



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61260386 CHƯƠNG 2
Câu 1: Sản xuất hàng hóa? Điều kiện ra đời của sx hàng hóa. So sánh sx hàng hóa và sx
tự cung tự cấp (Đặc trưng, ưu thế)
Ý nghĩa của việc nghiên cứu và bài học rút ra cho bản thân
Định nghĩa: Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm sản xuất ra để trao
đổi hoặc để bán trên thị trường. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất -
phân phối - trao đổi - tiêu dùng do thị trường quyết định.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau:
Thứ nhất là Phân công lao động xã hội (Điều kiện cần). Phân công lao động xã hội là sự
phân chia lao động xã hội tự phát thành các ngành, nghề khác nhau (đó chính là chuyên môn
hoá sản xuất).Phân công lao động xã hội làm mỗi người chỉ sản xuất được một hoặc vài loại
sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của họ lại cần nhiều loại sản phẩm. Để thoả mãn được
nhu cầu, những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Ví dụ: Trong sản xuất tự cung, tự cấp thì một người có thể vừa trồng lúa, vừa sản xuất ra
công cụ lao động (cuốc, xẻng, cày, bừa...). Khi có phân công lao động xã hội thì người nông
dân chỉ chuyên trồng lúa, còn người thợ rèn chuyên sản xuất công cụ. Người nông dân có lương
thực ăn, nhưng lại cần công cụ để sản xuất; ngược lại người thợ rèn không thể ăn cuốc, xẻng...
Điều đó buộc người nông dân và người thợ rèn phải trao đổi sản phẩm của họ với nhau.
Nhưng phân công lao động xã hội mới là điều kiện cần, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và
tồn tại phải có điều kiện điều kiện đủ.
Thứ hai là Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.Sự tách biệt này
do các quan hệ sở hữu khác nhau (chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở hữu khác nhau) về
tư liệu sản xuất quy định.
Quan hệ sở hữu khác nhau làm cho sản phẩm làm ra thuộc về các chủ thể khác nhau, do đó
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải trao đổi, mua bán. Như vậy, các quan
hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất tách biệt nhau về mặt
kinh tế và buộc họ phải trao đổi sản phẩm với nhau. Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hoá
chỉ ra đời khi có đầy đủ hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hoá.
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá là: so với sản xuất tự cung, tự cấp sản xuất
hàng hoá có những đặc trưng và ưu thế cơ bản sau:
Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất khép kín nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản
xuất. Do vậy nhu cầu chỉ dừng lại ở mức độ hạn hẹp. Trái lại sản xuất hàng hóa thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của thị trường, nhu cầu thị trường là động lực kích thích sản xuất
Sản xuất tự cung tự cấp cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất hàng
hoá thì ngược lại nó thúc đẩy sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất tạo điều kiện
để phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng.( Xuất hiện nhiều ngành nghề mới như vệ sĩ, dịch vụ nhà ở…) lOMoAR cPSD| 61260386
Sản xuất tự cung, tự cấp không chỉ có cạnh tranh, chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên còn
sản xuất hàng hoá đặt trong môi trường cạnh tranh là động lực to lớn để thúc đẩy cải tiến kỹ
thuật, sử dụng các nguồn lực sản xuất, tiết kiệm và có hiệu quả.
Sản xuất tự cung tự cấp khả năng thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần thấp kém, còn đối
với sản xuất hàng hoá với quan hệ hàng hoá tiền tiện, quan hệ trao đổi người sản xuất tiêu dùng
làm cho giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó
như: phá hoại môi trường sinh thái; tiềm ẩn khủng hoảng, thất nghiệp; phân hóa giàu nghèo…
Ý nghĩa của việc nghiên cứu và bài học rút ra cho bản thân?
Ý nghĩa: Sản xuất hàng hóa khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương, có tác động trở lại, thúc đẩy
sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng,
mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở lên mở rộng, sâu sắc. Từ đó phá vỡ tính tự
cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động
xã hội tăng lên nhanh chóng. –
Ở nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và
nguồnlực của xã hội. Sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy
luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh, … buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động,
nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm và hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, …dẫn đến
hệ quả chất lượng nâng cao và giá thành mang tính cạnh tranh nhờ sự áp dụng khoa học kĩ thuật. –
Nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa
cáccá nhân, giữa các vùng miền của cả nước không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời
sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn rất nhiều.
Bài học: Áp dụng cơ sở các khái niệm về sản xuất hàng hóa và những nội dung cơ bản của điều
kiện ra đời sản xuất hàng hóa, chúng ta có thể phân tích phân công lao động xã hội và sự tách
biệt về kinh tế giữa các chủ thể tác động đến sự hình thành và phát triển các điều kiện của nền
kinh tế hàng hóa ở nước ta, cụ thể hơn là tác động của điều kiện ra đời sản xuất hàng hóa đến
cơ chế thị trường ở nước ta. Nhờ đó cũng để ta xác định được giá trị của hàng hóa dựa trên sự
đa dạng của hàng hóa trên thị trường từ đó giúp điều tiết thị trường cùng với đó tự đánh giá
được giá trị của bản thân của doanh nghiệp.
Câu 2: Nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền? Ý nghĩa của việc nghiên cứu và bài
học rút ra cho bản thân?
Đầu tiên, về nguồn gốc của tiền, khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình hình có nhiều
vật làm ngang giá chung sẽ gây trở ngại cho trao đổi giữa các địa phương trong một quốc gia.
Do đó, đòi hỏi khách quan cần có một loại hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất.
Từ nguồn gốc đó, về bản chất, tiền là một loại hàng hoá đặc biệt, là kết quả của quá
trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Tiền là hình thái biển hiện giá trị của hàng
hoá; phản ánh lao động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. lOMoAR cPSD| 61260386
Ngoài ra, tiền có năm chức năng. Cụ thể: chức năng thứ nhất, tiền là thước đo giá trị.
Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá khác. Giá trị hàng hoá được biểu hiện
bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá cả.
Chức năng thứ hai, tiền là phương tiện lưu thông. Khi đó, tiền được dùng làm môi giới
cho quá trình trao đổi hàng hoá và yêu cầu phải là tiền mặt. Trong thực hiện chức năng, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Chức năng này giúp quá trình trao đổi, mua bán trở nên
thuận lợi; nhưng cũng làm cho hành vi mua và bán tách rời về mặt không gian và thời gian,
gây tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
Chức năng tiếp theo, tiền là phương tiện cất trữ. Lúc này, tiền rút ra khỏi quá trình lưu
thông để đi vào cất trữ. Tiền phải có đủ giá trị như tiền vàng, tiền bạc. Tiền cất trữ có tác dụng
dự trữ tiền cho lưu thông, sẵn sàng tham gia lưu thông. Khi sản xuất hàng hoá phát triển, lượng
hàng hoá nhiều hơn, tiền cất trữ được đưa vào lưu thông và ngược lại.
Chức năng thứ tư, tiền là phương tiện thanh toán. Lúc này, tiền được dùng để trả nợ,
mua chịu hàng hoá, v.v. Chức năng này gắn liền với chế độ tín dụng thương mại. Khi thanh
toán, có nhiều hình thức tiền khác nhau được chấp nhận, hiện nay việc thanh toán không dùng
tiền mặt phát triển mạnh mẽ.
Chức năng cuối cùng là tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá mở rộng ra ngoài biên
giới quốc gia, tiền được dùng làm phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với
nhau. Yêu cầu tiền phải có đủ giá trị, là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận thanh toán quốc tế.
Từ những hiểu biết về tiền và các chức năng của tiền đã giúp em nhận ra, về cơ bản,
tiền là một loại hàng hoá dùng làm phương tiện để xã hội phát triển đi lên một cách có quy luật
hơn, thống nhất hơn. Nhờ đó, em hiểu được tiền không phải tất cả, mà là phương tiện của cuộc
sống. Nếu thiếu tiền ắt cuộc sống sẽ khó khăn, nhưng có rất nhiều tiền chưa chắc sẽ mang lại
nhiều ý nghĩa cho cuộc sống. Từ đó, em cũng hiểu được, khi em đặt mục tiêu đi làm vì tiền,
trải nghiệm của em ở chỗ làm sẽ không thể thoải mái, hài lòng như khi em quyết định đi làm
vì những giá trị em có thể tạo ra ở đó.
Câu 3: Phân tích những tác động của quy luật giá trị •
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản
chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa. •
Nội dung của quy luật giá trị là:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí
lao động xã hội cần thiết
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và
lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất lOMoAR cPSD| 61260386
và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang
sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy
mô sản xuất càng được mở rộng.
Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình
đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản
xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành
khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động
vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng
hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng
hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí
lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi
theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức
hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi
và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng
suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn.Nếu người
sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội
không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao
phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết
(theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở
rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ,
nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng
thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Ý nghĩa và bài học lOMoAR cPSD| 61260386
-Đầu tiên những tác động của quy luật giá trị giúp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên
thị trường. Điều tiết sản xuất tức là điều khiển, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành
kinh tế, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Thứ hai, nó góp phần kích thích lực lượng sản xuất phát triển: nhà sản xuất luôn luôn phải nâng
cao trình độ kỹ thuật, máy móc, nâng cao năng lực của người lao động tìm ra các biện pháp
hữu hiệu để làm cho việc sản xuất phát triển không ngừng khiến trình độ của lực lượng lao
động ngày càng nâng cao.
Cuối cùng tác động của quy luật giá trị đã thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng
năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển: liên tục đổi mới kỹ thuật vì
kỹ thuật tiên tiến thì giá trị cá biệt của hàng hoá sẽ thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá như
vậy người sản xuất mới có lãi nhất. Để giành được lợi thế cạnh tranh thì người sản xuất phải
dùng các biện pháp để tối đa hóa chi phí sản xuất, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để
tăng năng suất, tạo ra cho mình những lợi thế cạnh tranh.
- Một ví dụ cho điều này là Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã vận dụng quy luật giá trị
để phát triển kinh tế và đem lại nhiều thành tựu.
Việc vận dụng quy luật giá trị đã có nhiều tác động đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam. Nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây
dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội và thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động cũng như thu hút được
mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khá cao so với nhiều nước trong khu vực và nhiều kỳ
vọng về sự tăng trưởng cao hơn nữa trong tương lai.
Câu 4: Nền kinh tế thị trường có đặc trưng gì và ý nghĩa của việc nghiên cứu, rút ra
bài học cho sv hiện nay
*Khái niệm: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó
là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông
qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên, tự túc, kinh
tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường cũng
trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế
thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
*Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều
giai đoạn với nhiều mô hình khác nhau, các nền kinh tế thị trường có những đặc trưng chung bao gồm:
Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh
tế bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội thông
qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị
trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ...
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi trường,
vừa là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh; động lực trực tiếp của các chủ thể sản lOMoAR cPSD| 61260386
xuất kinh doanh là lợi nhuận và lợi ích kinh tế - xã hội khác; nhà nước là chủ thể thực hiện
chức năng quản lý, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường,
thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế;
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị trường quốc tế.
Các đặc trưng trên mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tùy theo
điều kiện lịch sử cụ thể, tùy theo chế độ chính trị xã hội của mỗi quốc gia, ngoài những đặc
trưng chung, mỗi nền kinh tế thị trường quốc gia có thể có đặc trưng riêng, tạo nên tính đặc thù
và các mô hình kinh tế thị trường khác nhau.
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu nền kinh tế thị trường và bài học rút ra cho sinh viên:
Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang
phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ
các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Trong
thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong
xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp
nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh
nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng
lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh
nghiệp nhỏ này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương.
⇒ Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương
thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện,
đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh
doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
Câu 5: Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị, tác động của quy luật giá trị
Để mở đầu, quy luật giá trị có nội dung như sau: quy luật giá trị yêu cầu, sản xuất và
trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo quy luật trên, xét
trong sản xuất hàng hoá, người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình. Tuy
nhiên, giá trị của hàng hóa được quyết định bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn
bán được hàng và có lãi, người sản xuất phải cân đối chi phí lao động cá biệt phù hợp với chi
phí lao động xã hội cần thiết. Còn trong trao đổi hàng hoá cũng dựa trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết, hay trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Ngoài ra, giá cả là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị, giá trị là cơ sở quyết định giá cả. Bởi vậy, quy luật giá trị vận động thông
qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả có thể cao hơn, thấp
hơn hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhưng xét trong toàn xã hội, tổng giá cả luôn phù hợp với
tổng giá trị của hàng hoá.
Từ hiểu biết của em về quy luật giá trị, em nhận thấy, muốn kinh doanh hiệu quả, cần
phải nâng cao năng suất lao động, áp dụng cải tiến kỹ thuật, thích nghi, thường xuyên cập nhật
những thay đổi của thị trường và xã hội để giảm thiểu hết mức có thể hao phí lao động cá biệt.
Ví dụ trong trồng trọt, thay vì sử dụng phương pháp ngày trước, cày bừa với trâu, sử dụng rất lOMoAR cPSD| 61260386
nhiều sức lao động của con người; bây giờ áp dụng cải tiến khoa học kỹ thuật, sử dụng máy
móc cày bừa, gia tăng năng suất lúa, mang lại lợi nhuận nhiều hơn.
Câu 6: Nội dung của quy luật cung cầu, ý nghĩa của việc ngh cứu và rút ra bài học cho bản thân.
Quy luật cung cầu là: quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua)
hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất.
Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau
và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại,
nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị.
Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung - cầu
có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá; làm thay đổi cơ cầu và quy
mô thị trường, ảnh hưởng tới giá của hàng hóa. Căn cứ quan hệ cung cầu, có thể dự đoán xu
thế biến động của giá cả. Ở đâu có thị trường thì ở đó quy luật cung cầu tồn tại và hoạt động
một cách khách quan. Nếu nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước có thể vận dụng
quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín
dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác động vào các hoạt động kinh
tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật cung cầu và bài học rút ra cho sinh viên: Quy luật
cung cầu quy định khi hàng hóa được bán trên một thị trường mà lượng cầu về hàng hóa lớn
hơn lượng cung sẽ có xu hướng làm tăng giá hàng hóa. Nhóm người tiêu dùng có khả năng chi
trả cao hơn sẽ đẩy giá của thị trường lên. Ngược lại, giá sẽ có xu hướng giảm nếu lượng cung
vượt quá lượng cầu. Cơ chế điều chỉnh về giá và lượng này giúp thị trường chuyển dịch dần
đến điểm cân bằng, tại đó sẽ không còn áp lực gây ra thay đổi về giá và lượng nữa. Tại điểm
cân bằng này, người sản xuất sẽ sản xuất ra gần bằng lượng mà người tiêu dùng muốn mua.
⇒ Vận dụng quy luật cung cầu giúp nhà quản trị đưa ra quyết định của việc có hay không tiếp
tục đầu tư hay tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó căn cứ vào tình trạng cân
bằng cung cầu trên thị trường. Khi lượng cung nhỏ hơn lượng cầu trên thị trường, có nhiều
khách hàng sẵn sàng trả giá để có được hàng hóa và cơ hội bán hàng vẫn còn thì nhà quản trị
có thể có xu hướng mở rộng hoặc duy trì sản xuất. Ngược lại, khi cung lớn hơn cầu, có nhiều
hàng hóa được sản xuất nhưng chưa có người mua, nhà quản trị có thể có xu hướng thu hẹp sản xuất.
Câu 7: Tác động của cạnh tranh đến nền kinh tế thị trường như thế nào? Tích và tiêu cực?
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu
thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu lợi ích tối đa. Cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trưởng có những tác động tích cực lẫn những tác động tiêu cực.
Về những tác động tích cực của cạnh tranh. Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát
triển lực lượng sản xuất. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất kinh doanh
không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, từ đó kéo
theo sự đổi mới về trình độ tay nghề, tri thức của người lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất
xã hội phát triển nhanh hơn. Ta có thể thấy rõ nhất các doanh nghiệp làm về may mặc, thủ
công nghiệp. Để cạnh tranh thì người lao động phải không ngừng nâng cao tay nghề để cho ra
những sản phẩm độc đáo, mới lạ, chất lượng cao. (VD) lOMoAR cPSD| 61260386
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế
thị trường, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động trong môi trường cạnh tranh và
mọi hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận tối đa, muốn vậy ngoài việc hợp tác, họ cũng cạnh
tranh với nhau để có được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để thu được
lợi nhuận cao nhất. Thông qua đó, nên kinh tế thị trường không ngừng được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực. Nền
kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc cạnh tranh đề
phân bổ vào chủ thể có thể sử dụng hiệu quả hơn cả. Theo đó, các chủ thể sản xuất kinh doanh
phải thực hiện cạnh tranh để có được cơ hội sử dụng các nguồn lực để phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Trong nền kinh
tế thị trường, mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, những người sản
xuất phải tìm mọi cách tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú, chất lượng
tốt, giá thành hạ, làm cho nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội được đáp ứng.
Ta thấy những hãng đồ ăn nhanh như KFC, McDonald, hay Popeyes, cùng là lĩnh vực về
đồ ăn nhanh, lấy gà rán làm thực đơn chính. Họ không chỉ cạnh tranh về giá cả, thị phần mà
còn cạnh tranh xem công thức của hãng nào chiếm ưu thế. Sự cạnh tranh đó dẫn tới những tác
động tích cực như đáp ứng nhu cầu thị trường, thỏa mãn các yêu cầu của con người, góp phần
không nhỏ vào nền kinh tế thị trường. (VD)
Về những tác động tiêu cực của cạnh tranh. Khi thực hiện cạnh tranh thiểu lành mạnh,
cạnh tranh có thể dẫn tới các tác động tiêu cực như:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh. Khi các chủ
thể thực hiện các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí là các thủ đoạn xấu đề tìm
kiếm lợi thế sẽ làm xói mòn đến môi trường kinh doanh, thậm chỉ xói mòn giá trị đạo đức xã hội.
Hai là, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội. Để giành ưu thế
trong cạnh tranh, có thể có chủ thể chiếm giữ các nguồn lực mà không phát huy vai trò của các
nguồn lực đó trong sản xuất kinh doanh, không đưa vào sản xuất đế tạo ra hàng hóa, dịch vụ
cho xã hội làm cho nguồn lực xã hội bị lãng phí.
Ba là, cạnh tranh không lành mạnh gây lảm tổn hại phúc lợi của xã hội. Khi các nguồn
lực bị lãng phí, cạnh tranh không lành mạnh đã khiến cho phúc lợi xã hội bị tổn thất. Thay vì
nếu sử dụng hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn hơn để thỏa mãn nhu cầu. Cho nên,
khi các chủ thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh thiểu lành mạnh, phúc lợi xã hội sẽ bị ảnh hưởng.
Cũng là những hãng đồ ăn nhanh như KFC, McDonald, hay Popeyes ta đề cập ở trên, sự
cạnh tranh của họ dẫn đến những tác động tiêu cực có thể kể đến như sự gia tăng của ô nhiễm
môi trường, dự dư thừa thực phẩm không thể tiêu hủy, gây các vấn đề về sức khỏe con người
và cả những lũng đoạn thị trường khó thấy nữa. (VD) lOMoAR cPSD| 61260386
Từ đó, ta rút ra ý nghĩa, bài học rằng người tiêu dùng thì cần sáng suốt trong việc lựa chọn
các sản phẩm tiêu dùng. Còn doanh nghiệp thì cần phải có sự hiểu biết về thị trường, không
ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm, cạnh tranh công bằng, minh bạch CHƯƠNG 3:
Câu 1: Hàng hoá sức lao động: khái niệm, đặc điểm, thuộc tính của hhslđ. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu và bài học rút ra cho bản thân.
Hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt mang những thuộc tính riêng và gắn liền
với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện chủ
yếu quyết định hình thành nền kinh tế tư bản. Nơi mà giá trị của sức lao động được trao đổi
trên cơ sở “thuận mua, vừa bán” thông qua hợp đồng. Đây là bước tiến lớn trong quyền tự do
cá nhân của người dân và đánh dấu cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Hai thuộc tính
của hàng hóa sức lao động
1. Giá trị hàng hóa sức lao động
Cũng giống như những loại hàng hóa khác, giá trị hàng hóa sức lao động được xác định dựa
trên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Sức lao động
là năng lực sản xuất của người lao động. Do đó để duy trì và tái sản xuất sức lao động, người
lao động cần phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định bao gồm: ăn uống, ngủ nghỉ,
ở, học nghề… Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động có thể được đo lường gián tiếp bằng giá trị
của các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc tái sản xuất sức lao động.
Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động bao gồm cả yếu tố tinh thần và yếu
tố lịch sử của từng quốc gia, từng phong tục tập quán trong từng thời kỳ, trình độ văn minh,
điều kiện địa lý, khí hậu, quá trình hình thành giai cấp công nhân. Điều này thể hiện ở chỗ
ngoài nhu cầu về vật chất, công nhân còn mong muốn được thỏa mãn về những nhu cầu về tinh
thần như vui chơi, giải trí, học tập, tiếp nhận thông tin, giao lưu văn hóa... được phân tích rất
rõ trong tháp nhu cầu của Maslow. Tuy nhiên, tại một quốc gia và thời kỳ lịch sử nhất định tư
liệu sinh hoạt cần thiết có thể được xác định dựa trên 3 thành tố: •
Thứ nhất: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức lao động của một người lao động. •
Thứ hai: Chi phí đầu tư vào học việc cho lao động •
Thứ ba: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đáp ứng đủ cho nhu cầu gia đình của người lao động
2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động
Cũng giống như những hàng hóa khác, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ được thể
hiện qua quá tình tiêu dùng nó. Tức là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất.
Ngoài ra, giá trị sử dụng sức lao động cũng có những đặc tính riêng: •
Đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động so với những loại
hàng hóa khác là khi tiêu thụ nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức
lao động, phần lớn đó là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hóa sức lao động có thuộc tính
là nguồn gốc sinh ra giá trị. Điều này là chìa khóa giải quyết những mâu thuẫn của xã
hội tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hóa. •
Con người là chủ thể của hàng hóa sức lao động, vì vậy các đặc điểm về tâm lý, kinh
tế, xã hội của người lao động quyết định việc cung ứng sức lao động ra ngoài thị trường. •
Ý nghĩa: Nghiên cứu thị trường hàng hoá sức lao động trong nước giúp ta có cái nhìn
rõ ràng về tình hình lao động hiện nay, góp phần vào những quyết định để phát triển theo hướng đúng đắn lOMoAR cPSD| 61260386 •
Bài học: Lý luận của C.Mác về hàng hóa sức lao động đã giúp em có cái nhìn rõ nét
hơn về hàng hoá sức lao động. Qua đó em đã nhận thức rõ hơn về khía cạnh thị trường
lao động Việt Nam. Có Thể nói, thị trường lao động Việt Nam là một thị trường lao
động đầy tiềm năng, nhưng bên cạnh đó chất lượng nguồn lao động chưa được cao,
chưa nhiều lao động có chuyên môn sâu, bắt kịp được xu thế của cuộc cách mạng 4.0.
Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh COVID-19 đã tạo nên nhiều thách thức cho thị trường
lao động nước ta. Do đó, cần có những biện pháp khắc phục,cải thiện tình hình phù hợp
với thời điểm hiện tại và trong tương lai. Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, bản thân em cần cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để góp phần nâng cao thị
trường lao động Việt Nam, đưa đất nước ngày một phát triển để sánh vai với thế giới. Câu 2:
2.Tiền công? Bản chất ( hàng hoá sức lao động) và hình thức của tiền công (theo thời
gian và theo sản phẩm; tiền công danh nghĩa, tiền công thực tế)
Từ trước đến nay "tiền lương" luôn là vấn đề cấp thiết đối với người lao động. Một số chế định
tiền lương thích hợp sẽ tạo ra động lực lớn kích thích người lao động hăng say sáng tạo và cống hiến cho xã hội. •
Tiền Công: Tiền công lao động hay tiền công là khái niệm của kinh tế chính trị
MarxLenin, biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động và là giá cả của hàng hóa sức lao động. •
Bản chất: Biểu hiện bề ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà
tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hoàn thành một số
công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân một số tiền nhất định đó là tiền công.
Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự
thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả lao động, vì lao động không phải là
hàng hóa. Sở dĩ như vậy là vì: - Nếu tạo động là hàng hỏa, thì nó phải có trước, phải
được vật hóa trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hóa được
là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán
hàng hóa do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động". . Do đó, tiền công mà nhà tư
bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy, bản chất của tiền công trong chủ
nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của
sức lao động nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động. •
Tiền công theo thời gian : Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số
lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng)
dài hay ngắn.Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuấn, tiền công
tháng.Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay
thấp, vì nó còn tùy theo ngày lao động dài hay ngắn. => Để đánh giá chính xác mức
tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao
động và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức
tiền công tính theo thời gian •
Tiền công theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số
lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản
xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.Mỗi sản phẩm được trả
công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng thương số giữa
tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình
mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, => Về thực chất, đơn giá tiền công là
tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính
theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.Chính vì vậy, lOMoAR cPSD| 61260386
hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý,
giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn;mặt khác, kích thích công nhân
lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn. •
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên tiền
công danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền công thực tế. Tiền công thực tế là
tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân
mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao
động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung -
cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công
danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc
giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.Tiền công là giá cả của
sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động.
Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau.
Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn
của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự
phát triển của xã hội.Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng
suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các nhân tố
đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự biến
đổi phức tạp của tiền công thực tế
Câu 3: Giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cần nắm. Ý nghĩa
và bài học rút ra. Khái niệm:
Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không, giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành lên thu nhập của các nhà tư bản và
các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác cũng có nghĩa là chúng ta nghiên cứu học
thuyết giữ vị trí “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của C. Mác, một trong những phát
hiện vĩ đại của C. Mác làm sáng tỏ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là
một quan hệ sản xuất mới xuất hiện: quan hệ giữa nhà tư bản và lao động làm thuê. Thực chất
của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê. Thực
chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê.
Có thể nói, qua giá trị thặng dư, bản chất của tư bản chủ nghĩa là bóc lột sức người lao động để
tạo ra nhiều thặng dư hơn cho mình. Việc họ bóc lột công nhân càng nhiều thì giá trị thặng dư được tạo ra càng cao.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến
bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện
trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất lOMoAR cPSD| 61260386
yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải
cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút
ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư
trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá
trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Ý nghĩa và bài học rút ra:
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề
lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc
lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác
dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta
còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong
việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp
doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn
cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật.
Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật
và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy
luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc
lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương
châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ
sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch
và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc
phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một
yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền
lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao
động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện
nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa
học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. lOMoAR cPSD| 61260386
Câu 4: Tích lũy tư bản, tập trung tư bản: Mối quan hệ giữa tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản
Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá
trình tích tụ và tập trung tư bản:
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng
dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản. Tích luỹ tư bản xét
về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là tích tụ tư bản.
Tích tụ tư bản là một tất yếu, một mặt, là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng và ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư
Trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản
cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là
những đòn bẩy mạnh mẽ nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Cạnh tranh buộc các tư bản, nhất là tư
bản có quy mô nhỏ phải liên kết hay sát nhập với nhau để đứng vững được trên thị trường. Tín
dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô của tư
bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau:
Một là, nguồn của tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của
tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là
những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư
bản cá biệt mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, tích tụ tư bản phản ánh trực
tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để
tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn
trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sát nhập, xét về mặt đó, tập trung tư bản
phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó cũng
tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy
mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh
hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư,
nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm
cho tích luỹ tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển
của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn,
sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gắn với quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng,
do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hoá cao độ, làm cho mâu
thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm. lOMoAR cPSD| 61260386
Câu 5: Cấu tạo hữu cơ của tư bản là gì?
Theo các phân tích của Các Mác, tư bản không phải là tiền, không phải là máy móc, công cụ,
nguyên liệu, hàng hóa. Bởi các tính chất phản ánh trên thị trường thể hiện rõ với các đảm bảo
nhất định cho nhà tư bản. Tư bản là quan hệ sản xuất của xã hội hay một giá trị để tạo ra giá trị
thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Trong đó nhà tư bản với những nắm giữ trong
khả năng chi phối thị trường cùng với các giá trị thặng dư.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản, do cấu tạo kỹ thuật quyết định và
phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Trong chừng mực cấu tạo giá trị đó do
cấu tạo kĩ thuật của tư bản quyết định và phản ánh trạng thái cấu tạo kĩ thuật của tư bản. Vì sao
khi tích luỹ tư bản làm cấu tạo tư bản ngày càng tăng: cthc= c/v ; tích luỹ là giá trị thặng
dư tăng -> c/v tăng ( mở thêm nhân công, thuê thêm ng làm -> tư bản khả biến tăng)
Tích luỹ tư bản làm cấu tạo tư bản ngày càng tăng bởi lẽ. Giai cấp các nhà tư bản ở mỗi nước
đều không ngừng giàu lên bằng cách bán đắt hơn họ đã mua, bằng cách chiếm hữu giá trị thặng
dư cũng chính là tích lũy .Sự tăng thêm giá trị của tiền là cái phải biến thành tư bản, không thể
diễn ra trong bản thân số tiền ấy, hay nảy sinh từ việc mua, vì ở đây số tiền đó chỉ thực hiện
giá cả của hàng hoá;. Nhưng cũng chính vì lý do đó mà việc tăng thêm giá trị không thể nảy
sinh từ việc bán hàng hoá. Do đó, sự thay đổi phải xảy ra với hàng hoá đã mua; nhưng không
phải với giá trị của hàng hoá đó, bởi vì hàng hoá đã được mua và bán đúng với giá trị của nó,
mà với giá trị sử dụng của nó, nghĩa là sự thay đổi giá trị phải nẩy sinh từ việc tiêu dùng hàng
hoá. "Nhưng muốn rút được giá trị từ việc tiêu dùng hàn hoá, thì người chủ tiền của chúng ta
phải có được điều may mắn là phát hiện được... trên thị trường một thứ hàng hoá mà bản thân
giá trị sử dụng của nó có cái đặc tính độc đáo là làm một nguồn sinh ra giá trị, - một thứ hàng
hoá mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hoá được lao động, và do đó, sẽ tạo ra được giá trị. Và
người chủ tiền đã tìm được thứ hàng hoá đặc biệt ấy trên thị trường đó là năng lực lao động
hay sức lao động"[65]. Như chúng ta đã thấy, nếu lao động với tư cách là lao động không thể có
giá trị, thì đối với sức lao động tình hình lại hoàn toàn không phải như thế. Sức lao động có
được giá trị một khi nó trở thành hàng hoá như điều đó đang thực sự diễn ra hiện nay, và giá
trị này được quyết định, "cũng như giá trị của bất kỳ một hàng hoá khác, bởi số thời gian lao
động cần thiết để sản xuất và do đó cũng để tái sản xuất ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy", nghĩa là
bởi thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người công nhân cần
đến để tự duy trì mình trong trạng thái có thể lao động được, và để tiếp tục nòi giống của mình.
Chúng ta hãy giả định rằng những tư liệu sinh hoạt đó, từ ngày này sang ngày khác, đại biểu
cho một thời gian lao động mỗi ngày là sáu giờ. Như vậy, nhà tư bản bắt tay vào kinh doanh
của chúng ta, người mua sức lao động cho công việc kinh doanh của mình, nghĩa là thuê một
công nhân, trả cho người công nhân đó toàn bộ cái giá trị hàng ngày của sức lao động của người
công nhân đó nếu như hắn trả cho người đó một số tiền cũng đại biểu cho sáu giờ lao động.
Một khi người công nhân đã lao động sáu giờ cho nhà tư bản kinh doanh đó, thì anh ta đã hoàn
lại cho nhà tư bản toàn bộ số chi phí của hắn, tức là giá trị của sức lao động trong một ngày mà
hắn đã trả. Nhưng như thế thì tiền đã không biến thành tư bản, đã không sản xuất ra giá trị
thặng dư. Chính vì thế mà người mua sức lao động cũng có một quan niệm hoàn toàn khác đối
với tính chất việc giao dịch mà anh ta đã tiến hành. Chỉ cần sáu giờ lao động là đủ để cho người
công nhân sống trong hai mươi bốn giờ, nhưng điều đó hoàn toàn không ngăn cản người công
nhân làm mười hai giờ trong hai mươi bốn giờ. Giá trị sức lao động và giá trị mà sức lao động
đó tạo ra trong quá trình lao động là hai đại lượng khác nhau. Người chủ tiền đã trả giá trị hàng
ngày của sức lao động, vì vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó, lao động trong cả ngày
đó, cũng thuộc về hắn ta. Cái tình hình là giá trị do việc sử dụng sức lao động đó trong một
ngày tạo ra lại gấp đôi giá trị hàng ngày của bản thân sức lao động ấy, - tình hình đó là một lOMoAR cPSD| 61260386
điều đặc biệt may mắn cho người mua, nhưng theo những quy luật trao đổi hàng hoá thì đó lại
hoàn toàn không phải là một sự bất công đối với người bán. Vậy, theo giả thiết của chúng ta,
hàng ngày người công nhân tốn kém cho người chủ tiền một giá trị sản phẩm của sáu giờ lao
động, nhưng mỗi ngày người công nhân lại cung cấp cho người chủ tiền một giá trị sản phẩm
của mười hai giờ lao động. Số chênh lệch có lợi cho người chủ tiền là sáu giờ lao động thặng
dư không trả công, một sản phẩm thặng dư không trả công trong đó sau giờ lao động đã nhập
vào. Giá trị thặng dư đã được sản xuất ra, tiền đã biến thành tư bản. CHƯƠNG 4
1. Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền đối với ngành kinh tế? *
Độc quyền: là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn , nắm trong tay phần lớn việc
sự và tiêu thụ một số loại hàng hoá , có khả năng định ra giá cả độc quyền , nhằm thu lợi nhuận
độc quyền cao . Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do , nhưng không thủ tiêu cạnh tranh mà
làm canh tranh trở nên đa dạng , gay gắt hơn . *
Nguyên nhân hình thành độc quyền đối với ngành kinh tế : Cuối TK XIX - đầu TK
XX , trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền . Sự
xuất hiện các tổ chức độc quyền đánh dấu chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn mới giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền Độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kĩ thuật ,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn lớn mà từng doanh nghiệp khi đáp ứng được = > đẩy
mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất = > Hình thành doanh nghiệp quy mô lớn. Thứ
hai, cuối TK XIX , những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện , tăng khả năng tích tụ và
tập trung sản xuất , thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn .
Thứ ba, trong điều kiện phát triển của KHKT cùng với các tác động của quy luật kinh tế thị
trường làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn . Thứ
tư, cạnh tranh gay gắt làm các doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản hàng loạt, còn các doanh
nghiệp lớn tồn tại được nhưng cũng suy yếu phải tăng cường tập trung sản xuất . Thứ năm,
cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ ,
các doanh nghiệp lớn tồn tại và hình thành doanh nghiệp có quy mô lớn. Thứ sáu, sự phát triển
của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy thúc đẩy tập trung sản xuất . *
Tác động của độc quyền đối với ngành kinh tế : Tác động của độc quyền , dù ở tỉnh
độ độc quyền tư nhân hay độc quyền nhà nước thể hiện ở cả mặt tích cực và tiêu cực . Tác động tích cực :
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động
khoa học kỹ thuật , thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của quá trình tích tụ , tập trung sản xuất ở mức độ cao . Do đó , các tổ
chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực , đặc biệt là nguồn lực về tài chính
trong việc nghiên cứu , triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật , thúc đẩy sự tiến bộ khkt .
Tuy nhiên , đây chỉ là khả năng , còn khả năng có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tế , nhất là phụ thuộc vào mục đích kinh tế của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường .
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động , nâng cao năng lực cạnh tranh của bản
thân tổ chức độc quyền .
Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn , độc quyền tạo ra được
ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật , công nghệ sản xuất mới , hiện lOMoAR cPSD| 61260386
đại , áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến . làm tăng năng suất lao động , giảm chi
phí sản xuất , do đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh . Thứ
ba, độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng
sản xuất lớn hiện đại Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình ,
nhất là sức mạnh về tài chính , tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế
trọng tâm , mũi nhọn , do đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập
trung , quy mô lớn , hiện đại .
Tác động tiêu cực :
Thứ nhất, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội .
Với sự thống trị của độc quyền và vị mục đích lợi nhuận độc quyền cao , mặc dù như đã phân
tích ở trên , độc quyền tạo ra sản xuất lớn , có thể giảm chi phí sản xuất và do đó giảm giá cả
hàng hoá , nhưng độc quyền không giảm giá , mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hoá cao và giá
mua thấp , thực hiện sự trao đổi không ngang giá , hạn chế khối lượng hàng hoá , tạo ra sự cung
cầu giả tạo về hàng hoá , gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội .
Thứ hai, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật , theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế , xã hội .
Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn , tạo ra khả năng nghiên cứu , phát minh các sáng
chế khoa học . kỹ thuật . Nhưng vì lợi ích độc quyền , hoạt động nghiên cứu , phát minh , sáng
chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của chúng không có nguy cơ bị lung lay . Do vậy
, mặc dù có khả năng về nguồn lực tài chính tạo ra khả năng trong nghiên cứu , phát minh các
sáng chế khoa học . kỹ thuật , nhưng các tổ chức độc quyền không tích cực thực hiện các công
việc đó . Điều này chứng tỏ , độc quyền đã ít nhiều kìm hãm thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật , theo
đó kìm hãm sự phát triển kinh tế , xã hội .
Thứ ba, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi độc quyền tư
nhân chi phối các quan hệ kinh tế , xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm tăng sự phân hoá giàu nghèo.
Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao , độc quyền có khả
năng và không ngừng bành trướng sang các lĩnh vực chính trị , xã hội , kết hợp với các nhân
viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm , kết hợp với sức mạnh nhà nước hình thành
độc quyền nhà nước , chi phối cả quan hệ , đường lối đối nội , đối ngoại của quốc gia , vì lợi
ích của các tổ chức độc quyền , không vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động . CHƯƠNG 5
1. Nền kinh tế thị trường XHCN ở VN có đặc trưng gì? Ý nghĩa
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực
hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó
trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất
và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với
xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối;
phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân. lOMoAR cPSD| 61260386
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh
trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách
quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn
tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực
kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội
bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc
cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi
người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh
doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và người tiêu
dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước. -
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với
nhiềuhình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác
lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong. -
Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta,thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các
hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng
góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ
bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội. - Về
vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích
quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận
dụng các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác
phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo. -
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng
sảnxuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất
kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển lOMoAR cPSD| 61260386
sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội,
ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng. -
Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nướcta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị
trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một
cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công
bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. -
Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát
huytối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm
“Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một
cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính
phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau.
Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm
đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG 6
Câu hỏi: Tác động của hội nhập kinh quốc tế đến sự phát triển của VN? Ý nghĩa, bài học rút ra
Hội nhập KTQT của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế
của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Quá trình hội nhập tạo ra sự tác động theo 2 chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Những tác
động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cụ thể là:
Thứ nhất, tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ, vốn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để
thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh
tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhanh, bền vững và chuyển đối mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao. Ví dụ có
thể kể đến là Công ty nông sản Vườn xanh đã nâng cao chất lượng công nghệ, thay đổi quy
trình sản xuất mang tính chặt chẽ hơn để sản xuất và xuất khẩu dưa lưới đạt tiêu chuẩn sang
Nhật Bản. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Đồng
thời, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế; tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước; tạo điều kiện để các nhà hoạch
định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và
điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
Thứ hai là tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế quốc
tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ
đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả
năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 61260386
Thứ ba là tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng
cố an ninh quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều
kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn
hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Hội
nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải cách
toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội
mở, dân chủ, văn minh. Song, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích
hợp trong trật tự quốc tế; giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế
Hội nhập KTQT không chỉ đem lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều rủi
ro, bất lợi và thách thức, đó là:
Một, hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp
và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả
bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Hai, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia
vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường
về chính trị, kinh tế và thị trường quốc. Sự phụ thuộc nền KTQG vào nước ngoài trong những
năm gần đây ở VN thể hiện qua việc nhiều ngành chế biến bị phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu
nhập ngoại, khiến ngành chế biến rơi vào thế bị động, dễ khủng hoảng.
Ba, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bảng lợi ích và rủi ro
cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Bốn, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải
đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi.
Năm, hội nhập kinh tế quốc tế có. thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước,
chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định
trật tự, an toàn xã hội.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt
Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy, hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu,
tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp...
Để hạn chế tác động tiêu cực và phát huy tác động tích cực của hội nhập KTQT trong CM
công nghiệp 4.0, thời gian tới VN cần phải Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội
nhập KTQT mang lại; Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp; Tích cực, chủ
động tham gia vào các liên kết KTQT và thực hiện đầy đủ các cam kết của VN trong các liên
kết KTQT và khu vực; Hoàn thiện thể chế KT và luật.
Qua đây, ta cũng rút ra ý nghĩa, bài học, đó là có tính tây hóa là tốt nhưng hoà nhập chứ
không được hòa tan, mà cần giữ lại bản sắc trong mọi lĩnh vực như tư tưởng, giáo dục,... Phải
hiểu rằng hội nhập nhưng chúng ta không phải bản sao của xã hội phương tây; người VN cũng
là công dân toàn cầu nhưng khi hội nhập, ta vẫn phải giữ gìn được bản sắc, cái chất riêng của
Việt Nam, để nổi bật trên trường quốc tế.
Câu 1: Trình bày khái niệm cách mạng công nghiệp và đặc trưng của cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Phân tích nội dung công nghiệp hóa tại Việt Nam, thích ứng với cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại
* Thành tựu các cuộc CM công nghiệp trong lịch sử nhân loại: lOMoAR cPSD| 61260386
Cách mạng công nghiệp là sự phát triển về chất của tư liệu lao động, trên cơ sở ứng dụng
những phát minh đột phá về khoa học, kỹ thuật công nghệ một cách có hệ thống; từ đó, tạo
ra sự phát triển về chất của phân công lao động xã hội, dẫn đến năng suất lao động vượt trội,
và những ứng dụng mới làm thay đổi căn bản phương thức lao động, quản trị và sinh hoạt của con người. CMCN CMCN 1.0 CMCN 2.0 CMCN 3.0 CMCN 4.0 Nơi Nước Anh Nước Mỹ Nước Mỹ Dự báo bùng nổ ở khởi nhiều trung tâm nguồn kinh tế Thời Giữa đến cuối thế Cuối thế kỷ 19
Cuối thế kỷ 20 Dự báo khoảng gian bắt kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20 giữa thế kỷ 21 đầu Thành
Cơ khí hóa sản xuất, Điện khí hóa sản Kết nối không Siêu CSDL ( tựu
năng lượng đốt than, xuất; động cơ đốt dây; điều khiển big data), động cơ hơi nước trong; phương tự động, Siêu kết nối ( pháp tổ chức sản internet, công IoT), Trí tuệ
xuất dây chuyền... nghệ sinh học nhân tạo AI ADN...
Kết quả Khởi đầu Công
Hạ tầng phát triển, Bùng nổ thông Siêu hạ tầng kỹ nghiệp hóa, hình hình thành chủ tin, toàn cầu thuật, kinh tế tri thành chủ nghĩa tư nghĩa tư bản độc hóa thức thay cho bản, nhưng vẫn dựa quyền, thúc đẩy kinh tế công trên các phương thương mại quốc nghiệp pháp quản trị thủ tế công
* Hai đặc trưng của CM khoa học công nghệ hiện đại
+ Khoa học trở thành LLSX trực tiếp: Ngày nay Khoa học trở thành Lực lượng sản xuất
trực tiếp, bởi vì: Sử dụng tri thức khoa học có vai trò chủ yếu và trực tiếp để tạo nên sản
phẩm; Các ngành sản xuất dựa trên thành tựu của Cách mạng Công nghiệp hiện đại ngày
càng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân
+ Thời gian nâng cấp các phát minh ngày càng rút ngắn: Ngày nay, việc nâng cấp các
phát minh ngày càng được rút ngắn do LLSX ngày càng phát triển, các DN ra sức cạnh
tranh, chạy đua về công nghệ. Do đó, để nâng cấp một phát minh chỉ cần trong vài tháng,
chứ không còn phải mất nhiều thời gian, mất nhiều năm để có 1 phát minh ra đời.
* Khái niệm do Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra về Công nghiệp hóa
+ Về tính chất: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
+ Về phạm vi: trong các hoạt động bao gồm Đầu tư, Sản xuất kinh doanh, Dịch vụ và Quản lý kinh tế - xã hội