Tài liệu Một số lời bình và tư liệu về bài Người lái đò sông Đà | Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
Tài liệu Một số lời bình và tư liệu về bài Người lái đò sông Đà | Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn. Tài liệu gồm 22 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân 1. Wikipedia:
- “Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những
kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà. ., những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù
hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình,
tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "Chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ
thuộc địa (hai lần bị tù).
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác:
hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh. . Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt
Nam[4]. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả
của nghệ thuật văn chương.
- Nguyễn Tuân nổi tiếng là người sành ăn. Với ông, ăn là một nghệ thuật, một giá trị thẩm mỹ, một sự khám phá
cái ngon mà tạo hóa đã ban cho.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình
thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.” Nhận định:
Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn
chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn
Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương" trong
sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải
ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo
dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề. . 2. Facebook: I. CUỘC ĐỜI 1. Tiểu sử
a) Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Nhân Mục, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông xuất
thân trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
b) Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. 2. Con người
a) Nguyễn Tuân là một trí thức có lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần dân tộc sâu sắc. Lòng yêu nước của ông có
màu sắc riêng: gắn bó đầy tự hào với những giá trị văn hoá nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ
đẻ; những kiệt tác văn chương của dân tộc; các làn điệu dân ca; những phong cảnh đẹp của quê hương; những thú chơi
tao nhã của người xưa; những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt…
b) Ở Nguyễn Tuân ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính của mình; ông ham
du lịch; ông tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là chủ nghĩa xê dịch, chủ trương đi để thay thực đơn cho giác quan.
Trong sáng tác văn học, ông luôn luôn có ý thức phát huy cá tính, khẳng định phong cách độc đáo của mình.
c) Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa và uyên bác. Ông am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu
khắc, sân khấu, điện ảnh.v.v, và cả những ngành không liên quan gì đến nghệ thuật như quân sự, võ thuật. Trong sáng tác,
ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
d) Nguyễn Tuân là nhà văn biết quí trọng nghề nghiệp của mình. Cuộc đời sáng tác của Nguyễn Tuân là một quá trình
săn tìm và diễn tả cái đẹp. Dường như ông sinh ra để làm nghệ thuật. Ông đối lập dứt khoát nghề văn với thái độ cơ hội,
con buôn. Ông coi nghề văn là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” nữa và ông đã lấy cuộc đời cầm
bút hơn nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy. I . SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
1. Quá trình sáng tác và các đề tài chính
a) Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ đầu, ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn,
hiện thực, trào phúng. Phải đến Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939) ông mới khẳng định vị trí của mình. TÔN NGỌC MINH QUÂN 1
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
b) Tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “chủ nghĩa xê dịch” ; vẻ đẹp
“vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc.
c) Lòng yêu nước và thái độ bất mãn với xã hội thực dân phong kiến đã đưa Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng
chiến. Từ sau 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ những nhiệm vụ chính trị của đất nước. 2. Phong cách nghệ thuật
Khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn: Phong cách nghệ thuật nhà văn là những nét riêng biệt, độc đáo có ý nghĩa
thẩm mĩ trong sáng tác của một nhà văn, nó được tạo thành bởi một cái nhìn độc đáo đối với đời sống và sự thống nhất
mang tính ổn định của các phương thức, phương tiện nghệ thuật biểu hiện in đậm dấu ấn của người nghệ sĩ.
Khái quát: Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
a) Trong sáng tác của mình, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo, trong đó sự vật
được quan sát, khám phá và diễn tả nghiêng về phương diện văn hoá mĩ thuật ; con người được quan sát, khám phá và
diễn tả nghiêng về phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Trước cách mạng, ông tìm cái đẹp còn vương sót lại, cái đẹp của một thời vang bóng.
+ Đó là những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã của người xưa như: uống trà, nhắm
rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, đánh thơ, thả thơ…
+ Thế giới nhân vật mà ông dựng lên là những con người của thời vang bóng ấy. Đó là cụ Nghè Móm nghèo nhưng vẫn
giữ thói quen thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản (Thả thơ); là cụ Kép nguyện đem cả cái quãng đời xế
chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quí (Hương cuội); là ông Huấn Cao có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp
và có nhân cách cao vời (Chữ người tử tù)…
- Sau cách mạng, sáng tác của ông có nhiều thay đổi về đề tài nhưng vẫn thống nhất trong phong cách nghệ thuật.
Tiêu biểu cho giai đoạn này là tập tùy bút Sông Đà.
b) Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp là những gì gây ấn tượng mạnh, đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Ông không thích
cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt, khuôn phép yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm
giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao, rừng thiêng, của thác ghềnh dữ dội…
- Thiên nhiên trong văn ông phải là những cảnh tượng hoặc tột cùng dữ dội hoặc tuyệt mĩ tuyệt vời. Những trang viết
hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, tả gió, tả bão, tả thác nước dữ dội, tả những cảnh tượng
tuyệt vời thơ mộng. Ông viết về con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình … Ông viết về gió Than Uyên làm
cho người ngồi trên ngựa hộc máu cam; đá to bằng hột gà cũng bay vù vù, cột nhà chôn một thước ta gió nhổ cả đi.
- Con người trong văn ông phải là những tính cách phi thường như ông lái đò Lai Châu vượt qua thác dữ. Gặp những
đối tượng như vậy, nhà văn dốc hết vốn kiến thức uyên bác cũng như kho chữ nghĩa phong phú của mình để chạy đua
cùng đối tượng. Kết quả là sự ra đời của những trang tuyệt bút .
c) Nguyễn Tuân là cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả một đối tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu
biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế kỹ thuật thể hiện của nhiều ngành nghệ thuật
khác như hội hoạ, âm nhạc, điện ảnh…kể cả những ngành rất ít khi vận dụng trong văn chương như quân sự, võ thuật.
d) Thể tài sáng tác chủ yếu của Nguyễn Tuân phù hợp với phong cách của ông là thể tuỳ bút – một thể văn có tính chủ
quan cao và rất tự do phóng túng. Tuỳ bút của Nguyễn Tuân mang nhiều chất bút kí – một thể văn thiên về thông tin tư
liệu. Đây là chỗ tính uyên bác của Nguyễn Tuân càng bộc lộ rõ. Bài "Người lái đò sông Đà" là một bằng chứng tiêu biểu. I I. KẾT LUẬN
1. Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, có phong cách nghệ thuật độc đáo, ông xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của thế kỉ XX.
2. Ở Nguyễn Tuân, tài đi liền với tâm, người đọc mến mộ Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách về
tấm lòng của ông đối với đất nước, dân tộc. 3. An ninh thủ đô:
Nguyễn Tuân - Văn chương và tính cách
Văn chương và tính cách ông khác người, và chính điều ấy làm ông bất tử sau khi ông qua đời. Và văn chương ông đâu
chỉ có Vang bóng một thời như tên cuốn sách đầu tiên, một tập hợp những thiên tuyệt bút của ông in tại Hà Nội năm 1940…
Lâu nay ngoại trừ hồi ký bạn bè ông, ít người viết về Nguyễn Tuân. Hẳn là rất khó mỗi lần đặt bút viết về Nguyễn, khi
văn chương và cuộc đời ông quá nổi tiếng chăng? Không phải vậy. Khó viết không phải ông quá lớn mà vì tính cách ông,
văn chương ông độc đáo hấp dẫn, nhưng bàn thì khó. Khó nhiều nhẽ. Văn chương một kiểu TÔN NGỌC MINH QUÂN 2
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Ông chuyên đi vào thể ký và tùy bút như một lựa chọn khó ai lặp lại. Vâng! Đó là một loại thể không cần cốt truyện,
không cần bố cục và không cần mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn khi viết. Nhưng viết ký và tùy bút được như ông không
có ai… Tùy bút là tùy vào ngọn bút hay là tùy tấm lòng, tâm trạng tác giả để gây rung động nơi người đọc và sẻ chia cảm
xúc thật của người viết với bạn đọc. Cống hiến của Nguyễn Tuân cho văn học Việt đặc sắc nhất vẫn là thể loại tùy bút. Ông
sống chết với thể loại này. Giọng điệu tùy bút của Nguyễn Tuân có phong cách không trộn lẫn với ai. Nó in dấu cuộc đời và tính cách ông.
Ký sự hay truyện ngắn Nguyễn Tuân đều mang hơi hướng tùy bút. Cả cái gọi là tiểu thuyết của Nguyễn Tuân, thực chất
cũng là những tùy bút kéo dài. . Tùy bút, ký sự gắn với con người tài tử Nguyễn Tuân. Nếu nói đây là lần đầu tiên trong
lịch sử văn học nước nhà, Nguyễn Tuân đã khai phá một phong cách văn chương qua thể tài mà trước đó chưa có. Nguyễn
Tuân đã xác lập được một thể tài mà từ đó, nói tồn tại như một hiển nhiên lịch sử. Cái tính chất tự do của tùy bút đã thể
hiện nơi sự tùy tiện tùy hứng của tác giả. Chỉ có cốt cách ấy Nguyễn Tuân mới viết nồi tùy bút để rồi nói đến Nguyễn Tuân
là người đời nhắc đến tùy bút.
Nhưng tùy bút Nguyễn Tuân đã làm cho chữ nghĩa ngôn ngữ Việt đạt đến một tầm vóc một vinh quang cao cả. Tùy
bút Nguyễn Tuân tự do tung hứng đấy mà vẫn cốt cách văn hóa tâm hồn thuần Việt. Tự do chữ nghĩa và cả tự do tính cách
Nguyễn Tuân là thứ tự do chân chính. Sự phá cách tùy hứng của Nguyễn Tuân là sự làm mới văn chương chứ không hề tự
do nông nổi, hay tầm thường văn hóa. Người muốn vươn ra thoát khỏi cái bình thường thói quen cũ mà vẫn trọng cốt
cách Việt, tâm hồn Việt. . Tính cách ấy, văn chương của con người ấy may ra có tùy bút là chấp nhận được. . Tùy bút cần
sự dũng cảm dám là mình trong từng chân tơ kẽ tóc. Chỉ có tự tin, độc đáo lắm mới làm cho tùy bút bay bổng, lung linh. .
Có thể nói Thiếu quê hương là một cuốn sách mà dù yêu tác giả đến đâu cũng không thể coi đó là tiểu thuyết. Nó chỉ
là một tùy bút viết với bút pháp nghệ thuật đưa nhân vật này nọ vào để đỡ nhàm chán. . Hay như “Sông Đà” ngỡ là ký hay
như có người gọi là tiểu thuyết, nhưng không, đó là tùy bút. . Nguyễn Tuân sinh ra là để viết tùy bút. . Văn tài Việt Nam
thế kỷ XX rất nhiều, nhưng mấy ai chọn một con đường riêng như Nguyễn Tuân? Tại Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn
Tuân, Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đã ví: Nguyễn Tuân như một nhà địa chất đi tìm cái quý giá của
quặng chữ, đặng làm giàu có thêm cho chữ nghĩa Việt, làm phong phú thêm văn chương Việt.
Và một tính cách Hà Nội. .
Sinh thời Nguyễn Tuân được xem là người có tính cách khác người. Ông ngang tàng, khí phách và một chút lập dị. Cái
hào hoa lịch lãm, cái chất kiêu bạc bắt đầu từ nếp sống từ danh gia đã ăn vào ông làm nên tính cách ông. Nói đến Nguyễn
Tuân, người ta nhắc đến cái bệnh đi, hay máu xê dịch của ông. Chính cái bệnh thích xê dịch ấy mà hai lần ông bị chế độ
thuộc địa bắt bỏ tù. Lần thứ nhất vì muốn ra nước ngoài xem kinh nghiệm người ta để về làm cách mạng mà bị bắt đưa
từ Thái Lan về giam cầm trong nước. Lần thứ hai thì bị bắt vì giao du với các nhà hoạt động chính trị. .
Đi và đi, như là một căn bệnh của con người lãng tử Nguyễn Tuân. Năm 1937, khi Tết đến rồi mà ông vẫn theo đoàn
phim sang Hương Cảng đóng phim Cánh đồng ma. Cụ Tú Hải Vân, thân sinh Nguyễn Tuân rất buồn vì Tết Mậu Dần ấy vắng
người con trai lớn ở nhà. Ai biết được nơi phồn hoa đô hội ấy Nguyễn Tuân đã sống những ngày thực tế ra sao, chỉ biết
rằng sau đó chúng ta đã có tuỳ bút Một chuyến đi nổi tiếng. Cái chất hào hoa, tài hoa của Nguyễn Tuân rất Hà Nội mà lại
rất. . Nguyễn Tuân. Hãy xem Tô Hoài viết trong Cát bụi chân ai: "Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn
trong thuốc Bắc, ghé bổ một tý lại vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này không thể thiếu
Nguyễn Tuân, người kia thì không thể chịu đựng được. ."
Vâng! Cái tính cách khác người ấy có thể khó chịu với ai đó nhưng là của riêng ông, và làm nên chân dung ông với góc
cạnh và lấp lánh những gì Hà Nội kết tinh từ cách ứng xử lịch sự cho đến lối sống phong thái và cả ẩm thực. . Người yêu
mến Nguyễn Tuân thì nói rằng ngoài cái vỏ phong cách ấy, có một Nguyễn Tuân khác, của một trái tim yêu thương hết
mực. Không yêu tha thiết cuộc đời này đất nước này và không mang trái tim nhân hậu, làm sao Nguyễn Tuân có thể viết
những thiên tùy bút thấm đẫm tình người? Hãy đọc văn Nguyễn Tuân để thấy tâm hồn tình cảm ông dành cho đất nước và nhân dân.
Viết đến đây tôi lại nhớ GS.TS Phùng Hữu Phú đã nói tại buổi Lễ kỷ niệm 100 năm Nguyễn Tuân: Với những đóng góp
cho văn học Việt Nam, đặc biệt là những trang viết về Hà Nội tài hoa, ông xứng đáng là danh nhân văn hóa..
Nhà văn hóa Nguyễn Tuân đã cách xa chúng ta hôm nay 23 năm, nhưng văn chương ông tên tuổi ông không chỉ Vang
bóng một thời như tên một cuốn sách của Nguyễn Tuân. Ông đã sống và sẽ mãi sống cùng Hà Nội lịch sử và hào hoa.. 4. Dương Lê:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987), quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ
20. Đến với văn chương từ những năm 20 của thế kỉ, Nguyễn Tuân đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn
hiện thực trào phúng và cố gắng tìm kiếm thành công. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của TÔN NGỌC MINH QUÂN 3
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua…
Trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân Nổi tiếng với những tác phẩm viết về chủ đề“xê dịch” (Một chuyến đi,
Thiếu quê hương,. ); cái đẹp trong quá khứ (Vang bóng một thời,. ); hoặc cuộc sống trụy lạc (Chiếc lư đồng mắt cua). Dù
ở đề tài nào, ông cũng khao khát tìm kiếm, phát hiện và chiêm ngưỡng cái đẹp ẩn khuất trong cuộc sống.
Chủ nghĩa xê dịch vốn là một quan niệm sống của phương Tây, được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20 và
được nhiều người tiếp nhận. Xê dịch có nghĩa là luôn luôn thay đổi, rất phù hợp với lý tưởng sống của tuổi trẻ, hoặc những
người có lối sống tự do, thích khám phá. Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết “chủ nghĩa xê dịch” này trong tâm trạng bất
mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết
của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa(Một chuyến đi).
Không những “xê dịch” trên khoảng không gian địa lí, Nguyễn Tuân còn thực hiện “xê dịch” vượt thời gian lịch sử.
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ
đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể
hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm
lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân
vật “tôi” hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem
nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Cũng như các nhà văn khác, thời kì này, Nguyễn Tuân chưa tìm thấy lý tưởng cách mạng và niềm tin hướng về tương
lai. Ông đã rất nỗ lực vận động nhưng đành bất lực. Mỗi tác phẩm là một nỗi đau thương, quằn quại, bế tắc tột cùng, càng
gắng gượng càng thấy mịt mù hơn. Ông chủ trương xê dịch là để thoát khỏi cái hiện thực tối tăm, tìm kiếm một nguồn
sống mới mẻ an dưỡng tinh thần. Đôi khi ta thấy Nguyễn Tuân sa đà vào trụy lạc nhưng rồi ông sực tỉnh và thay đổi mình,
tìm kiếm mình trong những giá trị thanh cao của tinh thần.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân sớm hòa nhập với cuộc sống mới. Ông chân thành đem ngòi bút
phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng
thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết
sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước (Tùy bút Sông Đà), ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và
sản xuất (Tùy bút kháng chiến, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi).
Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là một nhà văn độc đáo, tài hoa và uyên bác. Ông luôn trân trọng những truyền thống
văn hóa của dân tộc và có tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước và con người. Trong suốt thời gian hơn nửa thế
kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã xó nhiều thể loại văn học khác nhau. Nhưng sở trường hơn cả vẫn là tùy bút. Với thể văn này,
ngòi bút Nguyễn Tuân như được tung hoành, phóng túng, và bộc lộ đầy đủ nhất những nét tài hoa, uyên bác, cũng như cái “ngông” của mình
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được
miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Quá trình chuyển đổi phong cách, đề tài sáng tác trước và sau cách mạng diễn ra mạnh mẽ. Ông không đối lập giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Ông
chủ động tiếp nhận chủ nghĩa xê dịch là để tìm kiếm những cảm xúc mới mẻ cho ngòi bút. Bởi thế, văn của ông lúc nào
cũng có những cảnh tượng phi thường, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, núi cao, rừng
thiêng, thác ghềnh dữ dội,…
Dù đã thử bút trên nhiều thể loại nhưng Nguyễn Tuân vẫn có thế mạnh trong tùy bút rất phù hợp với phong cách tự
do phóng túng của ông. Thiên nhiên trong tùy bút Nguyễn Tuân được miêu tả bằng một tình yêu trìu mến thiết tha và sự
thấu hiểu sâu sắc, biểu lộ tinh tế và đọc đáo vẻ đẹp của sông núi, cỏ cây trên đất nước mình. Văn ông còn có giọng khinh
bạc nhưng chủ yếu để ném nỗi giận dữ vào kẻ thù cướp nước với niềm căm hận tột cùng. Tùy bút Sông Đà
Tập tùy bút: Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
Tập tùy này là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng đất
đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm
thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. TÔN NGỌC MINH QUÂN 4
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước
vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của lòng người,
tình người. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Nguyễn Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc
sông núi Tây Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây
Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền vững. Hình ảnh con sông Đà:
Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng (khai sinh ở huyện Cảnh Đông, Vân Nam ,
Trung Quốc và xin nhập tịch vào Việt Nam với tên gọi Bả Biên Giang hoặc Ly Tiên, ngày nay gọi chung là Sông Đà).
Sông Đà cũng được miêu tả có tính cách độc đáo vừa hung bạo, dữ dội, vừa rất thơ mộng, trữ tình.
Tính cách hung bạo: có địa hình hiểm trở ghê gớm (hút nước sâu thẳm, ghềnh thác hiểm trở, vách núi vút cao đầy
ghê rợn,. sóng nước cuồn cuộn ngày đêm gầm thét, Sông Đà ẩn chứa trong mình những nguy hiểm tột cùng của đội quân
hùng mạnh nước và đá.)
Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa: Nhìn từ trên cao, hình dáng con sông Đà giống như một dải lụa mềm mại
vắt qua núi rừng, như mái tóc của người thiếu nữ mượt mà thả dài. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa, lúc xanh như
ngọc bích, lúc lại đỏ lừ như da mặt người bầm đi vì rượu, lúc trong vắt như nhìn thấy đáy. Cảnh sắc hai bên bờ hiền hòa,
hoang sơ và tĩnh lặng như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích xưa.
Hình ảnh thiên nhiên sông Đà đi vào lòng người, khơi gợi mãnh liệt cảm xúc bâng khuân, xao xuyến như được gặp
lại cố nhân, như đắm mnihf vào không khí thơ mộng, cổ kính của Đường thi, như bất chợt được gặp một người tình chưa
quen biết. Tất cả gợi cho ta một cảm giác trác việt, hiếm ó trên đời.
Nguyễn Tuân đã nhìn nhận sông Đà như một tuyệt tác của tự nhiên, một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Ca
ngợi vẻ đẹp con sông Đà thể hiện sâu sắc tình yêu mến của nhà văn đối với quê hương đất nước.
Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà:
Nếu thiên nhiên sông Đà được tô đậm đến mức phi thường thì hình ảnh người lái đò trên sông Đà cũng được miêu
tả trong tư thế kì vĩ nhất.
Ông lái đò người Lai Châu, quê ngã tư sông cát tỉnh, đã xuôi ngược sông Đà suốt mười năm liền. Giữa ông và dòng
sông có một mối gắn kết đặc biệt sâu sắc, nó vừa là kẻ thù số một, sẵn sàng quật ngã, nhấn chìm vừa là người bạn hết sức
thân thiết đối với ông. Những thương tích sau mỗi cuộc chiến đấu ác liệt còn in đậm trên cơ thể ông như những chứng
tích oai hùng vừa đau thương lại vừa rất đáng tự hào.
Ông lái đò là người rất am hiểu về dòng sông. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình. Ông nắm chắc
từng nguồn mạch, từng ngọn thác, từng khe đá,. Ông nắm vững quy luật của dòng sông và luôn có phương án tốt nhất
trong mỗi cuộc chiến với dòng sông này.
Mỗi cuộc vượt thác đối với ông là một chuyến đi tràn đầy cảm hứng. Sự nguy hiểm đầy chết chóc của dòng sông
trở thành niềm đam mê bất tận trong suốt cuộc đời ông. Ông muốn chiến đấu và chiến thắng con quái thú ấy nhiều lần,
làm thỏa mãn khát vọng chinh phục. Bởi thế, trên nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một
dũng tướng tài năng và phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác. Sau mỗi cuộc vượt thác ngoạn mục, ông
lại thơi thả neo thuyền và ung dung đốt lửa trại, bàn tán về cá anh vũ.
Qua nhân vật người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa đậm nét bức chân dung của con người lao động
với niềm hiên ngàng, khí phách, oai hùng, kì vĩ, vừa tài hoa vừa hiền lành, dung dị trong cuộc sống nơi miền núi thẳm
5. Nguyễn Tuân và Tùy bút sông Đà:
“ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một
miền quê của Tổ Quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiên quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những
nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây
Bắc qua tuỳ bút “Sông Đà”. “Người lái đò sông Đà” được trích trong tập “Sông Đà” là một tác phẩm tuỳ bút đặc sắc in đậm
hình ảnh con người lao động nghệ sĩ và hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc vừa hung bạo,vừa trữ tình.
Nguyễn Tuân là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, sở trường về tuỳ bút và kí. Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng
7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê ở thông Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên Nôm là làng Mọc), nay thuộc phường
Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. TÔN NGỌC MINH QUÂN 5
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân
của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khoá phản đối mấy giáo
viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép. Ở tù ra,
ông bắt đầu viết báo, viết văn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với
các tác phẩm tuỳ bút, bút kí có phong cách độc đáo như “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”.. Năm 1941, Nguyễn Tuân
bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở
thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế
vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ (1965 -1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ trương
chủ nghĩa xê dịch, không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ,độc đáo.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật.
Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những
kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà,…, những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù
hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam. Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông
viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là “Chủ nghĩa xê dịch”.
Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc địa (hai lần bị tù). Nguyễn Tuân là con người rất mực
tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Ông
còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều
ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương. Nguyễn Tuân nổi tiếng
là người sành ăn. Với ông, Ăn là một nghệ thuật, một giá trị thẩm mỹ, một sự khám phá cái ngon mà tạo hóa đã ban cho.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao
động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông
đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn, hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới
nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê
hương, Chiếc lư đồng mắt cua…Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “chủ
nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và “đời sống truỵ lạc”. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết “chủ nghĩa xê
dịch” này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp
bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi
bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một chuyến đi). Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ
đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú
tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài
hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người
tử tù). Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân
vật“tôi” hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem
nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua). Từ sau Cách mạng tháng Tám
1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ
trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp
cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động
trong chiến đấu và sản xuất.
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”. Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn
Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ
yếu ở phương diện văn hóa, mĩ thuật. Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và
ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân
thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch”. Vì thế ông
là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của
gió, bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội… Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có TÔN NGỌC MINH QUÂN 6
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý
thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt, và vốn
ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng
tạo và sử dụng Tiếng Việt. Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người
thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại
chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn
chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn
Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là “thiên lương” trong
sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không
phải ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó
theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề…
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bút kí đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958
– 1960 của nhà văn, in trong bút kí “Sông Đà” xuất bản năm 1960. “Sông Đà” gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo.
Tác phẩm cho ta thấy sự giàu có về tài nguyên và phong cảnh tuyệt vời của miền Tây Tổ quốc. “Sông Đà” còn tìm đến vẻ
đẹp của con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Nhà văn ngược dòng lịch sử, dựng lại
những tấm gương anh hùng của các chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Sơn La, những cán bộ hoạt động hồi Tây Bắc bị giặc chiếm,
những bộ đội, dân công trong chiến dịch Điện Biên,… Tác giả lại trở về hiện tại, tìm đến những lớp người đi mở đường
kiến thiết Tây Bắc, những gia đình lên Điện Biên lập nghiệp, những cán bộ địa chất đi tìm quặng mỏ, những chiến sĩ biên
phòng bảo vệ biên giới phía Tây, những người lái đò dũng cảm và tài ba trên thác dữ sông Đà,…
Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông
Đà vừa hùng vĩ, vừa nên thơ, trữ tình. Với “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở
thể loại tuỳ bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Vốn sống
và tài năng của người nghệ sĩ tài hoa này đã gặp được môi trường Tây Bắc với bao nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất
và con người, từ đó giúp ông có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kì vĩ nên thơ về Tây Bắc trong lòng bạn
đọc. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của
một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc một thiên tùy bút xuất sắc và dạt dào cảm xúc. Từ bài tùy bút,
người đọc có thể hình dung được vẻ đẹp vừa kì vĩ, hung bạo, vừa trữ tình, nên thơ của dòng sông Đà. Tác giả đã khơi gợi,
nhen nhóm trong lòng người đọc tình yêu quê hương, đất nước, trân trọng những con người lao động bình dân nhưng
đầy chất nghệ sĩ này.
6. Phạm Tiến Duật – Nguyễn Tuân:
“Nhà thơ học nhau là việc dĩ nhiên. Thế nhưng, cũng như các nhà thơ khác - tìm thầy ở những cây văn xuôi, Phạm
Tiến Duật coi Nguyễn Tuân là thần tượng về con người và phong cách văn chương độc đáo.
Ngày cụ Nguyễn mất, Duật có viếng cụ bốn câu đăng trên Văn nghệ: “Cái râu, cái tóc ông chẳng giống ai/ Cái ăn,
cái ngủ ông chẳng giống ai/ Cái độc đáo văn ông nghìn đời không lặp lại/ Thế cho nên ông ở mãi trong đời”. Trong Lối văn
cụ Nguyễn, nhà thơ không khen hình ảnh, chữ nghĩa,.. mà khen “những câu văn dài, khúc khuỷu một cách khêu nhể, tỉa
tót mà vẫn mạch lạc”, chẳng khác nào “Cụ hành văn theo lối câu xương cá, bên cạnh những từ làm nên xương sống, còn
rất nhiều từ làm nên xương răm để rồi con cá của văn chương có thể uyển chuyển bơi được”.
Đó là mạch văn, là khí văn, tức cái thần thái, như một tổng thể văn chương.” 7. Nguyễn Bính và Huế:
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi
khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
Nguyễn Bính từng tuyên ngôn bằng thơ:
Sống là sống để mà đi
Con thuyền bạn hữu, chuyến xe nhân tình
Đến đâu Nguyễn Bính cũng có thơ, bài nào cũng mang đậm sắc tình quê, tình người khó lẫn, minh chứng cho một
tài hoa. Có thể kể ra đây vài trường hợp: Một trời quan tái, Tết biên thùy (Lạng Sơn, 1940); Xuân tha hương, Xuân về nhớ TÔN NGỌC MINH QUÂN 7
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
cố hương, Nam kỳ cũng gió cũng mưa, Đêm mưa đất khách, Lá thư về Bắc (Sài Gòn 1943-1944), Hành phương Nam (Đa
Kao 1943), Rừng mai xa cách, Vạn lý tương tư (Bắc Giang 1941); Vài nét rừng (Phú Thọ 1938); Lại đi (Thanh Hóa
1942); Đêm Phúc Am (Ninh Bình 1943), Đêm mưa nhớ bạn (Vinh 1940)…
Ngoại trừ 9 năm tham gia kháng chiến, làm văn nghệ ở vùng sông nước Cửu Long, Nguyễn Bính dừng chân sống,
gắn bó với đất Huế nhiều nhất.
Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Giời mưa ở Huế)
Nhiều tháng ngày sống giữa thiên nhiên thơ mộng, một Cố đô với nhiều đền đài, lăng tẩm, dòng sông Hương bốn
mùa nước trong xanh, núi Ngự uy nghi trầm mặc tỏa khí phách và tâm hồn xứ Huế, đã khiến tâm hồn thi sĩ Nguyễn Bính
có dịp nảy lộc, đâm chồi. Nhiều bài thơ mộc mạc đậm chất Huế, thấm vào lòng người đã ra đời ở đây: Xóm Ngự Viên, Giời
mưa ở Huế… Đọc những bài thơ viết về Huế, ai cũng ngỡ Nguyễn Bính là nhà thơ đích thực xứ Huế chứ không phải quê
Nam Định. Những bài thơ viết về Huế, sau này Nguyễn Bính tập hợp in thành tập Mười hai bến nước (1942).
Cùng thời với Nguyễn Bính, nhiều thi sĩ xứ Huế đã có những bài thơ nổi tiếng về Huế. Hàn Mạc Tử có Đây thôn Vĩ
Dạ, Nam Trân có Đẹp và thơ, Thanh Tịnh có Mòn mỏi, Thúc Tề có Trăng mơ, Mộng Tuyết có Làm cô gái Huế…
Không chịu ảnh hưởng các nhà thơ trên, Nguyễn Bính đã chọn cho thơ mình một hướng đi khác. Thi sĩ chuyển
sang làm thể hành và trường thiên độc vận, chất thơ bảng lảng sắc màu hoài cổ, cách cảm, cách nghĩ rất gần gũi với mọi
người. Xét trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Bính, mảng thơ viết về Huế có một vị trí thật đặc biệt. Cố đô Huế dù trải
qua bao biến thiên của lịch sử, lúc huy hoàng, lúc phai tàn hiu quạnh, nhưng vẫn là miền đất giàu tình người, khí phách
hiên ngang níu giữ những tâm hồn biết nâng niu, trân trọng cái Đẹp.
Thâm u một dải hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi (Vài nét Huế)
Chim én là loài chim báo hiệu xuân về, hình ảnh con chim én như ngôi sao sáng chói được bàn tay người thợ tài
hoa đính lên đỉnh hoàng thành càng tôn thêm vẻ đẹp vĩnh cửu của đất Cố đô. Nguyễn Bính có những câu thơ xuất thần,
cái ảo chắp cánh cho cái thực, có điều kiện bay xa. Ví như tả con đò người kỹ nữ trên sông Hương là bàng bạc cả một trời
ảo mộng, khiến nhiều thi sĩ cùng thời viết về Huế phải giật mình, thán phục.
Lửa đò chong cái giăng hoa
Mõ sông đục đục, canh gà te te (Lửa đò)
Sinh ra trong một gia đình nhà nho lỡ thời, sống trong cảnh người dân mất nước, Nguyễn Bính cất lên một tiếng
thở dài: Mực tàu giấy bản ôi thôi
Nước non đi hết những người áo xanh
Lỡ duyên búi tóc củ hành
Trường thi Nam Định, biến thành trường bay.
Trong chuyến Hành phương Nam, Nguyễn Bính mang cốt cách của một kẻ sĩ thời chiến quốc không có đất thi thố
tài năng, dâng hiến nên đành vỡ mộng bất đắc chí.
Thuốc lào hút mãi người ra khói
Thơ đọc suông tình hết cả hay (Giời mưa ở Huế)
Viết về Huế, chất thơ đậm đặc hoài cổ, phảng phất màu sương khói của nhà thơ thể hiện rõ nhất ở bài Xóm Ngự
Viên. Đây có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính. Dưới ngòi bút tài hoa lấy tâm linh làm chủ đạo, bởi
cái thực tại bao giờ cũng có giới hạn, cái ảo mới mông lung vô cùng, Nguyễn Bính đã làm sống lại cái hồn phách kinh thành
Huế một thời vàng son tưởng như ta được dự vào bữa tiệc vua ban trong vườn Thượng Uyển, cái ảo chắp cánh cho cái
thực, hữu hình đấy mà vô hình đấy. Trước mắt ta chỉ còn là cái đẹp hiện hữu với những cánh bướm nghiêng nghiêng, vua
thiếu niên, cung tần mỹ nữ, công chúa hay chữ, ngựa bạch, trạng nguyên… Cả bài thơ là nỗi ám ảnh, tiếc nuối thực ảo đan
xen suốt bài thơ. Có những câu thơ sánh ngang với những thi nhân đời Đường (Trung Quốc) ảo đến mức điển tích:
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Giọng thơ hoài cổ buồn man mác như một tiếng thở dài não nuột:
Ngự Viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên TÔN NGỌC MINH QUÂN 8
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019 …………………
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên (Xóm Ngự Viên)
Năm 1940 Nguyễn Bính cùng hai văn sĩ Tô Hoài và Vũ Trọng Can có một chuyến đi Huế. Sau đó Tô Hoài trở về Bắc,
chỉ còn Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can ở lại:
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Giời mưa ở Huế)
Ở Huế, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can điện vào Quy Nhơn cho nhà thơ Yến Lan, bảo rằng họ đã lập được gánh kịch
thơ mời Yến Lan ra nhập gánh hát. Tại Huế, Nguyễn Bính, Yến Lan và Vũ Trọng Can đã cùng nhau hiệp sức sáng tác kịch
thơ Bóng giai nhân. Các tác giả cùng tham gia diễn. Tốn kém bao công sức tiền của nhưng cuộc diễn không thành công, để rồi rơi vào cảnh:
Túi rỗng nợ nần hơn Chúa Chổm
Áo quần trộm mượn túng đồ thay (Giời mưa ở Huế)
Yến Lan vội vào Quy Nhơn gom góp được ít tiền gửi ra Huế giúp cho bạn đỡ khó khăn.
Gần đây, bà Lâm Bích Thủy (con gái nhà thơ Yến Lan) trên báo Văn nghệ Công an số 173 tháng 4-2012 qua bức
thư của cha mình gửi cho nhà nghiên cứu văn học Khổng Đức và qua bài viết: “Ai là tác giả kịch thơ Bóng giai nhân” của
nhà thơ Hoàng Cầm đã khẳng định kịch thơ Bóng giai nhân là của Yến Lan. Nhưng theo nhà thơ Anh Chi trong bài: “Nhà
văn Vũ Trọng Can” (Tạp chí Nhà văn số 8-2004) viết: Năm 1974 khi đón nhà thơ Yến Lan vào dự Đại hội thành lập Hội Văn
nghệ Thanh Hóa, tại sân nhà của Anh Chi các văn nghệ sĩ xứ Thanh đã được nghe chính nhà thơ Yến Lan kể về quãng thời
gian sống ở Huế đã cùng Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can viết chung kịch thơ Bóng giai nhân. Chúng ta thấy rằng, Nguyễn Bính
và Vũ Trọng Can ngoài tài thơ, văn còn sáng tác kịch. Nguyễn Bính có Cô Son (Chèo 1961), Người lái đò sông Vị (Chèo
1964), Vũ Trọng Can có Cái tủ chè (kịch nói) thì việc viết chung kịch thơ Bóng giai nhân cũng là điều dễ hiểu.
Cảm ơn số phận đã cho Nguyễn Bính một kiếp giang hồ, lưu lạc tại Cố đô Huế với những lăng tẩm, đền đài huyền
bí như cổ tích, một dòng sông Hương như bức tượng đài trong thơ Cao Bá Quát: “Trường giang như kiếm lập thanh
thiên” (Sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh) và tấm lòng thánh thiện của người dân xứ Huế đã dựng tạo cho
Nguyễn Bính một nguồn thơ tuôn trào như suối chảy. Xin mượn hai câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng như những lời đồng vọng,
tri ân cùng Nguyễn Bính để kết bài viết này:
Dạ thưa: Xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. 8. Mẫu 1:
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng
trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc
thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh. Bài ca lao động và bài ca ngôn từ song hành trong một
áng kí lạ. Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: “Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (Mọi
con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà,
vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói
mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi
nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá
trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung,
vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn
Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ
sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn
Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng “nóng”: sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật
thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông
khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: “hung bạo và trữ tình”. Nếu chỉ có
một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau TÔN NGỌC MINH QUÂN 9
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú,
đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác – tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước
dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: “Một hòn (đá) ấy
trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Trong công thức A = B
của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để
mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào
thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác “chết người” nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh
những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác
ở khuỷnh sông dưới”. Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm
nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt
họ phải tự “chiêm nghiệm” cái cảm giác lạ lùng này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy
quay xuống đáy cái hút Sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước
cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-
plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha
lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng
xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc
lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đành phèn”. Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút
nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít… tạo nên ở người đọc một
cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma
lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một
hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở đây, người đọc lại hứng khởi
nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu
giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước,
Nguyễn Tuân viết: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đúng là một cảnh tượng man rợ
như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba
chặng: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm
thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, nhưng cao tay nhất là lấy thác (thủy) so sánh với lửa (hỏa)
gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng,
động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa
rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so
sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình.
Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như
“kẻ thù số một” của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình:
“Cái dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái “áng tóc trữ tình (…) ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”; rồi lại “như một cố
nhân” trong nỗi niềm du khách, như “cái miếng sáng lóe lên” trong trò chiếu gương con trẻ, như “một bờ tiền sử”, như
“một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”… Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người
đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn,
đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ…
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao động cật lực, trong đó có khổ
công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì “dòng
xanh ngọc bích” mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”, giữa hai mùa ấy là cái “màu nắng tháng ba Đường thi”… Sông Đà giàu ám ảnh
trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người. TÔN NGỌC MINH QUÂN 10
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm
sức hấp dẫn của sông Đà là để ngầm đề cao chính ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này,
sông Đà “bày thạch trận trên sông” với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu
hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà… Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham
hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng
song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”. Để miêu ta
cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót
300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc
nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên
cùng cơn thịnh nộ sông Đà: “rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt… Phía
ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè
sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng… Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi
lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau
đây của Nguyễn Tuân: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghi cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò
vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến…”.
Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên
nhiên để giành sự sống.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn
phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức liên
ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi
Nguyễn Tuân là người đã nắm vững “binh pháp của ngôn ngữ”. Với một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân
đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm
hồn. Nhiều người từng than phiền văn Nguyễn Tuân cầu kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự nhận
xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng.
Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được” (Đôi tri kỉ gượng). Nay ngôn
ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ của một công dân đầy trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn Tuân đã
chở con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng tình yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao
động xây dựng cuộc đời. Xin chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niễm này: “Nói chuyện
với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.
9. Bình giảng chất thơ của đoạn “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên” ( Người lái đò sông Đà - Nguyễn
Tuân). Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống
và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm
khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta
cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “ Thuyền tôi trôi
trên sông Đà…trên dòng trên”.
Nếu ví người lái đò sông Đànhư bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn
trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng,
mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của
một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình
nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa
vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sáng. Các nhà văn khác thường so
sáng cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy
nghe cách so sáng của ông: “ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể,
hữu hình “ bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “ bờ tiền sử”, “ nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm.
Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc. Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khui tả sông Đà “ loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và
đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc TÔN NGỌC MINH QUÂN 11
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý
thức hướng về truyền thống khi nói cái “ lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi
bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “
them được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế
giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm
về thơ của ông “ từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra
được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy? Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sáng với tình
cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “ Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương…Con
sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng dầy chất thơ.
Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật
chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “ nhớ thương”, đang “
lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?.
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “ Thuyền tôi trôi trên
sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “ tôi trôi” và điệp âm “ t” gợi hình ảnh
con thuyền nổi nênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng
ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ
“ thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ
hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc. “ Thuyền tôi trôi qua một nương ngô. ”, “ thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng
như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan
ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy
dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con
sông? Câu “ Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép
lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “
chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn
của chú nai tơ. Và hai từ láy “ chăm chăm”, “ lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có
những từ láy khác như “ lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn
là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “ lá ngô non đầu mùa”, nõn
búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích
nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “ cỏ gianh đẫm
sương đêm”, “ áng cỏ sương” và cả “ tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc
sống. Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “ Hãy
nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có t” thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống
và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “ đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ
rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm
ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba
thanh trắc “ nhú”, “ mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “ đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ ngọn cỏ”,
“ sóng cỏ” nhưng “ búp cỏ”, “ áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ. Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một
minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh
thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn - bài thơ của Nguyễn Tuân.
Đoạn văn cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến
nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “ Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng
là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình
trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá? Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn
văn thơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ cái mênh mang một điệp khúc
xanh của ngô non, áng có, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã đuộc vận dụng, khám
phá mọi vẻ đẹp của cuộc sống.
Trong không gian hoang sơ, hiền hòa ấy bỗng tác giả “ thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn
cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu., câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công
cuộc xây dựng miền Bắc ( 1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non TÔN NGỌC MINH QUÂN 12
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm
được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga. ( Tiếng hát con tàu).
Nhưng “ thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây
Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “ thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình
hoài nhớ của Tú Xương khi “ vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả
sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới. Trước Cách
mạng, ông đã từng “ xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc,
ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì
cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “ hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa
cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “ Ngói mới”
của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm
vào cảnh vật, và con hươn thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “ Dải sông Đà bọt nước lên đênh. Bao nhiêu cảnh
bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông
Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “ đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định
sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy
lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm
xúc “ nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà
trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi
đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc
đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Lê Thị Thúy Hằng ( Trường chuyên Lê Hồng Phong – TP Hồ Chí Minh) 10. Mẫu 2:
Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác
và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều
nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả nghệ thuật
đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất
vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà” mà
con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường
xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn
Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy,
rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái
ghềnh” (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà
giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể
hiện qua thác nghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có
vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh,
cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp
như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt
vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu
trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. TÔN NGỌC MINH QUÂN 13
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh
để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu,
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới”. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người !
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,
đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa
tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng.
Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương
khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó.
Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn
năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả
cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn
sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào
tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn
công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.
Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la
bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đò”. Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh
lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá
đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi
chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở
cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay
giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái
thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng
cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe
người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng
tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”.
Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với
người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông
hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn
thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không
xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho
người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến
kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn TÔN NGỌC MINH QUÂN 14
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như
thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú
Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang
sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường
như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về
với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng
thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì
vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa
nghe thấy một tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà
tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên
để rồi tiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt
biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực
tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản
Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen
biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại
trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng,
nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung
cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả
là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân. 11. Vẻ đẹp ngôn từ:
Sông Đà (1960) là một mốc son trong lộ trình nửa thế kỉ sáng tác, đánh dấu bước chuyển quan trọng của nhà văn
Nguyễn Tuân đi từ thế giới của cái “tôi” đến thế giới của cái “ta”. Hay nói như nhà thơ Pháp p. Êluya “từ chân trời một
người đến chân trời tất cả”. Người lái đò Sông Đà (Trích, SGK Ngữ văn 12) là một trong những thiên tùy bút xuất sắc, thêm
một lần nữa khẳng định phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Đã có nhiều bài viết về Người lái đò Sông Đà từ
các phương diện nội dung đến hình thức. Có thể hói, Nguyễn Tuân đã được độc giầ tinh hoa và giới phê bình tiếp cận một
cách khá toàn diện và sâu sắc. Tuy nhiên văn chương (nghệ thuật ngôn từ) là nói mãi không cùng. Một tác phẩm vặn
chương thành công chính là nó để lại những ấn tượngkhó phai mờ, những liên tưởng sâu xa, hơn thế là những ám ảnh
nghệ thuật, những phát hiện liên thời gian và không gian.
Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân có ba yếu tố ưu trội: con người - thiên nhiên - ngôn từ. Hai yếu tố đầu
nhiều nhà phê bình đã phân tích rất kĩ càng. Nhưng thiết nghĩ, ngôn từ như một yếu tố ưu trội trong sáng tác của Nguyễn
Tuân nói chung, Người lái đó Sông Đà nói riêng, có thể vẫn còn khoảng rộng để chúng ta tiếp tục thăm dò, phát hiện; nói
Nguyễn Tuân là một bậc thầy ngôn :từ văn chương không có gì quá. Thậm chí có người còn thích sử dụng từ “xảo thủ”,
hơn thế là một “phù thuỷ” khi nói về biệt tài “điều khiển chữ nghĩa” của nhà văn.
Đọc Người lái đò Sông Đà một cách kĩ càng rồi ngẫm ngợi - từ góc nhìn văn hóa - sẽ thấy cái nhã thú văn chương
mà nhà văn neo vào lòng ta. Neo vào lòng ta cái đẹp cuộc sống, cái đẹp thiên nhiên, cái đẹp con người. Đã đành. Nhưng
những cái đẹp đó đi qua, lọc qua, thẩm thấu, ánh lên qua ngôn từ. Không phải là tất cả, mà độc giả tinh hoa và giới phê
bình có con mắt xanh đều nhận ra “tính nhịp điệu” trong văn xuôi Nguyễn Tuân. Định nghĩa “Nhịp điệu” (tiếng Pháp -
rythme) khá đầy đủ trong sách Từ điển thuật ngữ văn học (Nhiều tác giả, NXB Giáo dục, 2004). Chúng tôi chú ý đến phần
tường giải gắn với văn xuôi: “Trong văn xuôi, nhịp điệu của tổ chức lời văn được hình thành trên cơ sở sự phân, tách văn
bản thành chương, hồi, đoạn. Câu văn dài, ngắn, khúc khuỷu được lặp lại cũng tạo nên nhịp điệu cảm nhận đời sống”
(tr.238). Mối quan tâm của chúng I tôi chính là kiến trúc của câu văn tạo nên Nhịp điệu văn xuôi trong Người lái đò Sông
Đà. Trong nhiều bài viết về Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy đa số các ý kiến tập trung bàn về tính chất tạo hình của câu
văn. Đúng nhưng chưa đủ. Một lần đọc Nguyễn Minh Châu viết về Nguyễn Tuân, chúng tôi đặc biệt chú ý đến một nhận
định: “Đọc lại Sông Đà của Nguyễn Tuân, câu văn Nguyễn Tuân viết như đem vật từhg tảng đất trên trang giấy. Từng
termes dans la phrase có cái chất uy nghi chung của hình thức như cái đỉnh ba chân cao đặt trước sân rồng. Nói chung câu
văn Nguyễn Tuân câu nào cũng nặng, nhịp điệu nặng vì thế nếu ỷ mà nhẹ, nhẹ tếch đi là chết. Câu văn của ông ta cũng
như khổ người của ông ta nặng nề, chậm một cách đủng đỉnh, bệ vệ và uy nghi, vì thế khi cái nội dung bên trong khuyết TÔN NGỌC MINH QUÂN 15
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
đi ít nhiều, chỉ cần ít nhiều, là thứ văn Nguyễn Tuân bị hẫng” (Nguyễn Tuân - Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, 2002,
tr.223). Nhiều bạn đọc lấy làm thích thú vì những chữ “nhịp điệu nặng” mà Nguyễn Minh Châu phát hiện, dùng để nói về
nhịp điệu văn xuôi Nguyễn Tuân. Có thể điều này ứng cả vào Người lái đò Sông Đà? Chúng ta thử đọc lại một số câu văn,
như cách nói của Nguyễn Minh Châu, để cảm nhận cho tường tận và thấu đáo cái “nhịp điệu nặng” trong văn xuôi Nguyễn
Tuân: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông
rung tít lên như tuyếc - bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng
mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”. Nói văn Nguyễn Tuân có cái “nhịp điệu nặng”
có thể vì câu văn của ông thường tầng tầng lớp lớp, bề bộn chữ, nặng trĩu ý, đa tầng nghĩa. Có người nói quá đi là nhà văn
thích bày biện câu chữ. Có lẽ nói như Nguyễn Minh Châu thì đúng hơn, mỗi khi viết nhà văn như một thợ đấu “vật từng tảng đất trên trang giấy”.
Nhưng nếu nói văn Nguyễn Tuân chỉ thuần những “nhịp điệu nặng” thì cũng chưa thấu đáo, toàn diện. Một nhà văn tài
năng như Nguyễn Tuân quyết không bao giờ để văn mình trở nên đơn thuần, đơn giản, đơn điệu. Nên nhớ là con Sông Đà
trong mắt Nguyễn Tuân mang đặc tính kép “hung bạo và trữ tình”. Vì thế khi viết về sự “hung bạo” của nó, tất nhiên câu
văn mang “nhịp điệu nặng”. Nhưng còn một Sông Đà trữ tình, chả nhẽ nhà văn cứ thế áp mãi vào cái “nhịp điệu nặng”?
Chúng tôi thấy nhà phê bình văn học Phan Huy Dũng nhận xét công bằng hơn: “Đe có thể khách thể hóa được đối tượng
và đóng đinh nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ tưởng chỉ mình ông mới có. Khi
miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm” câu văn của ông mang nhịp điệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi
ngợi ca “con Sông Đà gợi cảm” câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như tiếng hát ngân nga” (Nguyễn Tuân - Tác phẩm
và dư luận, NXB Văn học, 2002, tr.241). Như vậy theo nhà phê bình văn học thì, nhịp điệu văn xuôi Nguyễn Tuân trong
Người lái đò Sông Đà bao hàm cả “nhịp điệu nặng” (nhịp điệu dồn đập, kích thích) và “nhịp điệu thư duỗi” (nhịp điệu êm
ả, ngân nga). Nó gợi liên tưởng nhịp điệu của sóng trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Quỳnh - “dữ dội và dịu êm”,
“ồn ào và lặng lẽ”. Khó có thể cân đo đong đếm xem phần nào nặng, phần nào nhẹ theo tỉ lệ phần trăm.
Nhưng có lẽ ấn tượng của Người lái đò Sông Đà để lại trong kí ức người đọc, theo chúng tôi, lại là những câu văn
có “nhịp điệu thư duỗi" - êm ả, ngân nga, nối dài liên tưởng, kiểu như: “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tòc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương
xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng
nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông
Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta
ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”.
Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã “trồng” những câu văn dài, ngắn khác nhau. Bút pháp này cũng tạo
nên cái nhịp “khúc khuỷu” của văn xuôi Nguyễn Tuân. Vậy là có cả cái nhịp điệu thứ ba trong văn xuôi Nguyễn Tuân - “nhịp
khúc khuỷu”? Những câu văn ngắn (5, 6, 7, 9, 11 chữ): “Con Sông Đà gợi cảm”, “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà”, “Mà tịnh
không một bóng người”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ",“Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử’, “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”,. . Những câu văn ngắn chen giữa những câu
văn dài (trên 40 chữ, dài nhất 47 chữ) tạo ra cái nhịp như ngựa phi (có thể gọi là “mã nhịp” chăng?), lúc nước kiệu, lúc
nước đại. Khúc khuỷu và dồn dập. Văn Nguyễn Tuân vì thế năng động, khẩn trương nhưng không ồn ào, vội vã. Một lối văn khi đọc lên hối thúc tư duy.
Nhịp điệu văn/thơ chính là ánh phản “điệu tâm hồn” của nghệ sĩ ngôn từ. Nếu có thể nói thì, Nguyễn Tuân không thuộc
số người sống nhanh, nhưng cũng không thuộc số người sống chậm. Điệu hồn nào thì sản sinh ra cấu trúc văn/thơ ấy. Nói
Nguyễn Tuân không thuộc số người sống nhanh là bởi ông đam mê hơn cả những vẻ đẹp đã “vang bóng một thời”. Có vẻ
như ông chỉ thích thú nhấm nháp, nghiền ngẫm quá khứ. Ngay cả trong bối cảnh khẩn trương sôi sục của thời đại cách
mạng, một ngày bằng hai mươi năm, mà ông vẫn ngắm nghía và nhẩn nha thưởng thức nào “Phở”, nào “Giò”, nào 'Tờ
hoa”,. . Nhưng cũng không thể nói là ông sống chậm được. Bởi lẽ ông là người nhạy cảm với thời thế. Trước và ngay sau
Cách mạng tháng Tám 1945, ông đã viêt Chùa Đàn, rôi sau đó theo sát cuộc trường chinh của dân tộc qua hai cuộc kháng
chiến với những Đường vui, Tùy bút kháng chiến, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Một người chỉ thu lu trong nhà mình,
nhấm nháp quá vãng làm sao có thể hít thở không khí đời sống mới, làm sao có thể có một vốn từ vựng mới, cảm xúc mới,
nhãn quan mới mẻ để viết được Người lái đò Sông Đà? Và trong máu là một người thích “xê dịch” thì làm sao mà nhà văn
lại có thể án binh bất động được. Nguyễn Tuân là con người đa nhân cách. Ông là một khối tưởng như mâu thuẫn nhưng TÔN NGỌC MINH QUÂN 16
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
thống nhất giữa “hướng ngoại” và “hướng nội”, giữa “kiêu hãnh” và “khiêm tốn”, giữa “bảo thủ” và “đổi mới”, giữa “an nhiên” và “dấn thân”.
Một điệu tâm hồn, như Nguyễn Tuân, luôn luôn yêu quý, nâng niu và trân trọng cái Đẹp. Đôi khi vì thế người ta gọi ông là
người duy mỹ (nghệ thuật vị nghệ thuật). Nhưng có lẽ con đường đến với cái Đẹp của Nguyễn Tuân phản ánh đúng quy
luật của những tài năng nghệ thuật chân chính - sáng tạo ra cái Đẹp không phải như một phương tiện mà là như một mục
đích. Độc giả tinh anh nhận ra Nguyễn Tuân chính là người nghệ sĩ đích thực suốt cuộc đời cầm bút mê mải đi tìm cái Đẹp
và cái Thật bằng nghệ thuật ngôn từ. 12. Mẫu 3: I.Chuẩn bị tri thức
Nguyễn Tuân (1910-1987) sinh ra trong một gia đình truyền thống lâu đời ở đất Hà thành. Ông là nhà văn lớn của
nền văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn có cá tính và có phong cách nghệ thuật độc đáo. Trước cách mạng, Nguyễn
Tuân là nhà văn lãng mạn cuối cùng. Sau cách mạng, ông là người đi nhiều, viết nhiều. Ông sáng tác truyện ngắn và tùy
bút nhưng nổi tiếng với thể loại tùy bút. Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chữ “ngông”, không chỉ
trong cuộc sống mà cả trong văn chương.
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi “ngông” với thiên hạ. “Ngông” là một sự chống trả với mọi thứ nền
nếp, phép tắc, mọi thứ “đạo lí” thông thường của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Nhu cầu “chơi
ngông” buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa
độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha
hồ phóng bút để ném những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà
do “thiên lương” của một trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và đặt mình lên trên những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ.
Tuy nhiên cái “ngông” với một số biểu hiện nghệ thuật của nó vẫn để lại những thói quen, những kinh nghiệm có thể dùng
được để phục vụ cách mạng. Chẳng hạn giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân được phát huy trên lập trường mới là vũ khí lợi
hại để đánh vào những kẻ thù của dân tộc và cách mạng. Cái độc đáo, nếu không đẩy tới mức “chủ nghĩa”, là một yêu cầu
không thể thiếu của nghệ thuật chân chính.
Nguyễn Tuân mỗi khi cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ được cái tài hoa, uyên bác
hơn đời của mình. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của nó, cố tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ.
Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của ông là một đối tượng khảo sát đến kì cùng […] Về cái vốn văn liệu, thi liệu của ông
đã sử dụng theo tinh thần mới, thường để phát hiện và diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời của Tổ quốc mình.
(Nguyễn Đăng Mạnh, Trích bài tựa Tuyển tập Nguyễn Tuân)
Tùy bút là một thể thuộc loại hình kí, gắn với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép sự vật, sự
việc, con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả chú trọng đến viẹc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của
mình về con người và cuộc sống hiện đại. So với các tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít
những yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí. Cấu trúc tùy bút nói chung không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt
truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai theo cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Ngôn
ngữ tùy bút giàu chất thơ.
(Từ điển thuật ngữ văn học) I . Hướng dẫn đọc
Đặt trong tập tùy bút Sông Đà, bài tùy bút Người lái đò sông Đà nằm trong cảm hứng chung về tìm hiểu và phát
hiện vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, con người Tây Bắc dưới cái nhìn lịch sử, văn hóa và thẩm mĩ. Phần lược trích ở sách
Ngữ Văn 12 (Tập một) chủ yếu tập trung miêu tả con sông Đà và người lái đò trên con sông đó. Con sông Đà trong tác
phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng được nhìn bởi hai đôi mắt: đôi mắt của nhà văn và đôi mắt của người lái đò. Dưới
đôi mắt của nhà văn, sông Đà là một công trình tuyệt vời của tạo hóa, là môi trường lao động và là “chiến trường” để con
người lao động bình thường trở thành chiến sĩ, trở thành anh hùng, là sự gợi nhớ về lịch sử, là cảm hứng nghệ thuật. Dưới
đôi mắt của ông lái đò, sông Đà là người bạn tri kỉ, dù đã xa nhau mười năm nhưng ông vẫn nhớ từng khúc sông, từng
ngọn thác. Ông lái đò, một người lao động bình thường trở thành một nghệ sĩ chèo thuyển vượt thác, một con người
mang những phẩm chất anh hùng: yêu con sông (yêu Tổ quốc), hăng say lao động, thông minh, dũng cảm. Hình ảnh, sự
việc được miêu tả trong bài tùy bút đều được thể hiện dưới cảm quan nghệ thuật này.
Để làm cho đối tượng miêu tả trở nên sinh động, hấp dẫn, sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã trở thành một
“nhân vật”, có ngoại hình, có nội tâm, có tính cách, và đặc biệt cũng khá thông minh. Tính cách “nhân vật” sông Đà cũng
khá phức tạp: vừa hung bạo vừa trữ tình. Lúc hung bạo thì nó như “kẻ thù” của con người. Lúc trữ tình, nó đầy chất thơ
và thân thiết với con người đến nỗi “ như một cố nhân”, xa thì nhớ nhung, lưu luyến. TÔN NGỌC MINH QUÂN 17
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
Bằng những tư liệu phong phú và chính xác, Nguyễn Tuân đã liệt kê một loạt con thác từ đất Vạn Yên trở về Thác
Bờ thuộc địa phận tỉnh Hòa Bình, sông Đà hiện liên với quang cảnh hùng vĩ và huyền bí, hoang sơ của một dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc.
Về hình dáng: con sông Đà được miêu tả ở nhiều lúc, nhiều khúc, nhiều yếu tố, nhiều góc độ và được miêu tả một cách tỉ
mỉ, thể hiện sự quan sát tinh tế và giàu trí tưởng tượng của nhà văn. Đầu tiên là chỗ vách đá dựng đứng hai bên bờ ở
khoảng hẹp đến mức đứng bên này bờ, nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ
bờ này sang bờ kia. Sự dữ dội của dòng nước sông Đà được miêu tả nhiều nhất: có những đoạn ghềnh hàng cây số nước
xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm, có những cái hút nước giữa sông như những cái
giếng bê tông, có những thác mà từ xa ta đã nghe tiếng của nó như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa. Màu sắc của nước của con sông Đà, mùa xuân thì xanh như ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người bầm đi vì rượu bữa. Từ trên máy bay nhìn xuống, cái dây thừng ngoằn ngoèo sông Đà kia giống như
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn trong mây trời Tây Bắc. Bờ sông Đà thì hoang dại như một bờ tiền sử. Cát sông Đà
thì đục thủng gan bàn chân con người, bãi cát hai bên bờ thì từng đàn bướm bay sặc sỡ.
Đặc biệt, theo sát ông lái đò ở từng khúc sông, ngọn thác, tác giả tập trung miêu tả tính cách con sông Đà.
Về tính cách hung bạo, sông Đà như ẩn chứa trong nó một bản chất của loài thủy quái đang rình rập con người đi
qua như lúc nào cũng đòi nợ xuýt. Qua được ghềnh Hát Loóng, nơi có sự phối hợp giữa nước, đá, sóng, gió để uy hiếp con
người, chiếc thuyền đến chỗ có cái hút nước khủng khiếp. Nước ở cái hút nước thì thở như cái cống bị sặc, mặt nước thì
xoáy tít đáy, lừ lừ cánh quạ đàn. Để tô đậm thêm cái nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn phối hợp giữa tả và kể, nhiều
bè gỗ đi bị cái giếng ấy nó lôi xuống, có thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược,… Nhà
văn có vẻ thích thú như muốn khám phá lòng cái hút nước này bằng điện ảnh để xem nét đẹp hung bạo của con sông: Tôi
sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào
cái thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà.
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Thế mà tiếng thác đã gợi về tính cách hung dữ của con sông và cảm giác rùng
rợn cho người đọc. Tiếng nước thác nghe như tiếng con người vừa giận dữ, vừa đau thương khủng khiếp, nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Đến thác nước, tác giả đã chứng kiến thế
trận của đá và nước đang phục kích chiếc thuyền đang đi tới rất có kỉ luật, hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn.
Những hòn đá như những bầy thủy quái, vừa hung hăng bạo ngược, vừa nham hiểm xảo quyệt. Đá cùng với nước bày binh
bố trận, hò la inh ỏi, thanh la não bạt tạo thành một thế trận để phối hợp nhiều hình thức tác chiến: đánh trực diện, đánh
giáp lá cà, đánh phục kích, đánh vu hồi, đánh phòng thủ với ba lớp phòng tuyến vững chắc: hàng tiền vệ làm nhiệm vụ tiền
tiêu và đánh trực diện, trận tuyến giữa để đánh bao vây, tuyến ba với những boong-ke chìm và pháo đài nổi để tiêu diệt
hết cả tướng và quân.
Cuộc chiến giữa ông lái đò đơn độc với thế trận trùng điệp của thác đá diễn ra thật ác liệt, căng thẳng và không
kém phần hấp dẫn. Những trận phản kích tới tấp để tiêu diệt kẻ xông trận là ông lái đò của những đá, những nước cho
thấy sự quyết liệt và hung hăng của con sông Đà ở thác nước này đến mức nào. Sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật quân
sự cùng với vốn ngôn từ tuôn ra từ trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã cống hiến cho người đọc một bức tranh
hoành tráng, một khung cảnh ngoạn mục của hình ảnh ông lái đò chèo thuyền vượt thác.
Về tính cách trữ tình, qua vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng phong phú của nhà văn, con sông Đà đã hiện
liên hết sức dịu dàng và thơ mộng. Ở phía thượng nguồn sông Đà, khi đến gần thì hung hăng, dữ tợn, nhưng khi nhìn ngắm
nó từ xa, nhất là trên cao, sông Đà mang đáng vẻ dịu dàng của một người phụ nữ, một nàng tiên nơi chốn “bồng lai tiên
cảnh” xứ Tây Bắc. Từ trên máy bay, vẻ đẹp kiều diễm của con sông tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Dòng sông,
mái tóc ấy tuôn dài theo câu văn của Nguyễn Tuân, xuyên qua mây, qua hoa, qua khói, qua những nương xuân xứ Mèo.
Cảnh vật ven sông gợi tình, gợi cảm. Vẻ đẹp trinh nguyên và hồn nhiên của thiên nhiên hai bên bờ sông Đà trở nên thơ
mộng và tĩnh lặng, làm cho người khách sông Đà ngẩn ngơ như nghe được tiếng nói của con hươu thơ ngộ kia. Giọng văn
nhẹ nhàng, tha thiết, đằm thắm gợi tả sông Đà ở đoạn lững lờ như nhớ thương hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn Tây Bắc đem đến cho người đọc cảm giác êm dịu sau khi đã vượt qua những đoạn văn “vô hồi kì trận” của thác đá
sông Đà. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là thứ ngôn ngữ của cảm xúc và trí tưởng tượng bay bổng. Ngôn ngữ đó để tả cảnh,
tả người, đồng thời là phương tiện cảm xúc để cái tôi tác giả ngây ngất, sau sưa trước từng nét vẽ của thiên nhiên, từng
dáng vẻ của núi rừng, từng động tác của người nghệ sĩ chèo đò. Con sông đã đem đến niềm vui cho người nghệ sĩ, và là
dịp để người nghệ sĩ được bộc lộ mình. Nhà văn thốt lên: Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài này rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp TÔN NGỌC MINH QUÂN 18
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình đã biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy. Ngôn ngữ giàu cảm xúc này của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc “vào cuộc”, cùng với tác giả hành
trình suốt sông Đà, khám phá cả mọi vẻ đẹp cũng như sự giàu có của nó.
Ông lái đò, người nghệ sĩ làm nghề chèo đò “tay lái ra hoa”, đồng thời là người lao động tài ba, dũng cảm được
miêu tả trong sự tương xứng với tầm vóc vẻ đẹp và tính cách của “nhân vật” sông Đà. (Khái niệm con người tài hoa, nghệ
sĩ của Nguyễn Tuân không chỉ ở những người hoạt động nghệ thuật như nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, điêu khắc, đào nương,
kép hát,… mà cả ở những người không dính dáng gì đến nghệ thuật như uống trà, nhắm rượu, ăn phở, giã giò, thậm chí
cả đao phủ, kẻ cắp,… miễn là trong nghề nghiệp của họ đạt đến sự tinh vi, siêu phàm). Khác với các nhân vật của Nguyễn
Tuân trước cách mạng là những con người bơ vơ, lạc lõng, ông lái đò trong Người lái đò sông Đà là con người lao động
bình thường và rất gần gũi. Tác giả giới thiệu: Ông lái đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc suốt sông Đà đã mười năm
liền và thôi làm đò cũng đôi chục năm nay. Làm nghề chèo đò có mười năm mà dấu ấn nghề nghiệp ghi rõ trên thân thể
ông già này: tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng
tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến
xa nào đó trong sương mù. Nghề lái đò trên sông Đà, sau hằng trăm chuyến ngược xuôi đã rèn luyện cho ông có một trí
nhớ tuyệt vời lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.
Cuộc sống của người lái đò gắn với con sông Đà, không phải là chỉ chèo đò đơn thuần trên dòng sông mà là cuộc chiến đấu
hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.
Để làm nổi bật tài nghệ ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như một viên tướng
ngày xưa lao vào trận đồ bát quái bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy đặt ra hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có
“những viên tướng đá” nham hiểm, quái ác chờ sẵn và quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình. Đoạn văn dựng
cảnh đầy giá trị tạo hình, giống như một cuốn phim quay cận cảnh cuộc chiến dữ dội và ác liệt trên một chiến trường mà
chiến sĩ “ông lái đò” ở đây vô cùng dũng cảm và mưu trí, tả dột, hữu xung đầy kịch tính. Tác giả đã vận dụng nhiều kiến thức kĩ thuật quân sự và võ thuật để diễn tả “trận chiến” oai hùng này.
Qua đoạn miêu tả ông lái đò vượt qua con thác dữ, tác giả muốn nói rằng, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có nơi chiến trường
mà nó có ngay trong cuộc sống của nhân dân ta, hàng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng
tài ba không phải tìm ở đâu, mà ở ngay cả người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái dò vô danh nơi ngọn
thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. Vì thế, vết bầm trên vai ông
do cán chèo đè lên mà có được Nguyễn Tuân ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Ông lái đò làm nghề chèo đò, một nghề thường bị coi khinh trong quan niệm nghề nghiệp của nhiều người thì dưới đôi
mắt của Nguyễn Tuân trở nên đẹp đẽ và cao cả. Nguyễn Tuân đã miêu tả cái phong thái tâm hồn của ông lái đò theo phong
cách của người nghệ sĩ, việc vượt qua những con thác dữ là chuyện thường nhật, không có gì đáng nói, và cũng có khi như
“cái thú bình sinh” của phong thái ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”. Ông lái đò là kiểu nhân vật của Nguyễn Tuân
trong những sáng tác sau Cách mạng, vẫn mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ ấy nhưng hiên ngang, dũng cảm đối mặt với mọi
hiểm nguy, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng.
13. Tiếp cận qua lời đề từ:
Đề từ không phải là thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai trò như chìa khóa để người đọc
mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác phẩm. Tiếp nhận tùy bút Người lái đò Sông Đà bằng lời đề từ có
thể giúp độc giả phần nào nhận thấy được những gợi ý về 'tháp ngà nghệ thuật' mà Nguyễn Tuân dụng công xây dựng.
1.Lời đề từ có thể do tác giả sáng tạo ra cũng có thể tác giả vay mượn từ câu nói, lời thơ của một tác giả khác.
Chẳng hạn, trong thi phẩm nổi tiếng Tràng giang, Huy Cận có lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Hay câu nói
nổi tiếng của Hồ Chí Minh: Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó
đi được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm lời đề từ cho tác phẩm Dấu chân người lính. Trong bài thơ Ngày gặp gỡ, Hồ Dzếnh
đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ: Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò.Đề từ
cho tập Nhật kí trong tù là bài thơ in ở bìa sách: Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao/ Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao.
Chức năng cơ bản của lời đề từ là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm,
chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm văn học. Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm
hứng mà còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả. Với người đọc, đề từ là điểm nhấn,
tín hiệu nghệ thuật mang ý nghĩa định hướng trong quá trình tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Đề từ
không phải là thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai trò như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác phẩm. Có thể nói, tiếp cận lời đề từ độc giả có thể phần nào nhận thấy được những TÔN NGỌC MINH QUÂN 19
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa Năm học: 2018-2019
gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà nhà văn xây dựng. Vì vậy, bỏ sót hoặc khai thác sơ sài lời đề từ chúng ta sẽ làm rơi rụng
không ít vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật. 2.Nhà văn Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo bậc nhất, là tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những
thành tựu xuất sắc cả ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân là một cuộc hành
trình bền bỉ, không mệt mỏi kiếm tìm, khám phá cái Đẹp. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân kiếm tìm những cái đẹp của quá
khứ mà với hiện tại chỉ còn vang bóng. Sau Cách mạng, ông kiếm tìm, khám phá cái Đẹp trong hiện thực của cuộc sống đương thời.
Người lái đò Sông Đà là tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà là thành quả
của chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên Tây Bắc những năm 1958 – 1960. Chuyến đi một mặt nhằm thỏa
mãn khát khao xê dịch để thay đổi thực đơn cảm giác của Nguyễn Tuân nhưng mặt khác nó là hành trình Nguyễn tìm
kiếm chất vàng trong vẻ đẹp thơ mộng hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc.
Nguyễn Tuân đã lấy câu của nhà thơ cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông và hai câu thơ của tiền nhân về sông Đà để làm đề từ cho tùy bút Người lái đò sông Đà: Chúng thủy giai đông tẩu/
Đà giang độc Bắc lưu (Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông / Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc) (Nguyễn Quang
Bích). Trở lại với lời đề từ Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của nhà thơ Ba Lan mang
cấu trúc của một câu cảm thán nhằm bộc lộ niềm cảm xúc dâng trào, mãnh liệt. Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là
tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bắc thiết tha
với thiên nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò Sông Đà là một trong hai hình tượng trung tâm của thiên tùy bút.
Hành trình sáng tạo của Nguyễn Tuân là hành trình kiếm tìm và khám phá cái Đẹp. Nhưng trước cách mạng,
Nguyễn Tuân quan niệm: xã hội thuộc địa, xã hội hiện tại là xã hội cơ khí giết chết cái đẹp, cho nên cái đẹp không tồn tại
trong thực tại và ông tìm về với cái đẹp của quá khứ “vang bóng”. Thế giới nhân vật của Nguyễn trước cách mạng là những
con người đặc tuyển, xuất chúng với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ nhưng bơ vơ, lạc lõng. Sau Cách mạng, cái đẹp của con người,
cuộc sống là cái đẹp của hiện tại, của hiện thực lao động và chiến đấu xây dựng cuộc sống mới. Vẻ đẹp của con người
không phải từ những kẻ “sinh lầm thế kỉ”, lạc lõng, bơ vơ mà là những con người lao động bình dị mà điển hình là người
lái đò Sông Đà. Trong thiên tùy bút, Nguyễn Tuân dồn nhiều tâm huyết xây dựng nên hình tượng người lái đò – người lao
động đầy trí dũng và cũng là nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Sự hung bạo, dữ dằn, hiểm ác của con Sông Đà càng làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của người lái đò. Mỗi lần
chèo đò là một cuộc vượt thác đầy ngoạn mục. Từng ngang dọc nhiều năm trên Sông Đà, người lái đò dày dạn kinh
nghiệm nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này. Bởi vậy, bước vào cuộc thủy chiến, người lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển, thuần phục con ngựa bất
kham của thác nước Đà giang với thái độ trầm tĩnh. Giữa lúc tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác người
ta vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái trên cái thuyền sáu bơi chèo.
Khi sóng thác đã đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò, ông đò cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường chịu đựng hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái để vượt qua vòng
vây của đá và thay đổi linh hoạt chiến thuật để giành thắng lợi cuối cùng. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía
cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn
nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lân mà chặt đôi ra để mở đường tiến.Những
động tác linh hoạt, uyển chuyển ấy của người lái đò là những biến pháp điêu luyện của một tay lái. Sự chiến thắng thác
nước Sông Đà của người lái đò là bởi con người ấy hội tụ tất cả những vẻ đẹp: trí tuệ, tài năng, thể lực, bản lĩnh phi phàm.
Sau những giây phút căng thẳng đối diện với trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn, người lái đò không nói một lời
đến cuộc chiến vừa trải qua mà chỉ nói về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng
to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Chi tiết ấy như càng tôn thêm vẻ đẹp bình dị của những người lao động
trong cuộc sống đời thường. Người lái đò chấp nhận cuộc chiến với thác Sông Đà hiểm ác bằng thái độ an nhiên, tự tại.
Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước Đà giang- người anh hùng lao động sông nước,
nghệ sĩ ba lê giữa muôn trùng thác đá. Cuộc đời của người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoang vu là thiên anh
hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say TÔN NGỌC MINH QUÂN 20