và viết), phong cách làm việc đến phong cách ứng
xử, đặc biệt là ứng xử với mình, với người, với việc. Phong cách Hồ Chí Minh thể
hiện trong Di chúc nổi bật ở những điểm sau:
Một là, thể hiện một năng lực và bản lĩnh văn hóa sâu sắc và tinh tế: chữ ít nhất
mà nhiều nghĩa nhất, hàm súc, cô đọng, mang phong cách hiền triết Á Đông và
đậm bản sắc Việt Nam. Phong cách này được thể hiện ở nhiều đoạn, chỉ riêng về
chủ nghĩa xã hội, Di chúc nói ít nhất về chủ nghĩa xã hội, xét về phương diện
ngôn ngữ, chỉ có hai lần dùng từ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội nhưng lại
nói được nhiều nhất về chủ nghĩa xã hội, xét về phương diện nội dung tư tưởng.
Toàn bộ tinh thần và lời văn trong Di chúc đã nói được quan niệm hiện đại của
Người về chủ nghĩa xã hội, bản chất, đặc trưng, mục tiêu và phương thức đi tới
chủ nghĩa xã hội: từ phát triển kinh tế và văn hóa, từ quản lý xã hội, chính sách
xã hội, từ con người đến tổ chức, từ dân tộc đến quốc tế, từ xã hội đến môi
trường, từ xây dựng chủ nghĩa xã hội đến bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là, thể hiện một tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt, chắc chắn vào thắng
lợi. “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy
sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Ba là, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng. Di chúc hàm chứa tư tưởng đổi mới và hội
nhập, phải làm những việc cấp bách, trước mắt mà cũng lo toan những trù tính
chiến lược trong tương lai, kế hoạch xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, tươi đẹp
hơn. Đó chính là mục tiêu sâu xa và động lực căn bản của chủ nghĩa xã hội đã
được đề cập trong Di chúc. Đó đơn giản cũng là chăm lo cho cuộc sống của nhân
dân, lấy con người làm mục tiêu và động lực, mà quan trọng và trực tiếp nhất là
phải bảo đảm lợi ích và dân chủ, là thực hành dân chủ, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng.
21 Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb.Lao động
– Nxb.Quân đội nhân dân, H.1993, tr.90
22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.668.
Bốn là, thể hiện sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ
lượng và thủy chung tình nghĩa. Đó là sự hoàn chỉnh Chân – Thiện – Mỹ mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động
muôn triệu trái tim Người.
Năm là, thể hiện một nhân cách vĩ đại và cao thượng. Di chúc bộc lộ những dằn
vặt đau đớn của Người về tình trạng bất hòa giữa các đảng anh em. Người rất ít
khi nói tới nỗi đau, vậy mà trước khi ra đi, Người đã phải nói rõ nỗi lòng mình
“Càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao
nhiêu thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh
em”. Ta hiểu, phải dằn vặt đêm ngày, phải đau nỗi đau như có máu và nước mắt,
Người mới phải thốt lên như vậy. Và Người cũng “ tin chắc rằng các đảng anh em
và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”. Nỗi đau nhân sinh thế sự và
niềm tin này là của một nhân cách vĩ đại và cao thượng – Hồ Chí Minh.
Cao hơn tất cả, Di chúc đã thể hiện đức tính khiêm nhường cao quý và tình
thương bao la của Người, Người chỉ coi đây là một bức thư, là mấy lời để lại cho
đồng bào, đồng chí, cho đảng viên và cán bộ, cho bạn bè đồng chí gần xa, quốc
tế, thế giới và nhân loại. Người ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, không có điều gì
phải ân hận. Người chỉ tiếc là tiếc rằng “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa” chứ không phải là không được sống lâu hơn nữa như một lẽ thường
tình. Đây là nơi kết đọng sự sâu sắc, cao cả của trí tuệ, đạo đức, tâm hồn của Hồ
Chí Minh, suốt một đời chỉ biết hy sinh và dâng hiến. Tài liệu tham khảo
1. Bác Hồ về đoàn kết, thống nhất trong Đảng
https://hatinh.dcs.vn/ho-chi-minh/news/bac-ho-ve-doan-ket-thong-nhat-trong- dang.html
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng
https://btgtu.thanhhoa.dcs.vn/portal/pages/2021-8-24/TU-TUONG-HO-CHI-MINH-
VE-DOAN-KET-THONG-NHAT-TRONG-9jaijj7mrwck.aspx

3. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
http://hvlq.vn/trang-chu/hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-
chi-minh/tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-doan-ket- quoc-te2.html
4. Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/819653/cham-lo-doi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-
trong-giai-doan-hien-nay.aspx#

5. “Di chúc” và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hiện an sinh xã hội
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3079-
%E2%80%9Cdi-chuc%E2%80%9D-va-quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-

thuc-hien-an-sinh-xa-hoi.html
6. 50 năm thực hiện Di chúc Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam
http://www.hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/50-nam-thuc-hien-di-chuc-ho-chi-
minh-ve-quyen-binh-%C4%91ang-cua-phu-nu-viet-nam-31150-10.html

7. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh
8. Thông tin chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh