Tài liệu ôn thi Đại học môn Văn | Ngữ văn 12

Luyện thi Đại học môn Văn: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu là tài liệu VnDoc xin được gửi đến các bạn tham khảo. Hi vọng rằng tài liệu này sẽ giúp ích được nhiều cho các bạn, nhất là các bạn đang ôn thi đại học khối C trả lời được câu hỏi so sánh quen thuộc khi các bạn nghiên cứu các bài thơ về hình ảnh người lính.

Chủ đề:
Môn:

Ngữ Văn 12 822 tài liệu

Thông tin:
11 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tài liệu ôn thi Đại học môn Văn | Ngữ văn 12

Luyện thi Đại học môn Văn: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu là tài liệu VnDoc xin được gửi đến các bạn tham khảo. Hi vọng rằng tài liệu này sẽ giúp ích được nhiều cho các bạn, nhất là các bạn đang ôn thi đại học khối C trả lời được câu hỏi so sánh quen thuộc khi các bạn nghiên cứu các bài thơ về hình ảnh người lính.

18 9 lượt tải Tải xuống
So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu
Luyện thi Đại học môn Văn: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu là tài liệu VnDoc xin được gửi đến các bạn
tham khảo. Hi vọng rằng tài liệu này sẽ giúp ích được nhiều cho các bạn, nhất là các
bạn đang ôn thi đại học khối C trả lời được câu hỏi so sánh quen thuộc khi các bạn
nghiên cứu các bài thơ về hình ảnh người lính.
1. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến Đồng Chí mẫu
1
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của đã khắc
tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.
Có một bài ca không bao giờ quên…”
một bài ca như thế. Cũng những năm tháng không bao giờ quên, không phai
mờ trong ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay mai sau. Đó chính những
ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa
giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm
1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời
cũ? Đấy câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông
dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến, tạo
nên hào khí dân tộc của một thời đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học chưa dám nói đã ghi lại trọn
vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh
bao người hình ảnh trung tâm người chiến cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của
Quang Dũng cũng như bài thơ " Đồng chí" của Chính Hữu ra đời trong hoàn cảnh
chung đó.
So sánh
*) Điểm giống:
Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.
Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ (nhà thơ
quân đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống
Pháp.
*) Điểm khác:
Người lính trong Tây Tiến.
a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến Tây Tiến (trong đó tác giả) số đông ra đi từ
Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ
Hà Nội”.
b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi
miền Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó
còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong
sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…
c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh
nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.
- Hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai
hùm” lại còn “mắt trừng nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng
ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn
tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn
thiêng của rừng thẳm.
- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng
tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. Cái chết rình rập “rải
rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng
đất biên giới Việt Lào.
- Hào hùng ngay trong cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..
Người chiến về với đất trong hoàn cảnh thể nói rất buồn. Theo tác giả cho
biết thì đồng đội ông ngã xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự
ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông thay lời núi sông cất lên lời ai điếu
hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.
- Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” về dáng kiều
thơm. Người chiến đẹp trong giấc đep, dáng kiều diễm, thanh lịch, quyến
của người phụ nữ thủ đô. Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên
một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội
đi tới.
Người lính trong Đồng chí:
a) Xuất thân: Đó những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những
làng quê nghèo:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương
muối. Cảnh đây không nét hiểm trở, hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến
hiện diện (với dốc, thác, nước lũ, cọp trêu người…)
2. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến Đồng Chí mẫu
2
Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được khắc họa đậm nét trong
nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp,
hình tượng người lính trong mỗi bài thơ sức hấp dẫn, cổ vũ và với vẻ đẹp riêng,
nét riêng nổi bật thể hiện trong cảm hứng. "Đồng chí" của Chính Hữu, chủ yếu
cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người; "Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm
hứng lãng mạn nhằm khắc họa nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính.
"Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo tưởng thẩm mỹ cổ điển, truyền thống;
còn "Đồng chí" đậm nét hiện thực, bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông
dân chân chất hiền lành, không ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh
anh hùng. Họ tìm thấy sức mạnh đồng chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng,
cao cả và mới mẻ trong những người nông dân được giác ngộ trở thành người lính.
Trong thơ Quang Dũng thơ Chính Hữu nói riêng, sự "đổi ngôi" của cái "Tôi"
trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca một khái niệm "kép", bao gồm 2 bình diện: một
cái "Tôi" với cách chủ thể nhận thức, hoạt động duy, hai cái "Tôi" đối
tượng cảm thụ với vai trò khách thể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ
bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét
mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời
đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú.
Chân dùng tinh thần người lính trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm
nổi bật trong bối cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong
không gian cụ thể của vùng núi Tây Bắc:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu,
heo hút, dữ dằn cùng hiểm trở trên chặng đường hành quân của người lính
Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng
hình khối, đường nét, màu sắc "Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ
láy "heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những nét chạm khắc đặc sắc tạo nên
những ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những thanh trắc tả chiều cao khi leo lên
những thanh bằng gợi khoảng không gian khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi".
Trong gian nan thử thách không đè bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính
Tây tiến, nét đẹp của họ một phần cũng chính là chỗ đó. Vẫn sống mãi với thời gian
ấn tượng mãnh liệt không phai bạc, mờ nhòa theo năm tháng:
Tây tiến những đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Quang Dũng khéo chọn cách nói, tóc rụng, da xanh của anh lính ốm (ốm
nhưng không yếu) nhưng không mất đi dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái
"dữ oai hùm" giữa chốn sơn cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng
của những anh hùng hào hoa, thượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần
nói về sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến" nhưng
không một lần như nhiều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc "chết". Quang Dũng
bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn về", "bỏ quên đời", "về đất" giản
dị hơn, nhằm tự nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý tưởng
của học sinh, sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí.
Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa phong độ hào hùng của chiến - thi sĩ
trên cả hai bình diện tác giả tác phẩm, Quang Dũng đã tạc bằng ngôn ngữ thi ca
vào lịch sử, hình tượng người lính Vệ quốc anh hùng.
Mang nét riêng, người lính Vệ quốc trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong
nghĩ suy "sâu sắc đến giật mình" (Xuân Diệu). Chất liệu hiện thực cuộc sống
được đưa vào thơ vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục sinh một dân tộc, khai sinh một thời đại, tân
tạo những bảng thang giá trị tinh thần, mà còn trả lại cho mỗi người cuộc sống mới;
kiến tạo những quan hệ mới, tình cảm mới chưa hề trong lịch sử, trong văn hóa
ứng xử của cộng đồng. Đó tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm
mới này tạo nên những vẻ đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc.
Không kỳ dị "đoàn binh không mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như
trong thơ Quang Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu cùng bình dị,
hiền lành, chất phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu
cuộc sống đồng quê, trên nền "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của
những người cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều
miền đất nước chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm
nên đồng tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài
thơ là sự gặp gỡ của hai người đồng cảnh:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của những con người những vùng miền khác
nhau không vậy hèn kém (nghèo nhưng không hèn), nghĩa không bị cái
cảnh nghèo buộc, câu thúc, người nông dân vượt lên số phận, vượt lên cảnh
ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến.
Quân đội ta từ nhân dân ra, người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai từ nông dân,
trong hành trang người lính mang theo có cái nghèo đeo đẳng "Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỷ". Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong vùng địch hậu, cái rét được đề
cập phản ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt
của khí hậu, còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội,
nghĩa tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu
thốn của người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác:
Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn.
Thơ kháng chiến nói chung, thơ Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn
thuần cái "Tôi" nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô diễn, cái "Tôi" giãi bày, mà là cái
"Tôi" thế hệ, cái "Tôi" công dân, cái "Tôi" sử thi. đây "Anh-Tôi" chuyển hóa trong
biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa số đông đảo:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Nhưng không vậy người lính mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu
người trong tình đồng chí - đồng đội:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Hai người lính Vệ quốc trong tình đồng chí, trong nhiều câu thơ có hai vế nhưng một
hoàn cảnh. Do vậy, khi chỉ một hoàn cảnh nhưng người đọc liên tưởng cho cả
hai. Có lúc câu thơ nói gia cảnh một người mà như cả hai:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Điều này cho thấy thêm một bình diện trong chân dung tinh thần người lính vệ quốc,
đó sự hy sinh âm thầm không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc
kháng chiến của dân tộc. Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người
"đồng chí" trong thơ.
Đóng góp của Quang Dũng Chính Hữu cho nền thơ kháng chiến trên nhiều lĩnh
vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn
sống phong phú của đời lính, các anh đã phản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác
nhau về chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng trong "ba ngàn ngày không
nghỉ", góp phần quan trọng làm nên những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc.
3. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến Đồng Chí mẫu
3
Quang Dũng Chính Hữu đều những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc
Việt Nam, những giá trị của các tác phẩm này mang một ý nghĩa to lớn trong nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ sâu sắc mang một tầng ý nghĩa to lớn, giá trị của
không chỉ để lại cho người đọc nhiều cảm xúc còn làm sống lên những tinh thần
thiết yếu trong mỗi tác phẩm của người.
Đều những người nghệ tài hoa, nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn
ngữ các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu
đã làm nên những giá trị to lớn trong những tác phẩm của mình, bài thơ có nhiều nét
tương đồng khi chủ đề của đều hướng tới cách mạng hướng tới một nền đại
chúng. Toàn bộ giá trị của tác phẩm đều muốn hướng tới những điều có giá trị to lớn
mang một tầm ý nghĩa qua trọng cho toàn bộ tác phẩm, các giá trị của làm
nên những điều có ý nghĩa lớn lao và hạnh phúc nhất đối với mỗi con người.
Biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng trong phong cách nghệ thuật của ông
đã làm nên những giá trị to lớn trong phong cách của người, những giá trị của
làm nên những giá trị to lớn về sự sống động trong những giây phút đang được
sống lại trong những giây phút hào hùng, người chiến sĩ xuất hiện trong bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng hiện lên với những người anh hùng, kiên trì bền bỉ để vượt
qua mọi gian nan nguy hiểm để có thể làm nên những điều có ý nghĩa và mang ý
nghĩa mạnh mẽ nhất.
Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ, những điển hình về hình
tượng nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm được sử dụng một cách mạnh mẽ và
có ý nghĩa nhất:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Với những ngôn ngữ tinh nghịch sắc xảo và ngập tràn giá trị màu sắc, mức độ nguy
hiểm trong bài thơ đã được diễn tả với một mức độ cao nhất, và nó mang một mức
độ trừu tượng hóa trong ngôn ngữ biệt tài sử dụng ngôn ngữ trong những tác
phẩm của người, giá trị đó đã tạo nên những màu sắc lung linh sống động trong
những giây phút hào hùng và có ý nghĩa nhất.
đặc biệt đối với Chính Hữu bài thơ lạ mang một phong cách hoàn toàn khác lạ
khi nghệ thuật chân thực hiện thực hội hiện lên với những nét đặc sắc trong
cuộc đời của tác giả, những tác phẩm đó không chỉ để lại những giá trị mạnh mẽ và
đặc trưng nhất, những lời thơ mang chất chân chất và nó phản ánh được cuộc sống
của những người chiến cách mạng khi phải xa quê hương người thân để đến
những vùng đất mới, những người chiến sĩ của chúng ta đến từ khắp mọi nơi, và nó
làm nên một gia đình lớn , mạnh mẽ đang sống động trong từng khoảnh khắc,
mỗi tác phẩm đều đem lại những lời thơ mang màu sắc tươi tắn tạo nên nhịp
sống của những người chiến sĩ cách mạng.
Qua bao nhiêu năm tháng chiến đấu kiên cường những người chiến của ta đã
đứng lên làm nên những giá trị sống mạnh mẽ ý nghĩa nhất cho mỗi con người,
bao nhiêu niềm yêu thương được hồ khởi và sống trong những trang thơ ca của tác
giả, với niềm tin sự yêu thương khi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, những
người chiến tự phương trời xa xôi đã tụ họp về đây để cùng nhau làm nên những
chiến công lịch sử.
Những người chiến đã đoàn kết cùng với nhau làm nên những phút giây lịch
sưt hào hùng, đây cuộc sống tươi vui mang màu sắc nó tạo dựng những ý
nghĩa mạnh mẽ và những cuộc đời hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:
Súng bên súng đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Những ngôn ngữ mang màu sắc nhưng lại cùng chân thực đã làm nên những
cuộc đời có ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người, khi ngôn ngữ tạo
dựng đang tạo nên những điều ý nghĩa mạnh mẽ và đang lan tỏa trong cuộc đời
của mỗi người. Hoàn cảnh của những người chiến sĩ của bài thơ Đồng Chí đều xuất
phát từ những người nông dân đang ngày đem phải đương đầu và cố gắng làm nên
những thành quả to lớn đối với dân tộc, khi hoàn cảnh của họ khó khăn chỉ
những gian nhà lung lay, những ruộng lương thì để lại cho bạn thân cày. Hoàn cảnh
của họ đã làm nên những giây phút thiêng liêng đây chính động lực để họ
thể cố gắng làm nên những giây phút lịch sử hào hùng và có ý nghĩa nhất đối với
dân tộc Việt Nam.
Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử
dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm
này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ
trong hai tác phẩm này thể thấy sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ
của hào hùng bi tráng mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ
Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn
bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có
thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật.
Với những nét điển hình đặc sắc, tạo nên những phong phú trong nghệ thuật
của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác
phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình
ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.
Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ tính chất biệt lập trong cách tạo hình
nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, biệt lập đối với cuộc
sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.
Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để giá trị ý nghĩa mang ý
nghũa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng Chính Hữu tạo nên
những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với
toàn bộ tác phẩm.
Những hình ảnh điển hình và sâu sắc đã tạo nên những đặc sắc trong mỗi tác phẩm
và giá trị của nó để lại cho nhân loại những cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.
4. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến Đồng Chí mẫu
4
Viết về đề tài người lính trong kháng chiến Pháp không biết đã có bao nhiêu bài thơ,
tác phẩm truyện viết về đề tài này. Trong số những tác giả viết về đề tài này, ta
thể kể đến hai cái tên Quang Dũng Chính Hữu. Hai tác phẩm Tây Tiến Đồng
Chí cho đến nay vẫn được bạn đọc rất yêu thích được giới phê bình đánh giá
cao. Cùng viết về đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Pháp nhưng
người lính trong hai bài thơ không chỉ những điểm giống nhau mà có nhiều điểm
khác nhau.
Điểm khác nhau thứ nhất khác về xuất thân. Những người lính trong hai bài thơ
có hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên dẫn đến tính cách khác nhau.
Những người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng phần lớn xuất thân từ những
người thanh niên tri thức Nội. Họ lên đường theo tiếng gọi của lòng yêu nước,
hi sinh hạnh phúc nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính thế họ
một tâm hồn lãng mạn:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt gian nan nhưng sự lãng mạn trong những người
lính trẻ không hề mất đi. Họ nhớ tới những người con gái họ yêu để thi vị hóa,
cân bằng hóa thực tại. Họ đắm mình vào những cảnh sắc thiên nhiên, nhìn cảnh
rừng núi Tây Bắc hùng trữ tình, ngòi súng chếch cao tưởng như súng đang ngửi
trời. Không những thế những người lính ấy còn có một tâm hồn vui tươi, trẻ trung.
Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không xuất thân là những
người trí thức mà họ xuất thân từ những người nông dân ở những nơi làng quê mộc
mạc chất phác:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Họ những người nông dân từ những nơi quê nghèo, đất cày sỏi đá, nước mặn
đồng chua. Họ vừa chất phát, vừa hồn hậu. Nếu ngày trước họ chỉ biết đi cày, làm
lụng ruộng nương nhưng đất nước, căm thù giặc họ cũng "mặc kệ" ngôi nhà
không cho gió lung lay để ra trận. Bỏ giếng nước gốc đa, bỏ tấm áo vải nâu trầm,
người lính nông dân khoác lên mình màu áo xanh bộ đội, tay bỏ cày cầm súng giết
giặc trả thù cho quê hương.
Sự khác nhau thứ hai của những người lính trong hai bài thơ vẻ đẹp về ngoại
hình.
Người lính Tây Tiến được nhà thơ Quang Dũng vẽ lên nét đẹp ngoại hình tuy ốm
nhưng không yếu:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Do điều kiện chiến tranh thiếu thốn, do hoàn cảnh chiến đấu nơi rừng thiêng nước
độc người lính Tây Tiến hiện liên với ngoại hình đầu không mọc tóc, quân xanh là lá
cây ngụy trang hay cũng thể màu quần áo bộ đội hoặc cũng thể hiểu mặt
xanh thiếu chất. Thế nhưng người lính không hề yếu trái lại lại "dữ oai hùm". Họ
hiện lên với vẻ đẹp của ý chí "mắt trừng" thể hiện sự căm thù giặc hay cũng có thể
ngay cả trong khi ngủ người lính Tây Tiến cũng gửi mộng chiến thắng vùng biên
giới.
Khác với người lính Tây Tiến, người lính nông dân của Chính Hữu có vẻ đẹp ngoại
hình với những nét mộc mạc hồn hậu. Đó là những miếng áo rách, quần vá:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"
Nét ngoại hình của người lính nông dân không được nhà thơ nhấn mạnh vào những
đặc điểm trên gương mặt thể nhấn mạnh vào những thiếu thốn của trang
phục quần áo. Người lính nông dân phải mặc áo rách vai, quần chỗ này một
miếng chỗ kia vài miếng. Trong làn sương sớm, những người lính đứng sát bên
nhau, chân không giày miệng cười với nhau trong buốt giá đêm khuya. Họ hiện
lên không những giản dị mà chứa chan tình yêu thương. Ngoài dẫu dẫu có rét, quần
áo dẫu có nát thì càng là cái cớ cho tình đồng chí trở nên keo sơn ấm áp hơn.
Cả hai bài thơ đều thể hiện được tình đồng chí đồng đội, nhưng ở mỗi bài cách mà
các người lính thể hiện tình đồng chí đó lại khác nhau.
Người linh Tây Tiến những người trí thức, họ không thể hiện tình cảm của mình
một cách trực tiếp thể hiện rất kín đáo. Nhà thơ không câu thơ nào nói về
cách quan tâm chăm sóc nhau giữa những người đồng đội của mình nhưng cách
nhà thơ diễn tả lại những kỉ niệm nhà thơ từng có với đồng đội của mình có thể
thấy tình cảm keo sơn gắn kết ấy. Nó keo sơn đến mức người lính Tây Tiến nguyện:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Còn người lính nông dân được nhà thơ Chính Hữu miêu tả tình đồng chí một cách
trực tiếp. Đối với họ tình đồng chí là những người không hẹn quen nhau, đều đến từ
những nơi xa lạ nhưng:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!"
Hay
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Từ đây ta thể thấy được những vẻ đẹp khác nhau của người lính thời kháng
chiến chống Pháp qua hai bài thơ Tây Tiến Đồng Chí. Bằng tài năng nghệ thuật
của mình, Quang Dũng Chính Hữu đã xây dựng những vẻ đẹp riêng cho những
người lính của mình. Tuy nhiên, chính những nét điểm riêng ấy lại làm nên một nét
đẹp chung cho người lính thời kháng chiến chống Pháp nói riêng người lính
Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ ra đi đều với
mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.
| 1/11

Preview text:

So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu

Luyện thi Đại học môn Văn: So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu là tài liệu VnDoc xin được gửi đến các bạn
tham khảo. Hi vọng rằng tài liệu này sẽ giúp ích được nhiều cho các bạn, nhất là các
bạn đang ôn thi đại học khối C trả lời được câu hỏi so sánh quen thuộc khi các bạn
nghiên cứu các bài thơ về hình ảnh người lính.
1. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 1
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc
tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về
người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.
Có một bài ca không bao giờ quên…”
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai
mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những
ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa
giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm
1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời
cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông
dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến, tạo
nên hào khí dân tộc của một thời đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn
vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh
bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của
Quang Dũng cũng như bài thơ " Đồng chí" của Chính Hữu ra đời trong hoàn cảnh chung đó. So sánh *) Điểm giống:
● Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.
● Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ (nhà thơ
quân đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp. *) Điểm khác:
Người lính trong Tây Tiến.
a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ
Hà Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà Nội”.
b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi
miền Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó
là còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong
sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…
c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh
nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.
- Hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai
hùm” lại còn “mắt trừng “ nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng
ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn
tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn thiêng của rừng thẳm.
- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng
tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. Cái chết rình rập và “rải
rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng
đất biên giới Việt Lào.
- Hào hùng ngay trong cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..

Người chiến sĩ về với đất trong hoàn cảnh có thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho
biết thì đồng đội ông ngã xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự
ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu
hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.
- Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” và mơ về dáng kiều
thơm. Người chiến sĩ đẹp trong giấc mơ đep, mơ dáng kiều diễm, thanh lịch, quyến
rũ của người phụ nữ thủ đô. Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên
một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội đi tới.
Người lính trong Đồng chí:
a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương
muối. Cảnh ở đây không rõ nét hiểm trở, hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến
hiện diện (với dốc, thác, nước lũ, cọp trêu người…)
2. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 2
Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được khắc họa đậm nét trong
nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp,
hình tượng người lính trong mỗi bài thơ có sức hấp dẫn, cổ vũ và với vẻ đẹp riêng,
nét riêng nổi bật thể hiện trong cảm hứng. "Đồng chí" của Chính Hữu, chủ yếu là
cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người; "Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm
hứng lãng mạn nhằm khắc họa nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính.
"Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mỹ cổ điển, truyền thống;
còn "Đồng chí" tô đậm nét hiện thực, bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông
dân chân chất hiền lành, không có ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh là
anh hùng. Họ tìm thấy sức mạnh ở đồng chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng,
cao cả và mới mẻ trong những người nông dân được giác ngộ trở thành người lính.
Trong thơ Quang Dũng và thơ Chính Hữu nói riêng, có sự "đổi ngôi" của cái "Tôi"
trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca là một khái niệm "kép", bao gồm 2 bình diện: một là
cái "Tôi" với tư cách là chủ thể nhận thức, hoạt động tư duy, và hai là cái "Tôi" đối
tượng cảm thụ với vai trò khách thể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ
bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét
mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời
đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú.
Chân dùng tinh thần người lính trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm
nổi bật trong bối cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong
không gian cụ thể của vùng núi Tây Bắc:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu,
heo hút, dữ dằn và vô cùng hiểm trở trên chặng đường hành quân của người lính
Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng
hình khối, đường nét, màu sắc "Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ
láy "heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những nét chạm khắc đặc sắc tạo nên
những ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những thanh trắc tả chiều cao khi leo lên
và những thanh bằng gợi khoảng không gian khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Trong gian nan thử thách không đè bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính
Tây tiến, nét đẹp của họ một phần cũng chính là chỗ đó. Vẫn sống mãi với thời gian
ấn tượng mãnh liệt không phai bạc, mờ nhòa theo năm tháng:
Tây tiến những đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Quang Dũng khéo chọn cách nói, có tóc rụng, có da xanh của anh lính ốm (ốm
nhưng không yếu) nhưng không mất đi dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái
"dữ oai hùm" giữa chốn sơn cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng
của những anh hùng hào hoa, mã thượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần
nói về sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến" nhưng
không một lần như nhiều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc "chết". Quang Dũng
bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn về", "bỏ quên đời", "về đất" giản
dị hơn, nhằm tự nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý tưởng
của học sinh, sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí.
Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của chiến sĩ - thi sĩ
trên cả hai bình diện tác giả và tác phẩm, Quang Dũng đã tạc bằng ngôn ngữ thi ca
vào lịch sử, hình tượng người lính Vệ quốc anh hùng.
Mang nét riêng, người lính Vệ quốc trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong
nghĩ suy mà "sâu sắc đến giật mình" (Xuân Diệu). Chất liệu hiện thực cuộc sống
được đưa vào thơ vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục sinh một dân tộc, khai sinh một thời đại, tân
tạo những bảng thang giá trị tinh thần, mà còn trả lại cho mỗi người cuộc sống mới;
kiến tạo những quan hệ mới, tình cảm mới chưa hề có trong lịch sử, trong văn hóa
ứng xử của cộng đồng. Đó là tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm
mới này tạo nên những vẻ đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc.
Không kỳ dị "đoàn binh không mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như
trong thơ Quang Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu vô cùng bình dị,
hiền lành, chất phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu
cuộc sống đồng quê, trên nền "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của
những người có cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều
miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm
nên đồng tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài
thơ là sự gặp gỡ của hai người đồng cảnh:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của những con người ở những vùng miền khác
nhau không vì vậy mà hèn kém (nghèo nhưng không hèn), nghĩa là không bị cái
cảnh nghèo bó buộc, câu thúc, người nông dân vượt lên số phận, vượt lên cảnh
ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến.
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai từ nông dân,
trong hành trang người lính mang theo có cái nghèo đeo đẳng "Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỷ". Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong vùng địch hậu, cái rét được đề
cập phản ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt
của khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội,
nghĩa tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu
thốn của người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác:
Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn.
Thơ kháng chiến nói chung, thơ Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn
thuần là cái "Tôi" cá nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô diễn, cái "Tôi" giãi bày, mà là cái
"Tôi" thế hệ, cái "Tôi" công dân, cái "Tôi" sử thi. Ở đây "Anh-Tôi" chuyển hóa trong
biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa số đông đảo: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Nhưng không vì vậy mà người lính mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu
người trong tình đồng chí - đồng đội: Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Hai người lính Vệ quốc trong tình đồng chí, trong nhiều câu thơ có hai vế nhưng một
hoàn cảnh. Do vậy, có khi chỉ một hoàn cảnh nhưng người đọc liên tưởng cho cả
hai. Có lúc câu thơ nói gia cảnh một người mà như cả hai:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Điều này cho thấy thêm một bình diện trong chân dung tinh thần người lính vệ quốc,
đó là sự hy sinh âm thầm không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc
kháng chiến của dân tộc. Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người "đồng chí" trong thơ.
Đóng góp của Quang Dũng và Chính Hữu cho nền thơ kháng chiến trên nhiều lĩnh
vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn
sống phong phú của đời lính, các anh đã phản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác
nhau về chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng trong "ba ngàn ngày không
nghỉ", góp phần quan trọng làm nên những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc.
3. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 3
Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc
Việt Nam, những giá trị của các tác phẩm này mang một ý nghĩa to lớn trong nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ sâu sắc và mang một tầng ý nghĩa to lớn, giá trị của nó
không chỉ để lại cho người đọc nhiều cảm xúc và còn làm sống lên những tinh thần
thiết yếu trong mỗi tác phẩm của người.
Đều là những người nghệ sĩ tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn
ngữ và các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu
đã làm nên những giá trị to lớn trong những tác phẩm của mình, bài thơ có nhiều nét
tương đồng khi chủ đề của nó đều hướng tới cách mạng hướng tới một nền đại
chúng. Toàn bộ giá trị của tác phẩm đều muốn hướng tới những điều có giá trị to lớn
và mang một tầm ý nghĩa qua trọng cho toàn bộ tác phẩm, các giá trị của nó làm
nên những điều có ý nghĩa lớn lao và hạnh phúc nhất đối với mỗi con người.
Biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng trong phong cách nghệ thuật của ông
đã làm nên những giá trị to lớn trong phong cách của người, những giá trị của nó
làm nên những giá trị to lớn về sự sống động trong những giây phút đang được
sống lại trong những giây phút hào hùng, người chiến sĩ xuất hiện trong bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng hiện lên với những người anh hùng, kiên trì bền bỉ để vượt
qua mọi gian nan và nguy hiểm để có thể làm nên những điều có ý nghĩa và mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.
Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ, những điển hình về hình
tượng và nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm được sử dụng một cách mạnh mẽ và có ý nghĩa nhất:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Với những ngôn ngữ tinh nghịch sắc xảo và ngập tràn giá trị màu sắc, mức độ nguy
hiểm trong bài thơ đã được diễn tả với một mức độ cao nhất, và nó mang một mức
độ trừu tượng hóa trong ngôn ngữ và biệt tài sử dụng ngôn ngữ trong những tác
phẩm của người, giá trị đó đã tạo nên những màu sắc lung linh sống động trong
những giây phút hào hùng và có ý nghĩa nhất.
Và đặc biệt đối với Chính Hữu bài thơ lạ mang một phong cách hoàn toàn khác lạ
khi nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội hiện lên với những nét đặc sắc trong
cuộc đời của tác giả, những tác phẩm đó không chỉ để lại những giá trị mạnh mẽ và
đặc trưng nhất, những lời thơ mang chất chân chất và nó phản ánh được cuộc sống
của những người chiến sĩ cách mạng khi phải xa quê hương người thân để đến
những vùng đất mới, những người chiến sĩ của chúng ta đến từ khắp mọi nơi, và nó
làm nên một gia đình lớn , mạnh mẽ và đang sống động trong từng khoảnh khắc,
mỗi tác phẩm đều đem lại những lời thơ mang màu sắc tươi tắn và tạo nên nhịp
sống của những người chiến sĩ cách mạng.
Qua bao nhiêu năm tháng chiến đấu kiên cường những người chiến sĩ của ta đã
đứng lên làm nên những giá trị sống mạnh mẽ và ý nghĩa nhất cho mỗi con người,
bao nhiêu niềm yêu thương được hồ khởi và sống trong những trang thơ ca của tác
giả, với niềm tin và sự yêu thương khi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, những
người chiến sĩ tự phương trời xa xôi đã tụ họp về đây để cùng nhau làm nên những chiến công lịch sử.
Những người chiến sĩ đã đoàn kết và cùng với nhau làm nên những phút giây lịch
sưt hào hùng, và đây là cuộc sống tươi vui và mang màu sắc nó tạo dựng những ý
nghĩa mạnh mẽ và những cuộc đời hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:
Súng bên súng đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Những ngôn ngữ mang màu sắc nhưng lại vô cùng chân thực đã làm nên những
cuộc đời có ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người, khi ngôn ngữ tạo
dựng đang tạo nên những điều có ý nghĩa mạnh mẽ và đang lan tỏa trong cuộc đời
của mỗi người. Hoàn cảnh của những người chiến sĩ của bài thơ Đồng Chí đều xuất
phát từ những người nông dân đang ngày đem phải đương đầu và cố gắng làm nên
những thành quả to lớn đối với dân tộc, khi hoàn cảnh của họ khó khăn chỉ có
những gian nhà lung lay, những ruộng lương thì để lại cho bạn thân cày. Hoàn cảnh
của họ đã làm nên những giây phút thiêng liêng và đây chính là động lực để họ có
thể cố gắng và làm nên những giây phút lịch sử hào hùng và có ý nghĩa nhất đối với dân tộc Việt Nam.
Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử
dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm
này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ
trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ
của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ
Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn
bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có
thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật.
Với những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật
của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác
phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình
ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.
Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình
nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc
sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.
Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý
nghũa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên
những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.
Những hình ảnh điển hình và sâu sắc đã tạo nên những đặc sắc trong mỗi tác phẩm
và giá trị của nó để lại cho nhân loại những cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.
4. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 4
Viết về đề tài người lính trong kháng chiến Pháp không biết đã có bao nhiêu bài thơ,
tác phẩm truyện viết về đề tài này. Trong số những tác giả viết về đề tài này, ta có
thể kể đến hai cái tên Quang Dũng và Chính Hữu. Hai tác phẩm Tây Tiến và Đồng
Chí cho đến nay vẫn được bạn đọc rất yêu thích và được giới phê bình đánh giá
cao. Cùng viết về đề tài người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp nhưng
người lính trong hai bài thơ không chỉ có những điểm giống nhau mà có nhiều điểm khác nhau.
Điểm khác nhau thứ nhất là khác về xuất thân. Những người lính trong hai bài thơ
có hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên dẫn đến tính cách khác nhau.
Những người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng phần lớn xuất thân từ những
người thanh niên tri thức ở Hà Nội. Họ lên đường theo tiếng gọi của lòng yêu nước,
hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính vì thế họ có một tâm hồn lãng mạn:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt gian nan nhưng sự lãng mạn trong những người
lính trẻ không hề mất đi. Họ nhớ tới những người con gái mà họ yêu để thi vị hóa,
cân bằng hóa thực tại. Họ đắm mình vào những cảnh sắc thiên nhiên, nhìn cảnh
rừng núi Tây Bắc hùng vĩ trữ tình, ngòi súng chếch cao tưởng như súng đang ngửi
trời. Không những thế những người lính ấy còn có một tâm hồn vui tươi, trẻ trung.
Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không xuất thân là những
người trí thức mà họ xuất thân từ những người nông dân ở những nơi làng quê mộc mạc chất phác:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Họ là những người nông dân từ những nơi quê nghèo, đất cày sỏi đá, nước mặn
đồng chua. Họ vừa chất phát, vừa hồn hậu. Nếu ngày trước họ chỉ biết đi cày, làm
lụng ruộng nương nhưng vì đất nước, vì căm thù giặc họ cũng "mặc kệ" ngôi nhà
không cho gió lung lay để ra trận. Bỏ giếng nước gốc đa, bỏ tấm áo vải nâu trầm,
người lính nông dân khoác lên mình màu áo xanh bộ đội, tay bỏ cày cầm súng giết
giặc trả thù cho quê hương.
Sự khác nhau thứ hai của những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình.
Người lính Tây Tiến được nhà thơ Quang Dũng vẽ lên nét đẹp ngoại hình tuy ốm nhưng không yếu:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Do điều kiện chiến tranh thiếu thốn, do hoàn cảnh chiến đấu nơi rừng thiêng nước
độc người lính Tây Tiến hiện liên với ngoại hình đầu không mọc tóc, quân xanh là lá
cây ngụy trang hay cũng có thể màu quần áo bộ đội hoặc cũng có thể hiểu là mặt
xanh vì thiếu chất. Thế nhưng người lính không hề yếu trái lại lại "dữ oai hùm". Họ
hiện lên với vẻ đẹp của ý chí "mắt trừng" thể hiện sự căm thù giặc hay cũng có thể
là ngay cả trong khi ngủ người lính Tây Tiến cũng gửi mộng chiến thắng vùng biên giới.
Khác với người lính Tây Tiến, người lính nông dân của Chính Hữu có vẻ đẹp ngoại
hình với những nét mộc mạc hồn hậu. Đó là những miếng áo rách, quần vá: "Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"
Nét ngoại hình của người lính nông dân không được nhà thơ nhấn mạnh vào những
đặc điểm trên gương mặt cơ thể mà nhấn mạnh vào những thiếu thốn của trang
phục quần áo. Người lính nông dân phải mặc áo rách vai, quần vá chỗ này một
miếng chỗ kia vài miếng. Trong làn sương sớm, những người lính đứng sát bên
nhau, chân không có giày miệng cười với nhau trong buốt giá đêm khuya. Họ hiện
lên không những giản dị mà chứa chan tình yêu thương. Ngoài dẫu dẫu có rét, quần
áo dẫu có nát thì càng là cái cớ cho tình đồng chí trở nên keo sơn ấm áp hơn.
Cả hai bài thơ đều thể hiện được tình đồng chí đồng đội, nhưng ở mỗi bài cách mà
các người lính thể hiện tình đồng chí đó lại khác nhau.
Người linh Tây Tiến là những người trí thức, họ không thể hiện tình cảm của mình
một cách trực tiếp mà thể hiện rất kín đáo. Nhà thơ không có câu thơ nào nói về
cách quan tâm chăm sóc nhau giữa những người đồng đội của mình nhưng cách
nhà thơ diễn tả lại những kỉ niệm mà nhà thơ từng có với đồng đội của mình có thể
thấy tình cảm keo sơn gắn kết ấy. Nó keo sơn đến mức người lính Tây Tiến nguyện:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Còn người lính nông dân được nhà thơ Chính Hữu miêu tả tình đồng chí một cách
trực tiếp. Đối với họ tình đồng chí là những người không hẹn quen nhau, đều đến từ những nơi xa lạ nhưng:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!" Hay
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo"
Từ đây ta có thể thấy được những vẻ đẹp khác nhau của người lính thời kì kháng
chiến chống Pháp qua hai bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí. Bằng tài năng nghệ thuật
của mình, Quang Dũng và Chính Hữu đã xây dựng những vẻ đẹp riêng cho những
người lính của mình. Tuy nhiên, chính những nét điểm riêng ấy lại làm nên một nét
đẹp chung cho người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng và người lính
Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ ra đi đều với
mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.
Document Outline

  • So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu
    • 1. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 1
    • 2. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 2
    • 3. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 3
    • 4. So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí mẫu 4