Tài liệu ôn tập LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Đường lối kháng chiến chống TDP của Đảng được hình thành, bổ sung, phát triển trong những năm 1945-1947. Nội dung cơ bản là dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài, và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó thể hiện nhiều qua văn kiện quan trọng của Đảng, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46090862
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1945 - 1975)
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng và quá trình thực hiện từ
năm 1946 đến năm 1950
a) Kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
*Nguyên nhân kháng chiến bùng nổ:
Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở vn vô cùng căng thẳng, nguy
cơ dẫn đến một cuộc chiến tranh giữa VN và Pháp tăng dần.
(Gợi ý nói thêm=> dù trước đó VN đã luôn kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn, bày tỏ
thiện chí hòa bình, nhưng thực dân Pháp vẫn ngày càng bộc lộ thái độ gây hấn, khiêu khích,
gây xung đột quân sự.)
Cuối tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố
Hải Phòng, Lạng Sơn , tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn
công vào các vùng tự do của Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực
lượng phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ”
18/12/1946, đại diện Pháp tại Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi
liên hệ với chính phủ VN, đưa liên tiếp 3 tối hậu thư
Thiện chí hòa bình của chính phủ và nhân dân VN bị thực dân Pháp cự
tuyệt, không còn cách nào khác Đảng và nhân dân VN phải đứng lên
chống lại thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách
mạng. Nói như chủ tịch Hồ CHí Minh “ta với Pháp không còn 1% cơ hội
hòa hoãn nào nữa, thì cuộc kháng chiến phải bùng nổ”. Và thế là cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra.
Ngày 19/12/1946, chủ tich Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi tổ quốc kháng
chiến” khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta về nền độc lập, tự do.
(Và đây là lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh)
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. ...
lOMoARcPSD| 46090862
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
...
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt u cuối cùng, để giữ gìn đất
nước.
phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta"
* Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp:
Đường lối kháng chiến chống TDP của Đảng được hình thành, bổ sung,
phát triển trong những năm 1945-1947. Nội dung cơ bản là dựa trên sức mạnh
toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài, và dựa vào sức
mình là chính. Đường lối đó thể hiện nhiều qua văn kiện quan trọng của Đảng,
lời kêu gọi, bài viết, bài nói của chủ tịch HCM và đồng chí tổng bí thư Trường
Chính, trong đó tập trung ở các văn bản:
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945)
Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946)
Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-1946)
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946)
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946)
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng cTrường Chinh (8-1947)
* Nội dung cơ bản của đường lối
+ Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn thực
dân phản động Pháp xâm lược nhằm giành độc lập và thống nhất.
+ Tính chất của cuộc kháng chiến: Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, cuộc kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng
và củng cố chế độ cộng hoà dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ
mới. Cho nên cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
+ Phương châm của cuộc kháng chiến: kháng chiến toàn dân, kháng
chiến toàn diện, kháng chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
lOMoARcPSD| 46090862
+Triển vọng của cuộc kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song
nhất định thắng lợi. * Ý nghĩa đường lối :
Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến đường lối kháng chiến của Đảng
ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến
lên.
Và thế là, 20 giờ ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
quân và dân Hà Nội và ở các vùng đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra đồng loạt
nổ súng, cuộc kháng chiến toàn dân bùng nổ cùng với hàng loạt địa
phương khác như Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh. Tiêu biểu
nhất là quân dân Thủ Đô đã thực hiện cuộc kháng chiến liên tục trong 60
ngày đêm. 7/1/1947, Trung Đoàn Thủ Đô thành lập nêu cao tinh thần
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”
b) Lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các Uỷ ban kháng chiến hành chính
được thành lập, các tổ chức chính trị, xã hội được củng cố
*Các tổ chức chính trị, xã hội như sau:
Công tác xây dựng Đảng
Kinh tế, văn hóa, xã hội
Quân sự
Ngoại giao
-Về Công tác xây dựng Đảng: được chú trọng. Hàng chục vạn cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân, trí thức ưu tú qua thử thách
được kết nạp vào Đảng. Qua cuộc vận động xây dựng "chi bộ tự động công tác",
tổ chức cơ sở đảng được tôi luyện, trưởng thành và thực sự là hạt nhân lãnh đạo
kháng chiến ở các địa phương.
-Về Kinh tế, văn hóa, xã hội: Đảng chủ trương đẩy mạnh phong trào gia
tăng sản xuất, tự cấp tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân
dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông
các cấp. Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đòng tình của lực lượng tiến bộ và
nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến
-Về quân sự: thu đông năm 1947, Thực dân Pháp huy động lục quân, hải
quân và không quân, hình thành 3 mũi tiến công chính tiến lên vùng ATK Việt
Bắc. Trong bối cảnh đó, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung Ương Đã ra
chỉ thị phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Ngày 21/12/1947,
quân và dân ta đã lần lượt bẻ gãy các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp,
lOMoARcPSD| 46090862
bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại kế hoạch
âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
-Về ngoại giao: đầu năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung
Quốc, Liên Xô. Ngày 18-1-1950, Chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, sau
đó Chính phủ Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta bắt đầu nhận được viện trợ và vật chất của Trung Quốc và Liên Xô. Một
số cố vấn của Trung Quốc đã đến giúp đViệt Nam. Nhân dân nhiều nước châu
á, châu Phi đã dành cho nhân dân ta cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.
Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát triển rầm rộ. Mối quan hệ truyền
thống, liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương được tăng cường. Với sự
giúp đỡ, phối hợp của quân và dân ta, các khu căn cứ kháng chiến ở Trung Lào,
Hạ Lào được thành lập; Uỷ ban Dân tộc giải phóng Khơme ra đời. Thế liên
minh chiến đấu ba nước Đông Dương càng thêm vững chắc.
Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ lực, tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Hàng vạn thanh niên náo nức tòng quân,
đưa quân số lên 23 vạn. Đầu năm 1950, hai đại đoàn chủ lực và nhiều trung
đoàn chủ lực của Bộ Tổng lệnh và của các quân khu ra đời. Dân quân tự vệ
phát triển lên tới ba triệu người.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến
dịch Biên giới dọc tuyến biên giới Việt – Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng
Sơn (chiến dịch Thu Đông năm 1950). Lần đầu tiên, ta chủ động mở một chiến
dịch tiến công quy mô lớn. Một lực lượng lớn bộ đội chủ lực được huy động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến
dịch. Ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu mở màn bằng trận Đông Khê. Qua 29
ngày đêm chiến đấu ác liệt (từ ngày 16-9-1950 đến ngày 15-10- 1950), ta đã
hoàn toàn giành thắng lợi to lớn, “đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời
chiến đấu trong vòng vây”. Thắng lợi đó đã tạo ra một bước chuyển biến lớn
đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới. Quân đội ta đã nắm quyền chủ
động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ, chủ động tiến công và phản công
ngày càng lớn.
3. Lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951 - 1954)
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày
19-2-1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên
Quang. Đại hội quyết định, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam. Điều lệ mới của Đảng được đại hội thông qua. Đại hội cũng đã
lOMoARcPSD| 46090862
bầu Hồ Chí Minh làm chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng
thư.
Đại hội đã thông quan Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam , gồm
các nội dung quan trọng sau đây:
- Tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Các tính chất đó đang đấu tranh
lẫn nhau, “ nhưng mâu thuẫn chủ yếu lại là mâu thuẫn giữa tính chất dân
chủ nhân dân và tính chất thuộc địa”.
- Đối tượng của cách mạng: Cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng:
+ Đối tượng chính (hiện nay): chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là đế
quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
+ Đố tượng phụ (hiện nay): phong kiến, cụ thể la phong kiến phản
động.
- Nhiệm vụ của cách mạng:
+ Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự
cho dân tộc.
+ Xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nữa phong kiến. Làm cho
người cày có ruộng
+ Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội
- Lực lượng của cách mạng: gồm các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư
sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến
bộ. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Đặc điểm của cách mạng: Cách mạng đó không phải là cách mạng dân
chủ tư sản lối cũ mà cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa
một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Triển vọng của cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: đó là một con đường đấu tranh lâu
dài, đại thể trải qua ba giai đoạn.
- Chính sách của Đảng: Chính cương nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng
để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN và nhân dân thế giới, của Trung
Quốc, Liên Xô. Thực hiện đoàn kết Việt-Trung-Xô, Việt-Miên-Lào.
lOMoARcPSD| 46090862
Đại hội II thành công là một bước tiến về mọi mặt, là “ Đại hội kháng chiến
kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng
Lao động Việt Nam”.
Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm về nhận thức là mắc vào tư
tưởng tả khuynh, giáo điều và rập khuôn máy móc.
b) Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
*Tn mặt trận Quân sự:
Đầu 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự đánh
vào vùng chiếm đóng của địch tại địa bàn Trung du và đồng bằng Bắc bộ.
Tiếp đó, 12/ 1951 ta mở Chiến dịch Hòa Bình và Tây Bắc - Thu Đông
(1952) => Nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần Tây
Bắc và phá âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh trên chiến trường Liên
khu V và địa bàn Nam Bộ giúp Chính phủ kháng chiến giải phóng Lào thêm đất
đai và mở rộng khu căn cứ địa, phá thế bố trí chiến lược ở Bắc Đông Dương của
thưc dân Pháp.
*Tn các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội:
Đảng và Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát triển thực lực,
củng cố và tăng cường sức mạnh hậu phương kháng chiến
4/1952, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 3 đề ra nhiều quyết sách lớn
về xây dựng quân đội, thương nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục..
1/1953, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 4 họp kiểm điểm về thực
hiện chính sách ruộng đất và tiến tới cải cách ở một số vùng nông thôn VN
11/1953, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 5 và Hội nghị toàn quốc
của Đảng lần thứ nhất quyết định thông qua Cương lĩnh ruộng đất với 23 điều
và nêu chủ trương: “phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức
và tiến hành cải cách ruộng đất”, thực hiện người cày có ruộng, nâng cao qyền
lợi kinh tế và chính trị của người nông dân.
4/12/1953, kì họp thứ 3 Quốc hội khóa I thông qua Luật cải cách ruộng
đất
19/12/1953 Chủ tịch HCM ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất
lOMoARcPSD| 46090862
Hàng ngàn hecta ruộng đất, nông cụ, trâu, bò tư liệu sản xuất chia cho
nông dân nghèo, nhất là bần và cố nông. Tuy vậy vẫn còn hạn chế trong
nhận thức, phương pháp và cách làm.
c) Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp:
Bước vào năm 1953, trước sự sa lầy của Pháp, Mỹ can thiệp sâu vào
chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài, mở rộng chiến tranh, tích cực
chuẩn bị thay thế Pháp.
Ngày 07/05/1953,với sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp cử Na-va làm Tổng ch
huy quân Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi
quyết định để “ chuyển bại thành thắng”. Kế hoạch Na-va chia thành hai bước:
- Bước 1: Thu - Đông 1953 và xuân 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược ở
miền Bắc, tiến công chiến lược để bình định miền Trung Bộ và Nam
Đông Dương.
- Bước 2: từ Thu - Đông 1954, tiến công chiến lược Bắc Bộ, cố giành
thắng lợi quân sự quyết định.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp
bàn kế hoạch quân sự chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953 - 1954.
Nắm vững nhiệm vụ tiêu diệt địch là chính, với những bước đầu làm phá
sản kế hoạch Nava, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch ở các chiến
trường Đông Dương:
- Nava tập trung ở đồng bằng Bắc bộ 44 tiểu đoàn cơ động
- Ngày 10/12/1953, chủ lực ta tiến công Lai Châu, giải phóng toàn bộ thị
xã (trừ Điện Biên Phủ)
- Tháng 12/1953, liên quân Lào - Việt tiến công Trung Lào, giải phóng Thà
Khẹt, uy hiếp Xa-van-na-khet và Xê-nô.
- Tháng 01/1954, liên quân Lào - Việt tiến công Thượng Lào, giải phóng
lưu vực sông Nậm Hu và toàn tỉnh Phong Xa-lì, uy hiếp Luông Phabang
- Tháng 02/1954, ta tiến công Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum, uy
hiệp Plây-ku.
Đầu năm 1954, Pháp chọn Điện Biên Phủ trở thành khu chính của kế
hoạch Nava, là một cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “ một pháo đài không thể
công phá”
Bước đầu thắng lợi đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân và dân
ta mở cuộc tiến công quyết định vào Điện Biên Phủ.
lOMoARcPSD| 46090862
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên
Phủ và giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Với phương châm “đánh chắc, tiến
chắc”, “ đánh chắc thắng”, ngày 13/03/194 quân ta nổ súng tấn công địch ở
phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên
Phủ.
Trải qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tấn công lớn:
- Đợt 1: (13/03 -17/03/1954) Ta đánh vào Him Lam và toàn bộ phân khu
Bắc, diệt 2000 tên
- Đợt 2: (30/03-26/04/1954) Ta tấn công các cứ điểm phía Đông phân khu
trung tâm
- Đợt 3 (1/5-7/5/1954) Ta tiêu diệt phân khu Trung tâm và phân khu Nam
Đến 17h30 ngày 7/5/1954: Chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi.
Tướng De Castries và bộ chỉ huy ra đầu hàng
Điện Biên Phủ thất thủ, Chín phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác,
buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ký hiệp định Giơ ne vơ. Ngày 21/7/1954,
Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết
Việt Nam, Lào, Campuchia được cam kết công nhận độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Đông Dương
Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải - Quảng Trị) làm giới
tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới
tuyến.
Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền cơ bản của
3 nước Đông Dương, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ: a) Ý nghĩa thắng lợi của
cuộc kháng chiến
Với ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến
đấu kiên cường và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy
lừng Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đưa đến việc giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, tạo tiền đề về chính tr - xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa
miền Bắc quá đ lên CNXH, xây dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu
phương lớn, chi viện cho tuyền tiến lớn miền Nam.
lOMoARcPSD| 46090862
Có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ca dân tộc Việt Nam, có tính lan tỏa rộng lớn
trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của
quân đội nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh với các trang bị
khí, công nghệ khoa học kĩ thuật tiên tiến, hiện đại.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, chủ tch Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ
vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới” b)
Kinh nghiệm lãnh đạo kháng chiến của Đảng:
Trải qua quá trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh có giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc:
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử
của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống
phong kiến.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành
cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp , đáp ứng kịp thời
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai t
toàn diện ca Đảng đi với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.
| 1/9

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46090862
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945 - 1975)
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng và quá trình thực hiện từ
năm 1946 đến năm 1950
a) Kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
*Nguyên nhân kháng chiến bùng nổ:
Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở vn vô cùng căng thẳng, nguy
cơ dẫn đến một cuộc chiến tranh giữa VN và Pháp tăng dần.
(Gợi ý nói thêm=> dù trước đó VN đã luôn kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn, bày tỏ
thiện chí hòa bình, nhưng thực dân Pháp vẫn ngày càng bộc lộ thái độ gây hấn, khiêu khích,
gây xung đột quân sự.)

Cuối tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố
Hải Phòng, Lạng Sơn , tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn
công vào các vùng tự do của Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực
lượng phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ”
18/12/1946, đại diện Pháp tại Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi
liên hệ với chính phủ VN, đưa liên tiếp 3 tối hậu thư
Thiện chí hòa bình của chính phủ và nhân dân VN bị thực dân Pháp cự
tuyệt, không còn cách nào khác Đảng và nhân dân VN phải đứng lên
chống lại thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách
mạng. Nói như chủ tịch Hồ CHí Minh “ta với Pháp không còn 1% cơ hội
hòa hoãn nào nữa, thì cuộc kháng chiến phải bùng nổ”. Và thế là cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra.
Ngày 19/12/1946, chủ tich Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi tổ quốc kháng
chiến” khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta về nền độc lập, tự do.
(Và đây là lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh)
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. ... lOMoAR cPSD| 46090862
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. ...

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta"
* Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp:
Đường lối kháng chiến chống TDP của Đảng được hình thành, bổ sung,
phát triển trong những năm 1945-1947. Nội dung cơ bản là dựa trên sức mạnh
toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài, và dựa vào sức
mình là chính. Đường lối đó thể hiện nhiều qua văn kiện quan trọng của Đảng,
lời kêu gọi, bài viết, bài nói của chủ tịch HCM và đồng chí tổng bí thư Trường
Chính, trong đó tập trung ở các văn bản:
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945)
Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946)
Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-1946)
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946)
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946)
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947)
* Nội dung cơ bản của đường lối
+ Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn thực
dân phản động Pháp xâm lược nhằm giành độc lập và thống nhất.
+ Tính chất của cuộc kháng chiến: Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, cuộc kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng
và củng cố chế độ cộng hoà dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ
mới. Cho nên cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Phương châm của cuộc kháng chiến: kháng chiến toàn dân, kháng
chiến toàn diện, kháng chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính. lOMoAR cPSD| 46090862
+Triển vọng của cuộc kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song
nhất định thắng lợi. * Ý nghĩa đường lối :
Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là
ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên.
Và thế là, 20 giờ ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
quân và dân Hà Nội và ở các vùng đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra đồng loạt
nổ súng, cuộc kháng chiến toàn dân bùng nổ cùng với hàng loạt địa
phương khác như Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh. Tiêu biểu
nhất là quân dân Thủ Đô đã thực hiện cuộc kháng chiến liên tục trong 60
ngày đêm. 7/1/1947, Trung Đoàn Thủ Đô thành lập nêu cao tinh thần
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”
b) Lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các Uỷ ban kháng chiến hành chính
được thành lập, các tổ chức chính trị, xã hội được củng cố
*Các tổ chức chính trị, xã hội như sau:
Công tác xây dựng Đảng
Kinh tế, văn hóa, xã hội Quân sự Ngoại giao
-Về Công tác xây dựng Đảng: được chú trọng. Hàng chục vạn cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân, trí thức ưu tú qua thử thách
được kết nạp vào Đảng. Qua cuộc vận động xây dựng "chi bộ tự động công tác",
tổ chức cơ sở đảng được tôi luyện, trưởng thành và thực sự là hạt nhân lãnh đạo
kháng chiến ở các địa phương.
-Về Kinh tế, văn hóa, xã hội: Đảng chủ trương đẩy mạnh phong trào gia
tăng sản xuất, tự cấp tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân
dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông
các cấp. Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đòng tình của lực lượng tiến bộ và
nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến
-Về quân sự: thu đông năm 1947, Thực dân Pháp huy động lục quân, hải
quân và không quân, hình thành 3 mũi tiến công chính tiến lên vùng ATK Việt
Bắc. Trong bối cảnh đó, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung Ương Đã ra
chỉ thị phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Ngày 21/12/1947,
quân và dân ta đã lần lượt bẻ gãy các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, lOMoAR cPSD| 46090862
bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại kế hoạch
âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
-Về ngoại giao: đầu năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung
Quốc, Liên Xô. Ngày 18-1-1950, Chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, sau
đó Chính phủ Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta bắt đầu nhận được viện trợ và vật chất của Trung Quốc và Liên Xô. Một
số cố vấn của Trung Quốc đã đến giúp đỡ Việt Nam. Nhân dân nhiều nước châu
á, châu Phi đã dành cho nhân dân ta cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.
Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát triển rầm rộ. Mối quan hệ truyền
thống, liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương được tăng cường. Với sự
giúp đỡ, phối hợp của quân và dân ta, các khu căn cứ kháng chiến ở Trung Lào,
Hạ Lào được thành lập; Uỷ ban Dân tộc giải phóng Khơme ra đời. Thế liên
minh chiến đấu ba nước Đông Dương càng thêm vững chắc.
Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ lực, tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Hàng vạn thanh niên náo nức tòng quân,
đưa quân số lên 23 vạn. Đầu năm 1950, hai đại đoàn chủ lực và nhiều trung
đoàn chủ lực của Bộ Tổng Tư lệnh và của các quân khu ra đời. Dân quân tự vệ
phát triển lên tới ba triệu người.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến
dịch Biên giới dọc tuyến biên giới Việt – Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng
Sơn (chiến dịch Thu Đông năm 1950). Lần đầu tiên, ta chủ động mở một chiến
dịch tiến công quy mô lớn. Một lực lượng lớn bộ đội chủ lực được huy động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến
dịch. Ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu mở màn bằng trận Đông Khê. Qua 29
ngày đêm chiến đấu ác liệt (từ ngày 16-9-1950 đến ngày 15-10- 1950), ta đã
hoàn toàn giành thắng lợi to lớn, “đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kì
chiến đấu trong vòng vây”. Thắng lợi đó đã tạo ra một bước chuyển biến lớn
đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới. Quân đội ta đã nắm quyền chủ
động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ, chủ động tiến công và phản công ngày càng lớn.
3. Lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951 - 1954)
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày
19-2-1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên
Quang. Đại hội quyết định, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam. Điều lệ mới của Đảng được đại hội thông qua. Đại hội cũng đã lOMoAR cPSD| 46090862
bầu Hồ Chí Minh làm chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng bí thư.
Đại hội đã thông quan Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam , gồm
các nội dung quan trọng sau đây:
- Tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Các tính chất đó đang đấu tranh
lẫn nhau, “ nhưng mâu thuẫn chủ yếu lại là mâu thuẫn giữa tính chất dân
chủ nhân dân và tính chất thuộc địa”.
- Đối tượng của cách mạng: Cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng:
+ Đối tượng chính (hiện nay): chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là đế
quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
+ Đố tượng phụ (hiện nay): phong kiến, cụ thể la phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ của cách mạng:
+ Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho dân tộc.
+ Xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nữa phong kiến. Làm cho người cày có ruộng
+ Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội
- Lực lượng của cách mạng: gồm các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư
sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến
bộ. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Đặc điểm của cách mạng: Cách mạng đó không phải là cách mạng dân
chủ tư sản lối cũ mà cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Triển vọng của cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: đó là một con đường đấu tranh lâu
dài, đại thể trải qua ba giai đoạn.
- Chính sách của Đảng: Chính cương nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng
để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN và nhân dân thế giới, của Trung
Quốc, Liên Xô. Thực hiện đoàn kết Việt-Trung-Xô, Việt-Miên-Lào. lOMoAR cPSD| 46090862
Đại hội II thành công là một bước tiến về mọi mặt, là “ Đại hội kháng chiến
kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam”.
Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm về nhận thức là mắc vào tư
tưởng tả khuynh, giáo điều và rập khuôn máy móc.
b) Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
*Trên mặt trận Quân sự:
Đầu 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự đánh
vào vùng chiếm đóng của địch tại địa bàn Trung du và đồng bằng Bắc bộ.
Tiếp đó, 12/ 1951 ta mở Chiến dịch Hòa Bình và Tây Bắc - Thu Đông
(1952) => Nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần Tây
Bắc và phá âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh trên chiến trường Liên
khu V và địa bàn Nam Bộ giúp Chính phủ kháng chiến giải phóng Lào thêm đất
đai và mở rộng khu căn cứ địa, phá thế bố trí chiến lược ở Bắc Đông Dương của thưc dân Pháp.
*Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội:
Đảng và Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát triển thực lực,
củng cố và tăng cường sức mạnh hậu phương kháng chiến
4/1952, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 3 đề ra nhiều quyết sách lớn
về xây dựng quân đội, thương nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục..
1/1953, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 4 họp kiểm điểm về thực
hiện chính sách ruộng đất và tiến tới cải cách ở một số vùng nông thôn VN
11/1953, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 5 và Hội nghị toàn quốc
của Đảng lần thứ nhất quyết định thông qua Cương lĩnh ruộng đất với 23 điều
và nêu chủ trương: “phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức
và tiến hành cải cách ruộng đất”, thực hiện người cày có ruộng, nâng cao qyền
lợi kinh tế và chính trị của người nông dân.
4/12/1953, kì họp thứ 3 Quốc hội khóa I thông qua Luật cải cách ruộng đất
19/12/1953 Chủ tịch HCM ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất lOMoAR cPSD| 46090862
Hàng ngàn hecta ruộng đất, nông cụ, trâu, bò tư liệu sản xuất chia cho
nông dân nghèo, nhất là bần và cố nông. Tuy vậy vẫn còn hạn chế trong
nhận thức, phương pháp và cách làm.
c) Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp:
Bước vào năm 1953, trước sự sa lầy của Pháp, Mỹ can thiệp sâu vào
chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài, mở rộng chiến tranh, tích cực
chuẩn bị thay thế Pháp.
Ngày 07/05/1953,với sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp cử Na-va làm Tổng chỉ
huy quân Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi
quyết định để “ chuyển bại thành thắng”. Kế hoạch Na-va chia thành hai bước:
- Bước 1: Thu - Đông 1953 và xuân 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược ở
miền Bắc, tiến công chiến lược để bình định miền Trung Bộ và Nam Đông Dương.
- Bước 2: từ Thu - Đông 1954, tiến công chiến lược Bắc Bộ, cố giành
thắng lợi quân sự quyết định.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp
bàn kế hoạch quân sự chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
Nắm vững nhiệm vụ tiêu diệt địch là chính, với những bước đầu làm phá
sản kế hoạch Nava, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch ở các chiến trường Đông Dương:
- Nava tập trung ở đồng bằng Bắc bộ 44 tiểu đoàn cơ động
- Ngày 10/12/1953, chủ lực ta tiến công Lai Châu, giải phóng toàn bộ thị
xã (trừ Điện Biên Phủ)
- Tháng 12/1953, liên quân Lào - Việt tiến công Trung Lào, giải phóng Thà
Khẹt, uy hiếp Xa-van-na-khet và Xê-nô.
- Tháng 01/1954, liên quân Lào - Việt tiến công Thượng Lào, giải phóng
lưu vực sông Nậm Hu và toàn tỉnh Phong Xa-lì, uy hiếp Luông Phabang
- Tháng 02/1954, ta tiến công Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum, uy hiệp Plây-ku.
Đầu năm 1954, Pháp chọn Điện Biên Phủ trở thành khu chính của kế
hoạch Nava, là một cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “ một pháo đài không thể công phá”
Bước đầu thắng lợi đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân và dân
ta mở cuộc tiến công quyết định vào Điện Biên Phủ. lOMoAR cPSD| 46090862
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên
Phủ và giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Với phương châm “đánh chắc, tiến
chắc”, “ đánh chắc thắng”, ngày 13/03/194 quân ta nổ súng tấn công địch ở
phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trải qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tấn công lớn:
- Đợt 1: (13/03 -17/03/1954) Ta đánh vào Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc, diệt 2000 tên
- Đợt 2: (30/03-26/04/1954) Ta tấn công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm
- Đợt 3 (1/5-7/5/1954) Ta tiêu diệt phân khu Trung tâm và phân khu Nam
Đến 17h30 ngày 7/5/1954: Chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi.
Tướng De Castries và bộ chỉ huy ra đầu hàng
Điện Biên Phủ thất thủ, Chín phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác,
buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ký hiệp định Giơ ne vơ. Ngày 21/7/1954,
Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết
Việt Nam, Lào, Campuchia được cam kết công nhận độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Đông Dương
Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải - Quảng Trị) làm giới
tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến.
Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền cơ bản của
3 nước Đông Dương, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ: a) Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
Với ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến
đấu kiên cường và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đưa đến việc giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, tạo tiền đề về chính trị - xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa
miền Bắc quá độ lên CNXH, xây dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu
phương lớn, chi viện cho tuyền tiến lớn miền Nam. lOMoAR cPSD| 46090862
Có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, có tính lan tỏa rộng lớn
trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của
quân đội nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh với các trang bị vũ
khí, công nghệ khoa học kĩ thuật tiên tiến, hiện đại.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ
vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới” b)
Kinh nghiệm lãnh đạo kháng chiến của Đảng:

Trải qua quá trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc:
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử
của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành
cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp , đáp ứng kịp thời
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò
toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.