Tài liệu ôn tập kinh tế chính trị Mác - Leenin | Trường đại học Luật, đại học Huế
Tài liệu ôn tập kinh tế chính trị Mác - Leenin | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (KTCT2023)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 2: Phân tích vai trò chủ nghĩa Mác- Lênin đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là bộ phận tinh túy nhất của văn hóa nhân loại, là đỉnh cao
của tư tưởng loài người, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp tiến tiến
nhất. Nó là học thuyết tổng kết quá khứ, giải thích và cải tạo hiện tại, chuẩn bị hướng dẫn tương lai.
Hồ Chí Minh nhận thức rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là “chiếc cẩm nang
thần kỳ”, là “kim chỉ nam” mà còn là mặt trời soi sáng cho chúng ta đi tới thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
nguồn gốc lý luận, quyết định bước phát triển mới về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh vì:
– Chủ nghĩa Mác - Lênin đem lại cho Người phương pháp đúng đắn để tiếp cận
văn hóa dân tộc, truyền thống cha ông cũng như tinh hoa, trí tuệ nhân loại. Nhờ có
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc
mới có thể tiếp cận, chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền
thống dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên hệ tư tưởng của mình.
– Nhận thấy được quy luật tất yếu của nhân loại dù sớm hay muộn các dân tộc trên
thế giới sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
– Chính nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết kinh
nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam.
– Từ thế giới quan và phương pháp luận Mácxít, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy con
đường dân tộc Việt Nam phải đi và đích phải đến. Đó là con đường cách mạng vô
sản và đích của nó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước không đối lập
mà gắn bó mật thiết với nhau. Điều này làm cho Hồ Chí Minh thành người Việt
Nam yêu nước chân chinh nhất, nâng chủ nghĩa yêu nước của Việt Nam lên một
tầm cao mới; giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
giải phóng con người. Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường giai công nhân, từ người
yêu nước trở thành người cộng sản. Hồ Chí Minh đã tiếp cận, vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin theo phương cách riêng của mình, cụ thể là:
– Khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã không rơi vào sao chép,
giáo điều, rập khuôn mà biết tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý đó phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là phương
pháp biện chứng duy vật cốt để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước giải
phóng dân tộc và để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp nhận thức mác-
xít, đồng thời theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nhằm nắm lấy cái
tinh thần, bản chất chứ không bị trói buộc vào ngôn từ , tự tìm ra những chủ
trương, giải pháp, đối sách phù hợp với những hoàn cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong kinh điển. Trong quá trình
hoạt động cách mạng, những tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản
chất cách mạng tư tưởng của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Người luôn khẳng định rằng: “chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất”. Và, như
vậy có thể nhận thấy rằng Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản, có tính cách mạng, khoa học, rất sâu sắc và triệt để.
Câu 3: Hãy nêu những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của Người. Vì sao?
* Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo * Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa vào lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công - nông làm nền tảng
* Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
* Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của Người. Vì sao?
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc là luận điểm sáng tạo nhất.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo:
Do Quốc tế cộng sản chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng
thuộc địa nên Quốc tế cộng sản đã xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi
cách mạng thuộc địa là “hậu bị quân”, phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc. Đại hội VI của Quốc tế cộng sản (1928) đã thông qua Những luận cương về
phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa với nhận thức
rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa
khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến". Quan
điểm này làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa
trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc để giành độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đăng,
ngang nhau chứ không phải là quan hệ phụ thuộc, quan hệ chính - phụ. Từ năm
1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vận mệnh
của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước
đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước
thuộc địa”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người viết: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đĩa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và
một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi
còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái
vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”.
- Cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản ở chính quốc.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh của
các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt
bỏ sự bóc lột để tiện của một bọn thực dân lòng tham không đây, họ sẽ hình thành
một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm
sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; là một cống hiến rất quan trọng của
Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn . Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là
nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc nhưng cũng là khâu yếu nhất trong hệ thống các
nước đế quốc. Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở
các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của
nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của
nó, và nhất là tuyển những binh linh bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng
của nó”, “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa".
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng
thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng
cách mạng to lớn, đó là tinh thần cách mạng hết sức quyết liệt, một lực lượng vô
cùng to lớn khi được tập hợp, giác ngộ. Theo Hồ Chí Minh, phải “làm cho các dân
tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết
lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ
là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1/7/1924), Hồ Chí Minh phê
phán các đảng cộng sản ở Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước
có thuộc địa chưa thi hành chính sách tích cực trong vấn đề thuộc địa. Trong khi
yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng thuộc
địa, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Vận dụng công thức của C. Mác, Hồ
Chí Minh rút ra luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Tháng 8/1945, khi thời cơ cách mạng xuất
hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Kháng chiến trường kỳ gian khổ phải trông vào sức mình, không
được trông chờ người khác; đồng thời, phải tự lực cánh sinh vì “một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập".
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến
rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, phát huy tinh thần độc lập tự chủ đó, ta
không cần sự giúp đỡ bên ngoài nhưng Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930) vẫn thành công; Cách mạng Tháng Tám anh hùng diễn ra
ngay trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật; đánh bay đế quốc Pháp
với trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; cuộc kháng chiến
chống Mỹ cũng giành thắng lợi vẻ vang, đánh dấu bằng Đại thắng mùa xuân năm
1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân
tộc. Ngày nay, công cuộc đổi mới càng là minh chứng cho tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần sáng tạo đó.
Câu 4: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về một số đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Quan niệm Hồ Chí Minh về đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cũng
trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu
trên những điểm sau đây:
- Về chính trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có chế độ dân chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và làm chủ;
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng
cốt là liên minh công - nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mọi quyền lực
trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là người quyết định vận
mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã
hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn
dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản
xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện ở công
cụ lao động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử”.
Quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là “lấy nhà máy, ngân
hàng, xe lửa... là của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân”.
- Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội
phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội
Sự phát triển cao của văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở chỗ chủ
nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người.
Điều này được hiểu rằng chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến
độ chín muồi, không còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội
về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã
hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
Sự phát triển cao về văn hóa, đạo đức còn thể hiện ở chỗ:
- chủ nghĩa xã hội là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng.
- không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành
thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn
diện, có sự hài hòa trong sự phát triển của xã hội và tự nhiên. Hồ Chí Minh
chó rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội thì “mỗi người mới có điều kiện cải thiện
đời sống riêng, phát huy được cải riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là cơ sở, là tiền đề đi tới chế độ xã hội hòa
bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người
và vì mọi người, không còn gì có thể ngăn can những người lao động hiểu nhau và yêu thương nhau.
- Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một công trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trong chủ nghĩa xã hội - chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích cá
nhân gắn liền với lợi ích tập thể, lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là
chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định “cần có sự
lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đăng biết vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới thể đưa cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.”
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di
sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại; là
sự tổng hợp hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc
lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn
kết, hữu nghị ... Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì loài người sẽ vươn tới
lý tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội, đó là "liên hợp tự do của những người lao động”.
Ở đó, cá tính của con người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát
huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện. Nhưng theo Hồ Chí
Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.
* Ý nghĩa của các đặc trưng đó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện
nay: Bốn đặc trưng trên có giá trị lý luận và thực tiễn, soi đường dẫn lối cho công
cuộc đấu tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là những nền tảng, cơ sở
khoa học cho việc xây dựng CNXH ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Câu 5: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
* Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự
thành công của cách mạng
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, trong
thời đại mới, để đánh bại chủ nghĩa đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người thì phải tập hợp tất cả lực lượng, xây dựng
khối đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại
đoàn kết dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị, mà là một chiến
lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, tùy vào yêu cầu
nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp
với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách Mặt
trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối
đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng cách mạng giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ
Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn
kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình
ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc".
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đoàn kết: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng
ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi ”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết
là thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
* Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, là nhu
cầu khách quan của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn
của mọi thắng lợi. Do đó, đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường ối, chủ
trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định
mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của của Đảng và của mọi giai đoạn
cách mạng. Cách mạng muốn thành công Đảng phải cụ thể hóa đường lối, chủ
trương thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng .
Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của
dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì
quần chúng. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp quần chúng,
chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những
đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức
mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Câu 8: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Nhà nước của dân
+ Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân là người có
địa vị cao nhất. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho
đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”.
+ Nhà nước của dân thì “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân”, nhân dân có quyền quyết định những vấn đè quan
trọng nhất của đất nước. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Nhân dân thực thi quyền lực
của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn những đại biểu mà
họ đã bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo
Hồ Chí Minh, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra, đồng thời có
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại
biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
+ Dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước
chỉ là người được uỷ quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải quyết
những công việc chung của đất nước. Hồ Chí Minh gọi người cầm quyền, cán bộ
công chức nhà nước là “đầy tớ”, “công bộc” của dân. Người cho rằng, làm công
bộc của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng rất khó khăn, nặng nề. Muốn
vậy, người cầm quyền phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân và biết sức
mạnh của dân. Tác phong của người cầm quyền phải là: “óc nghĩ, mắt thấy, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. - Nhà nước do dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước phải tin
dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộng:
+ Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu
kín bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước...
+ Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn theo ba mức độ tử thấp đến cao: bãi miễn đại biểu, bãi miễn các cơ quan nhà
nước, bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu, các cơ quan nhà nước không
còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Người viết: “Nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
+ Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức
người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
+ Nhà nước do dân còn bao hàm nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham
gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
- Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Điều
này được Người giải thích rõ trên các phương diện:
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất và duy nhất là
không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm
“việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở hàng đầu đánh giá hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
+ Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu
cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân được học hành , làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc
sức khoẻ. Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay dân mà hướng dẫn dân
tự chăm lo đời sống của mình.
+ Nhà nước biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn luôn được mọi người dân ủng hộ, xây
dựng. Đồng thời là người hướng dẫn dân, nhà nước phải còn biết kết hợp giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung ương và địa phương, lợi ch của
các ban, ngành, các chủ thể xã hội, làm sao để bất kỳ ai cũng thấy được nhà nước
là người đại diện cho lợi ích chân chính của họ.
+ Nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc
quyền, đặc lợi, phải loại hết “các ông quan cách mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước.
Câu 10: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách
mạng “Trung với nước, hiếu với dân”
Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với
cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối các phẩm
chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng.
“Trung với nước, hiếu với dân” là một phẩm chất tạo nên một cuộc cách mang sâu
sắc về lính vực đạo đức vì bác Hồ đã đảo ngược phạm trù “trung”, “hiếu”. Tiêu
chuẩn này được xem là thức đo đánh giá cán bộ Đảng viên. Lòng trung, hiếu rộng
lớn ấy thể hiện ở ý chí và quyết tâm phấn đấu cho nước nhà được hoàn toàn độc
lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đã đưa thêm vào nội dung mới, cách mạng,
phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha
mẹ như quan niệm Nho giáo cũ mà “trung với nước , hiểu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ cái cốt lõi nhất
trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua
phong kiến. “Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng,
xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và đi lên của đất
nước. Nước ở đây là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác
định “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, Đảng và
Chính phủ là “đầy tớ của nhân dân” chứ không phải là “quan nhân dân đề “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Trung với nước là:
- Trong mối quan hệ cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước mắt
- Phải quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu. cách mạng
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiểu với dân”
là một sự đảo lộn mang tính cách mạng trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ
Chí Minh đã lật ngược lại học thuyết của Nho giáo như Mác đã làm với học thuyết
Hêghen. Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân ngừng lên
trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngưng lên
trời”. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn
toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa so phía trước.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho
mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta từ trước đến nay mà còn lâu dài mãi mãi về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng: điều chủ chốt nhất của đạo đức
cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", là “trung với nước,
hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiểu” thì mới xứng đáng vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân
không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà còn phải hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần
dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường
xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để hiểu được quyền
và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Hiếu với dân thể hiện ở:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân
- Tin dân, học dân, sẵn sàng lắm nghe ý kiến dân, gắn bó mật thiết với dân
- Tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
- Hết lòng vì dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người dân
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải nắm vững và thực hành đạo đức trung
với nước, hiếu với dân thì sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ
tạo ra được sức mạnh to lớn và đưa cách mạng đến thành công.
Câu 11: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách
mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Phẩm chất này gắn liền và là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu
với dân”. Phẩm chất này lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh.
Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên vì nó diễn ra hàng
ngày, hàng giờ, trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cả khi thuận lợi và lúc
khó khăn. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến phẩm chất này, từ tác
phẩm Đường Cách mệnh cho đến Bản Di chúc cuối cùng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông
và đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh giữ lại những yếu tố tốt đẹp,
cải biến nội dung, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới phục vụ cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” năm 1949, Hồ Chí Minh giải thích về
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau:
+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, khai thác
hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và hiệu quả thực tế, lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải
thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta”. Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy cũng làm được. Siêng học tập
thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay cỏ sáng kiến. Siêng làm nhất định thành công”.
Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải
cẩn, cả nước đều phải cần. “Người siêng năng thì hay tiến bộ. Cả nhà siêng năng
thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước siêng năng thì
nước giàu mạnh”. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn thì phải lên kế hoạch cho mọi công việc.
+ Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của dân,
của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng
lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương
hình thức. không rượu chén lu bù hoang phí.
Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà không Kiệm
thì như thùng không đáy, Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển.
+ Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; phải “trong sạch,
không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ”. Theo Hồ Chí Minh, Liêm là thước đo bản chất con người.
Có Kiệm mới có Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam, tham tiền của, tham địa vị,
tham ăn ngon... đều là những hành động bất liêm. Người dạy: “ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
+ Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Điều gì không đúng đắn, không
thẳng thắn tức là Tà “làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác".
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là những đức tính không thể
thiếu được của mỗi con người cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương - đó là quy luật tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp nào cũng cần
phải giữ 3 mối quan hệ:
- Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
- Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; không dối trá, lừa lọc.
- Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách
việc gì thì giai quyết cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn,
nguy hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh.
Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
+ Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính nhưng nó cũng có nội
hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham làm những việc ích quốc lợi
dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Đó là nội dung
của chủ nghĩa tập thể. Người chí công vô tư thì lòng dạ thành thơi, đầu óc tỉnh táo,
sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được chủ nghĩa tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt được đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi
ích cá nhân, Người chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ chủ
trương xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người . Người nói: “Chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân con người”. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xào quyệt; nó khéo dỗ dành
người ta đi xuống”, “là một thử vi trùng rất độc” đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô,
hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại,
coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, quan liêu, mệnh lệnh,.... Tóm
lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi chúng ta.
Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là một kẻ
địch, bạn đồng minh của kẻ địch khác.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, phải quyết tâm đấu
tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại rất lớn cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời
thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cả nhân”3. Người cho rằng: chủ
nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân tộc. “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa , nếu sa vào chủ nghĩa cả nhân ”A. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau; có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là
bốn đức tính cần thiết của con người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông
Đất có bổn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chỉnh.
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người ".
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư một
lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính và có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh những đức tính tốt ấy
gồm có năm điều: "Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người
vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyển rũ, nghèo khó không
thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” .
* Liên hệ với bản thân: Bản thân cần thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư” vì chuẩn mực này rất quan trọng đối với sinh viên. Mỗi người trước hết cần
phải luôn luôn học tập để từng ngày tiến bộ; siêng năng, chăm chỉ, cần cù rèn
luyện tác phong, đạo đức để trở thành công dân có ích, góp phần phát triển đất
nước. Tuổi trẻ phải biết tiết kiệm thời gian, tiền bạc, đặc biệt là tiết kiệm sức khỏe.
Hơn nữa, phải biết xây dựng kế hoạch cụ thể cho bản thân để đạt được các mục
tiêu, hoàn thiện bản thân.