Tài liệu rút gọn triết học ngắn gọn đầy đủ - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

CHƯƠNG I TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG :
XÃ HỘI
A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
Triết học ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (tr. CN) và đạt được thành tựu
rực rỡ các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
a. Nguồn gốc của triết học
- Nguồn gốc nhận thức: Triết học không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con
người, nó chỉ ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất
định cho phép khái quát được những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những
quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Như vậy, triết học chỉ ra đời khi tư duy, nhận
thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ để xây thống hóa
dựng nên các học thuyết lý luận.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học xuất hiện khi xã hội loài người chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ, là xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay, đội ngũ trí thức xuất hiện, khi đó xã hội có một số người chuyên làm “nghề”
triết học để giải thích thế giới theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Điều đó cho thấy,
chính tầng lớp lao động trí óc đã sản sinh ra triết học, ngay khi mới ra đời, triết học đã
mang tính giai cấp sâu sắc, phản ánh và bảo vệ lợi ích của những giai cấp nhất định trong
xã hội.
b. Khái niệm triết học
- Ở phương Đông: Theo người Trung Quốc, “triết” có nghĩa là “trí”, là “sáng suốt” để chỉ
sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về thế giới. Theo người Ấn Độ, triết học có nghĩa là
darshana - chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến
lẽ phải.
- Ở phương Tây: Theo chữ Hy Lạp, triết học là “philosophia”, có nghĩa là “tình yêu sự
thông thái”, nhà triết học là nhà thông thái vì họ có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự
vật, hiện tượng bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Triết học ra đời cả ở
phương Đông và phương Tây, mặc dù khác nhau về quan niệm nhưng nhìn chung đều coi
triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâ u sắc thế giới, đi sâu nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm mác xít, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Như vậy, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét
thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch s
Trong quá trình phát triển, đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử:
- Thời kỳ cổ đại: Tri thức của loài người còn ít nên chưa có sự phân chia giữa triết học với
các khoa học khác. Triết học Hy Lạp cổ đại các tri khi mới hình thành không độc lập với
thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học tổng
hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như
Thalets, Pithagore... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế
giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy
xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
là mọi lĩnh vực tri thức, nhưng còn sơ khai, trực quan cảm tính. Đây là nguyên nhân sâu
xa nảy sinh quan niệm về sau xem “ Triết học là khoa học của các khoa học”.
- Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu: Quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học. học chỉ là lý giải và Nhiệm vụ của triết
chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong Kinh Thánh, luận giải và thuyết phục
con người tin tưởng vào Chúa Trời. Nền triết học tự nhiên bị thay thế bằng nền triết
học kinh viện.
- Thế kỷ XV – XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên, đồng thời là sự
phục hồi của tư tưởng triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Triết học dần tách khỏi thần học và
các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể
luận, vũ trụ luận, nhận thức luận...
- XVIII: Thế kỷ XVII – triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự nhiên thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Sự phát triển của triết học duy vật thời kỳ này đạt đến đỉnh
cao ở các quốc gia là Anh, Pháp, Hà Lan.
- - Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX: sự phát triển của khoa học cụ thể và những thành tựu
mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học thành
“Khoa học của mọi khoa học”, trong đó triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng
mang tham vọng đó.
- Những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đoạn tuyệt với quan niệm sai lầm
xem triết học là “Khoa học của mọi khoa học”, xác định đối tượng nghiên cứu của triết
học là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy .
d. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Chức năng thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế
giới đó .
- Về nguồn gốc của thế giới quan: Thế giới quan ra đời từ cuộc sống hiện thực của con
người. Bởi vì, con người không thể sống tách khỏi thế giới sự vật hiện tượng. Trong quá
trình tồn tại và phát triển của con người, hàng loạt câu hỏi được đặt ra để tìm câu trả lời:
thế giới này do đâu mà có? Bản chất của thế giới là gì? Sự biến đổi của nó tác động gì
đến con người? Có thần linh, ma quỷ không...? Từ đó, các quan niệm về thế giới quan
được hình thành.
- Về cấu trúc: Thế giới quan được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin.
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan, chỉ khi nào tri thức biến thành
niềm tin của con người thì tri thức đó mới trở thành thế giới quan.
- Những hình thức cơ bản của thế giới quan:
+ Thế giới quan huyền thoại (thần thoại) có nội dung pha trộn một cách không tự giác
giữa thực và ảo, nó đặc trưng cho tư duy, nhận thức của người nguyên thủy về thế giới,
được phản ánh qua các câu chuyện thần thoại. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét
trí tưởng tượng của “tư duy nguyên thủy” tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không -
tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Theo Ph. Ăngghen nhận định, thế giới quan
huyền thoại là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về
nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nh ân
cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần
thoại .
+ Thế giới quan tôn giáo biểu hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu
nhiên đối với thế giới, con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin
cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người
sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. V. I. Lênin đã cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ vào những phép
màu...” .
+ Thế giới quan triết học được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái
niệm, các phạm trù, các quy luật. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa cũng như khi con
người ý thức được sự cần thiết phải có sự định hướng về tư tưởng, nhận thức để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Thế giới quan triết học được phân chia thành thế giới quan duy tâm
(là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết
định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất); thế giới quan duy vật (là thế giới
quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của
con người trong cuộc sống hiện thực). Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật là (chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật
biện chứng) là ba hình thức cơ bản của thế giới quan (thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng). Thế giới quan duy vật
biện chứng có vai trò giúp con người có cơ sở khoa học để nhận thức bản chất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, từ đó hình thành quan điểm khoa học để định hướng mọi hoạt
động của con người. Ngoài ra, triết học còn có vai trò phương pháp luận: Định hướng con
người trong việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương ạt động pháp trong ho
nhận thức và thực tiễn. Các cấp độ của phương pháp luận: phương pháp luận ngành;
phương pháp luận chung; phương pháp luận chung nhất. Trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong hoạt động. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương
pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng
phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm như chủ
quan, duy ý chí và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật
chất, tồn tại bên ngoài ý thức con người hoặc là hiện tượng tinh thần, tồn tại trong ý thức
con người. Vật vật chất và ý thức có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quy định cái nào? Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi
triết học, đặc biệt là triết học hiện đại đó là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Đây cũng là cơ sở để phân chia các trường phái triết học khác nhau trong lịch sử.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (Bản thể luận): Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Tùy cách giải đáp câu hỏi này mà các học thuyết triết học đã
được chia ra thành hai trào lưu cơ bản đó là ch nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, không do ai sáng tạo ra; ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật
chất; bản chất của tồn tại là vật chất, vật chất quyết định ý thức... Chủ nghĩa duy vật có
lịch sử phát triển lâu dài với nhiều hình thức Hình thức đầu tiên của nó là chủ khác nhau.
nghĩa duy vật chất phác thời cổ Hình thức phát triển tiếp theo là chủ nghĩa duy vật đại.
máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác, Ph.
Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V. I. Lênin kế thừa và phát
triển, là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, có mối quan hệ chặt chẽ với
các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng cũng như với sự phát triển của khoa
học và thực tiễn xã hội.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự
nhiên, của vật chất; ý thức, tinh thần quyết định vật chất; bản chất của tồn tại là ý thức,
tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cảm giác,
ý thức con người là cái có trước, cái quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng ở
bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp của những cảm giác”; những màu sắc,
mùi vị, những đặc tính khác nhau của sự vật chẳng qua chỉ là những cảm giác của con
người. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ
nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và như thế, tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa duy ngã phát từ cái tôi). Chủ nghĩa duy tâm khách (ngã là tôi - là chủ nghĩa xuất
quan cho rằng, ý thức, ý niệm là cái có trước thế giới vật chất. Cái thực thể tinh thần tồn
tại một cách “khách quan”, không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định
sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội đều là hiện thân của ý niệm. Nhìn chung, cả hai hình thái của chủ nghĩa duy tâm
tuy biểu hiện khác nhau, nhưng về cơ bản lại giống nhau, bằng cách này hay cách khác
đều phủ nhận nguồn gốc khách quan của thế giới tự nhiên, của vật chất, nghĩa là đều thừa
nhận tinh thần, ý thức sáng tạo ra thế giới. Ở điểm này, chủ nghĩa duy tâm gần gũi với tôn
giáo và “tựu trung bao giờ cũng vẫn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo” . Nguồn gốc nhận thức
của chủ nghĩa duy tâm đó là sự tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tinh thần, như V.I. Lênin
đã khẳng định “Chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi
phồng, bơm to) phiến diện, thái quá... của một trong những đặc trưng, của một trong
những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời
khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là sự hình thành và phát triển các giai cấp đối lập nhau về lợi ích; là sự xuất hiện phân
công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Sau khi tách khỏi lao động chân tay, lao
động trí óc có vị trí độc lập tương đối và trở thành đặc quyền của các giai cấp bóc lột. Vì
thế các nhà tư tưởng của giai cấp đó thường có thái độ coi thường lao động chân tay
ngộ nhận rằng chính lao động trí óc quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Những
sai lầm, lệch lạc trên đây của thế giới quan duy tâm đã bị các thế lực phản động lợi dụng,
khai thác nhằm biện hộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Ngoà i hai trường phái duy vật và duy tâm, trong triết học còn có trường phái nhị nguyên
luận. Trường Phái này cho rằng cả vật chất ý thức, tinh thần đều tồn tại song song và
độc lập với nhau, trong đó nguyên thể vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, nguyên thể
tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Tuy nhiên, xét đến cùng, phái nhị nguyên cũng
rơi vào chủ nghĩa duy tâm vì nó thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không
phụ thuộc vào vật chất.
- Mặt thứ hai (Nhận thức luận): Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Những nhà tư tưởng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới
(thuộc trường phái có thể biết - “khả tri luận”). Những nhà triết học cho rằng, con người
không thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết “bất khả tri luận”). - Thuyết
không thể biết đã bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống xã hội cũng như sự
phát triển của khoa học. Ngoài ra còn có trường phái Hoài nghi luận. Như vậy, bất kỳ một
học thuyết, một hệ thống triết học nào cũng đều phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Chủ
nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. chủ
nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy
tâm chủ quan.
- duy tâm: Nguyên nhân của sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
+ Chủ nghĩa duy vật: có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời
thường gắn liền với lợi ích của các giai cấp tiến bộ trong lịch sử.
+ Chủ nghĩa duy tâm: tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức và thường gắn với
lợi ích của các giai cấp bóc lột trong lịch sử.
c. Thuyết có thể biết (khả tri) và thuyết không thể biết ( bất khả tri)
+ Những người thuộc trường phái khả tri: Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức
được thế giới
+ Những người thuộc trường phái bất khả tri cho rằng: Con người không thể có khả năng
nhận thức thế giới
+ Thuyết Hoài nghi luận: Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
3. Biện chứng và siêu hình
a. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Biện chứng: Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã
hội và tư duy . Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ
quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người
(biện chứng của tư duy). , Như vậy, khái niệm biện chứng dùng với nghĩa vừa là lý luận
đồng thời là phương pháp khảo sát, phản ánh đối tượng trong trạng thái liên hệ, ràng
buộc, tác động qua lại và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
* Phương pháp siêu hình :
- kh Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra ỏi chỉnh thể.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về
số lượng bởi nguyên nhân bên ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình làm cho con người
“chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những
sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ: muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái độc lập, không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc
và ngưng đọng như phương pháp siêu hình quan niệm.
* Phương pháp biện chứng:
- rang Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ, ảnh hưởng, buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi.
- Khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về cả lượng và chất của các
sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là sự đấu tranh của các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp biện chứng phản ánh “biện chứng khách quan” trong sự vận động, phát triển
của thế giới. Lý luận triết học của phương pháp đó được gọi là “phép biện chứng”. Phép
biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên pháp lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương
luận của nhận thức và thực tiễn.
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng trong lịch sử: Phép biện chứng đã có lịch sử
phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ
bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học
Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ
biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi
của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện
rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”,
“vô thường”, “nhân duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại
những quan điểm biện chứng của Heraclit.
+ Phép biện chứng duy tâm được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học
của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu
và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận
sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển.
Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây
dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản
ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong
giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý
trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện
chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị
trên lập trường duy vật mới.
II. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác Lênin
* Chủ nghĩa Mác – Lênin: là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin bảo vệ, phát
triển trong điều kiện lịch sử mới. Trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và
tổng kết thực tiễn thời đại, chủ nghĩa Mác Lênin là hệ thống lý luận khoa học phản ánh -
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
những quy luật kinh tế của sự vận động của ch nghĩa tư bản và sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của -
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học
thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
nhân dân lao động và tiến tới giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
* Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác – Chủ nghĩa Mác Lênin - Lênin bao
gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, trong đó có ba bộ phận lý luận quan
trọng nhất là:
- - Triết học Mác Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; có vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- - Kinh tế chính trị Mác Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật kinh tế của
quá trình ra đời, phát triển và suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ba bộ phận lý luận này có sự thống nhất chặt chẽ,
làm cơ sở, tiền đề cho nhau và đều có chung mục đích là giải phóng giai cấp vô sả n, nhân
dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
a. Những điều kiện lịch sử của ra đời triết học Mác – Lênin
* Điều kiện kinh tế xã hội-
- cách Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
mạng công nghiệp. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc ở nhiều nước Châu Âu như Anh, Pháp,
Đức… mặt khác những mâu thuẫn xã hội cũng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt:
+ Về mặt kinh tế: mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Về mặt xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
- - Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị
xã hội độc lập.
+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến.
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn man tính chất đối kháng ngày g
càng phát triển, thể hiện bằng những cuộc đấu tranh giai cấp ở khắp nơi như Anh, Pháp,
Đức, Ý …Tuy nhiên những c đấu tranh tự phát này đều thất bại do không có đường lối cuộ
khoa học, chưa có lực lượng dẫn dắt và chưa tập hợp được đông đảo lực lượng tham
gia
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời chủ nghĩa
Mác: Thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, đòi hỏi
phải được soi sáng bởi lý luận mới, tiến bộ và cách mạng. Chủ nhĩa Mác Lênin ra đời -
trong thời điểm này là một tất yếu lịch sử, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đó.
* Những tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tiền đề lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức: C.Mác đã kế thừa và cải biến những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc để hình
thành nên phép biện chứng duy vật.
+ Kinh t ế chính trị học cổ điển Anh: C.Mác kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận
về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ về quá trình sản xuất vật chất, về những quy
luật kinh tế khách quan của A. g Smit và Đ. Ricacđô; đồng thời chỉ ra những hạn chế tron
học thuyết của các ông và giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị
học cổ điển Anh đã không thể vượt qua. Trên cơ sở đó, C.Mác đã xây dựng nên lý luận về
giá trị thặng dư, luận chứng cho bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nguồn gốc dẫn đến
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: với những đại biểu tiêu biểu như H. Xanhximông,
S. Phuriê, R. Ôoen. Tinh thần nhân đạo, sự phê phán những bất công của chủ nghĩa tư
bản, những quan niệm s về đặc trưng của xã hội tương lai trong học thuyết của các âu sắc
ông là một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác còn dựa trên
những thành tựu khoa học tự nhiên. Vào thế kỷ XIX, khoa học tự nhiện thời kỳ này của
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt có ba công trình khoa học vĩ đại:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh sự chuyển hoá và bảo toàn
của các hình thức vận động của vật chất, vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên
mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
+ Học thuyết tiến hoá chứng minh nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, đều có phát triển từ thấp đến quá trình phát sinh,
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất.
+ Học thuyết tế bào chứng minh tính thống nhất của toàn bộ sự sống, thế giới vô cùng
phong phú, đa dạng nhưng đều thống nhất ở tính vật chất của nó. Những phát minh trên
đã chứng minh tính khoa học đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật.
b. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác – Lênin
- Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng duy vật lịch sử ( từ
năm 1844 đến năm 1848)
- Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác Ph.Ăngghen thực
hiện
- Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân
loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để.
- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong
lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người,
chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó
cuộc cách mạng thật sự trong triết học xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng
mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách
mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự
phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo
nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
- Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống nhất tính
khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất hữu cơ chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính cách mạng sâu sắc
nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mác xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với -
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông
đảo.
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, Lênin
tiếp tục có những đóng góp mới quan trọng vào việc phát triển triết học Mác. Để bảo vệ
chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù
của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác
trên lời nói nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác.
Đồng thời, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mác và
Ăngghen để lại. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi V.I.Lênin
đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan niệm nào đó của mình về chủ nghĩa
xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì thế mà một
giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã
gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và được gọi là Lênin nói riêng, chủ triết học Mác -
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác
a. Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác -Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác Lênin, được -
C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.
Triết học Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt
với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra
đời của triết học lịch sử tư tưởng loài Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong
người, trong lịch sử triết học. Triết học Mác – là hệ thống quan điểm duy vật biện Lênin
chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách -
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
b. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và của tư duy. Với việc xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, triết học Mác - Lênin có
đối tượng nghiên cứu khác với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, còn triết
học Mác Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả -
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng giữa
triết học Mác
- cho nhau. Các Lênin và các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và một phương pháp luận triết học
nhất định.
c. Chức năng của triết học Mác – Lênin
- Chức năng thế giới quan: Triết học Mác Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện -
chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng. Hệ thống quan điểm khoa học,
duy vật biện chứng về thế giới là nhân tố định hướng con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực, nắm được bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp con người hình
thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Như vậy, thế giới quan cũng đóng
vai trò phương pháp luận. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học
để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất
khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư tưởng
của giai cuộc cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong
đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động, phòng, chống chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.
- - Chức năng phương pháp luận: Triết học Mác Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn, trang bị cho con người hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu cũng như hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật để làm
công cụ nhận thức, giúp con người phát triển tư duy khoa học. Tuy nhiên, triết học Mác -
Lênin không phải là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại
hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có
tri thức khoa học, công nghệ cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống và trong sự-
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- ng cho Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạ
con người trong nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội
24
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát
tiển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
B. PHẦN BÀI TẬP
1. Các trường phái triết học trong lịch sử được phân chia dựa trên cơ sở chủ yếu nào?
Phân tích nội dung cơ bản của các trường phái đó?
2. Triết học Mác – Lênin có vai trò gì trong đời sống xã hội hiện nay? Liên hệ với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam? Liên hệ với bản thân?
3. Phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác trào cách mạng thế Lênin đối với phong
giới, đặc biệt đối với Việt Nam?
4. Khoa học tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đối với các hình thức phát triển của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử?
5. Phân tích vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với ra đời của chủ sự
nghĩa Mác – Lênin?
CHƯƠNG II CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG:
A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là phạm trù nền tảng của thế giới quan duy vật, bởi thế giới quan duy vật là thế
giới quan được xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về vật chất
- Quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại: Khuynh hướng chung của các
nhà triết học duy vật cổ đại là đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên và coi đó là nguyên tố
đầu tiên tạo ra mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, chẳng hạn ở Phương Tây, Talét quan
niệm vật chất là nước; Anaximen quan niệm vật chất là không khí; Hêraclít quan niệm vật
chất là lửa... Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong học thuyết vật chất
là thuyết nguyên tử của các nhà duy vật là Lơxip và Đêmôcrít. Các ông cho rằng, nguyên
tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được. Một số nhà triết học duy tâm
cho rằng, vật chất và các dạng của vật chất đều do ý thức sinh ra, do ý thức quyết định.
Phương Đông, có quan niệm vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ… Nhìn chung, những
quan niệm về vật chất thời kỳ này còn sơ khai, trực quan, cảm tính, chưa đầy đủ, triệt để
do trình độ con người còn hạn chế, khoa học kĩ thuật chưa phát triển.
- - Thế kỷ XVII XVIII, khoa học tự nhiên phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới
trong việc nghiên cứu thế giới khách quan (cơ học, inh vật học...). toán học, vật lý học, s
Tuy vậy, những quan niệm siêu hình vẫn chi phối những hiểu biết triết học về thế giới:
Nguyên tử vẫn tiếp tục được coi là phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia; vận
động của vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận động nằm
ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học hiện đại phát triển, nhất là vật lý học vi mô đã
có những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất... làm biến đổi sâu sắc quan niệm về
nguyên tử: 1895: Rơnghen tìm ra tia Một loại sóng điện từ có bước sóng cực ngắn; X -
1896: Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Như vậy, quan niệm về sự bất biến của
nguyên tử trước đây là không chính xác; 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng
minh rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử... Những phát
hiện nói trên của vật lý học đã bác bỏ quan niệm vật trước siêu hình của chủ nghĩa duy
Mác về vật chất, Ttừ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan của các nhà vật lý
học... Trước tình thế này, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng để tuyên truyền quan điểm duy
tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, “biến mất”. Trong bối cảnh đó, V. I. Lênin đã đưa ra
một định nghĩa mới về vật chất. m lại: Quan niệm của các nhà duy vật trước Mác về
vật chất tuy có những ưu điểm nhất định trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại
của giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn nhiều hạn chế như: g hiểu chính xác bản khôn
chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không
đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội... Những hạn chế đó tất yếu
dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để (khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên,
họ đứng trên lập trường duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã trượt
sang quan điểm duy tâm)
c. Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật * Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, V.I.Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” .
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của
khoa học tự nhiên về cấu tạo và thuộc tính của các dạng vật chất cụ thể. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể do các khoa học cụ thể nghiên cứu có giới hạn, có
sinh ra, có mất đi. Vì vậy, không thể quy vật chất về các sự vật cụ thể.
- Thứ hai: thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan”, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh của
vật chất, do đó, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đ ó là
não người.
- Thứ ba: vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ thể của vật chất, gây nên cảm giác ở con
người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con người; con người có
thể nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Thứ nhất: bằng việc tìm ra thuộc tính chung nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được quan niệm duy
tâm và quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất.
- Thứ hai: thông qua định nghĩa vật chất, Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật và khả tri: vật chất có trước, ý thức có sau và con người có thể
nhận thức được thế giới khách quan.
- Thứ ba: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên
trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng những cấu trúc vật chất mới...
- Thứ tư: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để định hướng cho quan điểm duy vật
khi nhận thức các vấn đề xã hội.
d. Các hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy. Như vậy, vận động theo quan điểm duy vật biện chứng không bị quy về hình
thức giản đơn là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không mà chỉ mọi sự biến đổi gian,
nói chung. Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật
chất là tự thân vận động; là tuyệt đối, vĩnh viễn.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Vận động cơ giới.
+ Vận động vật lý.
+ Vận động hoá.
+ Vận động sinh vật.
+ Vận động xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các hình thức vận động của vật chất không tách rời
nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau: thứ nhất, các hình thức vận động được sắp
xếp theo thứ tự từ thấp đến cao; thứ hai, hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình
thức vận động thấp hơn, bao hàm hình thức vận động thấp nhưng không có chiều ngược
lại; thứ ba, các hình thức vận động có thể chuyển hoá cho nhau.
* Vận động và đứng im:
+ Đứng im là trạng thái vận động đặc biệt, là sự vận động trong trạng thái cân bằng chưa
làm thay đổi về chất, hình dáng, kết cấu của sự vật.
+ Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định,
đứng im chỉ xảy ra khi xét ở một hình thức vận động xác định.
* Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
- Không gian: kích thước chiếm chỗ của vật (dài, rộng, cao).
- Thời gian: độ dài tồn tại, mức độ diễn biến (lâu, mau, nhanh, chậm).
Vật chất và không gian, thời gian tồn tại không tách rời nhau, không có vật chất tồn tại
ngoài không gian, thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất.
Vì là những hình thức tồn tại của vật chất, nên không gian và thời gian có tính khách
quan, tính vĩnh cửu, vô tận; không gian có 3 chiều, thời gian có 1 chiều.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thế giới thống nhất ở tính tinh thần, ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thế giới thống nhất ở tính vật chất, thể
hiện:
+ Chỉ có duy nhất thế giới vật chất tồn tại, vô hạn, vĩnh viễn
+ Thế giới sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng nhưng luôn có mối quan hệ, tác
động biện chứng với nhau và g nhất ở tính vật chất của nó. thốn
+ Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là sản phẩm và là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người; là sự phản ánh chủ động, tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn.
a. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức ra đời cùng với sự ra đời của
con người và xã hội loài người, gồm hai nguồn gốc sau:
Nguồn gốc tự nhiên (điều kiện cần- nguồn gốc gián tiếp): Bộ óc người và sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người
- Bộ óc người: ý thức là thuộc tính, chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất sản sinh ra ý thức. Do đó, khi bộ óc con người
càng hoàn thiện thì năng lực tư duy, ý thức càng phong phú và sâu sắc. Ngược lại, khi bộ
óc con người bị tổn thương thì năng lực tư duy, ý thức, cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
- Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người:
+ Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. u tạo vật chất khác nhau sẽ có khả Cấ
năng phản ánh khác nhau. Do đó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ
thấp đến cao như sau:
+ Ở giới tự nhiên vô sinh: Phản ánh vật lý, hóa học (sự phản ánh thụ động, chưa có tính
chọn lọc).
+ Ở giới tự nhiên hữu sinh: Phản ánh sinh học (tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ,
tâm lý).
+ Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất của giới tự nhiên hữu sinh.
=> Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức gắn liền
với con người và không thể tách rời đời sống hội của loài người.
* Nguồn gốc xã hội (điều kiện đủ nguồn gốc trực tiếp): Lao động và ngôn ngữ-
- Lao động và vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
+ Lao động (lao động sản xuất vật chất) là quá trình con người dụng công cụ lao động sử
tác động vào tự nhiên để cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình.
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức:
Thứ nhất: lao động đã giải phóng con người khỏi thế giới động vật, giúp con người có khả
năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng những công cụ ấy phục vụ mục đích sống
của mình.
Thứ hai: lao động đã giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, giúp cho bộ não con
người ngày càng phát triển và hoàn thiện về mặt sinh học.
Thứ ba: nhờ lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, m cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, qua đó con người có thể nhận thức được,
từ đó năng lực tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển.
Thứ tư: lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ, một mặt là kết quả của lao
động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức
của con người.
- Ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
+ Vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ để thể
hiện, truyền đạt tư tưởng, kinh nghiệm của con người. Ngôn ngữ giúp con người phản ánh
khái quát những thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, cùng với lao động là ngôn ngữ, là hai yếu tố chủ yếu và trực tiếp nhất làm cho ý
thức hình thành và phát triển.
b. Bản chất của ý thức
Có thể phân tích bản chất của ý thức dựa trên ba đặc trưng sau đây:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới khách
quan nhưng nó đã bị cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người, chịu sự tác
động của các yếu tố như: nhu cầu, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm, tri thức...
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới
khách quan không rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp nhận, xử lý thông tin có chọn
lọc, định hướng; đồng thời ý thức không chỉ là sự phản ánh thông tin bề ngoài của thế giới
sự vật hiện tượng khái quát bản chất, quy luật của thế giới. mà còn
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: sự ra đời, phát triển của ý thức
gắn liền với hoạt động lao động của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn bởi các quy ật xã hội. lu
c. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Xét theo chiều ngang, ý thức gồm ba yếu tố cơ bản sau:
- Tri thức: Là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình con người nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực. Do đó, tri thức, hiểu biết của
con người về thế giới sự vật hiện tượng càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy
nhiêu.
- Tình cảm: Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong mối quan hệ của
mình với sự vật hiện tượng và đối với bản thân mình.
- Ý chí: Là khả năng huy động sức mạnh của bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác. Ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng. Ngược lại, nếu tri
thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó cũng không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Nếu xét theo chiều dọc, ý thức gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
- Tự ý thức: Là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình như một thực thể độc lập
có cảm giác, tư duy, hành vi đạo đức và vị trí trong xã hội khi phản ánh thế giới khách
quan.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý diễn ra không nằm trong sự kiểm soát của chủ
thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã
gần như trở thành bản năng, kỹ ng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
- Vô thức: Là hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của
lý trí mà ý thức không kiểm soát được. Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động, vai trò
riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con người thành một
lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi ý thức, tinh thần là tồn tại duy
nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao,
biểu hiện khác của ý thức, tinh thần, là tính thứ hai do ý thức, tinh thần sinh ra. Trên thực
tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm
mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với “đường sáng thế”. Trong thực tế, những
người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ
quan, dẫn đến duy ý chí, có những hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình lại tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của
ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn an. Do vậy, những người theo chủ nghĩa duy vật cải tạo hiện thực khách qu
siêu hình đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”,
thụ động, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn .
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
ý thức. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; thế
giới vật chất là cái có trước, gười và ý thức của con người là cái có sau, là sản còn con n
phẩm của một quá trình tiến hóa lâu dài trong thế giới. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được phân tích ở những điểm cơ bản
sau:
+ Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá trình hình thành
của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức (mọi nội dung của ý thức, suy đến cùng đều chỉ
là sự phản ánh đối với thực tế khách quan).
+ Vật chất quyết định hình thức biểu hiện cũng như sự biến đổi và phát triển của ý thức.
Vì hình thức biểu hiện và sự biến đổi của ý thức phụ thuộc vào quy luật sinh học, quy luật
xã hội, môi trường sống... thuộc lĩnh vực vật chất.
+ Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng
- Tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Ý thức không hoàn toàn thụ động mà có
tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất. Bởi vì, bản chất của ý
thức mang tính năng động, sáng tạo, ý thức là ý thức của con người, chỉ có con người mới
có ý thức nên nói tới vai trò của ý thức đối với vật chất chính là nói đến vai trò của con
người.
+ Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn (ý thức trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được: mục tiêu, phương
hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ... để đạt được mục tiêu của mình. Như
vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, cải tạo được thế
giới...
Tác động tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì định hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc trình độ phản ánh của vào
ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức.
Như vậy, khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để
khẳng định vai trò to lớn của con người chủ thể có ý thức. Bằng việc định hướng cho -
hoạt động của con người, ý thức là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Lưu ý, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong sự tác động trở lại vật chất không có nghĩa là
thừa nhận ý thức quyết định vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng rút ra ý nghĩa phương pháp luận: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan:
Điều đó đòi hỏi con người trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách
quan để nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể...; không được lấy
ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm l àm điểm xuất phát
cho chiến lược, sách lược...
+ Phát huy tính năng động chủ quan:
Điều này đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, nắm vững tri thức khoa học để có
thể nắm bắt bản chất, quy luật của thế giới khách quan; không ngừng tu dưỡng đạo đức,
trau dồi tình cảm; rèn luyện ý chí để có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách; tránh sự ỷ
lại, thụ động, bảo thủ...
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lênin trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở khoa học để vận dụng vào giải quyết mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan, nhưng không đồng nhất vật chất và ý thức với khách quan
và chủ quan.
- Vai trò của yếu tố khách quan đối với nhân tố chủ quan:
+ Trong mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan hì suy đến cùng, yếu tố t
khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định nhân tố chủ quan. Bởi
vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập
không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt
động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của
chủ thể.
+ Yếu tố khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của nhân tố chủ quan.
Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năn động chủ quan trong nhận thức và hành g
động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể
không thể tùy tiện đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những
mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện
chưa chín muồi.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với yếu tố khách quan:
+ Đề cập đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để cải biến và thống trị thế giới.
+ Con người có thể biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn
tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt
nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình biến khả năng thành hiện thực.
+ Con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một
cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho
mục đích của mình.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Biện chứng: chỉ sự liên hệ, tác động qua lại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan từ tự nhiên, xã hội đến tư duy. Biện chứng bao gồm biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
- Phép biện chứng: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và sự
phát triển.
- Phép siêu hình: là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong trạng thái biệt lập,
tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn
thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại..mà không nhìn
thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng"
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan: sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong ý thức của con
người.
b. Khái n iệm phép biện chứng duy vật
Có thể định nghĩa khái quát phép biện chứng duy vật: “là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của
tư duy”.
Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật.
+ Thứ hai, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng, do đó nó không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong triết học
Mác - Lênin, là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động thực
tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng để chỉ những mối liên hệ tồn tại (được dùng
thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Như vậy, khái niệm mối liên hệ phổ biến
được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ; dung
để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng...
- Có thể tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến như sau: Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn
nằm trong mối liên hệ đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình. Tính chất
của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của các sự
vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng
siêu nhiên tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị
hóa); mối liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường...
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau
trong sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội lẫn tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, điều đó cho thấy, sự vật, hiện tượng nào cũng có mối
liên hệ, không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau t hì mối liên hệ cũng khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và
thứ yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện
tượng đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng
khác nhau... Do đó, “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Ví dụ 1: để đánh giá công trình xây dựng có đảm bảo chất lượng hay không phải được
xem xét trên nhiều phương diện, tiêu chí như độ cao, thiết kế, hệ thống phòng cháy chữa
cháy, hệ thống xử lý rác thải, hệ thống nước…
Ví dụ 2: để đánh giá tìm hiểu bản chất con người thông qua các mối quan hệ của họ với
gia đình, anh chị em, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, con cái, nghề nghiệp, với xã hội…
- Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc
toàn diện:
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó trong tất cả các mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các bộ phận... hợp thành của chính sự vật, hiện tượng
đó và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng
khác để từ đó có cái nhìn chỉnh thể về sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cần phải biết phân biệt vai trò của các mối liên
hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, bản chất, tất yếu, từ đó tách ra và tập trung
xem xét các mối liên hệ cơ bản có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải tính đến mọi khả năng vận động, phát
triển của nó để tránh tuyệt đối hóa một khả năng nào đó, từ đó có cái nhìn tổng thể về sự
phát triển của sự vật, hiện tượng và có thể lựa chọn khả năng tốt nhất.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cũng cần xem xét sự vật trong mối quan hệ
với nhu cầu thực tiễn, từ đó vận dụng có hiệu quả những hiểu biết về sự vật vào giải quyết
các vấn đề do nhu cầu thực tiễn đặt ra để đem lại hiệu quả nhất.
* Nguyên lý về sự phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là quá trình vận động của sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình phát sinh, phát triển và giải quyết mâu thuẫn
vốn có của sự vật, là một quá trình quanh co, phức tạp diễn ra theo vòng xoáy ốc chứ
không theo đường thẳng.
Ví dụ:
Trong xã hội: CXNT => CHNL => PK => TBCN => CSCN
Trong tự nhiên: Hạt => Mầm => Cây => Hoa => Quả…
Trong Nhận thức của con người: Đơn giản => Phức tạp…
Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản
thân sự vật, đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Chẳng hạn, quá
trình phát sinh một giống, loài mới diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hóa
của giới tự nhiên, con người muốn sáng tạo ra một giống loài mới thì cũng phải nhận thức
và làm theo quy luật đó,...
- Tính phổ biến của sự phát triển: Phát triển không phải là đặc tính riêng của một lĩnh vực
nào đó mà là khuynh hướng chung của thế giới sự vật hiện tượng, diễn ra trong mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng, có thể
dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan. Chẳng hạn, sự phát triển
của giới động vật thể hiện ở khả năng thích nghi của nó trước sự biến đổi phức tạp của
môi trường,...
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có sự khác nhau trong sự phát triển;
bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng có sự phát triển không giống nhau... Nguyên nhân là
do mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ng gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác trong khô
động của nhiều sự vật, hiện tượng, yếu tố khác nhau... Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc
phát triển:
+ Xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động, biến đổi, chuyển hóa của
chúng, không chỉ thấy cái hiện tại mà phải thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Cần phân tích những biến đổi của sự vật, hiện tượng để tìm ra khuynh hướng biến đổi
chính của sự vật, hiện tượng đó.
+ Phát triển là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc
điểm, tính chất... khác nhau. Do đó, cần có quan điểm lịch sử cụ thể để tìm ra những cách
thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp nhằm thúc đẩy những biến đổi có lợi, kìm
hãm những biến đổi có hại.
+ Nội dung của các luận điểm khoa học cũng luôn thay đổi để phản ánh được sự thay đổi,
phát triển của đối tượng. Cần phải có cái nhìn ánh sự phát mềm dẻo, linh hoạt để phản
triển của sự vật, hiện tượng một cách kịp thời.
+ Cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
+ Cần có cái nhìn linh hoạt trong đánh giá, phân tích sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Phân tích các khả năng, cũng như vận dụng một cách linh hoạt các phương tiện tác động
vào đối tượng, nhất là khi tình hình đã thay đổi nhằm ủng hộ cái mới.
+ Trong quá trình xây dựng và thực hiện các quyết sách phải tránh cái nhìn cực đoan, tả
khuynh, hữu khuynh, cần nhận thức trạng thái muồi của đối tượng mà xây dựng và chin
thực hiện các quyết sách một cách hiệu quả.
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Cái riêng và cái chung
- Khái niệm: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính,
yếu tố, quan hệ... lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng. Bên cạnh đó còn có cái đơn
nhất: phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất chỉ tồn tại ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ:
Cái Chung: Sinh viên Đại học Xây dựng (đều là sinh viên đại học, đều có điểm đầu vào từ
điểm sàn trở lên, đều chịu sự tác động bởi các quy chế học tập của trường ĐHXD...)
Cái Riêng: Sinh viên ngành Xây dựng, Sinh viên ngành Cầu đường, Sinh viên ngành Kiến
trúc...
Cái đơn nhất: Sinh viên mỗi ngành trong trường Đại học Xây dựng ngoài học các môn
chung, có môn riêng, nhưng có những yếu tố đặc thù ngành, bản thân mỗi cá nhân có đặc
điểm không ai giống ai tuyệt đối: hình dáng, sở thích, thói quen, trình độ hiểu biết...)
- Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
+ Sự thống nhất: Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình.Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng
tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
+ Sự mâu thuẫn: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ
phận, sâu sắc hơn cái riêng. Do đó, cái bộ phận đôi khi mâu thuẫn với cái toàn b
Ví dụ:
Cái chung: Thành phố của Việt Nam
Cái riêng: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hải Phòng... là cái
toàn bộ, đó là những thành phố riêng, có nhiều đặc điểm, phong phú đa dạng hơn cái
chung (tiêu chuẩn quy định là thành phố loại 1 của Việt Nam)
+ Sự chuyển hóa: Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những
điều kiện xác định. Trong mối quan hệ này, sự vật có thể là cái chung, trong mối quan hệ
khác, sự vật đó có thể lại là cái riêng.
Ví dụ: Cái riêng thành cái chung:
Cái chung: Sinh viên Việt Nam
Cái riêng: Sinh viên Đại học Xây dựng, Sinh viên Đại học Bách
Khoa Hà Nội, Sinh viên Đại học Đà Nẵng...
Trong mối quan hệ khác, sinh viên Đại học Xây dựng là cái chung, sinh viên Khóa 64,
Khóa 63, Khóa 62... là cái riêng.
Cái đơn nhất thành cái chung:
Một trào lưu mới nảy sinh từ 1 sinh viên Trường A, được nhân rộng ra mọi sinh viên ở tất
cả các trường đại học.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung tồn tại trong cái riêng, không tách rời cái riêng, cho nên muốn nhận thức cái
chung phải xuất phát từ cái riêng, thông qua nhiều cái riêng để khái quát thuộc tính chung.
Trong hoạt động thực tiễn, khi áp dụng cái chung vào từng cái riêng phải căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh của từng cái riêng cho phù hợp.
Phải biết tạo điều kiện thích hợp để biến cái chung thành cái đơn nhất và ngược lại theo
hướng có lợi cho con người.
* Bản chất và hiện tượng
- Khái niệm: Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp những mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, ổn định quy định sự vận động, phát triển của sự vật. Hiện tượng là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất trong những điều kiện xác
định.
Ví dụ: Bản chất của một người: Tốt hoặc xấu
Hiện tượng: biểu hiện ra thông qua hành vi, lời nói, cử chỉ, việc làm, tướng mạo...
- Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất: Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, bản chất bao giờ cũng được
biểu hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của một bản
chất nào đó.
Sự mâu thuẫn: Bản chất và hiện tượng đối lập nhau. Bản chất là cái bên trong, khó nắm
bắt; còn hiện tượng là cái bên ngoài có thể trực quan được. Bản chất là cái chung, tất yếu,
có tính ổn định; còn hiện tượng là cái riêng, phong phú, đa dạng, thường xuyên biến đổi.
Ví dụ: Bản chất của một người tốt nhưng biểu hiện ra hiền lành, tốt bụng nhưng đôi khi
thể hiện nóng nảy, thô lỗ, cục cằn,...
Sự chuyển hóa: Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều
kiện nhất định.
Ví dụ: Bản chất của nước là chất lỏng, trong điều kiện khác nhau nước có thể chuyển hóa
thành chất rắn hoặc hơi.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức đúng đắn sự vật thì phải nắm bắt được bản chất của nó, tuy nhiên chỉ có
thể nhận thức bản chất đó thông qua những hiện tượng mà nó biểu hiện ra. Trong hoạt
động thực tiễn, khi cải tạo sự vật thì phải cải tạo bản chất, thay đổi bản chất của nó chứ
không phải hiện tượng. Vì cải tạo bản chất thì hiện tượng tự nó sẽ mất đi.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Khái niệm: Tất nhiên là một phạm trù triết học dùng để chỉ cái do những nguyên nhân
cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định, trong những điều kiện nhất định nó phải
xảy ra như thế chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái
do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do
đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, có thể xuất
hiện như thế khác.
- Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Sự thống nhất: Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, trong đó cái tất nhiên có
vai trò quyết định. Tất nhiên và ngẫu nhiên thống nhất với nhau: cái tất nhiên vạch đường
đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là biểu hiện của cái tất
nhiên. Không có cái ngẫu nhiên cũng như cái tất nhiên thuần tuý.
Sự mâu thuẫn: Tất nhiên là do nguyên nhân bên trong quy định, ngẫu nhiên là do những
tác nhân bên ngoài quy định.
Ví dụ:
Tất nhiên: Quả táo chín rơi xuống đất là quy luật tự nhiên
Ngẫu nhiên: Quả táo rơi trúng đầu Newton là sự việc ngẫu nhiên là chìa khóa mở ra định
luật vạn vật hấp dẫn.
Sự chuyển hóa: Trong những điều kiện nhất định, ngẫu nhiên và tất nhiên có thể chuyển
hoá cho nhau. Trong quan hệ này, sự vật là ngẫ nhiên, trong quan hệ khác, sựu vật là tấtu
nhiên.
Gió thổi mạnh khiến quả táo rơi - - nguyên nhân rơi là bên ngoài ngẫu nhiên. Tuy nhiên,
xét một cách cụ thể, lực thổi của gió thắng lực liên kết giữa trái táo và cành táo thì tất yếu
táo phải rơi.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải dựa vào cái tất nhiên, nhưng không được
bỏ qua cái ngẫu nhiên.
Cần tạo ra những điều kiện thích hợp để ngẫu nhiên và tất nhiên chuyển hoá lẫn nhau theo
hướng có lợi cho con người.
* Nguyên n hân và kết quả
- Khái niệm: Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định. Kết quả
là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
- Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nguyên nhân luôn có trước kết quả. Tuy nhiên, cần phân
biệt mối quan hệ nhân quả với mối quan hệ trước sau về mặt thời gian.- -
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp: một nguyên nhân có thể dẫn tới nhiều kết
quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
+ Nguyên nhân có nhiều loại: nguyên nhân bên trong nguyên nhân chủ yếu - bên ngoài, -
thứ yếu, nguyên nhân cơ bản không cơ bản.-
+ Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Sự tác động này có thể theo
chiều hướng tích cực và tiêu cực.
+ Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Kết quả sau khi sinh ra có thể
trở thành nguyên nhân cho hiện tượng tiếp theo, tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Cho
nên, việc xác định cái gì là nguyên nhân, cái gì là kết quả chỉ có thể đặt trong điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể để xác định. Cái trong trường hợp này là nguyên nhân thì trong trường
hợp khác lại là kết quả.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi sự vật xuất hiện, biến đổi đều có nguyên nhân, nên muốn nhận thức sự vật phải tìm
ra nguyên nhân cho sự xuất hiện, biến đổi của nó. Đồng thời phải tìm nguyên nhân trong
những hiện tượng trước khi quả xuất hiện. kết
Vì nguyên nhân sinh ra kết quả, nên trong nhận thức và thực tiễn cần phân loại nguyên
nhân, xác định vị trí vai trò của từng nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, đồng
thời phải đặt quan hệ nhân quả trong điều kiện cụ thể để phân tích và giải quyết.-
* Nội dung và hình thức
- Khái niệm: Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những
yếu tố, những qúa trình tạo nên sự vật. Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ
phương thức tồn tại và phát triển của vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền sự
vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
- Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức thống nhất với nhau. Vì vậy, nội dung nào cũng được biểu hiện
thông qua một hình thức nhất định, một hình thức nào không chuyển tải nội không có
dung. Tuy nhiên, cùng một nội dung có thể được thể hiện qua nhiều hình thức, và cùng
một hình thức có thể chuyển tải những nội dung khác nhau.
Nội dung quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội dung. Nội dung bao giờ
cũng quyết định hình thức biểu hiện nó, khi nội dung thay đổi hình thức cũng phải thay
đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, hình thức không phải bao giờ cũng phù hợp với nội dung,
nếu hình thức phù hợp nó sẽ thể hiện tốt nội dung, thúc đẩy nội dung phát triển; nếu
không phù hợp thì ngược lại.
Ví dụ: Cùng là một ý tưởng (nội dung), có thể thể hiện bằng bài hát, bài thơ, phim truyện,
phóng sự... (hình thức)
Ý tưởng của sách hay đi liền với hình thức trình bày bìa, chương mục, kết cấu, câu từ phù
hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung, độc giả dễ tiếp cận với nội dung (và ngược
lại)...
- Ý nghĩa phương pháp luận
Khi xem xét sự vật cần căn cứ vào nội dung, tuy nhiên không được tách rời nội dung với
hình thức, xem nhẹ hình thức, hoặc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đó.
Trong hoạt động thực tiễn, cần làm cho hình thức và nội dung phù hợp với nhau, nếu hình
thức không phù hợp với nội dung thì phải thay đổi hình thức.
* Khả năng và hiện thực
- Khái niệm: Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ những gì đang có, đang tồn tại
trong thực tế và trong tư duy. Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ những gì hiện
chưa có nhưng có thể có nếu gặp điều kiện thuận lợi.
Lưu ý: một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng khác nhau: khả năng thực tế, khả năng tất
nhiên, khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa...
Ví dụ:
Khả năng: sinh viên Đại học Xây dựng học 5 năm ra trường
Hiện thực: sau 5 năm, sinh viên có thể tốt nghiệp ra trường cũng có thể không.
- Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực thống nhất với nhau, bao hàm quá trình chuyển hoá lẫn nhau.
Khả năng trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành hiện thực, hiện thực
bao giờ cũng chứa đựng và phát sinh những khả năng mới, khả năng mới đó trong những
điều kiện xác định lại chuyển hoá thành hiện thực mới.
Trong xã hội, sự chuyển hoá khả năng thành hiện thực cần có những điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan:
+ Điều kiện khách quan: là hoàn cảnh, môi trường xã hội tạo ra những yếu tố thuận lợi
cho khả năng chuyển hoá thành hiện thực.
+ Nhân tố chủ quan: là hoạt động có ý thức của con người nhận thức, nắm bắt khả năng
và vận dụng những yếu tố thuận lợi đó để biến khả năng thành hiện thực.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không phải khả năng,
tuy nhiên cũng cần tính đến những khả năng, nhất là những khả năng có thể chuyển hoá
thành hiện thực. Cần tạo những điều kiện thích hợp để khả năng chuyển hoá thành
hiện thực hoặc kìm hãm sự phát triển của khả năng theo chiều hướng có lợi cho con
người.
c. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất
và ngược lại
Vị trí của quy luật: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức (phương thức) của sự phát triển của mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm Chất, Lượng
- khách Khái niệm Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định quan vốn có của
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó và phân
biệt nó với cái khác.
- Đặc điểm:
+ Tính khách quan: chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, nằm
trong sự vật, hiện tượng chứ không phải được đem từ bên ngoài vào.
+ Chất được tạo thành từ các thuộc tính của sự vật. Tuy nhiên, sự vật có nhiều thuộc tính,
trong đó có những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Chất được tạo
thành chủ yếu từ những thuộc mất đi hay biến đổi của những thuộc tính tính cơ bản. Sự
này sẽ làm cho chất của sự vật cũng mất đi và biến đổi theo.
+ Mặt khác, chất của sự vật không chỉ được xác định bởi các thuộc tính và yếu tố cấu
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Các yếu tố, thuộc tính được
liên kết theo phương thức khác nhau sẽ tạo ra chất khác nhau.
+ Mỗi sự vật khi tồn tại không chỉ có một chất mà có nhiều chất tùy theo góc độ mà ta
xem xét. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản với tư cách
là tổng hợp của các chất, các thuộc tính, các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết
giữa các yếu tố đó.
+ Chất thường mang tính ổn định tương đối.
- Khái niệm Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng về mặt số lượng, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động, phát
triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
- Đặc điểm:
+ Tính khách quan: lượng cũng là cái vốn có của sự vật.
+ Mỗi sự vật khi tồn tại cũng có nhiều lượng tuỳ theo cách thức xác định.
+ Lượng thường xuyên biến đổi.
Lưu ý: sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có tính
tương đối, có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ
khác lại là lượng.
* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng
- Mỗi sự vật, hiện tượng khi tồn tại đều là thể thống nhất giữa chất và lượng, hai mặt đó
không tồn tại tách rời mà tác động qua lại với nhau.
Sự tác động qua lại đó được thể hiện như sau:
+ Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất với nhau trong giới hạn nhất định gọi là độ.
+ Độ là khoảng giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất của sự vật thay
đổi.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Sự phát triển của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng
trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
+ Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm cho chất của sự vật
thay đổi hay nói cách khác điểm nút là thời điểm mà chất mới và lượng m ới ra đời. Tại
thời điểm điểm nút sẽ diễn ra bước nhảy.
+ Bước nhảy là sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó tạo ra,
là bước ngoặt trong sự thay đổi về lượng. Nếu không có bước nhảy sự vật sẽ không thể
thực hiện được sự thay đổi về chất làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Bước
nhảy, do đó, vừa là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật, vừa là khởi đầu của
một giai đoạn phát triển mới. Tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và phụ thuộc vào bản thân
sự vật mà hình thức của bước nhảy khác nhau, hết sức phong phú, đa dạng: có bước nhảy
đột biến và bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ,...
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động đến
lượng của sự vật trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động, phát triển của sự vật. Chất mới ra đời sẽ mở đường, kích thích, thúc
đẩy lượng mới phát triển.
Ví dụ: Chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế chế độ phong kiến mở đường cho Lượng
mới phát triển (kinh tế, xã hội, trình độ con người…)
Tóm lại: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi về lượng khi đạt
tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Quá trình tác động qua lại đó diễn ra liên tục
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Để nhận thức đúng sự vật, phải nhận thức sự vật trong sự thống nhất giữa chất và lượng.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến
đổi về chất của sự vật, kiên trì, chờ đợi thời cơ, tránh nôn nóng, tránh quan điểm “tả
khuynh”, “hữu khuynh”. Trong hoạt động thực nhấn tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” -
mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự tích lũy về lượng; bởi sẽ dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm,
hành - động thất bại. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” tuyệt đối hoá sự tích lũy về
lượng, không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo
thủ, trì trệ, ngại khó, không có sự thay đổi về chất mới. Khi tích lũy về lượng đã đủ thì
phải thực hiện bước nhảy.
- Do quy luật này xảy ra phụ thuộc vào nhiều điều kiện, do đó trong quá trình tích lũy về
lượng cần tạo ra các điều kiện để quá trình chuyển hóa nhanh hơn.
- Đồng thời, cần có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi đã có sự tích luỹ đủ về lượng; mặt
khác, phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy tuỳ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Vị trí của quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân”
của phép biện chứng, chỉ ra nguồn gốc, động lực cơ bản của sự vận động, phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn:
+ Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định
có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại khách quan.
+ Mâu thuẫn: là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất của các mặt
đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt
này là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia và ngược lại. Đấu tranh của các mặt
đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng.
- n bên trong, Phân loại mâu thuẫn: tùy theo hướng tiếp cận khác nhau mà có u thuẫ
mâu thuẫn bên ngoài; có mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản; có mâu thuẫn chủ yếu và thứ
yếu, có mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
* Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan cũng đều chứa đựng những mâu
thuẫn trong bản thân nó, trong đó luôn diễn ra quá trình vừa thống nhất vừa đấu tranh của
các mặt đối lập làm cho sự vật, hiện tượng vận động và phát triển không ngừng. Chúng có
vị trí, vai trò nhất định đối với sự tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập gắn liền với sự ổn định, sự đứng im tương đối của sự
vật. Khi nào các mặt đối lập còn tồn tại trong thể thống nhất thì khi đó sự vật còn tồn tại.
Vì vậy thống nhất có tính tương đối.
- Nhưng trong khi các mặt đối lập thống nhất với nhau, quá trình đấu tranh giữa chúng
không ngừng diễn ra. Đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho bản thân các mặt đối lập
đều biến đổi, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng phát triển. Khi sự đấu tranh đó lên đến đỉnh
điểm, các mặt đối lập xung đột gay gắt, chúng sẽ chuyển hoá cho nhau, mâu thuẫn được
giải quyết, thể thống nhất cũ bị phá vỡ, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Vì vậy đấu
tranh có tính tuyệt đối.
- Mâu thuẫn cũng có quá trình vận động, phát triển: lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là
sự khác nhau căn bản của các mặt đối lập nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự
khác nhau đó ngày càng phát triển đi đến chỗ đối lập, rồi sau đó xung đột gay gắt. Khi hội
đủ những điều kiện thích hợp, mâu thuẫn sẽ được giải quyết làm cho sự vật vận
động và phát triển.
Tóm lại: mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng cần phát hiện ra những mâu thuẫn tồn tại trong
bản thân nó.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ của các mâu thuẫn, của từng mặt đối lập
trong mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu
đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng phát triển và tìm ra được những phương
pháp để giải quyết mâu thuẫn.
Quy luật phủ định của phủ định
Vị trí của quy luật: Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh ớng của sự vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc trưng cơ bản của
- Phủ định: là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện ợng khác; thay thế
hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận
động và phát triển.
- Phủ định biện chứng: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển
tự thân, là mắt khâu trong quá trình ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. Là sự ph
định tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật.
- Những đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng: có tính khách quan và tính kế thừa.
+ Tính khách quan: nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật chứ không
phải ở bên ngoài sự vật hay một lực lượng siêu nhiên nào đó. Nguyên nhân đó chính là
những mâu thuẫn tồn tại bên trong sự vật. Việc g iải quyết những mâu thuẫn này làm cho
sự vật không ngừng vận động, phát triển. Như vậy, phủ định biện chứng là một tất yếu
khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn,
ý chí của con người hay một lực lượng thần bí.
+ Tính kế thừa: cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ chứ
không phải là sự thủ tiêu, phá huỷ hoàn toàn cái cũ.
Cái mới ra đời trên cơ sở khẳng định những mặt tốt, những yếu tố tích cực, phù hợp của
cái cũ; đồng thời loại bỏ những cái tiêu cực, lạc hậu, những mặt không còn phù hợp với
hiện thực. Tuy nhiên, những nhân tố của sự vật cũ được giữ lại vẫn phải được cải tạo,
được biến đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Phủ định biện chứng là sự liên
hệ giữa cái cũ và cái mới, là sự thống nhất giữa khẳng định và phủ định, là mắt khâu tất
yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Phủ định của phủ định
- Trong quá trình phát triển, sự vật trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, mỗi lần phủ
định đó đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Quá trình
này diễn ra vô tận làm cho sự vật phát triển từ thấp đến cao, diễn ra có tính chất chu kỳ
theo hình thức “xoáy ốc”. Quá trình phát triển đó được gọi là sự “phủ định của phủ
định”.
- Sự “phủ định của phủ định” diễn ra có tính chu kỳ. Mỗi chu kỳ đều trải qua ít nhất hai
lần phủ định biện chứng, trong đó, sự vật mới ra đời dường như lặp lại sự vật ban đầu
nhưng ở trình độ phát triển cao hơn về chất do kế thừa và biến đổi được những nhân tố
tích cực, hợp lý và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, không hợp lý của sự vật ban đầu
qua những lần phủ định; đồng thời, điểm kết thúc của chu kỳ phát triển này của sự vật lại
là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển mới của nó.
- Sự phủ định biện chứng của sự vật diễn ra vô tận, các chu kỳ phát triển của nó nối tiếp
nhau tạo ra khuynh hướng phát triển có tính chất phổ biến: sự phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Khuynh hướng phát triển theo đường “xoáy
ốc” đã khái quát được tính chất biện chứng của sự phát triển bao gồm: tính kế thừa, tính
lặp lại và tính tiến lên vô tận, đồng thời thể hiện tính quanh co, phức tạp, đa dạng của quá
trình phát triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải nắm được xu thế phát triển tất yếu của nó, đồng
thời phải thấy được quá trình phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà là một quá
trình quanh co, phức tạp gồm nhiều giai đoạn, quá trình khác nhau.
- Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu ra đời
thay thế cái cũ. Vì vậy, cần có thái độ lạc quan trước cái mới và tạo điều kiện cho cái mới
ra đời.
- Mặt khác, đối với cái cũ, cần kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố tích cực, hợp
quy luật và loại bỏ những nhân tố trái quy luật để thúc đẩy sự vật phát triển theo chiều
hướng tiến bộ.
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
* Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới
khách quan.
* Các nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
- quan. Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới khách
- Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo.
- Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
* Các trình độ nhận thức
Tùy thuộc các cách tiếp cận khác nhau có thể chia nhận thức thành:
- Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
+ Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ trực tiếp các sự vật quan sát
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay thực nghiệm khoa học, từ đó rút ra những tri thức
kinh nghiệm.
+ Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất,
quy luật của các sự vật hiện tượng, từ đó h thành những tri thức lý luận. Mối quan hệ ình
biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận: nhận thức kinh nghiệm và
nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho
nhận thành lý thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể để từ đó tổng kết, khái quát
luận mới. Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm,
hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh
nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của
con người, thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng
lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến.
- Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
+ Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nhận thức thông thường mang tính phong
phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
+ Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ
sự phản ánh đặc điểm, bản chất những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản
ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgích. Đó là các khái niệm, phạm trù và các quy
luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa
có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương
pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả
sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học: nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình
nhận thức nhưng Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, nhận thức
thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung củ
các khoa học. Ngược lại nhận thức khoa học lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
* Nguồn gốc của nhận thức
Lý luận nhận thức duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới. Lý
luận này xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh
thế giới vào bộ óc của con người.
Đối với chủ nghĩa duy vật, thế giới tồn tại khách quan, ở bên ngoài, không phụ thuộc vào
ý thức loài người, là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức. Thế giới đó khi tác
động lên giác quan của con ngườ nên những cảm giác khác nhau. Nhận thức là i thì gây
phản ánh thế giới vào óc của con người. Như vậy, không thể có bất kì nhận thức nào nếu
thiếu sự tác động của các đối tượng, các điều kiện bên ngoài lên ý thức con người. Chỉ
nhờ kết quả sự tác động như thế mới làm xuất hiện trong đầu óc con người những mô
hình của các đối tượng. Từ đó suy ra, quá trình nhận thức diễn ra dưới hình thức liên hệ
và tương tác biện chứng lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể nhận thức.
* Bản chất của nhận thức
Sự đối lập giữa lý luận duy vật và lý luận duy tâm về nhận thức biểu hiện trước hết trong
vấn đề bản chất của sự nhận thức.
- Trường phái triết học duy tâm, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về nhận thức. Có
nhà triết học cho rằng, nhận thức là “sự hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các
ý niệm” mà nó đã từng chiêm ngưỡng nhưng bị lãng quên đi (Platon); có nhà triết học lại
quan niệm, nhận thức là quá trình thuần túy lôgíc của tư duy tự vận động, “tự đi sâu vào
bản thân” (Arixtốt), có nhà triết học lại giải thích, nhận thức là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối” (Hêghen). Như vậy, đối với các nhà triết học duy tâm, ngay cả khi họ thừa
nhận rằng có thể nhận thức được thế giới sự vật hiện tượng thì sự nhận thức đó cũng chỉ
là loại hoạt động đặc biệt, hoàn toàn độc lập với thế giới cảm tính.
- Trường phái triết học duy vật trước Mác, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới
của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của
con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa
duy vật trước Mác coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép
nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Đặc biệt, họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức.
- Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất nhận thức: Nhận thức là một
quá trình phản ánh tích cực, tự giác sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người
trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Khái niệm thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.-
* Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt
động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của
mình.
+ Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác -
nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát chính trị -
triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là
hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội, nhằm xác định những quy luật biến
đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau,
không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò
quyết định đối với các loại hoạt động thực tiễn khác.
* Va i trò của thực tiễn với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức con người; là tiêu chuẩn, thước đo tính chân
thực của các tri thức đã thu được. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp
của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát
triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải
tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ
những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài
liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và
phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng
hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải “đo đạc diện tích và đong
lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà
toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mác xít vào những năm 40
của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học
mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động
thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu,
khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không có một
lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ,
hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức
sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy,
chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn
mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không
ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác
dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai
trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải
luôn luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Bài học quan điểm thực tiễn
- Từ việc nghiên cứu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn
luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.
- Quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọn tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu g công tác
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt
đối nghiệm. hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa kinh
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và hoạt động lý luận là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin; Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn -
liền với thực tiễn, lý lu có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính ận mà không
chân lý thì chỉ là lý luận suông, ngược lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học soi sáng
sẽ thành thực tiễn mù quáng.
4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý: Trong Bút
ký triết học, V. I. Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như
sau: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
- khách đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực
quan”.
* Giai đoạn thứ nhất: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng (từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lý tính)
- Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người
phản ánh trực tiếp khách thể bằng các giác quan. Nhận thức cảm tính bao gồm 3 hình thức
cơ bản: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
+ Cảm giác: là hình thức sơ khai, đơn giản nhất của quá trình nhận thức. Đó là sự phản
ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật.
+ Tri giác: là sự liên kết các cảm giác để đem lại hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật.
+ Biểu tượng: là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm
giác và tri giác. Nó là hình thức cao nhất của giai nhận thức cảm tính. Nó là khâu đoạn
trung gian giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Nhận thức lý tính: là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách
quan. Nhận thức lý tính bao gồm 3 hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý.
+ Khái niệm là hình thức đầu tiên của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất
của sự vật.
+ Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, là sự kết các khái niệm với liên
nhau để khẳng định hay phủ định một thuộc tính, một đặc điểm nào đó của đối tượng
nhận thức.
+ Suy lý là hình thức cao nhất của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở liên kết
các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Tuy nhiên, để quá trình suy luận đạt tới
trình độ tư duy đúng đắn cần phải tuân thủ các nguyên tắc: các phán đoán tiền đề là chân
thực và đồng thời tuân theo những quy tắc lôgích.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn:
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn phản ánh hai trình độ khác
nhau của quá trình nhận thức nhưng có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau.
+ Nhận thức cảm tính cung cấp những tài liệu cho nhận thức lý tính và nhận thức lý tính
định hướng cho nhận thức cảm tính.
* Giai đoạn thứ hai: từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn
Đến giai đoạn nhận thức lý tính con người đã có những tri thức về sự vật. Tuy nhiên, nếu
dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới g còn bản chỉ có những tri thức về đối tượn
thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì chưa thể khẳng định được.
Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay
không. Để khẳng định được điều này thì nhận thức nhất thiết phải quay trở lại thực tiễn để
kiểm tra trong thực tiễn. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
+ Tính tương đối: tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan nhưng không
hoàn toàn đầy đủ. ệt đối và tính tương đối của chân lý phụ thuộc vào khả năng Tính tuy
nhận thức của con người. Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời
nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của
các chân lý tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý tương đối bao giờ cũng chứa đựng
những yếu tố tuyệt đối.
- Tính cụ thể của chân lý: phản ánh sự vật hiện tượng trong những điều kiện lịch sử cụ
thể.
* Vai trò của chân lý với thực tiễn
- Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng
những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình.
Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
- song trùng trong quá Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ
trình vận động, phát triển; chân lý phát triển được nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển
được nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức của con người cần phải xuất phát từ thực tế
để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên
tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễ n, nâng cao
hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội. Coi trọng tri thức khoa học và tích
cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó trong các hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu
quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa
học trong thực tiễn hiện nay.
Ví dụ: Triết học Mác – Lênin được coi là khoa học đúng đắn, là chân lí khi được khoa học
chứng minh, được thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân giành thắng lợi
từ khi cách mạng tháng Nga thành công (năm 1917). Mười
B. PHẦN BÀI TẬP
1. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn? Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
2. Phân tích yêu cầu của nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn?
Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
3. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn? Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
4. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
5. Phân tích phương thức chung của mọi sự vận động, phát triển của thế giới sự vật hiện
tượng? Cho ví dụ cụ thể?
6. Cho ví dụ cụ thể để phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên?
7. Cho ví dụ cụ thể để phân tích luận điểm “Học đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với
thực tiễn”.
CHƯƠNG III CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ:
A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. HỌC THYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội
* Khái niệm sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất
Để tồn tại và phát triển thì con người phải sản xuất. Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng
có của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội gồm ba loại hình cơ bản: sản xuất
vật chất, sản xuất đời sống tinh thần và sản xuất bản thân con người. Sản xuất vật chất
đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hai loại hình còn lại.
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Sản xuất vật chất có vai trò vô cùng quan trọng. Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Cụ thể:
+ Sản xuất vật chất là điều kiện khách quan của sự sinh tồn xã hội. Hoạt động sản xuất vật
chất tạo ra tư liệu sinh hoạt duy trì sự tồn tại và phát triển của con người.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả những quan hệ xã hội khác như: quan hệ
chính trị, pháp quyền, đạo đức...
+ Sản xuất vật chất là nhân tố quyết định tiến bộ xã hội, là điều kiện để phát triển đời
sống tinh thần của con người và xã hội
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, sản xuất vật chất được thực
hiện theo những cách thức khác nhau. Cách thức tiến hành sản xuất vật chất được gọi là
phương thức sản xuất.
- Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất qua những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
+ Mỗi xã hội ở một giai đoạn lịch sử đều có phương thức sản xuất với những đặc điểm
riêng của nó.
+ Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cấu thành (phương diện kỹ thuật và
phương diện kinh tế).
Trong lịch sử xã hội loài người trải qua 5 PTSX khác nhau: CXNT => CHNL => PK =>
TBCN => CSCN
- Vai trò của phương thức sản xuất
+ Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và quá trình biến
đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao.
+ Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu
khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người có thể diễn ra tuần tự hay không
tuần tự tùy thuộc vào điều kiện chủ quan hay khách quan của mỗi cộng đồng người trong
mỗi giai đoạn lịch sử.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
* Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất (“nội dung vật chất” của quá trình sản xuất):
+ Khái niệm: Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là sự thống nhất hữu cơ giữa
TLSX và lao động của con người cùng khả năng và kinh nghiệm của họ
+ Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm: Tư liệu sản xuất + Người lao động
Người lao động (năng lực, kỹ năng, tri thức của người lao động), đóng vai trò quyết định
trong các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất. Người lao động: là yếu tố đầu tiên chủ yếu
của mọi quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố:
+ Nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người, sức lao động của con người ( sức thần kinh,
sức cơ bắp mà con người vận dụng để sử dụng, điều khiển công cụ lao động),
+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động (là sự hiểu biết về đối tượng lao động, tính năng, tác
dụng của công cụ lao động
Tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình
sản xuất; trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất và
thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất). TLSX = TLLĐ + ĐTLĐ
+ TLLĐ bao gồm công cụ lao động và các phương tiện, vật liệu lao động mà con người
sử dụng để tác động lên giới tự nhiên để tạo ra t chất để phục vụ con người. của của vậ
+ ĐTLĐ là toàn bộ những thứ mà con người dùng các tư liệu sản xuất tác động trực tiếp
và nhằm cải biến nó để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người. Lưu ý:
ngày nay, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn trong lực lượng sản xuất, là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, và ngày càng trở thành “lực lượng sản xuất trực
tiếp”.
- Quan hệ sản xuất (“hình thức xã hội” của quá trình sản xuất):
+ Khái niệm: quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với c người trong qúa trình on
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
+ Kết cấu của quan hệ sản xuất bao gồm:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ tổ chức, quản lý và phân công lao động.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Trong QHSX, các quan hệ này luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với
nhau, trong đó quan hệ người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng
và chi phối các quan hệ khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó
lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực
lượng sản xuất.
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất; nội dung quyết định sự tồn tại, vận động
và biến đổi của hình thức. Vì vậy, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan
hệ sản xuất.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất thể hiện trên các nội
dung cơ bản sau: quyết định tính chất, hình thức của quan hệ sản xuất; quyết định sự tồn
tại, vận động và phát triển của quan hệ sản xuất.
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất
(không ngừng phát triển), quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã trở nên
lỗi thời. Quan hệ sản xuất khi ấy trở thành xiềng xích trói buộc sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Vì vậy, xuất hiện yêu cầu phải giải quyết mâu thuẫn, thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
dẫn đến sự ra đời một phương thức sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng cũng luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này thể hiện ở một trong hai trạng
thái:
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ tạo
điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc
hậu hơn hay tiến bộ một cách giả tạo) thì sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự tác động qua lại từ phù hợp -
không phù hợp phù hợp... cứ như vậy sự phát- triển của các phương thức sản xuất diễn ra
liên tục không ngừng.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn
gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất.
Quy luật này cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn
bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến đổi trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng
đồng người trong lịch sử.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- n Kết cấu cơ sở hạ tầng bao gồm ba bộ phận cơ bản: quan hệ sả xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thức mầm mống. Trong đó, quan
hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định tính chất, đặc trưng của cơ sở hạ tầng.
* Khái niệm, kết cấu kiến trúc thượng tầng (“phương diện ch trị” của đời sống xã hội)ính
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu các
hình thái ý thức xã hội cùng với những thiết chế xã hội tương ứng, được hình chính trị -
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Kết cấu kiến trúc thượng tầng bao gồm hai bộ phận cơ bản: các hình thái ý thức xã hội
(chính trị, pháp quyền, tôn giáo...), các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (đảng phái,
nhà nước, giáo hội...).
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
* Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất và sự vận động biến đổi của kiến trúc
thượng tầng.
- Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó và tính
chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Tuy
nhiên, sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá phức tạp, có những yếu tố thay
đổi chậm, hoặc có những yếu tố được kế thừa trong xã hội mới như các hình thái ý thức
xã hội (đạo đức, tôn giáo...).
- Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong xã hội có đối kháng giai
cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã
hội.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng biểu hiện trước hết ở
chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng l bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ à
tầng đã sinh ra nó và đấu tranh chống lại tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng cũ hoặc mầm mống của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nếu chúng ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nó.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai xu hướng:
+ Thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của cơ sở hạ tầng (nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp
với cơ sở hạ tầng).
+ Kìm hãm sự tồn tại và phát triển của cơ sở hạ tầng (nếu k trúc thượng tầng không iến
phù hợp với cơ sở hạ tầng).
- Mỗi yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng khác nhau thì tác động đến cơ sở hạ tầng
theo những cách khác nhau, song trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có nhà nước thì
thường phải tác động thông qu nhà nước mới có thể phát huy mạnh mẽ vai trò của nó. a
Nhà nước là yếu tố trong kiến trúc thượng tầng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới
cơ sở hạ tầng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Để nghiên cứu một cơ cấu kinh tế - nghxã hội, phải xuất phát từ việc iên cứu cơ sở hạ
tầng.
Trong nhận thức và hành động, phải tôn trọng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng.
4. Sự phát triền của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên- -
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
* Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế hội-
- - Khái niệm: hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- - Kết cấu của hình thái kinh tế xã hội:
+ Phương thức sản xuất: đóng vai trò hạt nhân, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất.
Trong phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất đóng vai trò kép: vừa là một trong hai yếu
tố cấu thành phương thức sản xuất, vừa hợp thành cơ sở hạ tầng mà trên đó hình thành
một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
+ Kiến trúc thượng tầng: được hình thành trên cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết
định
b. Tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài người-
Sự phát triển của các hình thái kinh tế hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó - -
thể hiện ở sự thống nhất giữa quy luật khách quan và nhân tố chủ quan đối với sự vận
động, phát triển của xã hội.
- - Quy luật khách quan: hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp,
trong đó các yếu tố không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận
động, phát triển của xã hội. Bao gồm:
+ Quy luật về sự phù hợp giữa trình độ của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất: với
tư cách là nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển xã hội, lực lượng sản xuất vận
động, phát triển đã quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất, dẫn đến sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới.
+ Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: đến lượt mình, các
quan hệ sản xuất hợp thành một cơ sở hạ tầng nhất định của một xã hội, và sự vận động
phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ làm kiến trúc thượng tầng biến đổi, làm biến đổi toàn bộ cơ
cấu kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội.
- Nhân tố chủ quan: tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, của ý thức con người trong
việc nhận thức quy luật và tác động trở lại hiện thực khách quan.
Lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia
dân tộc. Có những khu vực, những quốc gia dân tộc phát triển tuần tự từ thấp đến cao, và
có sự tách bạch rõ ràng giữa các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử. Nhưng cũng có -
những khu vực, những quốc gia dân tộc có sự tồn tại và phát triển đan xen và bỏ qua một
hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nào đó trong những điều kiện lịch sử nhất định.-
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Chủ nghĩa duy tâm khi giải thích các vấn đề xã hội, thường xuất phát từ ý thức tư tưởng, ý
chí chủ quan của con người với tư cách là yếu tố quyết định.
Với lý luận hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử hẳng định:- k
- Để giải thích các hiện tượng xã hội, phải xuất phát từ trình độ phát triển của phương
thức sản xuất hiện thời, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định, các quan hệ
sản xuất là nền tảng của các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần xã hội.
- Xã hội không phải là một sự kết hợp ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một
cơ thể hữu cơ sống động với các yếu tố cấu thành tác động qua lại lẫn nhau hợp thành một
hệ thống thống nhất, vận động và phát triển theo các quy luật chung. Trong đó, quan hệ
sản xuất là cơ bản và quyết định các loại hình quan hệ xã hội khác, đồng thời là tiêu
chuẩn để phân định các chế độ xã hội.
- Sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế
- xã hội, tuân theo các quy luật khách quan và vai trò của nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, muốn nhận thức đúng về sự phát triển của xã hội, trên cơ sở đó tác động vào hiện
thực khách quan, phải nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của mỗi hình thái kinh tế
- xã h ội với những nét đặc thù ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia dân tộc trên cơ sở những quy
luật xã hội chung nhất.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng với quá trình xây
dựng đất nước ở Việt Nam. Là một quốc gia đi lên từ nền sản xuất nhỏ, trong bối cảnh
lịch sử hôm nay, để phát triển đất nước chúng ta có thể bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được ở chế độ tư bản, từ đó phát triển lực lượng
sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Giai cấp
- Giai cấp là những tập đoàn người gồm những người khác nhau về địa vị trong một hệ
thống sản xuất xã hội (cụ thể: khác nhau về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, khác nhau về
tổ chức phân công lao động, khác nhau về phân phối sản phẩm). V.I. Lênin định nghĩa:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội
nhất định”
Ví dụ: xã hội cổ đại (chiếm hữu nô lệ) có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, xã hội
trung cổ (phong kiến) có hai giai cấp cơ bản là lãnh chúa địa chủ và nông nô, xã hội
đương đại (tư bản) có hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản.
Khái niệm này cho thấy, giai cấp là hệ thống các tập đoàn người trong một hình thái kinh
tế - - xã xã hội nhất định, và là phạm trù kinh tế hội mang tính lịch sử với ba đặc trưng:
khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất, khác nhau về vai trò trong tổ chức quản lý
lao động xã hội, khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội.
Bên cạnh giai cấp, còn có các tầng lớp xã hội, nhóm xã hội gắn liền với một hoặc một vài
thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
- Tầng lớp xã hội: dùng để chỉ sự phân tầng trong bản thân một giai cấp căn cứ trên địa vị
và những sự khác biệt khác; hoặc các nhóm người ngoài kết cấu giai cấp và mang tính
trung gian.
Ví dụ: tầng lớp trí thức, tầng lớp tiểu tư sản.
Nguồn gốc giai cấp
- Nguồn gốc trực tiếp: chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cuối thời kỳ nguyên thủy, khi
công cụ sản xuất kim loại được đưa vào sử dụng, cùng với nó là sự phân công lao động xã
hội lần thứ nhất đã tách bạch nông nghiệp khỏi thủ công nghiệp, dẫn đến năng suất lao
động ngày càng tăng, con người có thể sản xuất ra khối lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu
tối thiểu. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dẫn đến việc
người này, tập đoàn này có thể sử dụng nó để chi phối người khác, tập đoàn khác. Đây
chính là tiền đề trực tiếp cho sự phân hóa xã hội thành giai cấp.
- Nguồn gốc sâu xa: tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao độ
của lực lượng sản xuất.
Theo chiều dài lịch sử, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển và ngày càng mang
tính xã hội hóa sâu sắc, hình thành một nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình này
chưa đạt đến một mức độ, một quy mô đủ để phá vỡ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, mà
vẫn tiếp tục tạo lập cơ chế tồn tại cho giai cấp.
Điều kiện tồn tại và tiêu vong của giai cấp:
- Trình độ của lực lượng sản xuất: khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
nào đó, dẫn đến quá trình xã hội hóa cao độ sẽ làm cho sự phân chia giai cấp mất đi cơ sở
kinh tế xã hội của nó.-
- Trình độ của con người: giai cấp không tự nhiên mất đi, mà nó còn phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh vì dân chủ tự do của con người, xóa bỏ giai cấp và xây dựng một xã hội mới tốt
đẹp hơn.
b. Đấu tranh giai cấp
- Trong xã hội có giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, theo V. I. Lênin đấu tranh
giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động,
chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai
cấp tư sản”. mang tính xã Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển
hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một
bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là
giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc
hậu.
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp: Đỉnh
cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương
thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất
mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ
là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát
triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế -
xã hội.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả
bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai
cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.
Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách
mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong
lịch sử xã hội có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh
trước đó trong lịch sử bởi mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở
hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi
giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức
đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V. I. Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản,
những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực,
vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững
thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý
sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở
đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và
văn minh .
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp, đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh giai cấp
trong chiều dài lịch sử.
- Đấu tranh giai cấp: cuộc đấu tranh giữa một bên là nhân dân lao động làm thuê, bị áp
bức bóc lột (giai cấp bị trị), chống lại những kẻ đi áp bức bóc lột (giai cấp thống trị).
Ví dụ: cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô (chế độ chiếm hữu nô
lệ), cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản (chế độ tư bản chủ nghĩa).
- Đấu tranh giai cấp có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: đấu tranh
chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hóa tư tưởng, đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn
giáo...
Ngày nay, các hình thức đấu tranh giai cấp rất đa dạng và phức tạp.
- Vai trò của đấu tranh giai cấp: là một trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ,
phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, để thay đổi một quan hệ sản xuất đã lỗi thời bằng một
quan hệ sản xuất tiến bộ hơn và phù hợp với s phát triển mới của lực lượng sản xuất, đòi
hỏi phải có một cuộc cách mạng xã hội. Mâu thuẫn sâu xa ấy thể hiện trên bình diện xã
hội là mâu đó phá thuẫn giai cấp, và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn này, từ
bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.
c. Giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
- giai Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – cấp ở Việt Nam đa dạng,
phức tạp bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh
nhân,... trong đó khối liên minh trí thức là nền tảng của Nhà nước pháp công - nông -
quyền xã hội chủ nghĩa, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay diễn ra trong điều kiện mới,
nội dung và hình thức mới:
Thứ nhất, điều kiện mới: quan hệ giữa các giai tầng chủ yếu là quan hệ hợp tác v à đấu
tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, thực hiện mục tiêu chung độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nội dung mới: đấu tranh thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá
trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ ba, hình thức mới: Đấu tranh giữa một bên là quần nhân dân lao động, các lực chúng
lượng xã hội tiến bộ với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống phá độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước, phá hoại trật tự xã hội và an ninh
quốc gia.
Đấu tranh giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh
vực kinh tế, tư tưởng, văn hóa,... Hiện nay các thế lực thù địch tiếp tục dùng nhiều thủ
đoạn thâm độc để chống phá chế độ, đặc biệt sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ để chống ch mạng Việt Nam trên nhiều phương diện: Về chính trị, phá cá
chúng lợi dụng các vấn đề dân tộc (giương cao chiêu bài dân tộc tự quyết), tôn giáo (tự do
tôn giáo - vu khống Đảng và Nhà nước ta vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo), nhân
quyền (vu khống Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền), đòi “đa nguyên, đa đảng”,
bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Lênin, phủ nhận những thành tựu của chủ nghĩa xã - Mác
hội hiện thực,...
Về kinh tế, do có ưu thế hơn về kinh tế, chúng tìm cách bao vây, cấm vận, chèn ép về
kinh tế, buộc các nước này phải đi theo quỹ đạo của chúng. Đặc biệt, hiện nay thông qua
con đường hợp tác, đầu tư về kinh tế có thể kèm theo những điều kiện chính trị. Về văn
hóa, tư tưởng, chủ nghĩa tư bản giương cao chủ nghĩa thực dụng, với phương châm “cái gì
lợi là chân lý”, đề cao giá trị, lối sống, văn hóa phương Tây, chúng tìm cách diễn biến
để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tập trung tác động, lôi
kéo thế hệ trẻ dần dần đánh mất đi truyền thống lịch sử, hệ tư tưởng Mác Lênin, xa rời -
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bởi vậy, nhận định về tình hình trong nước những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” trong khu vực và
của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức
tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt
xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng
và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn.
Tình hình chính trị - . xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định”
2. Dân tộc
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng đồng. Trong
quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời, các hình thức cộng đồng người
cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc.
b. Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính
trị và nhà nước. Nếu trong bộ tộc các cộng đồng dân cư liên kết với nhau chưa dựa trên
những nguyên tắc pháp lý, chưa thực sự là một cộng đồng dân cư ổn định và bền vững;
thì ngược lại, dâ tộc là một cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, ổn định và tương n
đối bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao. Dân tộc là một cộng đồng dân cư
gồm có những đặc điểm chung thống nhất chặt chẽ:
+ Thứ nhất, cộng đồng về lãnh thổ: Lãnh thổ là sự bi thể về mặt chủ quyền của ểu hiện cụ
một dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác. Lãnh thổ bao gồm chủ quyền cả
về vùng đất, vùng trời, vùng biển và các hải đảo, thềm lục địa... Trong một quốc gia nhiều
dân tộc thì của tất cả các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ
thành. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là kết quả lao động kiến tạo của cả một
dân tộc trong suốt quá trình hình thành dân tộc. Nó được thể chế bằng luật pháp quốc gia
và quốc tế. Lãnh thổ là chủ quyền hông thể chia cắt, là nơi sinh tồn phát triển và là nền k
tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Thứ hai, cộng đồng về kinh tế: Cộng đồng chung về kinh tế là nhân tố bảo đảm cho sự
tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc. C. Mác và Ph. Ăngghen chứng minh rằng,
động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà nước, một quốc gia thống nhất chính là yếu tố
kinh tế. Trong một dân tộc thường tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội có lợi ích
riêng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặc dù vậy, trong sự khác biệt ấy vẫn phải có
những tương đồng nhất định về mặt lợi ích. Lịch sử cho thấy, sự tương đồng và phù hợp
về lợi ích càng lớn, tính thống nhất của dân tộc càng cao, sự cách biệt và đối lập về lợi ích
giữa các bộ tộc dân tộc càng cao, nguy cơ tan rã dân tộc càng lớn. Một quốc gia thống
nhất, một dân tộc thống nhất phải được bảo đảm và phải dựa trên cơ sở cộng đồng chung
về kinh tế. Tính thống nhất, tính tương đồng và ổn định chung về kinh tế luôn luôn là
nhân tố bảo đảm cho sự thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Thứ ba, cộng đồng về ngôn ngữ: Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất trong giao tiếp
của các dân tộc. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, nhưng trong một
quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ được
chọn làm ngôn trình ngữ thống nhất thường là sản phẩm và là kết quả tất yếu của một quá
phát triển lâu dài về kinh tế xã hội của các dân tộc trong một quốc- gia.
+ Thứ tư, cộng đồng về văn hóa, về tâm lý: Văn hóa là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết
cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất. Lịch sử phát triển văn hóa của mỗi dân tộc
rất phong phú và đa dạng. Ngay từ thời nguyên thủy, mỗi thị tộc, bộ lạc, bộ tộc... có
những điều kiện sinh sống riêng, nên văn hóa cũng có những sắc thái riêng. Văn hóa của
một dân tộc phản ánh khái quát tính đa dạng chung của các sắc tộc, các cộng đồng dân cư
trên cùng một vùng lãnh thổ. Đặc trưng chung của văn hóa dân tộc là thống nhất trong
tính đa dạng. Nó được chắt lọc trải dài trong suốt lịch sử đấu tranh để sinh tồn của mỗi
dân tộc. Trong quá trình phát triển, các thành viên của dân tộc thuộc các tầng lớp xã hội
khác nhau, một mặt giữ gìn bảo vệ những di sản văn hóa riêng của mình, mặt khác tham
gia vào sự sáng tạo ra những giá trị văn hóa chung của cả cộng đồng. Xã hội càng phát
triển nhu cầu về văn hóa càng cao. Hơn thế nữa, văn hóa còn là động lực của sự phát
triển, là công cụ bảo vệ độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia. Đấu tranh bảo vệ chủ
quyền dân tộc phải được thể hiện thông qua cuộc đấu tranh chống lại nguy cơ đồng hóa
về văn hóa. Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là động lực không thể
thiếu được của sự phát triển. Thông qua giao lưu về văn hóa, mỗi dân tộc tự nâng mình
lên, tự hoàn thiện mình nhờ học hỏi những văn hóa của dân tộc khác. tinh hoa
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện vật chất riêng nên văn hóa cũng
không đồng nhất. Mặc dù vậy, các giai cấp, các lực lượng xã hội ấy vẫn phải chịu sự tác
động và chi phối bởi những yếu tố văn hóa chung của cộng đồng. Mỗi dân tộc còn có tâm
lý lối sống và những nét tính cách riêng. Tâm lý và nét tính cách riêng của mỗi dân tộc
trước hết là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, điều kiện địa lý, dân cư và nét đặc thù
văn hóa riêng của dân tộc ấy.
Cộng đồng về lãnh thổ, cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về ngôn ngữ, về văn hóa, tâm lý
là bốn đặc trưng không thể thiếu của mỗi dân tộc.
Đó chính là những yếu tố có mối quan hệ nội lực mạnh mẽ. Nó vừa kết dính dân tộc thành
một khối, vừa tạo ra động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Với
những đặc trưng trên, dân tộc hình thành thường gắn liền với quá trình hình thành và phát
triển của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, song cũng có những dân tộc hình thành
không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
3. Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại
a. Quan hệ giai cấp – dân tộc
Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau song đó là những phạm trù chỉ các quan hệ
xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế được nhau. Giai cấp
và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại nói chung, giai cấp
có trước dân tộc hàng nghìn năm song khi giai cấp mất đi thì dân tộc sẽ vẫn còn tồn tại.
Sẽ không hiểu được bản chất của vấn đề dân tộc, mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và
dân tộc nếu không nhận rõ vai trò của nhân tố kinh xã hội, của nhân tố giai cấp. Quan tế -
hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có -
giai cấp – nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, đối
với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định tính chất mối quan hệ giữa các dân tộc.
Bản chất xã hội của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân
tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra. Áp bức giai cấp là
nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Hiện tượng dân tộc này thống trị, áp bức
dân tộc khác trong lịch sử, về thực chất là giai cấp thống trị của dân tộc này áp bức bóc lột
dân tộc khác mà bộ phận bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất là nhân dân lao động. Nhân tố
giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Giai cấp nào lãnh đạo
phong trào; những giai cấp, liên minh giai cấp nào là lực lượng nòng cốt của phong trào là
những vấn đề trọng yếu cách mạng giải phóng dân tộc.của
Trong khi nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp, Chủ nghĩa Mác
- Lênin không xem nhẹ nhân tố dân tộc. Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quan
trọng hàng đầu của cách mạng vô sản song nó chỉ được nhận thức và giải quyết đúng đắn
trên lập trường của giai cấp cách - mạng nhất giai cấp công nhân.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mang tính chất quốc tế và đoàn kết
quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải
phóng n hững ngưòi lao động. C.Mác – Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thường xuyên nhấn
mạnh rằng, giai cấp công nhân các nước, trước hết là các nước tư bản lớn, phải thoát khỏi
những thiên kiến của chủ nghĩa dân tộc tư sản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
- Lênin chỉ rõ rằng Đảng của giai cấp công nhân không lúc nào được coi nhẹ việc giáo
dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, nhưng giai cấp công nhân
không được quên rằng cuộc đấu tranh giải phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc là
địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân.
Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc không phải chỉ có một chiều là
đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại: đấu tranh
dân tộc tác động vào đấu tran giai cấp. Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai h
cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành "giai cấp dân tộc" phải đi đầu
trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc
lập, thống nhất dân tộc. Vì vậy, thành quả đầu tiên của cách mạng tư sản giữa thế kỷ XIX
ở các nước Italia, Đức, áo, Ba Lan là độc lập, thống nhất dân tộc. Giai cấp tư sản khi còn
là giai cấp cách mạng đã nêu cao vấn đề dân tộc để tập hợp quần chúng đấu tranh giành
và giữ quyền tư sản. Khi giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị thì "lợi ích dân chính
tộc" mà giai cấp tư sản nêu lên ngày càng lộ rõ thực chất của nó là lợi ích tư sản, chủ yếu
là lợi ích của đại tư sản.
b. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả loài người,
chẳng hạn những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, vấn đề dân số,
chống các loại dịch bệnh đe dọa sự sống còn của cả nhân loại. Lợi ích nhân loại là những
nhân tố đáp ứng yêu cầu phát triển của loài người mọi quốc gia, không phân biệt sự khác
nhau về giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại là không tách rời với lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp.
Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích nhân loại. Các giai cấp phản động thì lợi
ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân
loại.
Chủ nghĩa Mác - ng mình, giai Lênin chỉ ra rằng, muốn giải phó cấp vô sản phải giải
phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp
của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Nhà nước
a. Nguồn gốc của nhà nước
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến năng suất lao động được nâng cao, xã
hội có của cải dư thừa là cơ sở khách quan làm nảy sinh khát vọng chiếm đoạt của chung -
về làm của riêng (tư hữu). Đó là nguyên nhân cơ bản của sự xuất hiện chế độ chiếm hữu
tư nhân và chế độ người bóc lột người vào cuối xã hội công xã nguyên thủy.
+ Sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự bóc lột sức lao động đã hình thành trong
xã hội những người có của cải và những người không có của cải. Sự đối lập về lợi ích
kinh tế đó đã dẫn đến sự phân hóa hội thành giai cấp và sự đối kháng giai cấp.
+ Chiến tranh cướp đoạt giữa các thị tộc, bộ lạc khiến cho quyền lực của các thủ lĩnh quân
sự càng được củng cố và tăng cường, làm cho mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.
+ Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân. Từ
chỗ là công cụ của nhân dân trở thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân.
Như vậy, toàn bộ những nguyên nhân đó tác động và làm gia các mâu thuẫn giữa các tang
giai cấp trong xã hội. Các giai cấp không ngừng phát triển, kéo theo mâu thuẫn giữa các
giai cấp ngày càng lớn và có nguy cơ khiến các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt
luôn cả xã hội. Để ngăn chặn thảm họa đó, một cơ quan quyền lực đã ra đời đó là nhà -
nước. Như vậy, sự xuất hiện nhà nước không phải để giải quyết, điều hòa các mâu thuẫn
giai cấp mà để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật tự nhằm giúp cho giai
cấp chiếm đoạt được tư liệu sản xuất thực hiện được sự thống trị, bóc lột người lao động.
V. I. Lênin đã khẳng định “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
không thể điều hòa được” .
b. Bản chất nhà nước
Theo Ph.Ăngghen, về bản chất, Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp
này dùng để trấn áp một giai cấp khác. Không có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc
nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về
kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần
chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các
giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp.
Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều
xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
+ Nhà nước là một tổ chức thực hiện sự quản lý dân cư theo lãnh thổ nhằm thực hiện
quyền lực cai trị thống nhất đối với mọi người sống trong lãnh thổ đó.
+ Nhà nước phải là bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi
thành viên trong xã hội.
+ Để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị, nhà nước phải hình thành được một hệ thống
thuế khóa buộc các thành viên sống thổ phải có nghĩa vụ đóng góp.trong lãnh
Những đặc trưng cơ bản trên làm nên sự khác biệt về chất của nhà nước so với các tổ
chức xã hội có trước nhà nước như thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị - xã hôi khác
cùng tồn tại trong xã hội có nhà nước như đảng phái, hiệp hội, tôn giáo...
d. Chức năng của nhà nước
+ Nếu xét ở góc độ tính bản chất của quyền lực nhà nước thì nhà ớc có hai chức năng
cơ bản: Chức năng chính trị là chức năng phản ánh quyền lực thống trị về chính trị thuộc
về nhà nước. Chức năn thể hiện rõ đặc trưng cơ bản nhất, bản chất nhất của nhà g này
nước ở trong xã hội có giai cấp. Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó
sẵn sàng sử dụng mọi cộng cụ, mọi biện pháp để bảo vệ và duy trì sự thống trị của giai
cấp đó. Chức năng xã hội của nhà nước xác định: bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực
hiện việc quản lý những hoạt động chung để bảo vệ và duy trì sự tồn tại, ổn định và phát
triển xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu của cộng đồng dân cư trong lãnh thổ mà nhà
nước đó quản lý.
+ Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động quyền lực của nhà nước thì nhà nước có hai chức
năng: Chức năng đối nội phản ánh phạm vi tác động của quyền lực nhà nước trong phạm
vi một lãnh thổ, với những cư dân mà nhà nước đó quản lý. Chức năng đối ngoại là chức
năng phản ánh phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ra ngoài lãnh thổ và cư dân mà
nhà nước đó quản lý.
e. Các kiểu và hình thức nhà nước
+ Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn
tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với - hình thái kinh tế xã hội nào. Tương ứng
với ba hình thái kinh tế xã hội dựa trên sự đối kháng giai cấp có ba kiểu nhà nước khác -
nhau, đó là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Còn nhà nước vô
sản là kiểu nhà nước đặc biệt, là nhà nước kiểu mới, không còn nguyên nghĩa.
+ Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước chủ nô được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau
như chính thể quân chủ, chính thể quý tộc, chính thể dân chủ và chính thể cộng hòa. Về
bản chất, các hình thức nhà nước này đều là sự chuyên chính của giai cấp chủ nô. Nhà
nước phong kiến, ở phương Tây thì hình thức nhà nước phổ biến là chính thể quân chủ
phân quyền (tính phân quyền bị chi phối bởi sự cát cứ đất đai, đất đai càng rộng thì quyền
lực càng nhiều và ngược lại). Còn ở phương Đông, hình thức nhà nước phổ biến là chính
thể quân chủ tập quyền dựa trên chế độ chiếm hữu nhà nước về ruộng đất. Nhà nước tư
sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hai hình thức cơ bản
hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập hiến. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà
nước đặc biệt, là nhà nước “nửa nhà nước”.
- Nhà nước chuyên chính vô sản:
+ Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ, được xác lập
khi giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền và sẽ tự tiêu vong khi xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước mang bản chất của giai cấp vô sản, đặt dưới
sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản.
+ Nhà nước chuyên chính vô sản không chỉ có chức năng trấn áp mọi thế lực chống đối
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng một nền
kinh tế mới, xã hội mới.
2. Cá ch mạng xã hội
a. Nguồn gốc của cách mạng xã hội
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
- Nguyên nhân trực tiếp của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Bản chất của cách mạng xã hội
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về
chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã
hội lỗi thời bằng hình thái kinh xã hội cao hơn. tế-
Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập
một chế độ chính trị tốt đẹp hơn.
c. Phương thức cách mạng
Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều không thể
thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi
giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác
lập nhà nước của giai cấp vô sản. Bạo lực cách mạng là tất yếu, bởi vì giai cấp thống trị
lỗi thời không bao giờ tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị của mình. Trái lại, nó sẵn sàng sử
dụng quyền lực của nhà nước với bộ máy bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng. Vì
vậy, để lật đổ giai cấp thống trị và giành chính giai cấp cách mạng không có con quyền,
đường nào khác là phải dùng đến bạo lực cách mạng.
Trong lịch sử nhân loại, chưa có giai cấp cách mạng nào giành được chính quyền nhà
nước bằng con đường phi bạo lực, ngay cả khi ức cách mạng được thực hiện dưới hình th
tương đối hòa bình.
Trong khi khẳng định cách mạng bạo lực, triết học Mác Lênin không phủ nhận khả
năng đưa cách mạng xã hội tiến lên bằng phương pháp hòa bình, kể cả việc sử dụng “con
đường nghị trường”; song nó chỉ được bảo đảm khi có sức mạnh của phong trào quần
chúng - - bạo lực cách mạng làm hậu thuẫn.
Ngày nay, xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại không hề bác bỏ quan điểm mácxít về
cách mạng bạo lực, bởi vì xu thế đó được tạo ra từ chính sự lớn mạnh của các phong trào
cách mạng và hòa bình, bởi tương quan giữa cách mạng và phản cách mạng.
d. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
- Cách mạng xã hội là sự biểu hiện tập trung cao độ của đấu tranh giai cấp, là một trong
những phương thức, động lực của sự vận động, phát triển xã hội nhằm thay đổi chế độ xã
hội đã lỗi thời chuyển lên chế độ xã hội mới cao hơn.
- Với cách mạng xã hội, một sự biến chuyển toàn diện về chất trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội sẽ xuất hiện, một xã hội mới ra đời thay thế cho xã hội cũ.
- Cách mạng xã hội có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức đấu tranh khác nhau hoặc
tổng hợp của các hình thức đấu tranh: đấu tranh bạo lực, đấu tranh phi bạo lực. Tùy theo
điều kiện lịch sử mà có thể thực hiện các hình thức đ Cách mạng là sự ấu tranh phù hợp.
nghiệp của quần chúng. Động lực của cách mạng là toàn thể nhân dân lao động, những
người bị áp bức bóc lột đứng lên đấu tranh. Tuy nhiên, để cách mạng có thể thắng lợi, cần
có nòng cốt là a mình để đưa cách mạng đi từ đấu giai cấp tiến bộ với chính đảng củ tranh
tự phát lên đấu tranh tự giác.
f. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay
Trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức tạp của các
trào lưu cách mạng, đặc biệt là tình trạng khủng hoảng tạm thời của CNXH hiện nay, các
nhà triết học tư sản đã lớn tiếng bác bỏ lý luận cách mạng xã hội của Chủ nghĩa Mác -
Lênin. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm cho tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất đạt trình độ cao khiến cho hệ sản xuất TBCN phải biến đổi, tạo ra quan
trạng thái của nền sản xuất xã hội - - như C. Mác gọi “những hình thái quá độ từ phương
thức sản xuất TBCN sang phương thức tập thể”. Nhưng sự chuyển hóa đó diễn ra trong
khuôn khổ chế độ TBCN nên nó không thể kh giữa LLSX mang ắc phục được mâu thuẫn
tính chất xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất; nó chỉ
làm cho mâu thuẫn đó phát triển them “ dưới một hình thái mới”. Những xung đột xã hội
biểu hiện mâu thuẫn nói trên đã không thể khắc phục được trong điều kiện CNTB phát
triển cao; đồng thời khi LLSX ngày càng mang tính quốc tế hóa thì mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản ngày càng mở rộng trên phạm vi thế giới.
Sự phát triển của CNTB làm cho các tiền đề vật chất kỹ thuật, kinh tế xã hội và các tiền -
đề khác của CNXH từng bước chín muồi, trong đó phải kể đến việc nâng cao trình độ
hiểu biết và năng lực sáng tạo của quần chúng lao động. Vì thế, cuộc đấu tranh cho dân
sinh, dân chủ với mức độ ngày càng cao vẫn đang diễn ra trong xã hội tư bản hiện đại.
Trong tình hình đó, CNTB buộc phải có sự điều chỉnh trên một loạt vấn đề như: cổ phần
hóa đối với một bộ phận công nhân; hình thành một đội ngũ chuyên gia quản lý; thực hiện
chính sách điều tiết thu nhập...
Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản với giai cấp
công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội.
Như vậy, những biến đổi của thời đại hiện nay chứng tỏ tính tất yếu khách quan của cách
mạng XHCN. Chỉ có cuộc cách mạng đó mới giải quyết được một cách căn bản mâu
thuẫn trong xã hội tư bản, thay thế nó bằng một xã hội mới cao hơn xã hội CSCN. Tuy -
nhiên, cuộc cách mạng đó diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan, vào các điều kiện lịch sử cụ thể mà sự phát triển c lịch sử sẽ đem lại ủa
cho chúng ta những lời giải đáp đúng đắn nhất.
IV. Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội.
Về kết cấu của tồn tại xã hội, bao gồm hai bộ phận cơ bản cấu thành:
+ Sinh hoạt vật chất: phương thức sản xuất, với tư cách là yếu tố cơ bản nhất.
+ Những điều kiện sinh hoạt vật chất: điều kiện tự nhiên – cảnh địa lý, dân cư, với hoàn
tư cách là các yếu tố mang tính điều kiện, nền tảng.
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,... của cộng đồng hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Về kết cấu của ý thức xã hội, có hai cách phân loại:
1. Từ góc độ trình độ phản ánh:
+ Ý thức xã hội thông thường: toàn bộ những tri thức, những quan niệm của con người ở
một cộng đồng nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ đời sống hàng ngày, chưa
được hệ thống h hóa thành lý luận.óa, khái quát
+ Ý thức lý luận: những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành
các học thuyết, các quan điểm xã hội, được trình bày dưới dạng các khái niệm, phạm trù,
quy luật mang tính trừu tượng cao, phản ánh hiện thực ở trình độ cao.
Giữa ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận có mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp
thành ý thức xã hội. Ý thức xã hội thông thường phản ánh hiện thực một cách sinh động,
cụ thể, và là tiền đề cho ý thức lý luận.
2. Từ góc độ phương thức phản ánh:
+ Tâm lý xã hội là toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán... của con người ở
một cộng đồng nhất định, hình thành trực tiếp dưới ảnh hưởng của đời sống hàng ngày và
phản ánh đời sống đó.
+ Hệ tư tưởng xã hội là hệ thống những quan điểm, tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội trên
các lĩnh vực chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... ở trình độ nhận thức mang
tính khái quát.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp thành ý
thức xã hội. Hệ tư tưởng xã hội hình thành trên cơ sở tâm lý xã hội, nhưng không phải là
kết quả trực tiếp của tâm lý xã hội, mà phải trải qua một quá trình nhận thức ở trình độ
cao hơn về chất, mang tính trừu tượng hóa.
Lưu ý:
+ Ý thức xã hội mang tính giai cấp: mỗi một giai cấp, do bị chi phối bởi đặc điểm lịch sử
và lợi ích giai cấp, mà có thể phản ánh tồn tại xã hội khác nhau hoặc thậm chí đối lập
nhau. Đặc trưng này thể hiện rõ nét nhất ở trình độ lý luận, hệ tư tưởng.
+ Ý thức xã hội mang đặc trưng của dân tộc: ph thống dân tộc, phản ánh các ản ánh truyền
điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo...
+ Ý thức cá nhân là biểu hiện đặc thù của ý thức xã hội: ý thức cá nhân là sự biểu thị sinh
động, cụ thể của ý thức xã hội một cách đặc thù, riêng biệt ở từng con người, vừa phụ
thuộc vào đặc trưng chung của ý thức xã hội, vừa phụ thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi
người. Mối quan hệ giữa ý thức cá nhân và ý thức xã hội là mối quan hệ giữa cái riêng và
cái chung.
Các hình thái ý thức xã hội: phản ánh nội dung của các lĩnh vực ý thức xã hội khác nhau,
có tác động qua lại lẫn nhau.
Có 6 hình thái ý thức xã hội:
- Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp,
các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
- Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm về bản chất, vai trò của pháp luật,
về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp
không hợp pháp của hành v i.
- Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội; chúng được thực hiện bởi
niềm tin và tình cảm cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
- Ý thức khoa học là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là hệ thống tri thức phản ánh thế giới
dưới hình thức logic trừu tượng (khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, định luật, quy luật) và
được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những quan niệm về hiện thực cuộc sống được xây dựng
dưới hình thức các biểu tượng nghệ thuật được khái quát một cách sinh động và cụ thể,
phản ánh đời sống xã hội và dấu ấn cá nhân.
- Ý thức tôn giáo:
+ Tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng/một thế lực
siêu nhiên.
+ Tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng, phản ánh thế giới một cách ảo, thông qua hệ
thống những biểu tượng siêu nhiên và niềm tin đương nhiên, với một thiết chế tương ứng
như giáo lý, giáo luật, giáo hội, cơ sở thờ tự, nghi lễ.
2. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: tồn tại xã hội (đời sống vật chất) quyết định ý thức
xã hội (đời sống tinh thần), ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại
xã hội.
* Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
- Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội: đời sống tinh thần của xã hội hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, và nội dung của đời sống tinh thần
bức tranh phản ánh cái đời sống vật chất hiện thực ấy. Chỉ có thể giải thích các hiện tượng
trong đời sống tinh thần khi xuất phát từ nguồn gốc của nó là đời sống vật chất.
- Tồn tại xã hội quyết định sự vận động biến đổi của ý thức xã hội: tồn tại xã hội không
ngừng vận động và phát triển, nên nội dung phản ánh tồn tại ấy là ý thức xã hội cũng
không ngừng vận động biến đổi theo.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của nó trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính
độc lập tương đối ấy thể hiện trên các nội dung sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội: lịch sử cho thấy, mặc dù xã hội
- cơ sở tồn tại của ý thức xã hội phản ánh nó, đã mất đi, nhưng ý thức xã hội do xã hội
ấy sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại ới những biểu hiện khác nhau.
Nguyên nhân:
+ Tồn tại xã hội là cái được phản ánh, ý thức xã hội là cái phản ánh, cái được phản ánh
bao giờ cũng vận động và biến đổi nhanh hơn so với cái phản á nh.
+ Tâm lý xã hội (thói quen, tập quán...) có một sức mạnh đặc biệt để có thể tiếp tục tồn tại
ngay khi cơ sở của nó đã mất đi.
+ Do ý thức xã hội mang tính giai cấp, tính dân tộc, ít nhiều đều ảnh hưởng đến lợi ích
của các nhóm xã hội nên thường được c gắng bảo tồn, duy trì.
- Ý thức xã hội trong một số trường hợp có thể vượt trước tồn tại xã hội (phản ánh vượt
trước): trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người có thể vượt trước tồn tại
xã hội hiện thời, dự báo tương lai.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, dự báo thời tiết, phát minh khoa
học vượt thời đại…
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển: ý thức xã hội, với cả hai bộ phận cấu
thành của mình, có khả năng được kế thừa từ thế uá trình hệ này sang thế hệ khác trong q
phát triển, phản ánh tồn tại xã hội ở các thời kỳ lịch sử khác nhau.
- Giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại: ý thức xã hội không chỉ chịu sự
tác động của tồn tại xã hội, mà giữa các hình lại thái ý thức xã hội còn có sự tác động qua
lẫn nhau.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội: do con người hành động một cách có ý
thức, nên ý thức xã hội có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Nếu
ý thức xã hội phản ánh đúng đắn chân thực tồn tại xã hội, sẽ mở đường cho xã hội tiến
lên, và ngược lại, phản ánh sai lệch vì những mục đích khác nhau nhằm phục vụ cho lợi
ích của một nhóm người sẽ làm cản bước tiến của xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của
nó, do đó:
- Để xây dựng xã hội, cần tiến hành trên cả hai mặt: tồn tại xã hộivà ý thức xã hội.
- Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội, và những thay đổi
trong đời sống tinh thần cũng tác động và tạo ra những thay đổi trong tồn tại xã hội.
V. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Khái niệm con người và bản chất con người
a. Con người là thực thể sinh học – hội
* Khái niệm con người
- Các học thuyết triết học phương Đông coi con người là gạch nối của vũ trụ, là một bộ
phận giao hòa của vũ trụ (Thiên Nhân), từ đó tạo nên thế ứng xử hòa đồng giữa - Địa -
người với tự nhiên.
- Các học thuyết triết học phương Tây thì coi con người là trung tâm của vũ trụ, là “thước
đo vạn vật”, từ đó cổ vũ con người khám pháchinh phục tự nhiên.
- linh sinh ra và an bài Các tôn giáo tín ngưỡng, hầu hết đều cho rằng con người do thần
số phận. Riêng Phật giáo không trực tiếp trả lời câu hỏi con người từ đâu sinh ra và đi về
đâu, mà cho rằng con người là sự biểu hiện của cái “Tâm ”.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, con người là thực thể thống nhất giữa
mặt sinh vật và mặt xã hội.
+ Về mặt sinh vật, con người là động vật tiến hóa cao nhất của sinh giới, với cấu trúc cơ
thể rất phức tạp và tinh vi.
+ Về mặt xã hội, con người sinh ra và lớn lên trong một đời sống hợp quần, trong một xã
hội với các mối quan hệ xã hội đan xen. Điểm bản làm nên tính xã hội ở con người là
hoạt động sản xuất mang tính xã hội, cùng với nó là sự hình thành nên một đời sống xã
hội đa dạng của con người.
- Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật
chất: Triết học Mác - Lênin tiếp cận sự hình thành và phát triển con người trong lịch sử
sản xuất vật chất, từ đó khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình
thành và phát triển của con người. Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn
toàn vào tặng phẩm của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động để sản xuất, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu ng phát triển của mình. Do ày càng
đó, lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo tự nhiên phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình.
Nhờ có lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập với tự nhiên trở
thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa sáng tạo chân chính
của con người là chế tạo ra công cụ lao động.
Con người bắt đầu lịch sử của mình từ đó. Nhờ công cụ lao động mà con người tách khỏi
tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư cách là một chủ hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng thể
thời bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người hòa nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ
nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ ba”... sáng tạo ra của cải, tri thức, tinh thần.
Như vậy, sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người, bản chất con người là sáng tạo
ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- - Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội: Triết học Mác
Lênin tiếp cận con người trong tính toàn vẹn, khẳng định con người là một chỉnh thể tồn
tại và phát triển trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học bao
gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của
cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động
xã hội, đời sống tinh thần của con người, là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp...
Về mặt này, con người phục tùng các quy luật xã hội. Hai mặt này có quan hệ khăng khít
không thể tách rời nhau, ật chất tự nhiên của con trong đó mặt sinh học là nền tảng v
người nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới
mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất của cải vật chất là yếu tố ra
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể; những quy luật hình thành tâm lý,
ý thức; những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người. Ba hệ thống đó
cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả
mặt sinh học và mặt xã hội. Như vậy, bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn,
mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con
người.
- - hành Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang thuộc tính xã hội
tinh môi - - - vũ trụ: Triết học Mác Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người
trường cư trú, từ trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự tồn tạ i và
phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và xã hội được thu hút vào quá
trình đời sống con người. Cùng với đó, con người là một thực thể cá nhân - xã hội, là sự
thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại, là sự thống nhất
giữa tất yếu và tự do.
Cần lưu ý, mặt sinh vật và mặt xã hội của con người ở đây hòa quyện thống nhất với nhau
chứ không tách bạch làm hai phần riêng biệt.
b. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. -
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại,
thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo
lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con
người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là
phương thức để là biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của m
lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có
hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn
tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử
xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con
người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện
tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên
của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự
nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các
giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con
người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều
phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát
triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người
tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
c. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội. Không có con người trừu tượng chung chung, mà chỉ có
con người sống và hoạt động trong một môi trường xã hội nhất định ở một thời gian xác
định với toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thời. Chỉ trong toàn bộ các quan hệ xã hội được
xác định bởi một hệ không gian và thời gian cụ thể, con người mới bộc lộ bản chất của
mình.
Con người khác con vật ở chỗ, mọi hoạt động của anh ta đều là hoạt động được ý thức,
nghĩa là có mục tiêu, phương thức và công cụ.
Nó mang tính hiện thực và cụ thể.
2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người
a. Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con người bị tha hóa
Hiện tượng tha hóa của con người: Tha hóa là quá trình xã hội trong đó hoạt động của con
người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập thù địch và thống trị lại con
người. Nguồn gốc của sự tha hóa là do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
xuất hiện chế độ tư hữu. Những dấu hiệu đặc trưng của sự tha hóa từ các phương diện: sự
tha hóa của điều kiện lao động; của kết quả lao động; của thiết chế chính trị xã hội; sự tha
hóa của tư tưởng,... Khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài, gắn liền với xóa bỏ chế
độ tư hữu. Triết học Mác – chính là lý luận triết học về khắc phục sự tha hóa của Lênin
con người, là lý luận giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, vì hạnh phúc con người,
đó là cơ sở để bác bỏ những luận điểm xét lại cho rằng triết học Mác bỏ vấn đề con quên
người, không xây dựng học thuyết về con người, chỉ xây dựng học thuyết về giai cấp và
đấu tranh giai cấp.
b. “Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”
Vấn đề giải phóng con người: Do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất
hiện chế độ tư hữu mà xuất hiện sự tha hóa con người. Khắc phục sự tha hóa chính là quá
trình giải phóng con người.
Thực chất triết học Mác vì sự phát triển - Lênin là học thuyết về giải phóng con người,
toàn diện của con người (khắc phục sự tha hóa cũng là một quá trình giải phóng con
người; đấu tranh giai cấp cũng là một quá trình khắc phục sự tha hóa con người về mặt xã
hội, giải phóng con người khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột).
c. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người”
C.Mác chỉ rõ, sự phát triển tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người. Do đó muốn giải phóng xã hội, mỗi cá nhân con người phải được giải
phóng. Như vậy, có nghĩa là mỗi con người, người công dân với nhà nước là một cá nhân
thể thống nhất về lợi ích, về quyền và trách nhiệm. Theo C.Mác, chỉ khi ấy sứ mệnh giải
phóng con người mà Đảng cộng sản tuyên bố mới được hoàn thiện
3. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về quan hệ cá nhân v xã hội, về vai trò của à
quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
a. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Trong triết học Mác Lênin, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là- vấn đề có ý nghĩa lớn
được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Khái niệm xã hội được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã hội loài người
(toàn thể nhân loại), thấp hơn là những hệ thống xã hội như quốc gia, dân tộc, giai cấp,
chủng tộc.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với quan hệ giữa cá
nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ phận
và cái toàn thể, đồng thời thể hiện tính biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Trong bất cứ giai đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội. Là một hiện tượng
lịch sử, quan hệ cá nhân xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự -
thay đổi về chất chỉ diễn ra khi sự thay thế hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái -
kinh tế hội khác. Trong giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối lập giữa cá - xã
nhân và xã hội. Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là thống nhất.
Khi xã hội phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu
thuẫn. Những người bị bóc lột không có tư cách và điều kiện để trở thành cá nhân thực
sự. Những thành viên thuộc giai cấp bóc lột có đặc quyền, đặc lợi, được khẳng định tư
cách cá nhân đặc trưng cho mỗi thời đại như cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản. Các kiểu
cá nhân này đối lập về lợi ích với quần chúng nhân dân lao động trong xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã hội mới tạo tiền đề cho nhân, để mỗi
cá nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của
xã hội mới. Vì vậy, xã hội xã hội chủ ĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền ngh
đề và điều kiện của nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân.
Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng
cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển
được thực hiện.
Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những
giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính
đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì,
dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và
hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một
tương lai tốt đẹp.
Vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa dạng của mỗi cá
nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã hội, đồng thời, nhân cách mỗi
cá nhân trong xã hộing phát triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Do
đó, cá nhân tác động đến xã hội tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của nhân cách. Những cá
nhân có đạo đức và tài năng thường đóng góp tích cực và xứng đáng vào sự phát triển của
xã hội. Những cá nhân kém cỏi về nhân cách thì tác động xấu tới xã hội, kìm hãm sự phát
triển.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và
mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động
hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp
với mục đích của con người.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó, để giải quyết đúng đắn quan hệ
cá nhân - xã hội, cần phải tránh hai thái độ cực đoan.
Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, nhu cầu
cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn
đến chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ
nghĩa tập thể, thực chất là chủ nghĩa bình quân, coi nhẹ vai trò cá nhân lợi ích cá nhân. Xã
hội càng phát triển thì nhu cầu, lợi ích cá nhân càng đa dạng. Nếu không quan tâm đến
vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã hội nghèo nàn, chậm phát triển, không phù hợp với bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao năng xuất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hoá tinh thần ngày càng đa
dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển
cá nhân.
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn đến tuyệt đối hoá lợi ích kinh tế, dẫn tới phân hoá giàu
nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó,
chúng ta cần khắc phục mặt trái của chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố của con
người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định
để giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có
lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng tình
nghĩa, có lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
4. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội đã chứng minh rằng con người là chủ thể
chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vai trò quyết định sự phát triển xã hội là thuộc
về quần chúng nhân dân hay của các cá nhân có phẩm chất đặc biệt vĩ nhân lãnh tụ? Vấn -
đề đó chúng ta sẽ giải quyết dưới đây:
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần
chúng nhân dân bao gồm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là một bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm
những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự
lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi nội dung sau:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng
vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với
nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động
của mình, trực tiếp hoặc gián tiép trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển
của lịch sử xã hội.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
- Quần chúng nhân dân: chỉ cộng đồng xã hội có lợi ích về cơ bản là thống nhất, bao gồm
những giai cấp, tầng lớp tiến bộ và nhân dân lao động.
- Cá nhân: chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách một cá thể,
một thành viên của xã hội ấy, do những đặc điểm riêng biệt của mình mà phân biệt với
những thành viên khác của xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
- Giữa cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung có mối quan hệ hữu cơ về mặt lợi ích.
Có những trường hợp lợi ích cá nhân xung đột với lợi ích cộng đồng và ngược lại. Do đ ó
cần có sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, vừa phát huy nhân tố cộng
đồng vừa phát huy nhân tố cá nhân tích cực.
- Đặc biệt, cần quan tâm đến vai trò và mối quan hệ giữa cá nhân kiệt xuất (vĩ nhân, lãnh
tụ) với một cộng đồng đặc biệt (quần chúng nhân dân):
+ Có quan điểm cho rằng, cá nhân kiệt xuất làm nên lịch sử.
+ Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử nhận định: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử. Vì họ:
Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội: sản xuất vật chất là công việc của toàn bộ xã hội
chứ không phải công việc của một số cá nhân, lực lượng sản xuất xã hội được hợp thành
bởi mỗi cá nhân trong một cộng đồng rộng lớn là quần chúng nhân dân.
Là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội: cách mạng xã hội đóng vai trò thay
đổi các hình thái kinh tế xã hội mà không một- cá nhân hay một nhóm cá nhân nào có thể
tự mình thực hiện được, vì nó diễn ra trên một quy mô rộng lớn ở mọi lĩnh vực. Cách
mạng chỉ có thể thắng lợi khi nó huy động được sức mạnh đông đảo của mọi tầng lớp
nhân dân.
Là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần: trong thời kỳ cổ đại và trung cổ, xuất
hiện nhiều tác phẩm nghệ thuật dân gian vô danh, nhiều trong số đó là sản phẩm mang
tính tập thể của quần chúng nhân dân. Ngày hôm nay, các tác phẩm nghệ thuật đều mang
tên các cá nhân, nhưng nó chỉ có thể tồn tại và được công nhận khi nó bám rễ sâu vào đời
sống hiện thực của nhân dân lao động, phản ánh đúng đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân.
- Tuy nhiên, cũng không được đánh giá thấp vai trò của những cá nhân kiệt xuất. Vĩ nhân,
lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử:
+ Họ chỉ thực sự là những vĩ nhân, lãnh tụ khi bản thân họ phẩm của thời đại, đại là sản
diện cho quần chúng, được quần chúng thừa nhận là người lãnh đạo của mình.
+ Bằng vai trò của mình, họ có thể thúc đẩy sự phát triển hoặc kìm hãm tiến bộ xã hội:
nếu các cá nhân này hành động tuân theo quy chung sẽ thúc đẩy bánh xe luật và vì lợi ích
lịch sử tiến lên, và ngược lại, sẽ kìm hãm nó nếu phản lại quy luật và chỉ vì lợi ích cục bộ.
Trong trường hợp thứ hai, quần chúng sẽ không thừa nhận họ là lãnh tụ chân chính đại
diện cho lợi ích của mình.
- Bên cạnh đó, cần chống tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, từ
đó chỉ nhìn thấy vai trò quyết định của cá nhân người lãnh đạo mà xem nhẹ hoặc lãng
quên vai trò của tập thể và quần chúng nhân dân.
5.Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
- - Sự nghiệp đổi mới đặt con người vào vị trí trung tâm vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển: Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm của chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo trải qua giai đoạn
giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng vì mục đích giải
phóng con người. Mục đích vì hạnh phúc con người được khẳng định trong những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, ở mỗi thời kỳ cách mạng, nếu Đảng ta phát huy
mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì
chúng ta có thể “chuyển bại thành thắng”, chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế, trong
đó con người là động lực trung tâm.
- Vấn đề chiến lược con người ở Việt Nam hiện nay: Con người được đặt ở vị trí trung
tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến
nay, Đảng luôn xác định con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế -
xã hội. Việc xây dựng con người mới có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước
so với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con -
người toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư
duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư
tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân
tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn
minh, hiện đại... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức trong xây dựng, phát
triển con người, đó là:
- Sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả những cán bộ giữ vị trí cấp cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
đến thanh thiếu niên và người dân lao động. Tệ nạn tham nhũng, chạy chức chạy quyền
diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và sự
trong sạch, nghiêm minh của bộ máy công quyền. Đây là một trong những nguy cơ mà
trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết Đảng ta đã đề cập, cảnh báo. Do đánh giá cán bộ
không đúng, dẫn đến không xác định đúng yêu cầu, tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
đãi ngộ cán bộ.
Do vậy, chưa tuyển chọn, sử dụng được nhiều người thực tài, có đức, có tâm. Những hạn
chế, khiếm khuyết trong công tác cán bộ là một điểm yếu cản trở việc phát huy nhân tố
con người Việt Nam những năm qua.
- Sự “đứt gãy” hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ. Đây là một hạn chế trong
công tác chăm lo, phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng một trong
những nguyên nhân là tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản
phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận
nhân dân, nhất là lớp trẻ.
- Những giải pháp để phát huy nhân tố con người ở Việt Nam:
Một là, thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người
là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người
phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước.
Hai là, giải quyết thỏa đáng lợi ích chính đáng, thiết thực của con người. Với mỗi giai
tầng, mỗi người đều có các lợi ích kinh tế, chính trị, tinh thần,... Trong đó, chú ý đặc biệt
tới lợi ích kinh tế. Giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân tập thể hội dân tộc. - - xã -
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, thiết
thực, tạo cơ hội cho mỗi người dân phát huy tối đa năng lực, sở trường đóng góp vào sự
nghiệp đổi mới đất nước. Phải có cơ chế minh bạch để tuyển chọn, sàng lọc, hình thành
được đội ngũ công chức nhà nước tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước.
Bốn là, phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ là phát huy vai trò là chủ, làm chủ của nhân
dân. Nhân dân có quyền học tập, lao động sáng iến, quyền phát huy vai tạo, quyền cống h
trò của chính mình...
Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân
tộc. Có phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì mới phát huy được nhân tố
con người Việt Nam. Khi ộc đoàn kết nhất trí thành một khối thống nhất thì sẽ toàn dân t
tạo ra sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết trong giải quyết
vấn đề tôn giáo, dân tộc. Thực hiện các chính sách bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn
trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển.
Kiên quyết đấu tranh chống kỳ thị dân tộc, kỳ thị tôn giáo, chống lợi dụng các vấn đề tôn
giáo, dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, chúng ta
sẽ phát huy có hiệu quả nhân tố con người Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
B. PHẦN BÀI TẬP
1. Phân tích các yếu tố cấu thành “nội dung vật chất” của quá trình sản xuất? Trong đó,
yếu tố nào là quan trọng nhất? Vì sao?
2. Bằng các lập luận trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, hãy chứng tỏ rằng,
phương diện kinh tế quyết định phương diện chính trị của đời sống xã hội?
3. Hình thái kinh tế xã hội là gì? Tại sao sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên? Việt Nam phát triển “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa đi
lên chủ nghĩa xã hội có hợp quy luật không?
4. Phân tích sự tác động trở lại của phương diện tinh thần đối với phương diện vật chất
của đời sống xã hội? Cho ví dụ cụ thể.
5. Phương diện tự nhiên và phương diện xã hội trong con người có mối quan hệ với nhau
như thế nào? Liên hệ với việc phát huy nhân t con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam hiện nay?
6. Đấu tranh giai cấp là gì? Đấu tranh giai cấp có vai trò như thế nào đối với sự phát triển
của những xã hội có đối kháng giai cấp?
| 1/60

Preview text:

CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
Triết học ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (tr. CN) và đạt được thành tựu rực rỡ ở c
ác nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
a. Nguồn gốc của triết học
- Nguồn gốc nhận thức: Triết học không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con
người, nó chỉ ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất
định cho phép khái quát được những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những
quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Như vậy, triết học chỉ ra đời khi tư duy, nhận
thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây
dựng nên các học thuyết lý luận.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học xuất hiện khi xã hội loài người chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ, là xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay, đội ngũ trí thức xuất hiện, khi đó xã hội có một số người chuyên làm “nghề”
triết học để giải thích thế giới theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Điều đó cho thấy,
chính tầng lớp lao động trí óc đã sản sinh ra triết học, ngay khi mới ra đời, triết học đã
mang tính giai cấp sâu sắc, phản ánh và bảo vệ lợi ích của những giai cấp nhất định trong xã hội. b. Khái niệm triết học
- Ở phương Đông: Theo người Trung Quốc, “triết” có nghĩa là “trí”, là “sáng suốt” để chỉ
sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về thế giới. Theo người Ấn Độ, triết học có nghĩa là
darshana - chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
- Ở phương Tây: Theo chữ Hy Lạp, triết học là “philosophia”, có nghĩa là “tình yêu sự
thông thái”, nhà triết học là nhà thông thái vì họ có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự
vật, hiện tượng bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Triết học ra đời cả ở
phương Đông và phương Tây, mặc dù khác nhau về quan niệm nhưng nhìn chung đều coi
triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc thế giới, đi sâu nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm mác xít, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Như vậy, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét
thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử:
- Thời kỳ cổ đại: Tri thức của loài người còn ít nên chưa có sự phân chia giữa triết học với
các khoa học khác. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình thành không độc lập với các tri
thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học tổng
hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như
Thalets, Pithagore... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế
giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy
xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
là mọi lĩnh vực tri thức, nhưng còn sơ khai, trực quan cảm tính. Đây là nguyên nhân sâu
xa nảy sinh quan niệm về sau xem “Triết học là khoa học của các khoa học”.
- Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu: Quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học. Nhiệm vụ của triết học chỉ là lý giải và
chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong Kinh Thánh, luận giải và thuyết phục
con người tin tưởng vào Chúa Trời. Nền triết học tự nhiên bị thay thế bằng nền triết học kinh viện.
- Thế kỷ XV – XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên, đồng thời là sự
phục hồi của tư tưởng triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Triết học dần tách khỏi thần học và
các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể
luận, vũ trụ luận, nhận thức luận...
- Thế kỷ XVII – XVIII: triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự nhiên thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Sự phát triển của triết học duy vật thời kỳ này đạt đến đỉnh
cao ở các quốc gia là Anh, Pháp, Hà Lan.
- Cuối thế kỷ XVIII -
đầu thế kỷ XIX: sự phát triển của khoa học cụ thể và những thành tựu
mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học thành
“Khoa học của mọi khoa học”, trong đó triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
- Những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đoạn tuyệt với quan niệm sai lầm
xem triết học là “Khoa học của mọi khoa học”, xác định đối tượng nghiên cứu của triết
học là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy .
d. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Chức năng thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó .
- Về nguồn gốc của thế giới quan: Thế giới quan ra đời từ cuộc sống hiện thực của con
người. Bởi vì, con người không thể sống tách khỏi thế giới sự vật hiện tượng. Trong quá
trình tồn tại và phát triển của con người, hàng loạt câu hỏi được đặt ra để tìm câu trả lời:
thế giới này do đâu mà có? Bản chất của thế giới là gì? Sự biến đổi của nó tác động gì
đến con người? Có thần linh, ma quỷ không...? Từ đó, các quan niệm về thế giới quan được hình thành.
- Về cấu trúc: Thế giới quan được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin.
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan, chỉ khi nào tri thức biến thành
niềm tin của con người thì tri thức đó mới trở thành thế giới quan.
- Những hình thức cơ bản của thế giới quan:
+ Thế giới quan huyền thoại (thần thoại) có nội dung pha trộn một cách không tự giác
giữa thực và ảo, nó đặc trưng cho tư duy, nhận thức của người nguyên thủy về thế giới,
được phản ánh qua các câu chuyện thần thoại. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét
trí tưởng tượng của “tư duy nguyên thủy” - tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không
tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Theo Ph. Ăngghen nhận định, thế giới quan
huyền thoại là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về
nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân
cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại .
+ Thế giới quan tôn giáo biểu hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu
nhiên đối với thế giới, con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin
cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người
sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. V. I. Lênin đã cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ vào những phép màu...” .
+ Thế giới quan triết học được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái
niệm, các phạm trù, các quy luật. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa cũng như khi con
người ý thức được sự cần thiết phải có sự định hướng về tư tưởng, nhận thức để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Thế giới quan triết học được phân chia thành thế giới quan duy tâm
(là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết
định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất); thế giới quan duy vật (là thế giới
quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của
con người trong cuộc sống hiện thực). Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật là (chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật
biện chứng) là ba hình thức cơ bản của thế giới quan (thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng). Thế giới quan duy vật
biện chứng có vai trò giúp con người có cơ sở khoa học để nhận thức bản chất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, từ đó hình thành quan điểm khoa học để định hướng mọi hoạt
động của con người. Ngoài ra, triết học còn có vai trò phương pháp luận: Định hướng con
người trong việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Các cấp độ của phương pháp luận: phương pháp luận ngành;
phương pháp luận chung; phương pháp luận chung nhất. Trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong hoạt động. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương
pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng
phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm như chủ
quan, duy ý chí và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật
chất, tồn tại bên ngoài ý thức con người hoặc là hiện tượng tinh thần, tồn tại trong ý thức
con người. Vật vật chất và ý thức có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quy định cái nào? Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi
triết học, đặc biệt là triết học hiện đại đó là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Đây cũng là cơ sở để phân chia các trường phái triết học khác nhau trong lịch sử.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (Bản thể luận): Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Tùy cách giải đáp câu hỏi này mà các học thuyết triết học đã
được chia ra thành hai trào lưu cơ bản đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, không do ai sáng tạo ra; ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật
chất; bản chất của tồn tại là vật chất, vật chất quyết định ý thức... Chủ nghĩa duy vật có
lịch sử phát triển lâu dài với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức đầu tiên của nó là chủ
nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại. Hình thức phát triển tiếp theo là chủ nghĩa duy vật
máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác, Ph.
Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V. I. Lênin kế thừa và phát
triển, là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, có mối quan hệ chặt chẽ với
các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng cũng như với sự phát triển của khoa
học và thực tiễn xã hội.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự
nhiên, của vật chất; ý thức, tinh thần quyết định vật chất; bản chất của tồn tại là ý thức,
tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cảm giác,
ý thức con người là cái có trước, cái quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng ở
bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp của những cảm giác”; những màu sắc,
mùi vị, những đặc tính khác nhau của sự vật chẳng qua chỉ là những cảm giác của con
người. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ
nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và như thế, tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa duy ngã (ngã là tôi - là chủ nghĩa xuất p
hát từ cái tôi). Chủ nghĩa duy tâm khách
quan cho rằng, ý thức, ý niệm là cái có trước thế giới vật chất. Cái thực thể tinh thần tồn
tại một cách “khách quan”, không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định
sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội đều là hiện thân của ý niệm. Nhìn chung, cả hai hình thái của chủ nghĩa duy tâm
tuy biểu hiện khác nhau, nhưng về cơ bản lại giống nhau, bằng cách này hay cách khác
đều phủ nhận nguồn gốc khách quan của thế giới tự nhiên, của vật chất, nghĩa là đều thừa
nhận tinh thần, ý thức sáng tạo ra thế giới. Ở điểm này, chủ nghĩa duy tâm gần gũi với tôn
giáo và “tựu trung bao giờ cũng vẫn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo”. Nguồn gốc nhận thức
của chủ nghĩa duy tâm đó là sự tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tinh thần, như V.I. Lênin
đã khẳng định “Chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi
phồng, bơm to) phiến diện, thái quá... của một trong những đặc trưng, của một trong
những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời
khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là sự hình thành và phát triển các giai cấp đối lập nhau về lợi ích; là sự xuất hiện phân
công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Sau khi tách khỏi lao động chân tay, lao
động trí óc có vị trí độc lập tương đối và trở thành đặc quyền của các giai cấp bóc lột. Vì
thế các nhà tư tưởng của giai cấp đó thường có thái độ coi thường lao động chân tay và
ngộ nhận rằng chính lao động trí óc quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Những
sai lầm, lệch lạc trên đây của thế giới quan duy tâm đã bị các thế lực phản động lợi dụng,
khai thác nhằm biện hộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Ngoài hai trường phái duy vật và duy tâm, trong triết học còn có trường phái nhị nguyên
luận. Trường Phái này cho rằng cả vật chất và ý thức, tinh thần đều tồn tại song song và
độc lập với nhau, trong đó nguyên thể vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, nguyên thể
tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Tuy nhiên, xét đến cùng, phái nhị nguyên cũng
rơi vào chủ nghĩa duy tâm vì nó thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không
phụ thuộc vào vật chất.
- Mặt thứ hai (Nhận thức luận): Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Những nhà tư tưởng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới
(thuộc trường phái có thể biết - “khả tri luận”). Những nhà triết học cho rằng, con người
không thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết - “bất khả tri luận”). Thuyết
không thể biết đã bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống xã hội cũng như sự
phát triển của khoa học. Ngoài ra còn có trường phái Hoài nghi luận. Như vậy, bất kỳ một
học thuyết, một hệ thống triết học nào cũng đều phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Chủ
nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. chủ
nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
- Nguyên nhân của sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm:
+ Chủ nghĩa duy vật: có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời
thường gắn liền với lợi ích của các giai cấp tiến bộ trong lịch sử.
+ Chủ nghĩa duy tâm: tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức và thường gắn với
lợi ích của các giai cấp bóc lột trong lịch sử.
c. Thuyết có thể biết (khả tri) và thuyết không thể biết ( bất khả tri )
+ Những người thuộc trường phái khả tri: Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới
+ Những người thuộc trường phái bất khả tri cho rằng: Con người không thể có khả năng nhận thức thế giới
+ Thuyết Hoài nghi luận: Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
3. Biện chứng và siêu hình
a. Khái niệm biện chứng và siêu hình
• Biện chứng: Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã
hội và tư duy . Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ
quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người
(biện chứng của tư duy). Như vậy, khái niệm biện chứng dùng với nghĩa vừa là lý luận,
đồng thời là phương pháp khảo sát, phản ánh đối tượng trong trạng thái liên hệ, ràng
buộc, tác động qua lại và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
* Phương pháp siêu hình :
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về
số lượng bởi nguyên nhân bên ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình làm cho con người
“chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những
sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ: muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái độc lập, không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc
và ngưng đọng như phương pháp siêu hình quan niệm.
* Phương pháp biện chứng:
- Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ, ảnh hưởng, rang buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi.
- Khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về cả lượng và chất của các
sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là sự đấu tranh của các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp biện chứng phản ánh “biện chứng khách quan” trong sự vận động, phát triển
của thế giới. Lý luận triết học của phương pháp đó được gọi là “phép biện chứng”. Phép
biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp
luận của nhận thức và thực tiễn.
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng trong lịch sử: Phép biện chứng đã có lịch sử
phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ
bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học
Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ
biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi
của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện
rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”,
“vô thường”, “nhân duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại
là những quan điểm biện chứng của Heraclit.
+ Phép biện chứng duy tâm được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học
của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu
và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận
sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển.
Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây
dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản
ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong
giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý
trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện
chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị
trên lập trường duy vật mới.
II. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác Lênin
* Chủ nghĩa Mác – Lênin: là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin bảo vệ, phát
triển trong điều kiện lịch sử mới. Trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và
tổng kết thực tiễn thời đại, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận khoa học phản ánh
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
những quy luật kinh tế của sự vận động của chủ nghĩa tư bản và sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
nhân dân lao động và tiến tới giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
* Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin bao
gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là:
- Triết học Mác - Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; có vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật kinh tế của
quá trình ra đời, phát triển và suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ba bộ phận lý luận này có sự thống nhất chặt chẽ,
làm cơ sở, tiền đề cho nhau và đều có chung mục đích là giải phóng giai cấp vô sản, nhân
dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
a. Những điều kiện lịch sử của ra đời triết học Mác – Lênin
* Điều kiện kinh tế - xã hội
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách
mạng công nghiệp. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc ở nhiều nước Châu Âu như Anh, Pháp,
Đức… mặt khác những mâu thuẫn xã hội cũng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt:
+ Về mặt kinh tế: mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Về mặt xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
- Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập.
+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến.
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn mang tính chất đối kháng ngày
càng phát triển, thể hiện bằng những cuộc đấu tranh giai cấp ở khắp nơi như Anh, Pháp,
Đức, Ý …Tuy nhiên những cuộc đấu tranh tự phát này đều thất bại do không có đường lối
khoa học, chưa có lực lượng dẫn dắt và chưa tập hợp được đông đảo lực lượng tham gia
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời chủ nghĩa
Mác: Thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, đòi hỏi
phải được soi sáng bởi lý luận mới, tiến bộ và cách mạng. Chủ nhĩa Mác - Lênin ra đời
trong thời điểm này là một tất yếu lịch sử, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đó.
* Những tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tiền đề lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức: C.Mác đã kế thừa và cải biến những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc để hình
thành nên phép biện chứng duy vật.
+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh: C.Mác kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận
về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ về quá trình sản xuất vật chất, về những quy
luật kinh tế khách quan của A. Smit và Đ. Ricacđô; đồng thời chỉ ra những hạn chế trong
học thuyết của các ông và giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị
học cổ điển Anh đã không thể vượt qua. Trên cơ sở đó, C.Mác đã xây dựng nên lý luận về
giá trị thặng dư, luận chứng cho bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nguồn gốc dẫn đến
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: với những đại biểu tiêu biểu như H. Xanhximông,
S. Phuriê, R. Ôoen. Tinh thần nhân đạo, sự phê phán những bất công của chủ nghĩa tư
bản, những quan niệm sâu sắc về đặc trưng của xã hội tương lai trong học thuyết của các
ông là một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác còn dựa trên
những thành tựu của khoa học tự nhiên. Vào thế kỷ XIX, khoa học tự nhiện thời kỳ này
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt có ba công trình khoa học vĩ đại:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh sự chuyển hoá và bảo toàn
của các hình thức vận động của vật chất, vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên
mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
+ Học thuyết tiến hoá chứng minh nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, đều có quá trình phát sinh, phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất.
+ Học thuyết tế bào chứng minh tính thống nhất của toàn bộ sự sống, thế giới vô cùng
phong phú, đa dạng nhưng đều thống nhất ở tính vật chất của nó. Những phát minh trên
đã chứng minh tính khoa học đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật.
b. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác – Lênin
- Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ( từ năm 1844 đến năm 1848)
- Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
- Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thàn h tựu của tư duy nhân
loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để.
- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong
lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người,
chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là
cuộc cách mạng thật sự trong triết học xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng
mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách
mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự
phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo
nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
- Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống nhất tính
khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất hữu cơ chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính cách mạng sâu sắc
nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mác- xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông đảo.
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, Lênin
tiếp tục có những đóng góp mới quan trọng vào việc phát triển triết học Mác. Để bảo vệ
chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù
của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác
trên lời nói nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác.
Đồng thời, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mác và
Ăngghen để lại. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi V.I.Lênin
đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan niệm nào đó của mình về chủ nghĩa
xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì thế mà một
giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã
gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và được gọi là triết học Mác - Lênin nói riêng, chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác
a. Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác -Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, được
C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.
Triết học Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt
với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra
đời của triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài
người, trong lịch sử triết học. Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
b. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và của tư duy. Với việc xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, triết học Mác - Lênin có
đối tượng nghiên cứu khác với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, còn triết
học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng giữa triết học Mác
- Lênin và các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Các
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và một phương pháp luận triết học nhất định.
c. Chức năng của triết học Mác – Lênin
-
Chức năng thế giới quan: Triết học Mác - Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng. Hệ thống quan điểm khoa học,
duy vật biện chứng về thế giới là nhân tố định hướng con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực, nắm được bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp con người hình
thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Như vậy, thế giới quan cũng đóng
vai trò phương pháp luận. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học
để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất
khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc
đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động, phòng, chống chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.
- Chức năng phương pháp luận: Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn, trang bị cho con người hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu cũng như hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật để làm
công cụ nhận thức, giúp con người phát triển tư duy khoa học. Tuy nhiên, triết học Mác -
Lênin không phải là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại
hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có
tri thức khoa học, công nghệ cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội 24
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát tiển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam B. PHẦN BÀI TẬP
1. Các trường phái triết học trong lịch sử được phân chia dựa trên cơ sở chủ yếu nào?
Phân tích nội dung cơ bản của các trường phái đó?
2. Triết học Mác – Lênin có vai trò gì trong đời sống xã hội hiện nay? Liên hệ với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam? Liên hệ với bản thân?
3. Phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với phong trào cách mạng thế
giới, đặc biệt đối với Việt Nam?
4. Khoa học tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đối với các hình thức phát triển của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử?
5. Phân tích vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin?
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là phạm trù nền tảng của thế giới quan duy vật, bởi thế giới quan duy vật là thế
giới quan được xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về vật chất
- Quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại: Khuynh hướng chung của các
nhà triết học duy vật cổ đại là đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên và coi đó là nguyên tố
đầu tiên tạo ra mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, chẳng hạn ở Phương Tây, Talét quan
niệm vật chất là nước; Anaximen quan niệm vật chất là không khí; Hêraclít quan niệm vật
chất là lửa... Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong học thuyết vật chất
là thuyết nguyên tử của các nhà duy vật là Lơxip và Đêmôcrít. Các ông cho rằng, nguyên
tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được. Một số nhà triết học duy tâm
cho rằng, vật chất và các dạng của vật chất đều do ý thức sinh ra, do ý thức quyết định. Ở
Phương Đông, có quan niệm vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ… Nhìn chung, những
quan niệm về vật chất thời kỳ này còn sơ khai, trực quan, cảm tính, chưa đầy đủ, triệt để
do trình độ con người còn hạn chế, khoa học kĩ thuật chưa phát triển.
- Thế kỷ XVII - XVIII, khoa học tự nhiên phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới
trong việc nghiên cứu thế giới khách quan (cơ học, toán học, vật lý học, sinh vật học...).
Tuy vậy, những quan niệm siêu hình vẫn chi phối những hiểu biết triết học về thế giới:
Nguyên tử vẫn tiếp tục được coi là phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia; vận
động của vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận động nằm
ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học hiện đại phát triển, nhất là vật lý học vi mô đã
có những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất... làm biến đổi sâu sắc quan niệm về
nguyên tử: 1895: Rơnghen tìm ra tia X - Một loại sóng điện từ có bước sóng cực ngắn;
1896: Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Như vậy, quan niệm về sự bất biến của
nguyên tử trước đây là không chính xác; 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng
minh rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử... Những phát
hiện nói trên của vật lý học đã bác bỏ quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất, Ttừ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan của các nhà vật lý
học... Trước tình thế này, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng để tuyên truyền quan điểm duy
tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, “biến mất”. Trong bối cảnh đó, V. I. Lênin đã đưa ra
một định nghĩa mới về vật chất. Tóm lại: Quan niệm của các nhà duy vật trước Mác về
vật chất tuy có những ưu điểm nhất định trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại
của giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn nhiều hạn chế như: không hiểu chính xác bản
chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không
đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội... Những hạn chế đó tất yếu
dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để (khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên,
họ đứng trên lập trường duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã trượt sang quan điểm duy tâm)
c. Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật * Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán
, V.I.Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” .
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của
khoa học tự nhiên về cấu tạo và thuộc tính của các dạng vật chất cụ thể. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể do các khoa học cụ thể nghiên cứu có giới hạn, có
sinh ra, có mất đi. Vì vậy, không thể quy vật chất về các sự vật cụ thể.
- Thứ hai: thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan”, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh của
vật chất, do đó, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đó là não người.
- Thứ ba: vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ thể của vật chất, gây nên cảm giác ở con
người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con người; con người có
thể nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Thứ nhất: bằng việc tìm ra thuộc tính chung nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được quan niệm duy
tâm và quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất.
- Thứ hai: thông qua định nghĩa vật chất, Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật và khả tri: vật chất có trước, ý thức có sau và con người có thể
nhận thức được thế giới khách quan.
- Thứ ba: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên
trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng và những cấu trúc vật chất mới...
- Thứ tư: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để định hướng cho quan điểm duy vật
khi nhận thức các vấn đề xã hội.
d. Các hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy. Như vậy, vận động theo quan điểm duy vật biện chứng không bị quy về hình
thức giản đơn là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian, mà chỉ mọi sự biến đổi
nói chung. Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật
chất là tự thân vận động; là tuyệt đối, vĩnh viễn.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: + Vận động cơ giới. + Vận động vật lý. + Vận động hoá. + Vận động sinh vật. + Vận động xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các hình thức vận động của vật chất không tách rời
nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau: thứ nhất, các hình thức vận động được sắp
xếp theo thứ tự từ thấp đến cao; thứ hai, hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình
thức vận động thấp hơn, bao hàm hình thức vận động thấp nhưng không có chiều ngược
lại; thứ ba, các hình thức vận động có thể chuyển hoá cho nhau.
* Vận động và đứng im:
+ Đứng im là trạng thái vận động đặc biệt, là sự vận động trong trạng thái cân bằng chưa
làm thay đổi về chất, hình dáng, kết cấu của sự vật.
+ Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định,
đứng im chỉ xảy ra khi xét ở một hình thức vận động xác định.
* Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
- Không gian: kích thước chiếm chỗ của vật (dài, rộng, cao).
- Thời gian: độ dài tồn tại, mức độ diễn biến (lâu, mau, nhanh, chậm).
Vật chất và không gian, thời gian tồn tại không tách rời nhau, không có vật chất tồn tại
ngoài không gian, thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất.
Vì là những hình thức tồn tại của vật chất, nên không gian và thời gian có tính khách
quan, tính vĩnh cửu, vô tận; không gian có 3 chiều, thời gian có 1 chiều.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thế giới thống nhất ở tính tinh thần, ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thế giới thống nhất ở tính vật chất, thể hiện:
+ Chỉ có duy nhất thế giới vật chất tồn tại, vô hạn, vĩnh viễn
+ Thế giới sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng nhưng luôn có mối quan hệ, tác
động biện chứng với nhau và thống nhất ở tính vật chất của nó.
+ Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là sản phẩm và là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người; là sự phản ánh chủ động, tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn.
a. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức ra đời cùng với sự ra đời của
con người và xã hội loài người, gồm hai nguồn gốc sau:
Nguồn gốc tự nhiên (điều kiện cần- nguồn gốc gián tiếp): Bộ óc người và sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người
- Bộ óc người: ý thức là thuộc tính, chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất sản sinh ra ý thức. Do đó, khi bộ óc con người
càng hoàn thiện thì năng lực tư duy, ý thức càng phong phú và sâu sắc. Ngược lại, khi bộ
óc con người bị tổn thương thì năng lực tư duy, ý thức, cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
- Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người:
+ Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. C u
ấ tạo vật chất khác nhau sẽ có khả
năng phản ánh khác nhau. Do đó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ thấp đến cao như sau:
+ Ở giới tự nhiên vô sinh: Phản ánh vật lý, hóa học (sự phản ánh thụ động, chưa có tính chọn lọc).
+ Ở giới tự nhiên hữu sinh: Phản ánh sinh học (tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ, tâm lý).
+ Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất của giới tự nhiên hữu sinh.
=> Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức gắn liền
với con người và không thể tách rời đời sống xã hội của loài người.
* Nguồn gốc xã hội (điều kiện đủ- nguồn gốc trực tiếp): Lao động và ngôn ngữ
- Lao động và vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
+ Lao động (lao động sản xuất vật chất) là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
tác động vào tự nhiên để cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình.
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức:
Thứ nhất: lao động đã giải phóng con người khỏi thế giới động vật, giúp con người có khả
năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng những công cụ ấy phục vụ mục đích sống của mình.
Thứ hai: lao động đã giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, giúp cho bộ não con
người ngày càng phát triển và hoàn thiện về mặt sinh học.
Thứ ba: nhờ lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, qua đó con người có thể nhận thức được,
từ đó năng lực tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển.
Thứ tư: lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ, một mặt là kết quả của lao
động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức của con người.
- Ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
+ Vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ để thể
hiện, truyền đạt tư tưởng, kinh nghiệm của con người. Ngôn ngữ giúp con người phản ánh
khái quát những thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, cùng với lao động là ngôn ngữ, là hai yếu tố chủ yếu và trực tiếp nhất làm cho ý
thức hình thành và phát triển.
b. Bản chất của ý thức
Có thể phân tích bản chất của ý thức dựa trên ba đặc trưng sau đây:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới khách
quan nhưng nó đã bị cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người, chịu sự tác
động của các yếu tố như: nhu cầu, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm, tri thức...
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới
khách quan không rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp nhận, xử lý thông tin có chọn
lọc, định hướng; đồng thời ý thức không chỉ là sự phản ánh thông tin bề ngoài của thế giới
sự vật hiện tượng mà còn khái quát bản chất, quy luật của thế giới.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: sự ra đời, phát triển của ý thức
gắn liền với hoạt động lao động của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn bởi các quy luật xã hội.
c. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Xét theo chiều ngang, ý thức gồm ba yếu tố cơ bản sau:
- Tri thức: Là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình con người nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực. Do đó, tri thức, hiểu biết của
con người về thế giới sự vật hiện tượng càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy nhiêu.
- Tình cảm: Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong mối quan hệ của
mình với sự vật hiện tượng và đối với bản thân mình .
- Ý chí: Là khả năng huy động sức mạnh của bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác. Ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng. Ngược lại, nếu tri
thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó cũng không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Nếu xét theo chiều dọc, ý thức gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
- Tự ý thức: Là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình như một thực thể độc lập
có cảm giác, tư duy, hành vi đạo đức và vị trí trong xã hội khi phản ánh thế giới khách quan.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý diễn ra không nằm trong sự kiểm soát của chủ
thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã
gần như trở thành bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
- Vô thức: Là hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của
lý trí mà ý thức không kiểm soát được. Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động, vai trò
riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con người thành một
lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi ý thức, tinh thần là tồn tại duy
nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao,
biểu hiện khác của ý thức, tinh thần, là tính thứ hai do ý thức, tinh thần sinh ra. Trên thực
tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm
mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với “đường sáng thế”. Trong thực tế, những
người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ
quan, dẫn đến duy ý chí, có những hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình lại tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của
ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, những người theo chủ nghĩa duy vật
siêu hình đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”,
thụ động, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn .
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
ý thức. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; thế
giới vật chất là cái có trước, còn con người và ý thức của con người là cái có sau, là sản
phẩm của một quá trình tiến hóa lâu dài trong thế giới. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được phân tích ở những điểm cơ bản sau:
+ Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá trình hình thành của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức (mọi nội dung của ý thức, suy đến cùng đều chỉ
là sự phản ánh đối với thực tế khách quan).
+ Vật chất quyết định hình thức biểu hiện cũng như sự biến đổi và phát triển của ý thức.
Vì hình thức biểu hiện và sự biến đổi của ý thức phụ thuộc vào quy luật sinh học, quy luật
xã hội, môi trường sống... thuộc lĩnh vực vật chất.
+ Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng
- Tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Ý thức không hoàn toàn thụ động mà có
tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất. Bởi vì, bản chất của ý
thức mang tính năng động, sáng tạo, ý thức là ý thức của con người, chỉ có con người mới
có ý thức nên nói tới vai trò của ý thức đối với vật chất chính là nói đến vai trò của co n người.
+ Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn (ý thức trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được: mục tiêu, phương
hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ... để đạt được mục tiêu của mình. Như
vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, cải tạo được thế giới...
Tác động tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì định hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào trình độ phản ánh của
ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức.
Như vậy, khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để
khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức. Bằng việc định hướng cho
hoạt động của con người, ý thức là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Lưu ý, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong sự tác động trở lại vật chất không có nghĩa là
thừa nhận ý thức quyết định vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng rút ra ý nghĩa phương pháp luận: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan:
Điều đó đòi hỏi con người trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách
quan để nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể...; không được lấy
ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm làm điểm xuất phát
cho chiến lược, sách lược...
+ Phát huy tính năng động chủ quan:
Điều này đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, nắm vững tri thức khoa học để có
thể nắm bắt bản chất, quy luật của thế giới khách quan; không ngừng tu dưỡng đạo đức,
trau dồi tình cảm; rèn luyện ý chí để có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách; tránh sự ỷ
lại, thụ động, bảo thủ...
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lênin trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở khoa học để vận dụng vào giải quyết mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan, nhưng không đồng nhất vật chất và ý thức với khách quan và chủ quan.
- Vai trò của yếu tố khách quan đối với nhân tố chủ quan:
+ Trong mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan thì suy đến cùng, yếu tố
khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định nhân tố chủ quan. Bởi
vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập
không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt
động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể.
+ Yếu tố khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của nhân tố chủ quan.
Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năng động chủ quan trong nhận thức và hành
động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể
không thể tùy tiện đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những
mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện chưa chín muồi.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với yếu tố khách quan:
+ Đề cập đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để cải biến và thống trị thế giới.
+ Con người có thể biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn
tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt
nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình biến khả năng thành hiện thực.
+ Con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một
cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Biện chứng: chỉ sự liên hệ, tác động qua lại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan từ tự nhiên, xã hội đến tư duy. Biện chứng bao gồm biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
- Phép biện chứng: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và sự phát triển.
- Phép siêu hình: là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong trạng thái biệt lập,
tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn
thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại..mà không nhìn
thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng"
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan: sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong ý thức của con người.
b. Khái n
iệm phép biện chứng duy vật
Có thể định nghĩa khái quát phép biện chứng duy vật: “là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật.
+ Thứ hai, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng, do đó nó không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong triết học
Mác - Lênin, là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại (được
thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Như vậy, khái niệm mối liên hệ phổ biến
được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ; dung
để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng...
- Có thể tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến như sau: Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn
nằm trong mối liên hệ đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình. Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của các sự
vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng
siêu nhiên tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị
hóa); mối liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường...
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau
trong sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội lẫn tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, điều đó cho thấy, sự vật, hiện tượng nào cũng có mối
liên hệ, không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau thì mối liên hệ cũng khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và
thứ yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện
tượng đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng
khác nhau... Do đó, “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Ví dụ 1: để đánh giá công trình xây dựng có đảm bảo chất lượng hay không phải được
xem xét trên nhiều phương diện, tiêu chí như độ cao, thiết kế, hệ thống phòng cháy chữa
cháy, hệ thống xử lý rác thải, hệ thống nước…
Ví dụ 2: để đánh giá tìm hiểu bản chất con người thông qua các mối quan hệ của họ với
gia đình, anh chị em, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, con cái, nghề nghiệp, với xã hội…
- Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc toàn diện:
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó trong tất cả các mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các bộ phận... hợp thành của chính sự vật, hiện tượng
đó và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng
khác để từ đó có cái nhìn chỉnh thể về sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cần phải biết phân biệt vai trò của các mối liên
hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, bản chất, tất yếu, từ đó tách ra và tập trung
xem xét các mối liên hệ cơ bản có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải tính đến mọi khả năng vận động, phát
triển của nó để tránh tuyệt đối hóa một khả năng nào đó, từ đó có cái nhìn tổng thể về sự
phát triển của sự vật, hiện tượng và có thể lựa chọn khả năng tốt nhất.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cũng cần xem xét sự vật trong mối quan hệ
với nhu cầu thực tiễn, từ đó vận dụng có hiệu quả những hiểu biết về sự vật vào giải quyết
các vấn đề do nhu cầu thực tiễn đặt ra để đem lại hiệu quả nhất.
* Nguyên lý về sự phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là quá trình vận động của sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình phát sinh, phát triển và giải quyết mâu thuẫn
vốn có của sự vật, là một quá trình quanh co, phức tạp diễn ra theo vòng xoáy ốc chứ
không theo đường thẳng. Ví dụ:
Trong xã hội: CXNT => CHNL => PK => TBCN => CSCN
Trong tự nhiên: Hạt => Mầm => Cây => Hoa => Quả…
Trong Nhận thức của con người: Đơn giản => Phức tạp…
Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản
thân sự vật, đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Chẳng hạn, quá
trình phát sinh một giống, loài mới diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hóa
của giới tự nhiên, con người muốn sáng tạo ra một giống loài mới thì cũng phải nhận thức
và làm theo quy luật đó,...
- Tính phổ biến của sự phát triển: Phát triển không phải là đặc tính riêng của một lĩnh vực
nào đó mà là khuynh hướng chung của thế giới sự vật hiện tượng, diễn ra trong mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng, có thể
dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan. Chẳng hạn, sự phát triển
của giới động vật thể hiện ở khả năng thích nghi của nó trước sự biến đổi phức tạp của môi trường,...
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có sự khác nhau trong sự phát triển;
bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng có sự phát triển không giống nhau... Nguyên nhân là
do mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác
động của nhiều sự vật, hiện tượng, yếu tố khác nhau... Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc phát triển:
+ Xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động, biến đổi, chuyển hóa của
chúng, không chỉ thấy cái hiện tại mà phải thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Cần phân tích những biến đổi của sự vật, hiện tượng để tìm ra khuynh hướng biến đổi
chính của sự vật, hiện tượng đó.
+ Phát triển là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc
điểm, tính chất... khác nhau. Do đó, cần có quan điểm lịch sử cụ thể để tìm ra những cách
thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp nhằm thúc đẩy những biến đổi có lợi, kìm
hãm những biến đổi có hại.
+ Nội dung của các luận điểm khoa học cũng luôn thay đổi để phản ánh được sự thay đổi,
phát triển của đối tượng. Cần phải có cái nhìn mềm dẻo, linh hoạt để phản ánh sự phát
triển của sự vật, hiện tượng một cách kịp thời.
+ Cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Cần có cái nhìn linh hoạt trong đánh giá, phân tích sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Phân tích các khả năng, cũng như vận dụng một cách linh hoạt các phương tiện tác động
vào đối tượng, nhất là khi tình hình đã thay đổi nhằm ủng hộ cái mới.
+ Trong quá trình xây dựng và thực hiện các quyết sách phải tránh cái nhìn cực đoan, tả
khuynh, hữu khuynh, cần nhận thức trạng thái chin muồi của đối tượng mà xây dựng và
thực hiện các quyết sách một cách hiệu quả.
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Cái riêng và cái chung
- Khái niệm: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính,
yếu tố, quan hệ... lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng. Bên cạnh đó còn có cái đơn
nhất: phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất chỉ tồn tại ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ:
Cái Chung: Sinh viên Đại học Xây dựng (đều là sinh viên đại học, đều có điểm đầu vào từ
điểm sàn trở lên, đều chịu sự tác động bởi các quy chế học tập của trường ĐHXD...)
Cái Riêng: Sinh viên ngành Xây dựng, Sinh viên ngành Cầu đường, Sinh viên ngành Kiến trúc...
Cái đơn nhất: Sinh viên mỗi ngành trong trường Đại học Xây dựng ngoài học các môn
chung, có môn riêng, nhưng có những yếu tố đặc thù ngành, bản thân mỗi cá nhân có đặc
điểm không ai giống ai tuyệt đối: hình dáng, sở thích, thói quen, trình độ hiểu biết...)
- Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
+ Sự thống nhất: Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình.Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng
tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
+ Sự mâu thuẫn: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ
phận, sâu sắc hơn cái riêng. Do đó, cái bộ phận đôi khi mâu thuẫn với cái toàn bộ Ví dụ:
Cái chung: Thành phố của Việt Nam
Cái riêng: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hải Phòng... là cái
toàn bộ, đó là những thành phố riêng, có nhiều đặc điểm, phong phú đa dạng hơn cái
chung (tiêu chuẩn quy định là thành phố loại 1 của Việt Nam)
+ Sự chuyển hóa: Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những
điều kiện xác định. Trong mối quan hệ này, sự vật có thể là cái chung, trong mối quan hệ
khác, sự vật đó có thể lại là cái riêng.
Ví dụ: Cái riêng thành cái chung:
Cái chung: Sinh viên Việt Nam
Cái riêng: Sinh viên Đại học Xây dựng, Sinh viên Đại học Bách
Khoa Hà Nội, Sinh viên Đại học Đà Nẵng...
Trong mối quan hệ khác, sinh viên Đại học Xây dựng là cái chung, sinh viên Khóa 64,
Khóa 63, Khóa 62... là cái riêng.
Cái đơn nhất thành cái chung:
Một trào lưu mới nảy sinh từ 1 sinh viên Trường A, được nhân rộng ra mọi sinh viên ở tất
cả các trường đại học.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung tồn tại trong cái riêng, không tách rời cái riêng, cho nên muốn nhận thức cái
chung phải xuất phát từ cái riêng, thông qua nhiều cái riêng để khái quát thuộc tính chung.
Trong hoạt động thực tiễn, khi áp dụng cái chung vào từng cái riêng phải căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh của từng cái riêng cho phù hợp.
Phải biết tạo điều kiện thích hợp để biến cái chung thành cái đơn nhất và ngược lại theo
hướng có lợi cho con người.
* Bản chất và hiện tượng
-
Khái niệm: Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp những mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, ổn định quy định sự vận động, phát triển của sự vật. Hiện tượng là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất trong những điều kiện xác định.
Ví dụ: Bản chất của một người: Tốt hoặc xấu
Hiện tượng: biểu hiện ra thông qua hành vi, lời nói, cử chỉ, việc làm, tướng mạo...
- Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất: Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, bản chất bao giờ cũng được
biểu hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của một bản chất nào đó.
Sự mâu thuẫn: Bản chất và hiện tượng đối lập nhau. Bản chất là cái bên trong, khó nắm
bắt; còn hiện tượng là cái bên ngoài có thể trực quan được. Bản chất là cái chung, tất yếu,
có tính ổn định; còn hiện tượng là cái riêng, phong phú, đa dạng, thường xuyên biến đổi.
Ví dụ: Bản chất của một người tốt nhưng biểu hiện ra hiền lành, tốt bụng nhưng đôi khi
thể hiện nóng nảy, thô lỗ, cục cằn,...
Sự chuyển hóa: Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện nhất định.
Ví dụ: Bản chất của nước là chất lỏng, trong điều kiện khác nhau nước có thể chuyển hóa
thành chất rắn hoặc hơi.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức đúng đắn sự vật thì phải nắm bắt được bản chất của nó, tuy nhiên chỉ có
thể nhận thức bản chất đó thông qua những hiện tượng mà nó biểu hiện ra. Trong hoạt
động thực tiễn, khi cải tạo sự vật thì phải cải tạo bản chất, thay đổi bản chất của nó chứ
không phải hiện tượng. Vì cải tạo bản chất thì hiện tượng tự nó sẽ mất đi.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Khái niệm: Tất nhiên là một phạm trù triết học dùng để chỉ cái do những nguyên nhân
cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định, trong những điều kiện nhất định nó phải
xảy ra như thế chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái
do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do
đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, có thể xuất hiện như thế khác.
- Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Sự thống nhất: Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, trong đó cái tất nhiên có
vai trò quyết định. Tất nhiên và ngẫu nhiên thống nhất với nhau: cái tất nhiên vạch đường
đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là biểu hiện của cái tất
nhiên. Không có cái ngẫu nhiên cũng như cái tất nhiên thuần tuý.
Sự mâu thuẫn: Tất nhiên là do nguyên nhân bên trong quy định, ngẫu nhiên là do những
tác nhân bên ngoài quy định. Ví dụ:
Tất nhiên: Quả táo chín rơi xuống đất là quy luật tự nhiên
Ngẫu nhiên: Quả táo rơi trúng đầu Newton là sự việc ngẫu nhiên là chìa khóa mở ra định
luật vạn vật hấp dẫn.
Sự chuyển hóa: Trong những điều kiện nhất định, ngẫu nhiên và tất nhiên có thể chuyển
hoá cho nhau. Trong quan hệ này, sự vật là ngẫu nhiên, trong quan hệ khác, sựu vật là tất nhiên.
Gió thổi mạnh khiến quả táo rơi - nguyên nhân rơi là bên ngoài - ngẫu nhiên. Tuy nhiên,
xét một cách cụ thể, lực thổi của gió thắng lực liên kết giữa trái táo và cành táo thì tất yếu táo phải rơi.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải dựa vào cái tất nhiên, nhưng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên.
Cần tạo ra những điều kiện thích hợp để ngẫu nhiên và tất nhiên chuyển hoá lẫn nhau theo
hướng có lợi cho con người.
* Nguyên nhân và kết quả
-
Khái niệm: Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định. Kết quả
là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
- Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nguyên nhân luôn có trước kết quả. Tuy nhiên, cần phân
biệt mối quan hệ nhân - quả với mối quan hệ trước - sau về mặt thời gian.
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp: một nguyên nhân có thể dẫn tới nhiều kết
quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
+ Nguyên nhân có nhiều loại: nguyên nhân bên trong - bên ngoài, nguyên nhân chủ yếu -
thứ yếu, nguyên nhân cơ bản - không cơ bản.
+ Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Sự tác động này có thể theo
chiều hướng tích cực và tiêu cực.
+ Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Kết quả sau khi sinh ra có thể
trở thành nguyên nhân cho hiện tượng tiếp theo, tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Cho
nên, việc xác định cái gì là nguyên nhân, cái gì là kết quả chỉ có thể đặt trong điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể để xác định. Cái trong trường hợp này là nguyên nhân thì trong trường
hợp khác lại là kết quả.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi sự vật xuất hiện, biến đổi đều có nguyên nhân, nên muốn nhận thức sự vật phải tìm
ra nguyên nhân cho sự xuất hiện, biến đổi của nó. Đồng thời phải tìm nguyên nhân trong
những hiện tượng trước khi kết quả xuất hiện.
Vì nguyên nhân sinh ra kết quả, nên trong nhận thức và thực tiễn cần phân loại nguyên
nhân, xác định vị trí vai trò của từng nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, đồng
thời phải đặt quan hệ nhân - quả trong điều kiện cụ thể để phân tích và giải quyết.
* Nội dung và hình thức
- Khái niệm: Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những
yếu tố, những qúa trình tạo nên sự vật. Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ
phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
- Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức thống nhất với nhau. Vì vậy, nội dung nào cũng được biểu hiện
thông qua một hình thức nhất định, và không có một hình thức nào không chuyển tải nội
dung. Tuy nhiên, cùng một nội dung có thể được thể hiện qua nhiều hình thức, và cùng
một hình thức có thể chuyển tải những nội dung khác nhau.
Nội dung quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội dung. Nội dung bao giờ
cũng quyết định hình thức biểu hiện nó, khi nội dung thay đổi hình thức cũng phải thay
đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, hình thức không phải bao giờ cũng phù hợp với nội dung,
nếu hình thức phù hợp nó sẽ thể hiện tốt nội dung, thúc đẩy nội dung phát triển; nếu
không phù hợp thì ngược lại.
Ví dụ: Cùng là một ý tưởng (nội dung), có thể thể hiện bằng bài hát, bài thơ, phim truyện, phóng sự... (hình thức)
Ý tưởng của sách hay đi liền với hình thức trình bày bìa, chương mục, kết cấu, câu từ phù
hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung, độc giả dễ tiếp cận với nội dung (và ngược lại)...
- Ý nghĩa phương pháp luận
Khi xem xét sự vật cần căn cứ vào nội dung, tuy nhiên không được tách rời nội dung với
hình thức, xem nhẹ hình thức, hoặc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đó.
Trong hoạt động thực tiễn, cần làm cho hình thức và nội dung phù hợp với nhau, nếu hình
thức không phù hợp với nội dung thì phải thay đổi hình thức.
* Khả năng và hiện thực
-
Khái niệm: Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ những gì đang có, đang tồn tại
trong thực tế và trong tư duy. Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ những gì hiện
chưa có nhưng có thể có nếu gặp điều kiện thuận lợi.
Lưu ý: một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng khác nhau: khả năng thực tế, khả năng tất
nhiên, khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa... Ví dụ:
Khả năng: sinh viên Đại học Xây dựng học 5 năm ra trường
Hiện thực: sau 5 năm, sinh viên có thể tốt nghiệp ra trường cũng có thể không.
- Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực thống nhất với nhau, bao hàm quá trình chuyển hoá lẫn nhau.
Khả năng trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành hiện thực, hiện thực
bao giờ cũng chứa đựng và phát sinh những khả năng mới, khả năng mới đó trong những
điều kiện xác định lại chuyển hoá thành hiện thực mới.
Trong xã hội, sự chuyển hoá khả năng thành hiện thực cần có những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
+ Điều kiện khách quan: là hoàn cảnh, môi trường xã hội tạo ra những yếu tố thuận lợi
cho khả năng chuyển hoá thành hiện thực.
+ Nhân tố chủ quan: là hoạt động có ý thức của con người nhận thức, nắm bắt khả năng
và vận dụng những yếu tố thuận lợi đó để biến khả năng thành hiện thực.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không phải khả năng,
tuy nhiên cũng cần tính đến những khả năng, nhất là những khả năng có thể chuyển hoá
thành hiện thực. Cần tạo những điều kiện thích hợp để khả năng chuyển hoá thành
hiện thực hoặc kìm hãm sự phát triển của khả năng theo chiều hướng có lợi cho con người.
c. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Vị trí của quy luật: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức (phương thức) của sự phát triển của mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm Chất, Lượng
- Khái niệm Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với cái khác. - Đặc điểm:
+ Tính khách quan: chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, nằm
trong sự vật, hiện tượng chứ không phải được đem từ bên ngoài vào.
+ Chất được tạo thành từ các thuộc tính của sự vật. Tuy nhiên, sự vật có nhiều thuộc tính,
trong đó có những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Chất được tạo
thành chủ yếu từ những thuộc tính cơ bản. Sự mất đi hay biến đổi của những thuộc tính
này sẽ làm cho chất của sự vật cũng mất đi và biến đổi theo.
+ Mặt khác, chất của sự vật không chỉ được xác định bởi các thuộc tính và yếu tố cấu
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Các yếu tố, thuộc tính được
liên kết theo phương thức khác nhau sẽ tạo ra chất khác nhau.
+ Mỗi sự vật khi tồn tại không chỉ có một chất mà có nhiều chất tùy theo góc độ mà ta
xem xét. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản với tư cách
là tổng hợp của các chất, các thuộc tính, các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.
+ Chất thường mang tính ổn định tương đối.
- Khái niệm Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng về mặt số lượng, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động, phát
triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. - Đặc điểm:
+ Tính khách quan: lượng cũng là cái vốn có của sự vật.
+ Mỗi sự vật khi tồn tại cũng có nhiều lượng tuỳ theo cách thức xác định.
+ Lượng thường xuyên biến đổi.
Lưu ý: sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có tính
tương đối, có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng
- Mỗi sự vật, hiện tượng khi tồn tại đều là thể thống nhất giữa chất và lượng, hai mặt đó
không tồn tại tách rời mà tác động qua lại với nhau.
Sự tác động qua lại đó được thể hiện như sau:
+ Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất với nhau trong giới hạn nhất định gọi là độ.
+ Độ là khoảng giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất của sự vật thay đổi.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Sự phát triển của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng
trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
+ Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm cho chất của sự vật
thay đổi hay nói cách khác điểm nút là thời điểm mà chất mới và lượng mới ra đời. Tại
thời điểm điểm nút sẽ diễn ra bước nhảy.
+ Bước nhảy là sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó tạo ra,
là bước ngoặt trong sự thay đổi về lượng. Nếu không có bước nhảy sự vật sẽ không thể
thực hiện được sự thay đổi về chất làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Bước
nhảy, do đó, vừa là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật, vừa là khởi đầu của
một giai đoạn phát triển mới. Tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và phụ thuộc vào bản thân
sự vật mà hình thức của bước nhảy khác nhau, hết sức phong phú, đa dạng: có bước nhảy
đột biến và bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ,...
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động đến
lượng của sự vật trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động, phát triển của sự vật. Chất mới ra đời sẽ mở đường, kích thích, thúc
đẩy lượng mới phát triển.
Ví dụ: Chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế chế độ phong kiến mở đường cho Lượng
mới phát triển (kinh tế, xã hội, trình độ con người…)
Tóm lại: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi về lượng khi đạt
tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Quá trình tác động qua lại đó diễn ra liên tục
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Để nhận thức đúng sự vật, phải nhận thức sự vật trong sự thống nhất giữa chất và lượng.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến
đổi về chất của sự vật, kiên trì, chờ đợi thời cơ, tránh nôn nóng, tránh quan điểm “tả
khuynh”, “hữu khuynh”. Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” - nhấn
mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự tích lũy về lượng; bởi sẽ dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm,
hành động thất bại. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” - tuyệt đối hoá sự tích lũy về
lượng, không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo
thủ, trì trệ, ngại khó, không có sự thay đổi về chất mới. Khi tích lũy về lượng đã đủ thì
phải thực hiện bước nhảy.
- Do quy luật này xảy ra phụ thuộc vào nhiều điều kiện, do đó trong quá trình tích lũy về
lượng cần tạo ra các điều kiện để quá trình chuyển hóa nhanh hơn.
- Đồng thời, cần có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi đã có sự tích luỹ đủ về lượng; mặt
khác, phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Vị trí của quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân”
của phép biện chứng, chỉ ra nguồn gốc, động lực cơ bản của sự vận động, phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn:
+ Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định
có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại khách quan.
+ Mâu thuẫn: là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất của các mặt
đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt
này là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia và ngược lại. Đấu tranh của các mặt
đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng.
- Phân loại mâu thuẫn: tùy theo hướng tiếp cận khác nhau mà có mâu thuẫn bên trong,
mâu thuẫn bên ngoài; có mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản; có mâu thuẫn chủ yếu và thứ
yếu, có mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
* Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan cũng đều chứa đựng những mâu
thuẫn trong bản thân nó, trong đó luôn diễn ra quá trình vừa thống nhất vừa đấu tranh của
các mặt đối lập làm cho sự vật, hiện tượng vận động và phát triển không ngừng. Chúng có
vị trí, vai trò nhất định đối với sự tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập gắn liền với sự ổn định, sự đứng im tương đối của sự
vật. Khi nào các mặt đối lập còn tồn tại trong thể thống nhất thì khi đó sự vật còn tồn tại.
Vì vậy thống nhất có tính tương đối.
- Nhưng trong khi các mặt đối lập thống nhất với nhau, quá trình đấu tranh giữa chúng
không ngừng diễn ra. Đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho bản thân các mặt đối lập
đều biến đổi, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng phát triển. Khi sự đấu tranh đó lên đến đỉnh
điểm, các mặt đối lập xung đột gay gắt, chúng sẽ chuyển hoá cho nhau, mâu thuẫn được
giải quyết, thể thống nhất cũ bị phá vỡ, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Vì vậy đấu
tranh có tính tuyệt đối.
- Mâu thuẫn cũng có quá trình vận động, phát triển: lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là
sự khác nhau căn bản của các mặt đối lập nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự
khác nhau đó ngày càng phát triển đi đến chỗ đối lập, rồi sau đó xung đột gay gắt. Khi hội
đủ những điều kiện thích hợp, mâu thuẫn sẽ được giải quyết làm cho sự vật vận động và phát triển.
Tóm lại: mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng cần phát hiện ra những mâu thuẫn tồn tại trong bản thân nó.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ của các mâu thuẫn, của từng mặt đối lập
trong mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu
đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng phát triển và tìm ra được những phương
pháp để giải quyết mâu thuẫn.
Quy luật phủ định của phủ định
Vị trí của quy luật: Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc trưng cơ bản của
- Phủ định: là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế
hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển
tự thân, là mắt khâu trong quá trình ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. Là sự phủ
định tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật.
- Những đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng: có tính khách quan và tính kế thừa.
+ Tính khách quan: nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật chứ không
phải ở bên ngoài sự vật hay một lực lượng siêu nhiên nào đó. Nguyên nhân đó chính là
những mâu thuẫn tồn tại bên trong sự vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn này làm cho
sự vật không ngừng vận động, phát triển. Như vậy, phủ định biện chứng là một tất yếu
khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn,
ý chí của con người hay một lực lượng thần bí.
+ Tính kế thừa: cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ chứ
không phải là sự thủ tiêu, phá huỷ hoàn toàn cái cũ.
Cái mới ra đời trên cơ sở khẳng định những mặt tốt, những yếu tố tích cực, phù hợp của
cái cũ; đồng thời loại bỏ những cái tiêu cực, lạc hậu, những mặt không còn phù hợp với
hiện thực. Tuy nhiên, những nhân tố của sự vật cũ được giữ lại vẫn phải được cải tạo,
được biến đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Phủ định biện chứng là sự liên
hệ giữa cái cũ và cái mới, là sự thống nhất giữa khẳng định và phủ định, là mắt khâu tất
yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Phủ định của phủ định
- Trong quá trình phát triển, sự vật trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, mỗi lần phủ
định đó đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Quá trình
này diễn ra vô tận làm cho sự vật phát triển từ thấp đến cao, diễn ra có tính chất chu kỳ
theo hình thức “xoáy ốc”. Quá trình phát triển đó được gọi là sự “phủ định của phủ định”.
- Sự “phủ định của phủ định” diễn ra có tính chu kỳ. Mỗi chu kỳ đều trải qua ít nhất hai
lần phủ định biện chứng, trong đó, sự vật mới ra đời dường như lặp lại sự vật ban đầu
nhưng ở trình độ phát triển cao hơn về chất do kế thừa và biến đổi được những nhân tố
tích cực, hợp lý và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, không hợp lý của sự vật ban đầu
qua những lần phủ định; đồng thời, điểm kết thúc của chu kỳ phát triển này của sự vật lại
là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển mới của nó.
- Sự phủ định biện chứng của sự vật diễn ra vô tận, các chu kỳ phát triển của nó nối tiếp
nhau tạo ra khuynh hướng phát triển có tính chất phổ biến: sự phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Khuynh hướng phát triển theo đường “xoáy
ốc” đã khái quát được tính chất biện chứng của sự phát triển bao gồm: tính kế thừa, tính
lặp lại và tính tiến lên vô tận, đồng thời thể hiện tính quanh co, phức tạp, đa dạng của quá trình phát triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải nắm được xu thế phát triển tất yếu của nó, đồng
thời phải thấy được quá trình phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà là một quá
trình quanh co, phức tạp gồm nhiều giai đoạn, quá trình khác nhau.
- Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu ra đời
thay thế cái cũ. Vì vậy, cần có thái độ lạc quan trước cái mới và tạo điều kiện cho cái mới ra đời.
- Mặt khác, đối với cái cũ, cần kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố tích cực, hợp
quy luật và loại bỏ những nhân tố trái quy luật để thúc đẩy sự vật phát triển theo chiều hướng tiến bộ.
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
* Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
* Các nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
- Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan.
- Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
- Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
* Các trình độ nhận thức
Tùy thuộc các cách tiếp cận khác nhau có thể chia nhận thức thành:
- Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
+ Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ quan sát trực tiếp các sự vật
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay thực nghiệm khoa học, từ đó rút ra những tri thức kinh nghiệm.
+ Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất,
quy luật của các sự vật hiện tượng, từ đó hình thành những tri thức lý luận. Mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận: nhận thức kinh nghiệm và
nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho
nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể để từ đó tổng kết, khái quát thành lý
luận mới. Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm,
hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh
nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của
con người, thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng
lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến.
- Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
+ Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nhận thức thông thường mang tính phong
phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
+ Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ
sự phản ánh đặc điểm, bản chất những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản
ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgích. Đó là các khái niệm, phạm trù và các quy
luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa
có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương
pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả
sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học: nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình
nhận thức nhưng Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, nhận thức
thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung củ
các khoa học. Ngược lại nhận thức khoa học lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
* Nguồn gốc của nhận thức
Lý luận nhận thức duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới. Lý
luận này xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh
thế giới vào bộ óc của con người.
Đối với chủ nghĩa duy vật, thế giới tồn tại khách quan, ở bên ngoài, không phụ thuộc vào
ý thức loài người, là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức. Thế giới đó khi tác
động lên giác quan của con người thì gây nên những cảm giác khác nhau. Nhận thức là
phản ánh thế giới vào óc của con người. Như vậy, không thể có bất kì nhận thức nào nếu
thiếu sự tác động của các đối tượng, các điều kiện bên ngoài lên ý thức con người. Chỉ
nhờ kết quả sự tác động như thế mới làm xuất hiện trong đầu óc con người những mô
hình của các đối tượng. Từ đó suy ra, quá trình nhận thức diễn ra dưới hình thức liên hệ
và tương tác biện chứng lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể nhận thức.
* Bản chất của nhận thức
Sự đối lập giữa lý luận duy vật và lý luận duy tâm về nhận thức biểu hiện trước hết trong
vấn đề bản chất của sự nhận thức.
- Trường phái triết học duy tâm, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về nhận thức. Có
nhà triết học cho rằng, nhận thức là “sự hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các
ý niệm” mà nó đã từng chiêm ngưỡng nhưng bị lãng quên đi (Platon); có nhà triết học lại
quan niệm, nhận thức là quá trình thuần túy lôgíc của tư duy tự vận động, “tự đi sâu vào
bản thân” (Arixtốt), có nhà triết học lại giải thích, nhận thức là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối” (Hêghen). Như vậy, đối với các nhà triết học duy tâm, ngay cả khi họ thừa
nhận rằng có thể nhận thức được thế giới sự vật hiện tượng thì sự nhận thức đó cũng chỉ
là loại hoạt động đặc biệt, hoàn toàn độc lập với thế giới cảm tính.
- Trường phái triết học duy vật trước Mác, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới
của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của
con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa
duy vật trước Mác coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép
nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Đặc biệt, họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
- Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất nhận thức: Nhận thức là một
quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người
trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Khái niệm thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
* Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt
động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là
hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội, nhằm xác định những quy luật biến
đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau,
không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò
quyết định đối với các loại hoạt động thực tiễn khác.
* Vai trò của thực tiễn với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức con người; là tiêu chuẩn, thước đo tính chân
thực của các tri thức đã thu được. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp
của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát
triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải
tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ
những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài
liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và
phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng
hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải “đo đạc diện tích và đong
lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà
toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mác xít vào những năm 40
của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học
mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động
thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu,
khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không có một
lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ,
hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức
sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy,
chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn
mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không
ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác
dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai
trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải
luôn luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Bài học quan điểm thực tiễn
- Từ việc nghiên cứu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn
luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.
- Quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt
đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và hoạt động lý luận là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn
liền với thực tiễn, lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính
chân lý thì chỉ là lý luận suông, ngược lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học soi sáng
sẽ thành thực tiễn mù quáng.
4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý: Trong Bút
ký triết học, V. I. Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như
sau: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
- đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
* Giai đoạn thứ nhất: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng (từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lý tính)
- Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người
phản ánh trực tiếp khách thể bằng các giác quan. Nhận thức cảm tính bao gồm 3 hình thức
cơ bản: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
+ Cảm giác: là hình thức sơ khai, đơn giản nhất của quá trình nhận thức. Đó là sự phản
ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật.
+ Tri giác: là sự liên kết các cảm giác để đem lại hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật.
+ Biểu tượng: là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm
giác và tri giác. Nó là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính. Nó là khâu
trung gian giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Nhận thức lý tính: là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách
quan. Nhận thức lý tính bao gồm 3 hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý.
+ Khái niệm là hình thức đầu tiên của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật.
+ Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, là sự liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một thuộc tính, một đặc điểm nào đó của đối tượng nhận thức.
+ Suy lý là hình thức cao nhất của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở liên kết
các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Tuy nhiên, để quá trình suy luận đạt tới
trình độ tư duy đúng đắn cần phải tuân thủ các nguyên tắc: các phán đoán tiền đề là chân
thực và đồng thời tuân theo những quy tắc lôgích.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn:
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn phản ánh hai trình độ khác
nhau của quá trình nhận thức nhưng có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau.
+ Nhận thức cảm tính cung cấp những tài liệu cho nhận thức lý tính và nhận thức lý tính
định hướng cho nhận thức cảm tính.
* Giai đoạn thứ hai: từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn
Đến giai đoạn nhận thức lý tính con người đã có những tri thức về sự vật. Tuy nhiên, nếu
dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có những tri thức về đối tượng còn bản
thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì chưa thể khẳng định được.
Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay
không. Để khẳng định được điều này thì nhận thức nhất thiết phải quay trở lại thực tiễn để
kiểm tra trong thực tiễn. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
+ Tính tương đối: tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan nhưng không
hoàn toàn đầy đủ. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý phụ thuộc vào khả năng
nhận thức của con người. Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời
nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của
các chân lý tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý tương đối bao giờ cũng chứa đựng
những yếu tố tuyệt đối.
- Tính cụ thể của chân lý: phản ánh sự vật hiện tượng trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
* Vai trò của chân lý với thực tiễn
- Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng
những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình.
Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
- Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá
trình vận động, phát triển; chân lý phát triển được nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển
được nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức của con người cần phải xuất phát từ thực tế
để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên
tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao
hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội. Coi trọng tri thức khoa học và tích
cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó trong các hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu
quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa
học trong thực tiễn hiện nay.
Ví dụ: Triết học Mác – Lênin được coi là khoa học đúng đắn, là chân lí khi được khoa học
chứng minh, được thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân giành thắng lợi
từ khi cách mạng tháng Mười Nga thành công (năm 1917). B. PHẦN BÀI TẬP
1. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn? Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
2. Phân tích yêu cầu của nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn?
Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
3. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn? Liên hệ với quá trình học tập của bản thân?
4. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
5. Phân tích phương thức chung của mọi sự vận động, phát triển của thế giới sự vật hiện
tượng? Cho ví dụ cụ thể?
6. Cho ví dụ cụ thể để phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên?
7. Cho ví dụ cụ thể để phân tích luận điểm “Học đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn”.
CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ A. PHẦN LÝ THUYẾT
I
. HỌC THYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội
* Khái niệm sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất
Để tồn tại và phát triển thì con người phải sản xuất. Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng
có của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội gồm ba loại hình cơ bản: sản xuất
vật chất, sản xuất đời sống tinh thần và sản xuất bản thân con người. Sản xuất vật chất
đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hai loại hình còn lại.
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Sản xuất vật chất có vai trò vô cùng quan trọng. Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Cụ thể:
+ Sản xuất vật chất là điều kiện khách quan của sự sinh tồn xã hội. Hoạt động sản xuất vật
chất tạo ra tư liệu sinh hoạt duy trì sự tồn tại và phát triển của con người.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả những quan hệ xã hội khác như: quan hệ
chính trị, pháp quyền, đạo đức...
+ Sản xuất vật chất là nhân tố quyết định tiến bộ xã hội, là điều kiện để phát triển đời
sống tinh thần của con người và xã hội
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, sản xuất vật chất được thực
hiện theo những cách thức khác nhau. Cách thức tiến hành sản xuất vật chất được gọi là phương thức sản xuất.
- Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất qua những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
+ Mỗi xã hội ở một giai đoạn lịch sử đều có phương thức sản xuất với những đặc điểm riêng của nó.
+ Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cấu thành (phương diện kỹ thuật và phương diện kinh tế).
Trong lịch sử xã hội loài người trải qua 5 PTSX khác nhau: CXNT => CHNL => PK => TBCN => CSCN
- Vai trò của phương thức sản xuất
+ Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và quá trình biến
đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao.
+ Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu
khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người có thể diễn ra tuần tự hay không
tuần tự tùy thuộc vào điều kiện chủ quan hay khách quan của mỗi cộng đồng người trong
mỗi giai đoạn lịch sử.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
* Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất (“nội dung vật chất” của quá trình sản xuất):
+ Khái niệm: Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là sự thống nhất hữu cơ giữa
TLSX và lao động của con người cùng khả năng và kinh nghiệm của họ
+ Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm: Tư liệu sản xuất + Người lao động
Người lao động (năng lực, kỹ năng, tri thức của người lao động), đóng vai trò quyết định
trong các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất. Người lao động: là yếu tố đầu tiên chủ yếu
của mọi quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố:
+ Nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người, sức lao động của con người ( sức thần kinh,
sức cơ bắp mà con người vận dụng để sử dụng, điều khiển công cụ lao động),
+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động (là sự hiểu biết về đối tượng lao động, tính năng, tác
dụng của công cụ lao động
Tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình
sản xuất; trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất và là
thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất). TLSX = TLLĐ + ĐTLĐ
+ TLLĐ bao gồm công cụ lao động và các phương tiện, vật liệu lao động mà con người
sử dụng để tác động lên giới tự nhiên để tạo ra của của vật chất để phục vụ con người.
+ ĐTLĐ là toàn bộ những thứ mà con người dùng các tư liệu sản xuất tác động trực tiếp
và nhằm cải biến nó để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người. Lưu ý:
ngày nay, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn trong lực lượng sản xuất, là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, và ngày càng trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”.
- Quan hệ sản xuất (“hình thức xã hội” của quá trình sản xuất):
+ Khái niệm: quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong qúa trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
+ Kết cấu của quan hệ sản xuất bao gồm:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ tổ chức, quản lý và phân công lao động.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Trong QHSX, các quan hệ này luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với
nhau, trong đó quan hệ người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng
và chi phối các quan hệ khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó
lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất; nội dung quyết định sự tồn tại, vận động
và biến đổi của hình thức. Vì vậy, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất thể hiện trên các nội
dung cơ bản sau: quyết định tính chất, hình thức của quan hệ sản xuất; quyết định sự tồn
tại, vận động và phát triển của quan hệ sản xuất.
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất
(không ngừng phát triển), quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã trở nên
lỗi thời. Quan hệ sản xuất khi ấy trở thành xiềng xích trói buộc sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Vì vậy, xuất hiện yêu cầu phải giải quyết mâu thuẫn, thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
dẫn đến sự ra đời một phương thức sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng cũng luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này thể hiện ở một trong hai trạng thái:
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ tạo
điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc
hậu hơn hay tiến bộ một cách giả tạo) thì sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự tác động qua lại từ phù hợp -
không phù hợp - phù hợp... cứ như vậy sự phát triển của các phương thức sản xuất diễn ra liên tục không ngừng.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn
gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất.
Quy luật này cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn
bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến đổi trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng
đồng người trong lịch sử.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Kết cấu cơ sở hạ tầng bao gồm ba bộ phận cơ bản: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thức mầm mống. Trong đó, quan
hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định tính chất, đặc trưng của cơ sở hạ tầng.
* Khái niệm, kết cấu kiến trúc thượng tầng (“phương diện chính trị” của đời sống xã hội)
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu các
hình thái ý thức xã hội cùng với những thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Kết cấu kiến trúc thượng tầng bao gồm hai bộ phận cơ bản: các hình thái ý thức xã hội
(chính trị, pháp quyền, tôn giáo...), các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (đảng phái,
nhà nước, giáo hội...).
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
* Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất và sự vận động biến đổi của kiến trúc thượng tầng.
- Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó và tính
chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Tuy
nhiên, sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá phức tạp, có những yếu tố thay
đổi chậm, hoặc có những yếu tố được kế thừa trong xã hội mới như các hình thái ý thức
xã hội (đạo đức, tôn giáo...).
- Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong xã hội có đối kháng giai
cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng biểu hiện trước hết ở
chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó và đấu tranh chống lại tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng cũ hoặc mầm mống của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nếu chúng ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nó.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai xu hướng:
+ Thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của cơ sở hạ tầng (nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng).
+ Kìm hãm sự tồn tại và phát triển của cơ sở hạ tầng (nếu kiến trúc thượng tầng không
phù hợp với cơ sở hạ tầng).
- Mỗi yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng khác nhau thì tác động đến cơ sở hạ tầng
theo những cách khác nhau, song trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có nhà nước thì
thường phải tác động thông qua nhà nước mới có thể phát huy mạnh mẽ vai trò của nó.
Nhà nước là yếu tố trong kiến trúc thượng tầng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Để nghiên cứu một cơ cấu kinh tế - xã hội, phải xuất phát từ việc nghiên cứu cơ sở hạ tầng.
Trong nhận thức và hành động, phải tôn trọng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng.
4. Sự phát triền của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
* Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
- Khái niệm: hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội:
+ Phương thức sản xuất: đóng vai trò hạt nhân, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất đóng vai trò kép: vừa là một trong hai yếu
tố cấu thành phương thức sản xuất, vừa hợp thành cơ sở hạ tầng mà trên đó hình thành
một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
+ Kiến trúc thượng tầng: được hình thành trên cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định
b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Điều đó
thể hiện ở sự thống nhất giữa quy luật khách quan và nhân tố chủ quan đối với sự vận
động, phát triển của xã hội.
- Quy luật khách quan: hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp,
trong đó các yếu tố không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận
động, phát triển của xã hội. Bao gồm:
+ Quy luật về sự phù hợp giữa trình độ của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất: với
tư cách là nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển xã hội, lực lượng sản xuất vận
động, phát triển đã quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất, dẫn đến sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới.
+ Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: đến lượt mình, các
quan hệ sản xuất hợp thành một cơ sở hạ tầng nhất định của một xã hội, và sự vận động
phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ làm kiến trúc thượng tầng biến đổi, làm biến đổi toàn bộ cơ cấu kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội.
- Nhân tố chủ quan: tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, của ý thức con người trong
việc nhận thức quy luật và tác động trở lại hiện thực khách quan.
Lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia
dân tộc. Có những khu vực, những quốc gia dân tộc phát triển tuần tự từ thấp đến cao, và
có sự tách bạch rõ ràng giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Nhưng cũng có
những khu vực, những quốc gia dân tộc có sự tồn tại và phát triển đan xen và bỏ qua một
hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện lịch sử nhất định.
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Chủ nghĩa duy tâm khi giải thích các vấn đề xã hội, thường xuất phát từ ý thức tư tưởng, ý
chí chủ quan của con người với tư cách là yếu tố quyết định.
Với lý luận hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định:
- Để giải thích các hiện tượng xã hội, phải xuất phát từ trình độ phát triển của phương
thức sản xuất hiện thời, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định, các quan hệ
sản xuất là nền tảng của các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần xã hội.
- Xã hội không phải là một sự kết hợp ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một
cơ thể hữu cơ sống động với các yếu tố cấu thành tác động qua lại lẫn nhau hợp thành một
hệ thống thống nhất, vận động và phát triển theo các quy luật chung. Trong đó, quan hệ
sản xuất là cơ bản và quyết định các loại hình quan hệ xã hội khác, đồng thời là tiêu
chuẩn để phân định các chế độ xã hội.
- Sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế
- xã hội, tuân theo các quy luật khách quan và vai trò của nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, muốn nhận thức đúng về sự phát triển của xã hội, trên cơ sở đó tác động vào hiện
thực khách quan, phải nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của mỗi hình thái kinh tế
- xã hội với những nét đặc thù ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia dân tộc trên cơ sở những quy
luật xã hội chung nhất.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng với quá trình xây
dựng đất nước ở Việt Nam. Là một quốc gia đi lên từ nền sản xuất nhỏ, trong bối cảnh
lịch sử hôm nay, để phát triển đất nước chúng ta có thể bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được ở chế độ tư bản, từ đó phát triển lực lượng
sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp a. Giai cấp
- Giai cấp là những tập đoàn người gồm những người khác nhau về địa vị trong một hệ
thống sản xuất xã hội (cụ thể: khác nhau về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, khác nhau về
tổ chức phân công lao động, khác nhau về phân phối sản phẩm). V.I. Lênin định nghĩa:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
Ví dụ: xã hội cổ đại (chiếm hữu nô lệ) có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, xã hội
trung cổ (phong kiến) có hai giai cấp cơ bản là lãnh chúa địa chủ và nông nô, xã hội
đương đại (tư bản) có hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản.
Khái niệm này cho thấy, giai cấp là hệ thống các tập đoàn người trong một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định, và là phạm trù kinh tế - xã hội mang tính lịch sử với ba đặc trưng:
khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất, khác nhau về vai trò trong tổ chức quản lý
lao động xã hội, khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội.
Bên cạnh giai cấp, còn có các tầng lớp xã hội, nhóm xã hội gắn liền với một hoặc một vài
thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
- Tầng lớp xã hội: dùng để chỉ sự phân tầng trong bản thân một giai cấp căn cứ trên địa vị
và những sự khác biệt khác; hoặc các nhóm người ngoài kết cấu giai cấp và mang tính trung gian.
Ví dụ: tầng lớp trí thức, tầng lớp tiểu tư sản. Nguồn gốc giai cấp
- Nguồn gốc trực tiếp: chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cuối thời kỳ nguyên thủy, khi
công cụ sản xuất kim loại được đưa vào sử dụng, cùng với nó là sự phân công lao động xã
hội lần thứ nhất đã tách bạch nông nghiệp khỏi thủ công nghiệp, dẫn đến năng suất lao
động ngày càng tăng, con người có thể sản xuất ra khối lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu
tối thiểu. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dẫn đến việc
người này, tập đoàn này có thể sử dụng nó để chi phối người khác, tập đoàn khác. Đây
chính là tiền đề trực tiếp cho sự phân hóa xã hội thành giai cấp.
- Nguồn gốc sâu xa: tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao độ
của lực lượng sản xuất.
Theo chiều dài lịch sử, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển và ngày càng mang
tính xã hội hóa sâu sắc, hình thành một nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình này
chưa đạt đến một mức độ, một quy mô đủ để phá vỡ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, mà
vẫn tiếp tục tạo lập cơ chế tồn tại cho giai cấp.
Điều kiện tồn tại và tiêu vong của giai cấp:
- Trình độ của lực lượng sản xuất: khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
nào đó, dẫn đến quá trình xã hội hóa cao độ sẽ làm cho sự phân chia giai cấp mất đi cơ sở
kinh tế - xã hội của nó.
- Trình độ của con người: giai cấp không tự nhiên mất đi, mà nó còn phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh vì dân chủ tự do của con người, xóa bỏ giai cấp và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.
b. Đấu tranh giai cấp
- Trong xã hội có giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, theo V. I. Lênin đấu tranh
giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động,
chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai
cấp tư sản”. Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã
hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một
bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là
giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp: Đỉnh
cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương
thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất
mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ
là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát
triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả
bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai
cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.
Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách
mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong
lịch sử xã hội có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh
trước đó trong lịch sử bởi mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi
giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức
đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V. I. Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản,
những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực,
vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững
thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý
sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở
đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh .
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp, đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh giai cấp
trong chiều dài lịch sử.
- Đấu tranh giai cấp: cuộc đấu tranh giữa một bên là nhân dân lao động làm thuê, bị áp
bức bóc lột (giai cấp bị trị), chống lại những kẻ đi áp bức bóc lột (giai cấp thống trị).
Ví dụ: cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô (chế độ chiếm hữu nô
lệ), cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản (chế độ tư bản chủ nghĩa).
- Đấu tranh giai cấp có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: đấu tranh
chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh văn hóa tư tưởng, đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo...
Ngày nay, các hình thức đấu tranh giai cấp rất đa dạng và phức tạp.
- Vai trò của đấu tranh giai cấp: là một trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ,
phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, để thay đổi một quan hệ sản xuất đã lỗi thời bằng một
quan hệ sản xuất tiến bộ hơn và phù hợp với sự phát triển mới của lực lượng sản xuất, đòi
hỏi phải có một cuộc cách mạng xã hội. Mâu thuẫn sâu xa ấy thể hiện trên bình diện xã
hội là mâu thuẫn giai cấp, và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn này, từ đó phá
bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.
c. Giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp ở Việt Nam đa dạng,
phức tạp bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh
nhân,... trong đó khối liên minh công - nông - trí thức là nền tảng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay diễn ra trong điều kiện mới,
nội dung và hình thức mới:
Thứ nhất, điều kiện mới: quan hệ giữa các giai tầng chủ yếu là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, thực hiện mục tiêu chung độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nội dung mới: đấu tranh thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá
trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ ba, hình thức mới: Đấu tranh giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực
lượng xã hội tiến bộ với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống phá độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Đấu tranh giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh
vực kinh tế, tư tưởng, văn hóa,... Hiện nay các thế lực thù địch tiếp tục dùng nhiều thủ
đoạn thâm độc để chống phá chế độ, đặc biệt sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng Việt Nam trên nhiều phương diện: Về chính trị,
chúng lợi dụng các vấn đề dân tộc (giương cao chiêu bài dân tộc tự quyết), tôn giáo (tự do
tôn giáo - vu khống Đảng và Nhà nước ta vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo), nhân
quyền (vu khống Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền), đòi “đa nguyên, đa đảng”,
bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực,...
Về kinh tế, do có ưu thế hơn về kinh tế, chúng tìm cách bao vây, cấm vận, chèn ép về
kinh tế, buộc các nước này phải đi theo quỹ đạo của chúng. Đặc biệt, hiện nay thông qua
con đường hợp tác, đầu tư về kinh tế có thể kèm theo những điều kiện chính trị. Về văn
hóa, tư tưởng, chủ nghĩa tư bản giương cao chủ nghĩa thực dụng, với phương châm “cái gì
có lợi là chân lý”, đề cao giá trị, lối sống, văn hóa phương Tây, chúng tìm cách diễn biến
để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tập trung tác động, lôi
kéo thế hệ trẻ dần dần đánh mất đi truyền thống lịch sử, hệ tư tưởng Mác - Lênin, xa rời
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bởi vậy, nhận định về tình hình trong nước những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và t rên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình”
của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức
tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt
xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng
và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn.
Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định”. 2. Dân tộc
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng đồng. Trong
quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời, các hình thức cộng đồng người
cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc.
b. Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính
trị và nhà nước. Nếu trong bộ tộc các cộng đồng dân cư liên kết với nhau chưa dựa trên
những nguyên tắc pháp lý, chưa thực sự là một cộng đồng dân cư ổn định và bền vững;
thì ngược lại, dân tộc là một cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, ổn định và tương
đối bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao. Dân tộc là một cộng đồng dân cư
gồm có những đặc điểm chung thống nhất chặt chẽ:
+ Thứ nhất, cộng đồng về lãnh thổ: Lãnh thổ là sự biểu hiện cụ thể về mặt chủ quyền của
một dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác. Lãnh thổ bao gồm chủ quyền cả
về vùng đất, vùng trời, vùng biển và các hải đảo, thềm lục địa... Trong một quốc gia nhiều
dân tộc thì lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của tất cả các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp
thành. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là kết quả lao động kiến tạo của cả một
dân tộc trong suốt quá trình hình thành dân tộc. Nó được thể chế bằng luật pháp quốc gia
và quốc tế. Lãnh thổ là chủ quyền không thể chia cắt, là nơi sinh tồn phát triển và là nền
tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Thứ hai, cộng đồng về kinh tế: Cộng đồng chung về kinh tế là nhân tố bảo đảm cho sự
tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc. C. Mác và Ph. Ăngghen chứng minh rằng,
động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà nước, một quốc gia thống nhất chính là yếu tố
kinh tế. Trong một dân tộc thường tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội có lợi ích
riêng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặc dù vậy, trong sự khác biệt ấy vẫn phải có
những tương đồng nhất định về mặt lợi ích. Lịch sử cho thấy, sự tương đồng và phù hợp
về lợi ích càng lớn, tính thống nhất của dân tộc càng cao, sự cách biệt và đối lập về lợi ích
giữa các bộ tộc dân tộc càng cao, nguy cơ tan rã dân tộc càng lớn. Một quốc gia thống
nhất, một dân tộc thống nhất phải được bảo đảm và phải dựa trên cơ sở cộng đồng chung
về kinh tế. Tính thống nhất, tính tương đồng và ổn định chung về kinh tế luôn luôn là
nhân tố bảo đảm cho sự thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Thứ ba, cộng đồng về ngôn ngữ: Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất trong giao tiếp
của các dân tộc. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, nhưng trong một
quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ được
chọn làm ngôn ngữ thống nhất thường là sản phẩm và là kết quả tất yếu của một quá trình
phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của các dân tộc trong một quốc gia.
+ Thứ tư, cộng đồng về văn hóa, về tâm lý: Văn hóa là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết
cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất. Lịch sử phát triển văn hóa của mỗi dân tộc
rất phong phú và đa dạng. Ngay từ thời nguyên thủy, mỗi thị tộc, bộ lạc, bộ tộc... có
những điều kiện sinh sống riêng, nên văn hóa cũng có những sắc thái riêng. Văn hóa của
một dân tộc phản ánh khái quát tính đa dạng chung của các sắc tộc, các cộng đồng dân cư
trên cùng một vùng lãnh thổ. Đặc trưng chung của văn hóa dân tộc là thống nhất trong
tính đa dạng. Nó được chắt lọc trải dài trong suốt lịch sử đấu tranh để sinh tồn của mỗi
dân tộc. Trong quá trình phát triển, các thành viên của dân tộc thuộc các tầng lớp xã hội
khác nhau, một mặt giữ gìn bảo vệ những di sản văn hóa riêng của mình, mặt khác tham
gia vào sự sáng tạo ra những giá trị văn hóa chung của cả cộng đồng. Xã hội càng phát
triển nhu cầu về văn hóa càng cao. Hơn thế nữa, văn hóa còn là động lực của sự phát
triển, là công cụ bảo vệ độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia. Đấu tranh bảo vệ chủ
quyền dân tộc phải được thể hiện thông qua cuộc đấu tranh chống lại nguy cơ đồng hóa
về văn hóa. Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là động lực không thể
thiếu được của sự phát triển. Thông qua giao lưu về văn hóa, mỗi dân tộc tự nâng mình
lên, tự hoàn thiện mình nhờ học hỏi những tinh hoa văn hóa của dân tộc khác.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện vật chất riêng nên văn hóa cũng
không đồng nhất. Mặc dù vậy, các giai cấp, các lực lượng xã hội ấy vẫn phải chịu sự tác
động và chi phối bởi những yếu tố văn hóa chung của cộng đồng. Mỗi dân tộc còn có tâm
lý lối sống và những nét tính cách riêng. Tâm lý và nét tính cách riêng của mỗi dân tộc
trước hết là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, điều kiện địa lý, dân cư và nét đặc thù
văn hóa riêng của dân tộc ấy.
Cộng đồng về lãnh thổ, cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về ngôn ngữ, về văn hóa, tâm lý
là bốn đặc trưng không thể thiếu của mỗi dân tộc.
Đó chính là những yếu tố có mối quan hệ nội lực mạnh mẽ. Nó vừa kết dính dân tộc thành
một khối, vừa tạo ra động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Với
những đặc trưng trên, dân tộc hình thành thường gắn liền với quá trình hình thành và phát
triển của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, song cũng có những dân tộc hình thành
không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
3. Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại
a. Quan hệ giai cấp – dân tộc
Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau song đó là những phạm trù chỉ các quan hệ
xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế được nhau. Giai cấp
và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại nói chung, giai cấp
có trước dân tộc hàng nghìn năm song khi giai cấp mất đi thì dân tộc sẽ vẫn còn tồn tại.
Sẽ không hiểu được bản chất của vấn đề dân tộc, mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và
dân tộc nếu không nhận rõ vai trò của nhân tố kinh tế - xã hội, của nhân tố giai cấp. Quan
hệ giai cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có
giai cấp – là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, đối
với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định tính chất mối quan hệ giữa các dân tộc.
Bản chất xã hội của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân
tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra. Áp bức giai cấp là
nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Hiện tượng dân tộc này thống trị, áp bức
dân tộc khác trong lịch sử, về thực chất là giai cấp thống trị của dân tộc này áp bức bóc lột
dân tộc khác mà bộ phận bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất là nhân dân lao động. Nhân tố
giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Giai cấp nào lãnh đạo
phong trào; những giai cấp, liên minh giai cấp nào là lực lượng nòng cốt của phong trào là
những vấn đề trọng yếu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong khi nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp, Chủ nghĩa Mác
- Lênin không xem nhẹ nhân tố dân tộc. Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quan
trọng hàng đầu của cách mạng vô sản song nó chỉ được nhận thức và giải quyết đúng đắn
trên lập trường của giai cấp cách mạng nhất - giai cấp công nhân.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mang tính chất quốc tế và đoàn kết
quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải
phóng những ngưòi lao động. C.Mác – Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thường xuyên nhấn
mạnh rằng, giai cấp công nhân các nước, trước hết là các nước tư bản lớn, phải thoát khỏi
những thiên kiến của chủ nghĩa dân tộc tư sản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
- Lênin chỉ rõ rằng Đảng của giai cấp công nhân không lúc nào được coi nhẹ việc giáo
dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, nhưng giai cấp công nhân
không được quên rằng cuộc đấu tranh giải phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc là
địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân.
Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc không phải chỉ có một chiều là
đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại: đấu tranh
dân tộc tác động vào đấu tranh giai cấp. Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai
cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành "giai cấp dân tộc" phải đi đầu
trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc
lập, thống nhất dân tộc. Vì vậy, thành quả đầu tiên của cách mạng tư sản giữa thế kỷ XIX
ở các nước Italia, Đức, áo, Ba Lan là độc lập, thống nhất dân tộc. Giai cấp tư sản khi còn
là giai cấp cách mạng đã nêu cao vấn đề dân tộc để tập hợp quần chúng đấu tranh giành
và giữ chính quyền tư sản. Khi giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị thì "lợi ích dân
tộc" mà giai cấp tư sản nêu lên ngày càng lộ rõ thực chất của nó là lợi ích tư sản, chủ yếu
là lợi ích của đại tư sản.
b. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả loài người,
chẳng hạn những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, vấn đề dân số,
chống các loại dịch bệnh đe dọa sự sống còn của cả nhân loại. Lợi ích nhân loại là những
nhân tố đáp ứng yêu cầu phát triển của loài người mọi quốc gia, không phân biệt sự khác
nhau về giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại là không tách rời với lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp.
Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích nhân loại. Các giai cấp phản động thì lợi
ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn giải phóng mình, giai cấp vô sản phải giải
phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp
của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI 1. Nhà nước
a. Nguồn gốc của nhà nước
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến năng suất lao động được nâng cao, xã
hội có của cải dư thừa- là cơ sở khách quan làm nảy sinh khát vọng chiếm đoạt của chung
về làm của riêng (tư hữu). Đó là nguyên nhân cơ bản của sự xuất hiện chế độ chiếm hữu
tư nhân và chế độ người bóc lột người vào cuối xã hội công xã nguyên thủy.
+ Sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự bóc lột sức lao động đã hình thành trong
xã hội những người có của cải và những người không có của cải. Sự đối lập về lợi ích
kinh tế đó đã dẫn đến sự phân hóa xã hội thành giai cấp và sự đối kháng giai cấp.
+ Chiến tranh cướp đoạt giữa các thị tộc, bộ lạc khiến cho quyền lực của các thủ lĩnh quân
sự càng được củng cố và tăng cường, làm cho mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.
+ Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân. Từ
chỗ là công cụ của nhân dân trở thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân.
Như vậy, toàn bộ những nguyên nhân đó tác động và làm gia tang các mâu thuẫn giữa các
giai cấp trong xã hội. Các giai cấp không ngừng phát triển, kéo theo mâu thuẫn giữa các
giai cấp ngày càng lớn và có nguy cơ khiến các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt
luôn cả xã hội. Để ngăn chặn thảm họa đó, một cơ quan quyền lực đã ra đời - đó là nhà
nước. Như vậy, sự xuất hiện nhà nước không phải để giải quyết, điều hòa các mâu thuẫn
giai cấp mà để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật tự nhằm giúp cho giai
cấp chiếm đoạt được tư liệu sản xuất thực hiện được sự thống trị, bóc lột người lao động.
V. I. Lênin đã khẳng định “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
không thể điều hòa được” .
b. Bản chất nhà nước
Theo Ph.Ăngghen, về bản chất, Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp
này dùng để trấn áp một giai cấp khác. Không có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc
nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về
kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần
chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các
giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp.
Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều
xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
+ Nhà nước là một tổ chức thực hiện sự quản lý dân cư theo lãnh thổ nhằm thực hiện
quyền lực cai trị thống nhất đối với mọi người sống trong lãnh thổ đó.
+ Nhà nước phải là bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
+ Để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị, nhà nước phải hình thành được một hệ thống
thuế khóa buộc các thành viên sống trong lãnh thổ phải có nghĩa vụ đóng góp.
Những đặc trưng cơ bản trên làm nên sự khác biệt về chất của nhà nước so với các tổ
chức xã hội có trước nhà nước như thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị - xã hôi khác
cùng tồn tại trong xã hội có nhà nước như đảng phái, hiệp hội, tôn giáo...
d. Chức năng của nhà nước
+ Nếu xét ở góc độ tính bản chất của quyền lực nhà nước thì nhà nước có hai chức năng
cơ bản: Chức năng chính trị là chức năng phản ánh quyền lực thống trị về chính trị thuộc
về nhà nước. Chức năng này thể hiện rõ đặc trưng cơ bản nhất, bản chất nhất của nhà
nước ở trong xã hội có giai cấp. Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó
sẵn sàng sử dụng mọi cộng cụ, mọi biện pháp để bảo vệ và duy trì sự thống trị của giai
cấp đó. Chức năng xã hội của nhà nước xác định: bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực
hiện việc quản lý những hoạt động chung để bảo vệ và duy trì sự tồn tại, ổn định và phát
triển xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu của cộng đồng dân cư trong lãnh thổ mà nhà nước đó quản lý.
+ Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động quyền lực của nhà nước thì nhà nước có hai chức
năng: Chức năng đối nội phản ánh phạm vi tác động của quyền lực nhà nước trong phạm
vi một lãnh thổ, với những cư dân mà nhà nước đó quản lý. Chức năng đối ngoại là chức
năng phản ánh phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ra ngoài lãnh thổ và cư dân mà nhà nước đó quản lý.
e. Các kiểu và hình thức nhà nước
+ Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn
tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Tương ứng
với ba hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối kháng giai cấp có ba kiểu nhà nước khác
nhau, đó là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Còn nhà nước vô
sản là kiểu nhà nước đặc biệt, là nhà nước kiểu mới, không còn nguyên nghĩa.
+ Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước chủ nô được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau
như chính thể quân chủ, chính thể quý tộc, chính thể dân chủ và chính thể cộng hòa. Về
bản chất, các hình thức nhà nước này đều là sự chuyên chính của giai cấp chủ nô. Nhà
nước phong kiến, ở phương Tây thì hình thức nhà nước phổ biến là chính thể quân chủ
phân quyền (tính phân quyền bị chi phối bởi sự cát cứ đất đai, đất đai càng rộng thì quyền
lực càng nhiều và ngược lại). Còn ở phương Đông, hình thức nhà nước phổ biến là chính
thể quân chủ tập quyền dựa trên chế độ chiếm hữu nhà nước về ruộng đất. Nhà nước tư
sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hai hình thức cơ bản là
hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập hiến. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà
nước đặc biệt, là nhà nước “nửa nhà nước”.
- Nhà nước chuyên chính vô sản:
+ Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ, được xác lập
khi giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền và sẽ tự tiêu vong khi xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước mang bản chất của giai cấp vô sản, đặt dưới
sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản.
+ Nhà nước chuyên chính vô sản không chỉ có chức năng trấn áp mọi thế lực chống đối
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng một nền
kinh tế mới, xã hội mới.
2. Cách mạng xã hội
a. Nguồn gốc của cách mạng xã hội
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Nguyên nhân trực tiếp của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Bản chất của cách mạng xã hội
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về
chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã
hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế-xã hội cao hơn.
Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập
một chế độ chính trị tốt đẹp hơn.
c. Phương thức cách mạng
Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều không thể
thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi
giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác
lập nhà nước của giai cấp vô sản. Bạo lực cách mạng là tất yếu, bởi vì giai cấp thống trị
lỗi thời không bao giờ tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị của mình. Trái lại, nó sẵn sàng sử
dụng quyền lực của nhà nước với bộ máy bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng. Vì
vậy, để lật đổ giai cấp thống trị và giành chính quyền, giai cấp cách mạng không có con
đường nào khác là phải dùng đến bạo lực cách mạng.
Trong lịch sử nhân loại, chưa có giai cấp cách mạng nào giành được chính quyền nhà
nước bằng con đường phi bạo lực, ngay cả khi cách mạng được thực hiện dưới hình thức tương đối hòa bình.
Trong khi khẳng định cách mạng bạo lực, triết học Mác – Lênin không phủ nhận khả
năng đưa cách mạng xã hội tiến lên bằng phương pháp hòa bình, kể cả việc sử dụng “con
đường nghị trường”; song nó chỉ được bảo đảm khi có sức mạnh của phong trào quần
chúng - bạo lực cách mạng - làm hậu thuẫn.
Ngày nay, xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại không hề bác bỏ quan điểm mácxít về
cách mạng bạo lực, bởi vì xu thế đó được tạo ra từ chính sự lớn mạnh của các phong trào
cách mạng và hòa bình, bởi tương quan giữa cách mạng và phản cách mạng.
d. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
- Cách mạng xã hội là sự biểu hiện tập trung cao độ của đấu tranh giai cấp, là một trong
những phương thức, động lực của sự vận động, phát triển xã hội nhằm thay đổi chế độ xã
hội đã lỗi thời chuyển lên chế độ xã hội mới cao hơn.
- Với cách mạng xã hội, một sự biến chuyển toàn diện về chất trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội sẽ xuất hiện, một xã hội mới ra đời thay thế cho xã hội cũ.
- Cách mạng xã hội có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức đấu tranh khác nhau hoặc
tổng hợp của các hình thức đấu tranh: đấu tranh bạo lực, đấu tranh phi bạo lực. Tùy theo
điều kiện lịch sử mà có thể thực hiện các hình thức đấu tranh phù hợp. Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Động lực của cách mạng là toàn thể nhân dân lao động, những
người bị áp bức bóc lột đứng lên đấu tranh. Tuy nhiên, để cách mạng có thể thắng lợi, cần
có nòng cốt là giai cấp tiến bộ với chính đảng của mình để đưa cách mạng đi từ đấu tranh
tự phát lên đấu tranh tự giác.
f. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay
Trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức tạp của các
trào lưu cách mạng, đặc biệt là tình trạng khủng hoảng tạm thời của CNXH hiện nay, các
nhà triết học tư sản đã lớn tiếng bác bỏ lý luận cách mạng xã hội của Chủ nghĩa Mác-
Lênin. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm cho tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất đạt trình độ cao khiến cho quan hệ sản xuất TBCN phải biến đổi, tạo ra
trạng thái của nền sản xuất xã hội - như C. Mác gọi - “những hình thái quá độ từ phương
thức sản xuất TBCN sang phương thức tập thể”. Nhưng sự chuyển hóa đó diễn ra trong
khuôn khổ chế độ TBCN nên nó không thể khắc phục được mâu thuẫn giữa LLSX mang
tính chất xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất; nó chỉ
làm cho mâu thuẫn đó phát triển them “ dưới một hình thái mới”. Những xung đột xã hội
biểu hiện mâu thuẫn nói trên đã không thể khắc phục được trong điều kiện CNTB phát
triển cao; đồng thời khi LLSX ngày càng mang tính quốc tế hóa thì mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản ngày càng mở rộng trên phạm vi thế giới.
Sự phát triển của CNTB làm cho các tiền đề vật chất - kỹ thuật, kinh tế xã hội và các tiền
đề khác của CNXH từng bước chín muồi, trong đó phải kể đến việc nâng cao trình độ
hiểu biết và năng lực sáng tạo của quần chúng lao động. Vì thế, cuộc đấu tranh cho dân
sinh, dân chủ với mức độ ngày càng cao vẫn đang diễn ra trong xã hội tư bản hiện đại.
Trong tình hình đó, CNTB buộc phải có sự điều chỉnh trên một loạt vấn đề như: cổ phần
hóa đối với một bộ phận công nhân; hình thành một đội ngũ chuyên gia quản lý; thực hiện
chính sách điều tiết thu nhập...
Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản với giai cấp
công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội.
Như vậy, những biến đổi của thời đại hiện nay chứng tỏ tính tất yếu khách quan của cách
mạng XHCN. Chỉ có cuộc cách mạng đó mới giải quyết được một cách căn bản mâu
thuẫn trong xã hội tư bản, thay thế nó bằng một xã hội mới cao hơn - xã hội CSCN. Tuy
nhiên, cuộc cách mạng đó diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan, vào các điều kiện lịch sử cụ thể mà sự phát triển của lịch sử sẽ đem lại
cho chúng ta những lời giải đáp đúng đắn nhất. IV. Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Về kết cấu của tồn tại xã hội, bao gồm hai bộ phận cơ bản cấu thành:
+ Sinh hoạt vật chất: phương thức sản xuất, với tư cách là yếu tố cơ bản nhất.
+ Những điều kiện sinh hoạt vật chất: điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân cư, với
tư cách là các yếu tố mang tính điều kiện, nền tảng.
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Về kết cấu của ý thức xã hội, có hai cách phân loại:
1. Từ góc độ trình độ phản ánh:
+ Ý thức xã hội thông thường: toàn bộ những tri thức, những quan niệm của con người ở
một cộng đồng nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ đời sống hàng ngày, chưa
được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
+ Ý thức lý luận: những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành
các học thuyết, các quan điểm xã hội, được trình bày dưới dạng các khái niệm, phạm trù,
quy luật mang tính trừu tượng cao, phản ánh hiện thực ở trình độ cao.
Giữa ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận có mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp
thành ý thức xã hội. Ý thức xã hội thông thường phản ánh hiện thực một cách sinh động,
cụ thể, và là tiền đề cho ý thức lý luận.
2. Từ góc độ phương thức phản ánh:
+ Tâm lý xã hội là toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán... của con người ở
một cộng đồng nhất định, hình thành trực tiếp dưới ảnh hưởng của đời sống hàng ngày và
phản ánh đời sống đó.
+ Hệ tư tưởng xã hội là hệ thống những quan điểm, tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội trên
các lĩnh vực chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... ở trình độ nhận thức mang tính khái quát.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp thành ý
thức xã hội. Hệ tư tưởng xã hội hình thành trên cơ sở tâm lý xã hội, nhưng không phải là
kết quả trực tiếp của tâm lý xã hội, mà phải trải qua một quá trình nhận thức ở trình độ
cao hơn về chất, mang tính trừu tượng hóa. Lưu ý:
+ Ý thức xã hội mang tính giai cấp: mỗi một giai cấp, do bị chi phối bởi đặc điểm lịch sử
và lợi ích giai cấp, mà có thể phản ánh tồn tại xã hội khác nhau hoặc thậm chí đối lập
nhau. Đặc trưng này thể hiện rõ nét nhất ở trình độ lý luận, hệ tư tưởng.
+ Ý thức xã hội mang đặc trưng của dân tộc: phản ánh truyền thống dân tộc, phản ánh các
điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo...
+ Ý thức cá nhân là biểu hiện đặc thù của ý thức xã hội: ý thức cá nhân là sự biểu thị sinh
động, cụ thể của ý thức xã hội một cách đặc thù, riêng biệt ở từng con người, vừa phụ
thuộc vào đặc trưng chung của ý thức xã hội, vừa phụ thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi
người. Mối quan hệ giữa ý thức cá nhân và ý thức xã hội là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Các hình thái ý thức xã hội: phản ánh nội dung của các lĩnh vực ý thức xã hội khác nhau,
có tác động qua lại lẫn nhau.
Có 6 hình thái ý thức xã hội:
- Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp,
các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
- Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm về bản chất, vai trò của pháp luật,
về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và
không hợp pháp của hành vi .
- Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội; chúng được thực hiện bởi
niềm tin và tình cảm cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
- Ý thức khoa học là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là hệ thống tri thức phản ánh thế giới
dưới hình thức logic trừu tượng (khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, định luật, quy luật) và
được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những quan niệm về hiện thực cuộc sống được xây dựng
dưới hình thức các biểu tượng nghệ thuật được khái quát một cách sinh động và cụ thể,
phản ánh đời sống xã hội và dấu ấn cá nhân. - Ý thức tôn giáo:
+ Tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng/một thế lực siêu nhiên.
+ Tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng, phản ánh thế giới một cách hư ảo, thông qua hệ
thống những biểu tượng siêu nhiên và niềm tin đương nhiên, với một thiết chế tương ứng
như giáo lý, giáo luật, giáo hội, cơ sở thờ tự, nghi lễ.
2. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: tồn tại xã hội (đời sống vật chất) quyết định ý thức
xã hội (đời sống tinh thần), ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội.
* Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
- Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội: đời sống tinh thần của xã hội hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, và nội dung của đời sống tinh thần là
bức tranh phản ánh cái đời sống vật chất hiện thực ấy. Chỉ có thể giải thích các hiện tượng
trong đời sống tinh thần khi xuất phát từ nguồn gốc của nó là đời sống vật chất.
- Tồn tại xã hội quyết định sự vận động biến đổi của ý thức xã hội: tồn tại xã hội không
ngừng vận động và phát triển, nên nội dung phản ánh tồn tại ấy là ý thức xã hội cũng
không ngừng vận động biến đổi theo.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của nó trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính
độc lập tương đối ấy thể hiện trên các nội dung sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội: lịch sử cho thấy, mặc dù xã hội
cũ - cơ sở tồn tại của ý thức xã hội phản ánh nó, đã mất đi, nhưng ý thức xã hội do xã hội
ấy sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại dưới những biểu hiện khác nhau. Nguyên nhân:
+ Tồn tại xã hội là cái được phản ánh, ý thức xã hội là cái phản ánh, cái được phản ánh
bao giờ cũng vận động và biến đổi nhanh hơn so với cái phản ánh.
+ Tâm lý xã hội (thói quen, tập quán...) có một sức mạnh đặc biệt để có thể tiếp tục tồn tại
ngay khi cơ sở của nó đã mất đi.
+ Do ý thức xã hội mang tính giai cấp, tính dân tộc, ít nhiều đều ảnh hưởng đến lợi ích
của các nhóm xã hội nên thường được cố gắng bảo tồn, duy trì.
- Ý thức xã hội trong một số trường hợp có thể vượt trước tồn tại xã hội (phản ánh vượt
trước): trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người có thể vượt trước tồn tại
xã hội hiện thời, dự báo tương lai.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, dự báo thời tiết, phát minh khoa
học vượt thời đại…
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển: ý thức xã hội, với cả hai bộ phận cấu
thành của mình, có khả năng được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong quá trình
phát triển, phản ánh tồn tại xã hội ở các thời kỳ lịch sử khác nhau.
- Giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại: ý thức xã hội không chỉ chịu sự
tác động của tồn tại xã hội, mà giữa các hình thái ý thức xã hội còn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội: do con người hành động một cách có ý
thức, nên ý thức xã hội có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Nếu
ý thức xã hội phản ánh đúng đắn chân thực tồn tại xã hội, sẽ mở đường cho xã hội tiến
lên, và ngược lại, phản ánh sai lệch vì những mục đích khác nhau nhằm phục vụ cho lợi
ích của một nhóm người sẽ làm cản bước tiến của xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của nó, do đó:
- Để xây dựng xã hội, cần tiến hành trên cả hai mặt: tồn tại xã hộivà ý thức xã hội.
- Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội, và những thay đổi
trong đời sống tinh thần cũng tác động và tạo ra những thay đổi trong tồn tại xã hội.
V. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Khái niệm con người và bản chất con người
a. Con người là thực thể sinh học – xã hội
* Khái niệm con người
- Các học thuyết triết học phương Đông coi con người là gạch nối của vũ trụ, là một bộ
phận giao hòa của vũ trụ (Thiên - Địa - Nhân), từ đó tạo nên thế ứng xử hòa đồng giữa người với tự nhiên.
- Các học thuyết triết học phương Tây thì coi con người là trung tâm của vũ trụ, là “thước
đo vạn vật”, từ đó cổ vũ con người khám phá và chinh phục tự nhiên.
- Các tôn giáo tín ngưỡng, hầu hết đều cho rằng con người do thần linh sinh ra và an bài
số phận. Riêng Phật giáo không trực tiếp trả lời câu hỏi con người từ đâu sinh ra và đi về
đâu, mà cho rằng con người là sự biểu hiện của cái “Tâm”.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, con người là thực thể thống nhất giữa
mặt sinh vật và mặt xã hội.
+ Về mặt sinh vật, con người là động vật tiến hóa cao nhất của sinh giới, với cấu trúc cơ
thể rất phức tạp và tinh vi.
+ Về mặt xã hội, con người sinh ra và lớn lên trong một đời sống hợp quần, trong một xã
hội với các mối quan hệ xã hội đan xen. Điểm cơ bản làm nên tính xã hội ở con người là
hoạt động sản xuất mang tính xã hội, cùng với nó là sự hình thành nên một đời sống xã
hội đa dạng của con người.
- Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật
chất: Triết học Mác - Lênin tiếp cận sự hình thành và phát triển con người trong lịch sử
sản xuất vật chất, từ đó khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình
thành và phát triển của con người. Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn
toàn vào tặng phẩm của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động để sản xuất, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình. Do
đó, lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo tự nhiên phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình.
Nhờ có lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập với tự nhiên trở
thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa sáng tạo chân chính
của con người là chế tạo ra công cụ lao động.
Con người bắt đầu lịch sử của mình từ đó. Nhờ công cụ lao động mà con người tách khỏi
tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư cách là một chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng
thời bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người hòa nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ
nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ ba”... sáng tạo ra của cải, tri thức, tinh thần.
Như vậy, sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người, bản chất con người là sáng tạo
ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội: Triết học Mác -
Lênin tiếp cận con người trong tính toàn vẹn, khẳng định con người là một chỉnh thể tồn
tại và phát triển trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học bao
gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của
cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động
xã hội, đời sống tinh thần của con người, là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp...
Về mặt này, con người phục tùng các quy luật xã hội. Hai mặt này có quan hệ khăng khít
không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng ậ
v t chất tự nhiên của con
người nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là
mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể; những quy luật hình thành tâm lý,
ý thức; những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người. Ba hệ thống đó
cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả
mặt sinh học và mặt xã hội. Như vậy, bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn,
mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
- Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang thuộc tính xã hội - hành
tinh - vũ trụ: Triết học Mác - Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người - môi
trường cư trú, từ trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và xã hội được thu hút vào quá
trình đời sống con người. Cùng với đó, con người là một thực thể cá nhân - xã hội, là sự
thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại, là sự thống nhất
giữa tất yếu và tự do.
Cần lưu ý, mặt sinh vật và mặt xã hội của con người ở đây hòa quyện thống nhất với nhau
chứ không tách bạch làm hai phần riêng biệt.
b. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại,
thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo
lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con
người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là
phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của
lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có
hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn
tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử
xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con
người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện
tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên
của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự
nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các
giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con
người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều
phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát
triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người
tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
c. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội. Không có con người trừu tượng chung chung, mà chỉ có
con người sống và hoạt động trong một môi trường xã hội nhất định ở một thời gian xác
định với toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thời. Chỉ trong toàn bộ các quan hệ xã hội được
xác định bởi một hệ không gian và thời gian cụ thể, con người mới bộc lộ bản chất của mình.
Con người khác con vật ở chỗ, mọi hoạt động của anh ta đều là hoạt động được ý thức,
nghĩa là có mục tiêu, phương thức và công cụ.
Nó mang tính hiện thực và cụ thể.
2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người
a. Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con người bị tha hóa
Hiện tượng tha hóa của con người: Tha hóa là quá trình xã hội trong đó hoạt động của con
người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập thù địch và thống trị lại con
người. Nguồn gốc của sự tha hóa là do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
xuất hiện chế độ tư hữu. Những dấu hiệu đặc trưng của sự tha hóa từ các phương diện: sự
tha hóa của điều kiện lao động; của kết quả lao động; của thiết chế chính trị xã hội; sự tha
hóa của tư tưởng,... Khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài, gắn liền với xóa bỏ chế
độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin chính là lý luận triết học về khắc phục sự tha hóa của
con người, là lý luận giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, vì hạnh phúc con người,
đó là cơ sở để bác bỏ những luận điểm xét lại cho rằng triết học Mác bỏ quên vấn đề con
người, không xây dựng học thuyết về con người, chỉ xây dựng học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
b. “Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”
Vấn đề giải phóng con người: Do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất
hiện chế độ tư hữu mà xuất hiện sự tha hóa con người. Khắc phục sự tha hóa chính là quá
trình giải phóng con người.
Thực chất triết học Mác - Lênin là học thuyết về giải phóng con người, vì sự phát triển
toàn diện của con người (khắc phục sự tha hóa cũng là một quá trình giải phóng con
người; đấu tranh giai cấp cũng là một quá trình khắc phục sự tha hóa con người về mặt xã
hội, giải phóng con người khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột).
c. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
C.Mác chỉ rõ, sự phát triển tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người. Do đó muốn giải phóng xã hội, mỗi cá nhân con người phải được giải
phóng. Như vậy, có nghĩa là mỗi cá nhân con người, người công dân với nhà nước là một
thể thống nhất về lợi ích, về quyền và trách nhiệm. Theo C.Mác, chỉ khi ấy sứ mệnh giải
phóng con người mà Đảng cộng sản tuyên bố mới được hoàn thiện
3. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về quan hệ cá nhân và xã hội, về vai trò của
quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
a. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Trong triết học Mác - Lênin, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa lớn
được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Khái niệm xã hội được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã hội loài người
(toàn thể nhân loại), thấp hơn là những hệ thống xã hội như quốc gia, dân tộc, giai cấp, chủng tộc.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với quan hệ giữa cá
nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ phận
và cái toàn thể, đồng thời thể hiện tính biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Trong bất cứ giai đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội. Là một hiện tượng
lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự
thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái
kinh tế - xã hội khác. Trong giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối lập giữa cá
nhân và xã hội. Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là thống nhất.
Khi xã hội phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu
thuẫn. Những người bị bóc lột không có tư cách và điều kiện để trở thành cá nhân thực
sự. Những thành viên thuộc giai cấp bóc lột có đặc quyền, đặc lợi, được khẳng định tư
cách cá nhân đặc trưng cho mỗi thời đại như cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản. Các kiểu
cá nhân này đối lập về lợi ích với quần chúng nhân dân lao động trong xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã hội mới tạo tiền đề cho cá nhân, để mỗi
cá nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của
xã hội mới. Vì vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền
đề và điều kiện của nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân.
Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng
cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện.
Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những
giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính
đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì,
dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã
hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp.
Vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa dạng của mỗi cá
nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã hội, đồng thời, nhân cách mỗi
cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Do
đó, cá nhân tác động đến xã hội tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của nhân cách. Những cá
nhân có đạo đức và tài năng thường đóng góp tích cực và xứng đáng vào sự phát triển của
xã hội. Những cá nhân kém cỏi về nhân cách thì tác động xấu tới xã hội, kìm hãm sự phát triển.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và
mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã
hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp
với mục đích của con người.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó, để giải quyết đúng đắn quan hệ
cá nhân - xã hội, cần phải tránh hai thái độ cực đoan.
Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, nhu cầu
cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn
đến chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ
nghĩa tập thể, thực chất là chủ nghĩa bình quân, coi nhẹ vai trò cá nhân lợi ích cá nhân. Xã
hội càng phát triển thì nhu cầu, lợi ích cá nhân càng đa dạng. Nếu không quan tâm đến
vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã hội nghèo nàn, chậm phát triển, không phù hợp với bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao năng xuất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hoá tinh thần ngày càng đa
dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân.
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn đến tuyệt đối hoá lợi ích kinh tế, dẫn tới phân hoá giàu
nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó,
chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố của con
người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định
để giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có
lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng tình
nghĩa, có lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
4. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội đã chứng minh rằng con người là chủ thể
chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vai trò quyết định sự phát triển xã hội là thuộc
về quần chúng nhân dân hay của các cá nhân có phẩm chất đặc biệt - vĩ nhân lãnh tụ? Vấn
đề đó chúng ta sẽ giải quyết dưới đây:
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần
chúng nhân dân bao gồm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là một bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm
những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự
lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi nội dung sau:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng
vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động
của mình, trực tiếp hoặc gián tiép trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
- Quần chúng nhân dân: chỉ cộng đồng xã hội có lợi ích về cơ bản là thống nhất, bao gồm
những giai cấp, tầng lớp tiến bộ và nhân dân lao động.
- Cá nhân: chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách một cá thể,
một thành viên của xã hội ấy, do những đặc điểm riêng biệt của mình mà phân biệt với
những thành viên khác của xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
- Giữa cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung có mối quan hệ hữu cơ về mặt lợi ích.
Có những trường hợp lợi ích cá nhân xung đột với lợi ích cộng đồng và ngược lại. Do đó
cần có sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, vừa phát huy nhân tố cộng
đồng vừa phát huy nhân tố cá nhân tích cực.
- Đặc biệt, cần quan tâm đến vai trò và mối quan hệ giữa cá nhân kiệt xuất (vĩ nhân, lãnh
tụ) với một cộng đồng đặc biệt (quần chúng nhân dân):
+ Có quan điểm cho rằng, cá nhân kiệt xuất làm nên lịch sử.
+ Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử nhận định: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử. Vì họ:
Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội: sản xuất vật chất là công việc của toàn bộ xã hội
chứ không phải công việc của một số cá nhân, lực lượng sản xuất xã hội được hợp thành
bởi mỗi cá nhân trong một cộng đồng rộng lớn là quần chúng nhân dân.
Là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội: cách mạng xã hội đóng vai trò thay
đổi các hình thái kinh tế - xã hội mà không một cá nhân hay một nhóm cá nhân nào có thể
tự mình thực hiện được, vì nó diễn ra trên một quy mô rộng lớn ở mọi lĩnh vực. Cách
mạng chỉ có thể thắng lợi khi nó huy động được sức mạnh đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân.
Là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần: trong thời kỳ cổ đại và trung cổ, xuất
hiện nhiều tác phẩm nghệ thuật dân gian vô danh, nhiều trong số đó là sản phẩm mang
tính tập thể của quần chúng nhân dân. Ngày hôm nay, các tác phẩm nghệ thuật đều mang
tên các cá nhân, nhưng nó chỉ có thể tồn tại và được công nhận khi nó bám rễ sâu vào đời
sống hiện thực của nhân dân lao động, phản ánh đúng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
- Tuy nhiên, cũng không được đánh giá thấp vai trò của những cá nhân kiệt xuất. Vĩ nhân,
lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử:
+ Họ chỉ thực sự là những vĩ nhân, lãnh tụ khi bản thân họ là sản phẩm của thời đại, đại
diện cho quần chúng, được quần chúng thừa nhận là người lãnh đạo của mình.
+ Bằng vai trò của mình, họ có thể thúc đẩy sự phát triển hoặc kìm hãm tiến bộ xã hội:
nếu các cá nhân này hành động tuân theo quy luật và vì lợi ích c
hung sẽ thúc đẩy bánh xe
lịch sử tiến lên, và ngược lại, sẽ kìm hãm nó nếu phản lại quy luật và chỉ vì lợi ích cục bộ.
Trong trường hợp thứ hai, quần chúng sẽ không thừa nhận họ là lãnh tụ chân chính đại
diện cho lợi ích của mình.
- Bên cạnh đó, cần chống tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa c
á nhân người lãnh đạo, từ
đó chỉ nhìn thấy vai trò quyết định của cá nhân người lãnh đạo mà xem nhẹ hoặc lãng
quên vai trò của tập thể và quần chúng nhân dân.
5.Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
- Sự nghiệp đổi mới đặt con người vào vị trí trung tâm - vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển: Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm của chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo trải qua giai đoạn
giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng vì mục đích giải
phóng con người. Mục đích vì hạnh phúc con người được khẳng định trong những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, ở mỗi thời kỳ cách mạng, nếu Đảng ta phát huy
mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì
chúng ta có thể “chuyển bại thành thắng”, chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế, trong
đó con người là động lực trung tâm.
- Vấn đề chiến lược con người ở Việt Nam hiện nay: Con người được đặt ở vị trí trung
tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến
nay, Đảng luôn xác định con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế -
xã hội. Việc xây dựng con người mới có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước
so với hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con
người toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư
duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư
tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân
tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn
minh, hiện đại... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức trong xây dựng, phát
triển con người, đó là:
- Sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả những cán bộ giữ vị trí cấp cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
đến thanh thiếu niên và người dân lao động. Tệ nạn tham nhũng, chạy chức chạy quyền
diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và sự
trong sạch, nghiêm minh của bộ máy công quyền. Đây là một trong những nguy cơ mà
trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết Đảng ta đã đề cập, cảnh báo. Do đánh giá cán bộ
không đúng, dẫn đến không xác định đúng yêu cầu, tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ.
Do vậy, chưa tuyển chọn, sử dụng được nhiều người thực tài, có đức, có tâm. Những hạn
chế, khiếm khuyết trong công tác cán bộ là một điểm yếu cản trở việc phát huy nhân tố
con người Việt Nam những năm qua.
- Sự “đứt gãy” hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ. Đây là một hạn chế trong
công tác chăm lo, phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng một trong
những nguyên nhân là tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản
phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận
nhân dân, nhất là lớp trẻ.
- Những giải pháp để phát huy nhân tố con người ở Việt Nam:
Một là, thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người
là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người
phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước.
Hai là, giải quyết thỏa đáng lợi ích chính đáng, thiết thực của con người. Với mỗi giai
tầng, mỗi người đều có các lợi ích kinh tế, chính trị, tinh thần,... Trong đó, chú ý đặc biệt
tới lợi ích kinh tế. Giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội - dân tộc.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, thiết
thực, tạo cơ hội cho mỗi người dân phát huy tối đa năng lực, sở trường đóng góp vào sự
nghiệp đổi mới đất nước. Phải có cơ chế minh bạch để tuyển chọn, sàng lọc, hình thành
được đội ngũ công chức nhà nước tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước.
Bốn là, phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ là phát huy vai trò là chủ, làm chủ của nhân
dân. Nhân dân có quyền học tập, lao động sáng tạo, quyền cống i h ến, quyền phát huy vai trò của chính mình...
Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân
tộc. Có phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì mới phát huy được nhân tố
con người Việt Nam. Khi toàn dân tộc đoàn kết nhất trí thành một khối thống nhất thì sẽ
tạo ra sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết trong giải quyết
vấn đề tôn giáo, dân tộc. Thực hiện các chính sách bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn
trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển.
Kiên quyết đấu tranh chống kỳ thị dân tộc, kỳ thị tôn giáo, chống lợi dụng các vấn đề tôn
giáo, dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, chúng ta
sẽ phát huy có hiệu quả nhân tố con người Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. B. PHẦN BÀI TẬP
1. Phân tích các yếu tố cấu thành “nội dung vật chất” của quá trình sản xuất? Trong đó,
yếu tố nào là quan trọng nhất? Vì sao?
2. Bằng các lập luận trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, hãy chứng tỏ rằng,
phương diện kinh tế quyết định phương diện chính trị của đời sống xã hội?
3. Hình thái kinh tế xã hội là gì? Tại sao sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên? Việt Nam phát triển “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa đi
lên chủ nghĩa xã hội có hợp quy luật không?
4. Phân tích sự tác động trở lại của phương diện tinh thần đối với phương diện vật chất
của đời sống xã hội? Cho ví dụ cụ thể.
5. Phương diện tự nhiên và phương diện xã hội trong con người có mối quan hệ với nhau
như thế nào? Liên hệ với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay?
6. Đấu tranh giai cấp là gì? Đấu tranh giai cấp có vai trò như thế nào đối với sự phát triển
của những xã hội có đối kháng giai cấp?