



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 22014077
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TDTT HÀ NỘI            TẬP BÀI GIẢNG        
 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO                                              
Biên soạn: GVCC. PGS. TS. Bùi Quang Hải    TS. Nguyễn Thu Nga  
 Ths. Lê Thị Thu Thúy              lOMoAR cPSD| 22014077       Hà Nội, 12-2021 
PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHƯƠNG I CÁC KHÁI 
NIỆM VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1.1. KHÁI NIỆM KHOA  HỌC 
Khoa học là hệ thống các tri thức về các quy luật khách quan của tự nhiên, xã 
hội và tư duy được tích lũy trong quá trình phát triển của lịch sử loài người nhằm 
phát hiện, giải thích những quy luật khách quan của các hiện tượng. 
Nhưng không phải mọi tri thức đều là khoa học. Những tri thức do con người 
thu được qua quan sát thông thường, đơn giản, mặc dầu có tác dụng rất quan trọng 
đối với cuộc sống nhưng không thể gọi là khoa học được, vì chúng không chỉ ra 
được bản chất và mối quan hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng. Do đó, chỉ có những 
tri thức vạch ra bản chất, mối liên hệ lẫn nhau và nguyên nhân xuất hiện các hiện 
tượng, có khả năng dự báo sự phát triển của chúng trong tương lai mới là khoa học. 
Tính chính xác của các tri thức khoa học chỉ được khẳng định khi chúng được kiểm  nghiệm trong thực tiễn. 
Mục đích và chức năng quan trọng và cơ bản của khoa học là nhận thức thế 
giới khách quan. Khoa học là để trực tiếp giải thích các khía cạnh hiện thực của tất 
cả các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời tác động lên chúng 
để mang lại những kết quả hữu ích cho xã hội. Do đó, sự phát triển nhanh hay chậm 
của xã hội phần lớn bị chi phối bởi sự phát triển và tiến bộ của khoa học. Khoa học 
hiện đại là động lực cho sự tiến bộ của nền kinh tế - xã hội. Nó xác định quy mô và 
nhịp độ phát triển của sự tiến bộ đó. Khoa học ứng dụng vào sản xuất sẽ làm tăng 
trưởng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. 
Áp dụng khoa học vào trong các hoạt động thể dục thể thao sẽ góp phần tăng 
cường sức khỏe và thể lực cho người tập, nâng cao thành tích thể thao cho vận 
động viên, tối ưu hóa quá trình quản lý, nâng cao chất lượng, độ bền và vẻ đẹp cho 
các đề tài xây dựng và hàng hóa thể thao. 
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI 
Khác với trước đây, ngày nay khoa học hiện đại hàm chứa những đặc điểm  sau: 
- Trước hết cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã bước sang một giai 
đoạn mới và phát triển như vũ bão. Chúng ta đang chứng kiến một giai đoạn mới 
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ 4.0 phát triển với nhịp độ nhanh, đột 
phá. Lịch sử chưa bao giờ diễn ra một nhịp độ phát triển khoa học nhanh đến như 
vậy. Chỉ 40 năm lại đây khối lượng tri thức khoa học của nhân loại đã đạt được bằng 
75% khối lượng tri thức được tích lũy từ trước đó. 
Đặc điểm của hoạt động khoa học trong 270 năm lại đây đã tăng theo quy 
luật siêu tốc. Cứ 10 - 15 năm tất cả các chỉ tiêu đều tăng gấp đôi.      lOMoAR cPSD| 22014077
Sự phát triển vũ bão của khoa học còn thể hiện ở chỗ đã nảy sinh những bộ 
môn khoa học hướng vào những vấn đề mới mẻ và ngày càng xuất hiện các ngành 
mới, hướng mới và vấn đề mới. Đã xuất hiện việc tách một ngành khoa học thành 
2, 3 và thậm chí còn nhiều hơn các ngành mới. Chẳng hạn gần đây đã xuất hiện các 
khoa học mới như: trí tuệ nhân tạo; thực tế ảo, thực tại ảo; điện toán đám mây; tự  động hóa.... 
- Một đặc điểm không kém phần quan trọng là khoa học đã trở thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp, là cơ sở của sự tiến bộ kỹ thuật và là một lĩnh vực có hiệu quả nhất, 
đảm bảo cho hiệu quả kinh tế cao nhất nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học. Ví dụ, 
riêng ở ngành nông nghiệp nước ta 1/3 giá trị sản lượng gia tăng là nhờ sự đóng 
góp của khoa học - công nghệ. 
Hiện đang xuất hiện xu thế ngày càng gia tăng mức độ ứng dụng các thành 
tựu khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội. Nhờ những chương trình cấp nhà 
nước, cấp ngành với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các viện và trung tâm 
nghiên cứu, các trường Đại học, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất xã hội và 
đã tạo nên những sự chuyển biến sâu sắc trong mối quan hệ giữa khoa học với sản 
xuất. Mối quan hệ này biểu hiện ở chỗ: 
+ Nhiều ngành sản xuất mới và quy trình công nghệ mới trước hết là bắt 
nguồn từ các cơ sở khoa học (nguyên liệu mới, năng lượng mới...); 
+ Rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu ứng dụng các thành tựu 
khoa học vào sản xuất. Trước đây thời gian đó phải kéo dài hàng chục năm, nhưng 
ngày nay, như Lazer thì chỉ sau ít năm đã được áp dụng, máy vi tính vài ba tháng đã 
thay đời mới và lúc đó đồ cũ đã trở nên lỗi thời, lạc hậu; 
+ Trong các cơ sở sản xuất (nhà máy, hợp tác xã...) và đơn vị sự nghiệp cũng 
tiến hành và phát triển các đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có sự hợp tác ngày 
càng chặt chẽ của các nhà khoa học với các kỹ sư, công nhân và viên chức nhà nước; 
+ Trình độ tay nghề và tri thức khoa học của công nhân, cán bộ kỹ thuật, cũng 
như trình độ dân trí được nâng lên tạo điều kiện để ứng dụng có hiệu quả các tri 
thức khoa học vào thực tiễn và đời sống. 
Vì vậy, một hình thức nhận thức của xã hội, khoa học - công nghệ cùng với 
giáo dục - đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xem là quốc sách hàng đầu, là 
động lực phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh 
tế và củng cố quốc phòng an ninh, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân 
tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 
Nhưng khoa học - công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa tương xứng với 
tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp 
hóa hiện đại hóa, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực. Nhiều vấn đề đặt 
ra trong công cuộc đổi mới chưa có sự giải đáp thỏa đáng về phương diện lý luận. 
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội thiếu những dự báo khoa học. Tình trạng chậm trễ 
trong một số lĩnh vực lý luận và khoa học xã hội chưa được khắc phục.      lOMoAR cPSD| 22014077
Đối với Ngành Thể dục Thể thao, đặc biệt là đối với cán bộ khoa học, trong 
đó có đội ngũ giáo viên thể dục thể thao, không tiến hành nghiên cứu khoa học thì 
khó có thể đạt được những thành tích đáng kể trong công tác thể dục thể thao, đặc 
biệt là trong huấn luyện thể thao, phát triển thể chất, trong đào tạo cán bộ và tổ 
chức quản lý... sở dĩ như vậy là vì: 
Một: Nhiều vấn đề về thể dục thể thao còn chưa được nghiên cứu.  
Hai: Một số vấn đề tuy có nghiên cứu nhưng chưa giải quyết đến nơi đến 
chốn hoặc nghiên cứu còn tủn mủn và tản mạn.  
Ba: Một số vấn đề do cuộc sống thể dục thể thao đặt ra ở nước ta hoàn toàn 
khác với các nước (con người Việt Nam, tổ chức quản lý, kinh tế thể thao...), nhất 
là ở thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.  
Do đó, khoa học thể dục thể thao được đặt ra như là một trong những điều 
kiện quan trọng hàng đầu để giải quyết thành công nhiệm vụ giáo dục thể chất, 
huấn luyện thể thao nói riêng và thể dục thể thao nói chung. 
Vì vậy, những người làm công tác thể dục thể thao đặc biệt là huấn luyện 
viên, giáo viên thể dục thể thao không những chỉ giỏi về lý luận, nắm vững phương 
pháp và thành thạo thực hành, mà còn phải là một cán bộ khoa học mẫn cán. 
Với sinh viên, trong thời gian ngồi trên ghế nhà trường ngoài việc phải học 
tốt, tập luyện tốt và biết phương pháp thể dục thể thao, còn phải rèn luyện để có 
kỹ năng tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học. 
1.3. KHOA HỌC LÀ HỆ THỐNG CÁC TRI THỨC 
Theo V.I.Lênin, lộ trình nhận thức là từ quan sát sinh động đến tư duy trừu 
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình nhận thức bao giờ cũng bắt 
đầu từ việc thu nhận các sự kiện. Bản thân sự kiện chưa phải là khoa học, song theo 
I.P.Paplop, nó là không khí của nhà khoa học. Vì vậy, sự kiện là một bộ phận không 
tách rời của các tri thức khoa học nếu như nó được thu thập và khái quát một cách  có hệ thống. 
Tiến hành hệ thống hóa và khái quát hóa sự kiện theo cách trừu tượng đơn 
giản nhất, đó là khái niệm. Nó là một thành phần cấu trúc quan trọng của khoa học. 
Những khái niệm lớn hơn, nghĩa là sự trừu tượng chung nhất gọi là phân loại. 
Một dạng quan trọng của các tri thức là các nguyên tắc (định lý, quy tắc). Các 
nguyên tắc chính là vị trí xuất phát của một lĩnh vực khoa học nào đấy. Chúng là 
dạng sơ khai của việc hệ thống hóa các tri thức. 
Khâu quan trọng nhất trong hệ thống các tri thức khoa học là các quy luật 
khoa học. Các quy luật khoa học phản ánh những mối quan hệ bản chất nhất, ổn 
định nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 
Một hình thức có tính khái quát và hệ thống cao nhất gọi là học thuyết. Học 
thuyết là lý luận về các kinh nghiệm và thực tiễn đã được khái quát để hình thành 
các nguyên tắc và phương pháp khoa học làm cơ sở để tiến hành khái quát, nhận 
thức các quá trình và hiện tượng, phân tích ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau 
lên các quá trình, hiện tượng đó và đề xuất các kiến nghị áp dụng vào thực tiễn.      lOMoAR cPSD| 22014077
Khi các nhà nghiên cứu chưa đưa ra những minh chứng đáng tin cậy, thì họ 
sử dụng giả thuyết khoa học. Giả thuyết khoa học là nhận định cần được chứng 
minh. Giả thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc là 
luận điểm cần chứng minh của nghiên cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên 
cứu nào không phải đặt giả thuyết". 
Giả thuyết khoa học thường được xem như là một sự diễn đạt sơ khai, một 
phương án giả định về các quy luật sẽ được chứng minh. Nhiều quy luật khoa học 
và học thuyết đã được hình thành trên cơ sở các giả thuyết này. 
Một hình thức thực hiện và phát triển khoa học là nghiên cứu khoa học. Nó 
nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình, phân tích ảnh hưởng các nhân tố khác 
nhau tới các quá trình và hiện tượng đó, cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa 
các hiện tượng và giữa các quá trình nhằm đi đến các quyết định có đủ sức thuyết 
phục và có lợi cho khoa học và thực tiễn với hiệu quả tối đa. 
Nghiên cứu khoa học có đối tượng (khách thể) của nó. Đối tượng nghiên cứu 
có thể là thế giới vật chất (ví dụ: dụng cụ và thiết bị thể thao, sân bãi, nhà tập...), 
hiện tượng (ví dụ: mệt mỏi, hứng thú...), thuộc tính (ví dụ: năng lực làm việc, trình 
độ tập luyện...), cũng như mối liên hệ giữa các hiện tượng và thuộc tính. 
Mục đích nghiên cứu khoa học là: dựa trên cơ sở các nguyên tắc và phương 
pháp nhận thức đã được hoàn thiện trong khoa học xác định đối tượng cụ thể, 
nghiên cứu toàn diện và khách quan cấu trúc, đặc tính và mối quan hệ giữa chúng 
để gặt hái những kết quả hữu ích cho hoạt động con người, trên cơ sở ứng dụng 
các tiến bộ khoa học vào thực tiễn. 
Phương pháp là cách thức nghiên cứu dưới góc độ lý thuyết hoặc thực 
nghiệm các hiện tượng hay quá trình nào đấy. Phương pháp là công cụ để giải quyết 
nhiệm vụ chủ yếu của khoa học (chỉ ra các quy luật hoạt động khách quan). Phương 
pháp xác định sự cần thiết và vai trò của việc vận dụng cách quy nạp hoặc phép suy 
diễn, phân tích và tổng hợp, so sánh các kết quả nghiên cứu lý luận và thực nghiệm. 
Phương pháp nghiên cứu có phương pháp nghiên cứu chung và phương pháp 
nghiên cứu chuyên biệt. Phương pháp nghiên cứu chung gồm phương pháp duy 
vật biện chứng và phương pháp toán học. Một nhà khoa học, bất kỳ thuộc lĩnh vực 
nào, cũng phải nắm chắc những nguyên lý triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương 
pháp luận cơ bản cho nghiên cứu của mình. Đồng thời, cũng cần phải biết phương 
pháp toán học, đặc biệt là phương pháp toán học thống kê. Khoa học sẽ càng sáng 
tỏ nếu như những phương pháp nghiên cứu chất lượng được ứng dụng các phương 
pháp nghiên cứu số lượng để xử lý. 
Phương pháp nghiên cứu chuyên biệt nhằm giải thích tính chất của các quá 
trình hoạt động của một hiện tượng nào đấy. 
Dựa vào những phương pháp nghiên cứu chung và phương pháp nghiên cứu 
chuyên biệt, nhà khoa học sẽ thu được những câu trả lời là bắt đầu nghiên cứu từ 
cái gì, xử lý như thế nào đối với các sự kiện, làm thế nào để khái quát và bằng cách 
nào để đi đến kết luận.      lOMoAR cPSD| 22014077
Hệ phương pháp, đó là tổng hợp các phương pháp, biện pháp, thủ đoạn, trình 
tự của chúng và các phương án được chấp nhận khi tiến hành nghiên cứu khoa học. 
Hệ phương pháp có hệ phương pháp chung và hệ phương pháp chuyên biệt. 
Hệ phương pháp chung là những nguyên lý của phép duy vật biện chứng, học 
thuyết Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xác định các quy luật phát triển 
nhận thức nói chung. Còn hệ phương pháp chuyên biệt là dựa trên các quy luật của 
các khoa học cụ thể và dựa trên đặc điểm nhận thức các hiện tượng cụ thể. Nó có 
quan hệ mật thiết với các nguyên tắc và quy luật của khoa học cụ thể, với các 
phương pháp nghiên cứu chuyên biệt. 
Các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong khi giải quyết các vấn đề khoa học đóng 
vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Có nhiệm vụ thực nghiệm và có  nhiệm vụ lý luận. 
Nhiệm vụ thực nghiệm nhằm giải thích và trình bày chính xác, cũng như 
nghiên cứu tỷ mỷ các sự kiện khác nhau của các hiện tượng và quá trình. Trong 
nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ thực nghiệm được giải quyết bằng các phương pháp 
nhận thức khác nhau như quan sát và thực nghiệm. 
Quan sát là phương pháp nhận thức mà không làm ảnh hưởng đến đối tượng 
nghiên cứu, trong đó sử dụng việc ghi chép, đo đạc các thuộc tính và tính chất thay 
đổi của đối tượng. Ví dụ: quan sát các hoạt động thi đấu quan sát diễn biến trạng 
thái vận động viên trong một buổi tập... 
Thực nghiệm là phương pháp nhận thức có tính thực nghiệm chung nhất, 
trong đó không những tiến hành quan sát và đo đạc, mà còn tiến hành tổ chức lại 
để chi phối và tác động đến đối tượng nghiên cứu... Phương pháp này có thể làm 
rõ ảnh hưởng của nhân tố này tới nhân tố khác. 
Các phương pháp thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu 
khoa học. Chúng không chỉ là điều kiện để khẳng định các cơ sở lý luận thiết yếu, 
mà thường là hình thành những phát minh và nghiên cứu khoa học mới. 
Nhiệm vụ lý luận nhằm nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân, mối quan hệ phụ 
thuộc và sự liên hệ cho phép xác định hành vi đối tượng, làm rõ cấu trúc, đặc tính 
của nó dựa trên các nguyên tắc và phương pháp khoa học đã được sáng tỏ. Nhờ 
các tri thức thu được người ta hình thành các quy luật hoàn thiện lý luận, kiểm tra 
sự kiện... Các nhiệm vụ lý luận được hình thành như vậy cũng có thể kiểm định bằng  thực nghiệm. 
Khi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phương pháp nhận thức 
logic đóng vai trò quan trọng. Nó cho phép lý giải các hiện tượng, quy trình, đưa ra 
các kiến nghị và ý tưởng khác nhau, xây dựng lộ trình giải quyết vấn đề một cách 
chính xác trên cơ sở các sự kiện thu được và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm. 
Như vậy, hệ thống các tri thức dưới dạng khoa học bao gồm các sự kiện, khái 
niệm, nguyên tắc, giả thuyết, quy luật và học thuyết mà thông qua chúng cho phép 
tiên đoán được các sự kiện và điều khiển được các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản 
xuất và sức sản xuất.      lOMoAR cPSD| 22014077
Khoa học là của xã hội, mặc dầu thừa nhận sự sáng tạo to lớn của nhà khoa 
học. C.Mác nói: xét theo sự phát sinh, phát triển và sử dụng thì khoa học là của toàn 
xã hội. Vì vậy, tất cả các phát minh khoa học suy cho cùng đều là kết quả lao động 
của xã hội. Ngoài ra, yêu cầu quan trọng nhất đối với mọi tri thức khoa học là phải 
có ý nghĩa trong thực tiễn, nghĩa là chúng có tính kiểm chứng và tái hiện. Đồng thời, 
mọi tri thức khoa học luôn luôn có tính ổn định cao. Các tri thức khoa học nhanh 
chóng trở nên lỗi thời chứng tỏ chúng không được nghiên cứu một cách đầy đủ, 
khái quát còn nông cạn, dự báo thiếu cơ sở khoa học. Vì vậy, tính khoa học của các 
kết luận và khái quát càng cao, càng tin cậy thì kết quả nghiên cứu khoa học càng 
cao. Các kết luận và khái quát đó phải là tiền đề cho những đề tài nghiên cứu mới. 
1.4. PHÂN LOẠI KHOA HỌC 
Vấn đề phân loại, nghĩa là tìm ra những đặc điểm chung và mối quan hệ lẫn 
nhau giữa các khoa học, từ xưa đã được chú ý. 
Quy nạp lại, hiện nay tồn tại phổ biến hai cách phân loại khoa học. Cách thứ 
nhất là cách phân loại theo lối hình thức, chủ quan, trong đó khẳng định giữa các 
khoa học có những ranh giới nghiêm ngặt. Thực tế phát triển của khoa học hoàn 
toàn phủ nhận cách phân loại kể trên. Cách thứ hai, đó là cách phân loại khoa học 
đúng đắn hơn, trong đó người ta dựa trên nguyên tắc khách quan, thừa nhận các 
khoa học có mối quan hệ với nhau nhất định. Theo nguyên tắc này, mỗi khoa học 
riêng biệt, một dạng vận động nhất định hay một hình thái nhất định của vật chất 
và tổng thể các khoa học phải phản ánh tất cả các dạng vận động đó trong mối liên  hệ qua lại giữa chúng. 
Ph. Ănghen trong phép biện chứng của tự nhiên, đã đề ra hai nguyên tắc 
chung của phép biện chứng trong phân loại các khoa học - nguyên tắc khách quan 
và nguyên tắc phát triển. Riêng nguyên tắc phát triển, không cho phép có sự gián 
đoạn giữa các khoa học, mà giữa chúng nảy sinh sự chuyển tiếp mà khoa học có 
nhiệm vụ phát hiện và nghiên cứu, nghĩa là phải tìm ra những cái “cầu nối” giữa các 
khoa học. Hai nguyên tắc này đóng vai trò như một lợi khí của nhận thức, là một 
phương pháp để phòng, giúp các nhà bác học khỏi đi vào một sự chuyên môn hoá 
quá hẹp và khuynh hướng một chiều. 
Dựa vào những nguyên tắc kể trên, theo viện B.Kêđơrốp đã phân loại khoa  học gồm:  1- Khoa học triết học,  2- Khoa học toán học. 
3- Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.  4- Khoa học xã hội. 
Ngày nay, các khoa học được chia thành 3 loại một cách hợp lý hơn, mặc dù 
không nảy sinh những vấn đề trái với các nguyên tắc phân loại khoa học. Theo đó 
các khoa học được chia thành ba nhóm lớn là khoa học xã hội và nhân văn, bao 
gồm cả triết học, khoa học tự nhiên (bao gồm cả toán) và khoa học kỹ thuật. Trong 
mỗi nhóm, người ta còn chia ra những thành phần nhỏ gọi là môn khoa học.      lOMoAR cPSD| 22014077
Khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận 
động và phát triển của xã hội và tư duy như triết học, chính trị kinh tế học, văn học, 
tâm lý học giáo dục học... Thể dục thể thao nói chung là thuộc nhóm khoa học này. 
Khoa học tự nhiên là khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận động và 
phát triển của thế giới vật chất gồm: toán học, vật lý học, hoá học, động vật học, 
thực vật học, giải phẫu học, sinh lý người...       
Bảng 1. Phân loại khoa học  (Theo B.Kêđơrốp)     KHOA HỌC    - Phép biện chứng      TRIẾT HỌC    - Lôgich học        KHOA HỌC    - Lôgich toán học      TOÁN HỌC   
- Toán học… và toán học ứng dụng 
- Cơ học… và cơ học ứng dụng  - Thiên văn học  - Thiên văn vật lý 
- Vật lý học… và vật lý kỹ thuật    KHOA HỌC  - Lý hóa…      TỰ NHIỆN  - Hóa lý…   
Và các khoa học kỹ thuật hóa học    VÀ    - Hóa học…   
(trong đó có khoa luyện kim)  - Địa hóa học…      KHOA HỌC 
- Địa chất… và kỹ thuật mỏ      KỸ THUẬT  - Địa lý        - Sinh hóa học     
- Sinh vật học… và các khoa học nông nghiệp  - Sinh lý người…      Và các khoa học y học  - Nhân loại học    - Lịch sử      - Khảo cổ      - Nhân chủng học    - Địa lý kinh tế        KHOA HỌC   
- Thống kê xã hội kinh tế    XÃ HỘI      - Kinh tế học  - Khoa học về cơ 
- Khoa học về nhà nước và pháp luật      lOMoAR cPSD| 22014077 sở và kiến trúc 
- Lịch sử và lý luận nghệ thuật thượng tầng… 
- Lịch sử và lý luận văn học… 
- Ngôn ngữ học… Và giáo dục học        - Tâm lý học…    Và các khoa học khác   
Khoa học kỹ thuật là khoa học nghiên cứu về sự ứng dụng các thành tựu của 
khoa học tự nhiên vào trong trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nhằm tìm ra các máy 
móc, thiết bị mới, các quy trình công nghệ mới... 
Trong thể dục thể thao, những vấn đề như nghiên cứu quan hệ giữa thể dục 
thể thao và phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu về hệ thống tổ chức và cơ chế quản 
lý vĩ mô trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, kinh tế thể dục thể thao 
và lý luận về giá trị thể dục thể thao... là thuộc lĩnh vực của khoa học xã hội nhân 
văn; những vấn đề như: sinh học, y học thể thao, di truyền học thể thao... chủ yếu 
là ở nhóm khoa học tự nhiên; còn những vấn đề nghiên cứu về kết cấu hạ tầng thể 
dục thể thao, các thiết bị tập luyện và đo lường, kiểm tra, điều khiển, thông tin 
trong thể dục thể thao... là thuộc nhóm khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, do thể dục 
thể thao là thuộc lĩnh vực giáo dục, cho nên chủ yếu và cơ bản thể dục thể thao 
được xếp vào khoa học xã hội và nhân văn. 
1.5. ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG THỂ DỤC THỂ THAO 
Đối tượng của thể dục thể thao là hoạt động sống của con người trong điều 
kiện vận động, thể hiện dưới dạng cá nhân hay tập thể, nghiên cứu khoa học trong 
thể dục thể thao mang một số đặc điểm sau đây: 
- Nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao, là nghiên cứu thuộc lĩnh vực giáo dục. 
Tập luyện thể dục thể thao là hoạt động có ý thức của con người để phát tnên các 
tố chất thể lực, nâng cao sức khỏe và hoạt động của các cơ quan và hệ thống cơ 
thể, hình thành và hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, rèn luyện các phẩm 
chất ý chí cho bản thân. Nó chịu sự chi phối của các quy luật giáo dục thể chất. Do 
đó, nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao là nghiên cứu về con người dưới 
sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội - nhân văn, đặc biệt là  các quy luật giáo dục. 
- Thể dục thể thao là một lĩnh vực hoạt động đa dạng, nên nghiên cứu khoa học thể 
dục thể thao có vận dụng kiến thức và thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học khác 
và có nhiều bộ môn khoa học khác thâm nhập vào thể dục thể thao (như: Triết học, 
Sinh hóa, Sinh cơ, Toán học, Xã hội học...) để tiến hành nghiên cứu hoàn thiện thể 
chất con người, nâng cao thành tích thể thao và cải tiến các hoạt động khác nhau 
trong sự nghiệp thể dục thể thao. Thể dục thể thao là giao điểm của nhiều lĩnh vực 
khoa học, là nơi mở rộng và phát triển các mối quan hệ giữa thể dục thể thao với 
các lĩnh vực khoa học khác đồng thời qua đó hình thành các môn khoa học mới. 
- Nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao đã thiết thực giải quyết những yêu cầu 
thực tiễn của cuộc sống thể dục thể thao và đang trở thành một yếu tố không thể      lOMoAR cPSD| 22014077
tách rời trong việc phát triển phong trào thể dục thể thao, đặc biệt là trong việc 
nâng cao thể chất cho mọi người và trong lĩnh vực thể thao nâng cao thành tích, 
đồng thời qua đấy khoa học thể dục thể thao cũng có điều kiện để tự khẳng định 
và phát triển chính mình. 
- Nghiên cứu khoa học thể dục thể thao nói chung là sinh sau, đẻ muộn (nhất là ở 
nước ta) so với các lĩnh vực khoa học khác. Nhiều lĩnh vực hoạt động thể dục thể 
thao chưa được quan tâm nghiên cứu, đội ngũ làm công tác này còn ít. Tuy vậy, 
một số đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, cấp thành phố cũng đã được tiến hành, và đã 
được ứng dụng vào thực tế hiệu quả. 
1.6. CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG THỂ DỤC THỂ THAO  
Công tác nghiên cứu khoa học, không những chỉ có các nhà khoa học, các giáo 
viên, huấn luyện viên, nghiên cứu sinh và sinh viên tiến hành, mà còn cả các cán bộ 
quản lý, kỹ thuật viên… cũng tham gia. Nhưng như đã nói ở trên, khoa học thể dục 
thể thao về cơ bản là thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục, vì vậy nghiên cứu ở đây thật 
đa dạng và có các loại hình khác nhau: có dạng là đề tài về phương pháp đơn thuần, 
có dạng là đề tài về phương pháp khoa học và có dạng là đề tài nghiên cứu khoa  học. 
Đề tài chỉ có đơn thuần về phương pháp và đề tài về phương pháp khoa học 
có đặc điểm chung là hướng nghiên cứu ưu tiên chủ yếu nhằm giải quyết các vấn 
đề thuộc về phương pháp giáo dục và giáo dưỡng. Tuy nhiên, chúng không phải là 
đồng nhất, mà giữa chúng cũng có sự khác biệt nhau nhất định. Đề tài về phương 
pháp đơn thuần là những nghiên cứu chỉ nhằm tìm hiểu kinh nghiệm công tác của 
các nhà sư phạm với mục đích làm rõ đặc điểm hoạt động của họ, mà không nêu 
lên phương cách giải quyết độc đáo vấn đề, không chỉ ra các quy luật sư phạm 
khách quan mà người ta chưa biết. Ngược lại, nếu như trong tổng kết đó lại tìm ra 
hoặc phát hiện được những vấn đề lý thú, những lộ trình giáo dục mới và sau đấy 
được chứng minh trong điều kiện thực nghiệm để khẳng định những quy luật giáo 
dục và giáo dưỡng trong thực tiễn, thì những nghiên cứu như vậy được xem là đề 
tài nghiên cứu về phương pháp khoa học. 
Do đó, về thực chất, đề tài về phương pháp khoa học là một trường hợp cá 
biệt của đề tài nghiên cứu khoa học mà thôi. Như vậy, đề tài nghiên cứu khoa học 
không chỉ là các vấn đề về phương pháp luận giáo dục và giáo dưỡng, mà còn hàm 
chứa những vấn đề rộng lớn hơn. 
Với cách lý giải ở trên, chỉ có những nghiên cứu về phương pháp khoa học và 
những nghiên cứu khoa học, mới được xem là các đề tài nghiên cứu khoa học. Đó 
là những đề tài đáp ứng được các yêu cầu của công tác khoa học. 
Những đề tài nghiên cứu khoa học lại tuỳ theo các dấu hiệu khác nhau mà 
người ta lại phân ra các đề tài khác nhau: 
1.6.1. Theo các mối quan hệ giữa công tác nghiên cứu khoa học với thực tiễn phong 
trào thể dục thể thao lại chia ra:  
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực thể dục thể thao quần chúng;      lOMoAR cPSD| 22014077
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong đào tạo vận động viên; 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý  và đào tạo cán bộ; 
+ Những đề tài nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực kết cấu hạ tầng, thiết bị, 
dụng cụ thể dục thể thao và kinh tế thể thao. 
1.6.2. Theo tầm quan trọng của công tác nghiên cứu đối với nên kinh tế quốc dân hoặc 
văn hóa - xã hội chia các đề tài nghiên cứu khoa học ra:  
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Đó là những đề tài quan 
trọng nhất nhằm giải quyết các vấn đề có tầm vĩ mô của nhà nước và thực hiện 
theo kế hoạch nhà nước. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Ngành là những nghiên cứu có tầm 
quan trọng đặc biệt đối với Bộ, Ngành và thực hiện theo kế hoạch Bộ, Ngành. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tỉnh, Thành. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Viện và trung tâm khoa học. 
1.6.3. Theo nguồn kinh phí được cấp, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:  
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành từ nguồn kinh phí nhà nước. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành theo nguồn kinh phí hợp  đồng. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành từ nguồn kinh phí tự có  hoặc của cá nhân. 
1.6.4.. Theo thời gian, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:  
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học dài hạn: thường là một số năm. 
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học ngắn hạn: thường là trong vòng 1 năm. 
1.6.5. Theo định hướng nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu khoa học lại phân thành:   + Nghiên cứu cơ bản. +  Nghiên cứu ứng dụng +  Nghiên cứu triển khai. 
Nghiên cứu cơ bản là các hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm 
nhằm khám phá những tri thức mới về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy 
(Những đề tài thuộc dạng điều tra thể chất, trạng thái vận động, trạng thái tâm lý... 
là thuộc loại này). Nghiên cứu cơ bản nói chung, thường được thực hiện trong  phòng thí nghiệm. 
Nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu dựa trên các kết quả nghiên cứu cơ bản 
để tạo nên những phương pháp mới, nhờ đó mà sản xuất ra những thiết bị, máy 
móc, nguyên liệu mới hoặc cải tiến phương thức và cách tổ chức làm việc mới (như 
huấn luyện, giảng dạy...). Những nghiên cứu kiểu này rất phù hợp với yêu cầu của 
ngành nhằm nhanh chóng phát triển phong trào thể dục thể thao nước ta. 
Nghiên cứu triển khai là nghiên cứu nhằm mục đích biến đổi những nghiên 
cứu ứng dụng (hoặc lý luận) vào trong thực tiễn. Nghiên cứu triển khai với mục đích 
cuối cùng là chỉ rõ hoặc tìm ra phạm vi áp dụng trong các hoạt động khác nhau của 
đời sống thể dục thể thao.        lOMoAR cPSD| 22014077  
CHƯƠNG II GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ NGHIÊN CỨU  ĐỀ TÀI KHOA HỌC 
2.1. Phân tích lý luận và thực tiễn( Đọc và tham khảo tài liệu) 
Thể dục thể thao cũng như các ngành khoa học khác, nó là ngành khoa học 
có lịch sử hình thành và phát triển; có kho tàng lý luận và thực tiễn phong phú, chứa 
đựng vô số các vấn đề; các mâu thuẫn nảy sinh và cần được giải quyết. Các đề tài 
khoa học nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tạo nên động lực cho sự phát triển. 
Các đề tài nghiên cứu được hình thành chính từ nguồn lý luận phong phú, từ 
thực tiễn sinh động. Nhà nghiên cứu thường xuyên theo dõi thông tin nghiên cứu 
thông qua hoạt động đọc tài liệu tham khảo theo từng lĩnh vực chuyên ngành hẹp, 
phát hiện các “khoảng trống khoa học” hay “các mảnh đất hoang” đó chính là 
những vấn đề chưa được nghiên cứu, đang bị bỏ ngỏ, có thể đi vào khai phá để 
biến chúng thành mảnh đất màu mỡ, cho thu hoạch nhiều hoa, trái. Đề tài nghiên 
cứu cũng có thể được hình thành từ những điều vướng mắc của thực tiễn tập luyện 
(đối với sinh viên), của thực tiễn giảng dạy, huấn luyện (đối với giáo viên và huấn 
luyện viên)… Giải quyết các đề tài từ chính các vấn đề thực tiễn, đòi hỏi có tính cấp 
thiết rất lớn về mặt xã hội. Lý luận và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên luôn 
chứa đựng nhiều mâu thuẫn cần được giải quyết, số lượng đề tài nghiên cứu không  bao giờ cạn. 
2.2. Lựa chọn hướng và đề tài nghiên cứu     
2.2.1. Lựa chọn hướng nghiên cứu  
 Hướng nghiên cứu (còn gọi là phương hướng nghiên cứu) là vấn đề nghiên cứu 
lớn, có thể nghiên cứu trong một số năm đến một vài chục năm. 
Các hướng nghiên cứu của ngành thể dục thể thao Việt Nam hiện nay là: 
Tuyển chọn vận động viên các môn thể thao; điều tra thể chất người Việt Nam; đào 
tạo, phân bổ và sử dụng cán bộ thể dục thể thao; huấn luyện thể lực cho vận động  viên các môn thể thao… 
Để lựa chọn đề tài nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu cần xác định phương 
hướng của mình, trước hết là các hướng được ngành thể dục thể thao quan tâm,  chỉ đạo.     
2.2.2. Lựa chọn đề tài nghiên cứu  
- Khái niệm: Đề tài nghiên cứu là sự cụ thể hóa vấn đề khoa học của một hướng  nghiên cứu. 
Trong một hướng nghiên cứu có nhiều đề tài, thí dụ hướng nghiên cứu “Điều 
tra thể chất người Việt Nam” có thể hình thành nhiều đề tài: điều tra theo độ tuổi, 
điều tra theo vùng dân cư, điều tra theo nghề nghiệp... sau đó lại có thể chia nhỏ  hơn nữa. 
- Các yêu cầu đối với một đề tài khoa học:      lOMoAR cPSD| 22014077
+ Đề tài phải mang tính cấp thiết, nghĩa là phải xuất phát từ nhu cầu lý luận 
và thực tiễn đòi hỏi. Nếu vấn đề được giải quyết, sẽ thúc đẩy công tác giảng dạy, 
huấn luyện để đạt tới kết quả cao hơn trước. 
+ Đề tài phải mang tính chất thời sự, mới lạ về mặt khoa học vào những lĩnh 
vực sinh động, sôi nổi của thực tiễn thể dục thể thao và sức khoẻ con người hiện 
đại; thể dục thể thao và thành tích cao... Những nhu cầu của thực tiễn xã hội luôn 
là trọng tâm thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. 
+ Đề tài phải gây được tính hứng thú cao, tính hứng thú sẽ tạo ra sự say mê 
nghiên cứu, giúp nhà nghiên cứu sẵn sàng khắc phục khó khăn, sẵn sàng hiến dâng 
trí tuệ và sức lực của mình cho công việc. Hứng thú còn là cơ sở của tinh thần trách 
nhiệm và sự sáng tạo. Vì vậy, nhà nghiên cứu phải tự mình chủ động tìm kiếm đề 
tài là cách tốt nhất, không nên tham gia vào đề tài nghiên cứu bị ép buộc. 
+ Đề tài nghiên cứu phải mang tính mới lạ về mặt khoa học. Nhà khoa học 
không được phép nghiên cứu lại đề tài mà người khác đã tiến hành, với cùng một 
cách giải quyết. Đôi khi cũng có thể nghiên cứu một vấn đề cũ, song phải bằng 
phương pháp và bịện pháp mới, có tính sáng tạo hơn hẳn. 
- Đề tài phải phù hợp với trình độ nhà nghiên cứu, không chọn đề tài đòi hỏi năng 
lực làm việc cao hơn mức hiện có. Dựa vào trình độ nghiên cứu khoa học, có thể 
phân chia đề tài thành một số mức độ sau đây: Đề tài tiểu luận; đề tài luận văn tốt 
nghiệp (dành cho sinh viên); đề tài luận án thạc sĩ (dành cho học viên cao học); đề 
tài luận án tiến sĩ (dành cho nghiên cứu sinh). Theo thời gian, trình độ của cán bộ 
khoa học ngày một vững vàng, nhà nghiên cứu sẽ dần dần có đủ năng lực đảm 
đương những công việc khó nhọc và to lớn hơn. 
- Chọn đề tài cũng phải phù hợp với điều kiện nghiên cứu: Về đối tượng, về phương 
tiện sân bãi, dụng cụ tập luyện, trang thiết bị dụng cụ nghiên cứu, thời gian nghiên 
cứu và kinh phí cần thiết. Thí dụ: Ở nhiều môn thể thao của Việt Nam, số lượng vận 
động viên cấp cao rất hiếm, nên chọn đề tài nghiên cứu đối tượng này là không 
thực tế. Nếu có chọn cần phải được cân nhắc kỹ càng. 
- Nên chọn đề tài hẹp về phạm vi, để có thể nghiên cứu sâu, triệt để và toàn diện. 
Trong dân gian có câu “Cuốc càng sâu, đất càng quánh”. Không nên chọn đề tài có 
phạm vi rộng, vì khó giải quyết và khó đạt được hiệu quả cao. Đề tài hẹp thông 
thường có liên quan đến tính chất cụ thể. Vì vậy, không thể có đề tài nghiên cứu 
chung chung và trìu tượng, không đảm bảo đem lại lợi ích cho thực tiễn thể dục thể  thao. 
Như vậy, chọn đề tài nghiên cứu là việc làm hết sức nghiêm túc và có trách 
nhiệm, không chỉ liên quan đến bản thân nhà khoa học, mà còn liên quan đến tập 
thể, nơi họ đang học tập hay công tác. Do đó, có thể nói: Chọn đề tài nghiên cứu có  ý nghĩa xã hội.     
2.2.3. Các cách lựa chọn đề tài nghiên cứu:  
Thông thường các nhà khoa học (đặc biệt người mới bước vào nghiên cứu) 
trẻ hay phân vân không biết nên sử dụng trí tuệ, sức lực như thế nào khi lựa chọn      lOMoAR cPSD| 22014077
đề tài. Họ luôn nghĩ tất cả những cái có trong tự nhiên, xã hội đều đã được người 
khác nghiên cứu, không còn cái gì dành cho mình nữa. Các nhà nghiên cứu có kinh 
nghiệm phải hướng dẫn họ đến với các cách lựa chọn sau đây: 
- Thường xuyên theo dõi, tổng kết những thành tựu nghiên cứu khoa học của ngành. 
Cho đến nay, ngành thể dục thể thao trên 60 năm phát triển, đội ngũ cán bộ khoa 
học trình độ cao đã triển khai nghiên cứu nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp viện, 
trường, sở thể dục thể thao. Hàng trăm nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận 
án tiến sĩ. Hàng ngàn cử nhân đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ. Tất cả kết quả 
nghiên cứu được công bố là những tài liệu quý báu giúp cho các nhà khoa học trẻ 
thêm kinh nghiệm chọn đề tài cho mình, hướng suy nghĩ vào những vấn đề còn ít  được nghiên cứu. 
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ý kiến của 
các chuyên gia trong từng chuyên ngành hẹp về lý luận và thực hành thể thao rất 
có giá trị. Các chuyên gia thường là những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, giúp các 
nhà khoa học trẻ xác định được những vấn đề quan trọng trước mắt và hướng giải 
quyết đề tài đó trên cơ sở điều kiện hiện có phù hợp với khả năng và trình độ của  họ. 
- Phân tích thực tiễn học tập hay công tác, phát hiện những mâu thuẫn đang tồn tại, 
cũng có thể là con đường dần đến hình thành đề tài nghiên cứu có giá trị cao về 
mặt ứng dụng. Thông thường những đề tài được lựa chọn bằng cách này, được giải 
quyết rất hiệu quả vì nhà khoa học am hiểu vấn đề nghiên cứu và có ý thức tự giác 
đối với công việc rất cao. 
- Tìm hiểu kết quả nghiên cứu mới nhất nằm ở ranh giới giữa các ngành khoa học, vì 
ở đó thường xuất hiện những môn học mới quan trọng. Các lĩnh vực nằm ở ranh 
giới này là những “điểm trắng” trong khoa học. Trong lĩnh vực thể dục thể thao, 
nhiều ngành mới ra đời: Tâm lý học, Giáo dục học, Sinh cơ thể dục thể thao... Là 
những mảnh đất màu mỡ để giải quyết hàng loạt đề tài quan trọng còn chưa được  nghiên cứu. 
- Nghiên cứu những phương pháp và biện pháp mới có hiệu quả cao. I. Páp Lốp đã 
viết: “Khoa học sẽ được thúc đẩy tiến vọt, tuỳ thuộc vào thành tựu khoa học về 
mặt phương pháp luận”. Các đề tài nghiên cứu về phương pháp, biện pháp là những 
đề tài nghiên cứu hay, có giá trị nếu nâng lên đến mức cần thiết về mặt lý luận và 
được thực tiễn kiểm nghiệm. Trong lĩnh vực thể dục thể thao, nghiên cứu về 
phương pháp và biện pháp cũng là một mặt quan trọng dành cho các đề tài nghiên 
cứu. Đó là các phương pháp dạy học. Thí dụ: Phương pháp dạy học nêu vấn đề, 
phương pháp dạy học chương trình hoá dùng trong thể dục thể thao; Các phương 
pháp huấn luyện, phương pháp tuyển chọn vận động viên thể thao, phương pháp 
xác định lượng vận động tập luyện... 
- Nghiên cứu những đối tượng cũ nhờ phương pháp mới với quan điểm mới. Việc 
chọn làm đề tài luận văn khoa học theo nguyên tắc xem xét lại một cách cơ bản 
những luận điểm đã có trong lý luận và thực tiễn với lập trường mới, góc độ nhìn 
mới, ở trình độ kỹ thuật cao hơn đang được vận dụng rộng rãi trong thực tiễn.      lOMoAR cPSD| 22014077
Trong lĩnh vực thể dục thể thao, có thể vận dụng cách chọn đề tài theo quan điểm 
này. Đó là những nghiên cứu thay đổi những phương pháp, biện pháp, tiêu chuẩn, 
hình thức... cũ bằng những cái mới, trên quan điểm mới, phù hợp với cuộc cách 
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đang diễn ra trên đất nước ta. 
Các nhà khoa học trẻ tuổi có thể bằng con đường nêu trên lựa chọn cho mình 
đề tài. Tuy nhiên, một đề tài lựa chọn hợp lý nhất, nếu thỏa mãn với nhiều cách 
chọn. Thí dụ: Bằng cách thường xuyên đọc tài liệu tham khảo, nhà nghiên cứu chọn 
được đề tài. Đề tài đó cũng xuất phát từ thực tiễn đòi hòi phải được giải quyết, 
được cấp trên triển khai nghiên cứu với quy mô và phạm vi lớn, các chuyên gia 
chuyên ngành hay thống nhất ý kiến… Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không được phép 
chờ đợi hay ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác mà cần thử sức mình qua các lần 
nghiên cứu và gắng sức hoàn thành công việc với chất lượng cao. Người ta cho 
rằng: Việc chọn đề tài đúng, là thành công một nửa trên bước đường nghiên cứu  một đề tài khoa học. 
2.3. Xác định nhiệm vụ nghiên cứu 
2.3.1. Khái niệm Nhiệm vụ nghiên cứu là sự cụ thể hoá vấn đề khoa học trong một  đề tài.  
Mỗi đề tài nghiên cứu, thường có một số nhiệm vụ. Đề tài của sinh viên, học 
viên cao học có thể cấu tạo từ 2 - 3 nhiệm vụ. Đề tài của nghiên cứu sinh có thể có  2 - 4 nhiệm vụ. 
2.3.2. Các yêu cầu đối với nhiệm vụ nghiên cứu  
 Các nhiệm vụ nghiên cứu phải thoả mãn một số yêu cầu sau đây:  
- Cũng như đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu phải mang tính mới lạ, sáng tạo về mặt khoa 
học, nghĩa là không được đặt thành nhiệm vụ đối với một vấn đề nào đó đã được 
tác giả khác nghiên cứu rồi. 
- Các nhiệm vụ phải ngắn gọn, nêu được bản chất, nội dung vấn đề nghiên cứu, không  có từ ngữ thừa. 
- Xác định số lượng, chất lượng nhiệm vụ phải căn cứ vào mục đích giải quyết đề tài, 
ảnh hưởng trực tiếp đến công việc nghiên cứu. Do đó, xác định nhiệm vụ nghiên 
cứu cũng phải hết sức nghiêm túc và thận trọng. 
2.4. Dự kiến phương pháp nghiên cứu 
a. Khái niệm: Phương pháp nghiên cứu là cách thu nhận và xử lý thông tin nghiên cứu.   
b. Phân loại phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu khoa học thể dục thể thao, 
người ta sử dụng một hệ thống phương pháp nghiên cứu khác nhau để thu nhận 
và xử lý có kết quả các nguồn thông tin. Các phương pháp có thể phân thành một  số loại lớn: 
- Nhóm phương pháp nghiên cứu sư phạm (thể dục thể thao là một 
lĩnh vực của khoa học sư phạm). 
- Nhóm phương pháp nghiên cứu y sinh học. 
- Nhóm phương pháp nghiên cứu tâm lý học.      lOMoAR cPSD| 22014077
- Nhóm phương pháp nghiên cứu kỹ thuật động tác thể dục thể thao. 
- Và một số nhóm phương pháp nghiên cứu khác. c. Lựa chọn 
phương pháp nghiên cứu: 
 Lựa chọn phương pháp này hay kia phải căn cứ vào các nhiệm vụ của đề tài. Mỗi 
nhiệm vụ của đề tài đều đòi hỏi phải có một hay nhiều phương pháp thu nhận và 
xử lý thông tin. Trước khi bước vào nghiên cứu thực sự, nhà nghiên cứu phải dự 
kiến các phương pháp, cho phép thu nhận và xử lý thông tin phù hợp với từng  nhiệm vụ cụ thể. 
Thông thường, các đề tài nghiên cứu lý thuyết (lịch sử, mô tả…), đòi hỏi số 
lượng phương pháp nghiên cứu ít hơn so với các đề tài nghiên cứu thực nghiệm. 
Thí dụ: Đề tài nghiên cứu: “Sự hình thành và phát triển môn bóng bàn ở Việt Nam” 
là một đề tài nghiên cứu lý thuyết, chỉ cần sử dụng hai đến ba phương pháp là đủ 
(phương pháp nghiên cứu lý luận, phỏng vấn, toạ đàm). Trong khi đó, ở đề tài 
“Nghiên cứu các biện pháp có hiệu quả phát triển tố chất sức mạnh tốc độ cho vận 
động viên chạy cự ly ngắn (nam) từ 15 đến 17 tuổi”, là đề tài nghiên cứu thực 
nghiệm, có thể phải sử dụng đến một số phương pháp: nghiên cứu lý luận, phỏng 
vấn, toạ đàm; kiểm tra sư phạm; quan sát sư phạm, thực nghiệm sư phạm và toán  học thống kê. 
Việc sử dụng nhiều hay ít phương pháp, không có nghĩa là vấn đề nghiên cứu 
phức tạp hay đơn giản hơn. Ở đề tài nghiên cứu lý thuyết, tuy chỉ dùng 2 đến 3 
phương pháp, song để có thông tin, nhà nghiên cứu phải đọc và phân tích một khối 
lượng lớn tài liệu tham khảo và có khả năng tư duy lý luận cao mới rút ra được 
những kết luận có giá trị về mặt khoa học. 
2.5. Xác lập giả thuyết khoa học và tính mới lạ của đề tài 
2.5.1. Xác lập giả thuyết khoa học   a. Khái niệm:  
Giả thiết và giả thuyết đều là các từ đúng chính tả, tuy nhiên nó được sử dụng 
trong các trường hợp khác nhau: 
Giả thiết: Căn cứ được cho sẵn để chứng minh phân tích, suy luận. giả thiết 
là một điều kiện giả định trong quan sát hoặc thực nghiệm   
Giả thuyết: Nhận định cần được chứng minh. Giả thuyết là nhận định sơ bộ, 
là kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc là luận điểm cần chứng minh của nghiên 
cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên cứu nào không phải đặt giả thuyết". 
 Giả thuyết khoa học là những dự định ban đầu của nhà nghiên cứu về kết 
quả của đề tài. Một mục tiêu quan trọng của nghiên cứu mô tả là hình thành giả 
thuyết về mối quan hệ nhân-quả, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo và từ đó 
có thể đề xuất được các biện pháp can thiệp hữu hiệu cho quần thể. 
b. Ý nghĩa của việc xác lập giả thuyết khoa học. 
Ý nghĩa của giả thuyết khoa học khó có thể đánh giá hết được. Thứ nhất: nó 
cho phép tìm lối thoát của lý luận vào thực tiễn, bởi vì trên cơ sở của giả thuyết sẽ 
tổ chức được quá trình nghiên cứu và làm xuất hiện những sự kiện khoa học. Thứ      lOMoAR cPSD| 22014077
hai: đề ra giả thuyết khoa học, chính là nảy sinh những ý định mới mở rộng giới hạn 
của những kiến thức hiện có. Thứ ba: giả thuyết khoa học giúp nhà nghiên cứu hình 
thành đối tượng nghiên cứu cụ thể. Thứ tư: giả thuyết khoa học làm cho nhà nghiên 
cứu không bị choáng ngợp trước sự phong phú của các sự kiện, lựa chọn được 
những sự kiện phù hợp nhất cho mình. Chính vì vậy, sự hình thành giả thuyết khoa 
học đúng đắn là điều rất quan trọng đối với mỗi nhà khoa học, trước khi triển khai 
công việc nghiên cứu. Những giả định đúng, là những dự đoán sớm về kết quả 
nghiên cứu, lường trước được những khó khăn và thuận lợi trên con đường đi để 
kịp thời đề ra những biện pháp giải quyết thích hợp. Có thể lấy ví dụ về giả thuyết 
khoa học: Trong đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn thể lực chuyên môn 
cho vận động viên thể dục dụng cụ”. Giả thuyết khoa học được đặt ra là: Thể dục 
dụng cụ là môn thể thao hỗn hợp gồm nhiều dụng cụ tập luyện, đòi hỏi vận động 
viên phải có nhiều tố chất thể lực chuyên môn khác nhau. Giả định rằng: ở mỗi cấp 
bậc vận động, vận động viên thể dục phải được chuẩn bị đầy đủ tương xứng về thể 
lực chuyên môn, phù hợp với trình độ kỹ thuật của mình. Vì vậy, ứng với mỗi giai 
đoạn chuẩn bị, cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn và biện pháp tập luyện 
thể lực chuyên môn cần thiết, nhằm nâng cao thành tích thi đấu của môn thể thao  này. 
2.5.2. Tính mới lạ của đề tài  
Tính mới lạ của đề tài là sự khác biệt của vấn đề được chọn nghiên cứu với 
các đề tài cùng dạng, loại, do các tác giả khác đã thực hiện. 
Tính mới lạ của mỗi đề tài khoa học không chỉ thể hiện ở nội dung vấn đề và 
kết quả nghiên cứu mới, mà còn có thể là các phương pháp và biện pháp sử dụng 
mới các dụng cụ nghiên cứu hay tập luyện mới để đem lại hiệu quả giáo dục thể 
chất cao hơn trước. 2.6. Biên soạn đề cương nghiên cứu khoa học   2.6.1. Khái niệm  
 Đề cương nghiên cứu khoa học trình bày nội dung vấn đề nghiên cứu và kế hoạch  tổ chức thực hiện. 
Đề cương nghiên cứu khoa học là tác phẩm đầu tiên của nhà khoa học trên 
con đường nghiên cứu. Nó có kết cấu hợp lý, được sắp xếp theo trình tự quy định. 
Đề cương nghiên cứu có mẫu quy định, dùng chung cho các cán bộ nghiên cứu. 
2.6.2. Mẫu đề cương nghiên cứu khoa học  
a. Phần đầu của đề cương bao gồm: 
- Tên gọi: Đề cương nghiên cứu khoa học. 
- Hướng nghiên cứu: Ghi rõ hướng nghiên cứu chính của đề tài. - Tên đề tài: 
Được viết ngắn gọn, rõ ràng. 
- Người nghiên cứu: Gồm họ và tên, địa chỉ hay cơ quan của nhà khoa học 
- Người hướng dẫn khoa học gồm: Họ và tên, học vị và học hàm (không ghi 
chức vụ chính quyền, đoàn thể). 
b. Phần nội dung của đề cương: Được đánh số thứ tự.      lOMoAR cPSD| 22014077
* Phần đặt vấn đề (còn được gọi là cơ sở lựa chọn của đề tài nghiên cứu) gồm  một số nội dung sau: 
- Nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cấp thiết của đề tài. 
- Đánh giá đúng đắn và sát thực hiện trạng vấn đề được chọn để nghiên cứu: 
đã có tác giả nào nghiên cứu vấn đề tương tự, phạm vi và kết quả của họ? 
- Xác định tên đề tài và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu. 
- Xác lập giả thuyết khoa học và tính mới lạ của đề tài. 
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Ghi rõ theo trình tự các nhiệm vụ của đề tài, từ ngữ 
các nhiệm vụ phải chuẩn xác. 
* Phương pháp nghiên cứu: Dự kiến các phương pháp được sử dụng dựa theo 
các nhiệm vụ của đề tài. Chưa cần giải thích cách thu thập và xử lý thông tin.  
* Tổ chức nghiên cứu: bao gồm một số mục nhỏ dưới đây:  
- Thời gian nghiên cứu: ghi thời gian bắt đầu và kết thúc nghiên cứu đề tài. Sự 
phân chia các giai đoạn và nhiệm vụ của mỗi giai đoạn. 
- Đối tượng nghiên cứu: nói rõ đối tượng nghiên cứu là ai (độ tuổi, giới tính) 
trình độ tập luyện, số lượng cần thiết. 
- Địa điểm nghiên cứu: ghi cơ quan chủ trì đề tài, nơi tiến hành thử nghiệm 
hay thực nghiệm khoa học. 
- Trang thiết bị, dụng cụ nghiên cứu: bao gồm sân bãi tập, dụng cụ tập luyện, 
dụng cụ nghiên cứu (thước dây, đồng hồ, các loại máy móc khác), dự kiến số  lượng, chủng loại. 
- Dự trù kinh phí nghiên cứu: dự kiến kinh phí sử dụng cho các công việc phỏng 
vấn, in ấn tài liệu, công tác phí chuẩn bị bảo vệ luận văn, mua sắm phương  tiện nghiên cứu. 
Cuối đề cương nghiên cứu, ghi rõ ngày, tháng, năm biên soạn đề cương 
nghiên cứu khoa học. Phía dưới, bên phải ghi họ, tên, chữ ký nhà nghiên cứu. Bên 
trái phía đối diện ghi rõ họ và tên, học vị, học hàm khoa học, chữ ký của người  hướng dẫn đề tài. 
Đề cương nghiên cứu khoa học được sửa chữa cân thận, đánh máy 3 - 4 bản, 
có đủ chữ ký của nhà nghiên cứu và người hướng dẫn khoa học. Sau đó đề cương 
nghiên cứu phải được bảo vệ tại các Hội đồng khoa học để nhận được những đóng 
góp ý kiến. Các đề cương đã được thông qua, mới được phép triển khai nghiên cứu 
theo kế hoạch đã định.   
CHƯƠNG III GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU 
Giai đoạn triển khai nghiên cứu có vai trò quan trọng nhất trong tiến trình 
nghiên cứu, nhằm thu thập và xử lý những nguồn thông tin của những đề tài nghiên  cứu. 
Giai đoạn này được bắt đầu sau khi đề cương nghiên cứu khoa học chính 
thức được thông qua và kết thúc khi số liệu nghiên cứu được xử lý xong.      lOMoAR cPSD| 22014077
3.1. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu 
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu:  
Trong lĩnh vực thể dục thể thao, đối tượng nghiên cứu bao gồm: người tập 
thể dục thể thao; các sự vật và hiện tượng tập luyện; các con vật. 
a. Người tập thể dục thể thao. Là đối tượng nghiên cứu phổ biến hơn cả. Người tập 
thể dục thể thao có hai loại: Người tập vì mục đích sức khoẻ (học sinh, sinh viên, 
người cao tuổi, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân...). Người tập vì thành 
tích thể thao cao (vận động viên các môn thể thao khác nhau). 
b. Các sự vật và hiện tượng: Đối tượng nghiên cứu trong thể dục thể thao có thể là 
các vật thể như: dụng cụ luyện tập và thi đấu, sân bãi tập…. Thí dụ: Khi nghiên cứu 
sản xuất vợt cầu lông, thì vợt cầu lông là đối tượng nghiên cứu. 
Các hiện tượng tập luyện cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Khi xây dựng 
mô hình câu lạc bộ thể thao phường, xã, quận, huyện, ở đây đối tượng nghiên cứu 
không phải là người, là sự vật mà là một hình mẫu tổ chức quản lý tổ chức thể dục  thể thao. 
c. Các con vật: Đôi khi các con vật cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Nghiên cứu 
lựa chọn giống ngựa trong môn đua ngựa; nghiên cứu lựa chọn loại trâu tốt trong 
môn chọi trâu dân tộc của thị xã Đồ Sơn – Hải Phòng. Trong các trường hợp nêu 
trên, con ngựa và con trâu là đối tượng nghiên cứu. 
3.1.2.Các yêu cầu khi lựa chọn đối tượng nghiên cứu:  
Chọn đúng đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng, nhiều khi quyết 
định sự thành công của công việc nghiên cứu. 
- Đối tượng nghiên cứu phải cụ thể: Là ai, hay cái gì, con gì. Nếu là người tập luyện 
thì phải làm rõ về độ tuổi, giới tính, trình độ tập luyện và các loại trình độ khác (nếu  cần). 
- Chọn đối tượng người tập phải đủ về số lượng, số lượng đối tượng ít nhất phải ≥ 
30 người để đảm bảo độ tin cậy khi xử lý bằng toán học. Số lượng người tập càng 
đông, càng tốt, nhất là khi nghiên cứu trên người tập luyện vì mục đích sức khoẻ. 
Trong trường hợp này, số người tham gia mỗi độ tuổi hay mỗi trình độ, có thể lên 
tới hàng trăm, vài trăm người. 
- Đối tượng nghiên cứu phải phù hợp với nhiệm vụ của đề tài; phải đồng đều về trình 
độ tập luyện, lứa tuổi, giới tính, để bảo đảm tính đồng nhất, tính chất khách quan. 
3.2. Đào tạo người giúp đỡ 
Khi nghiên cứu triển khai đề tài, nhà khoa học có rất nhiều công việc cần làm, 
đặc biệt là khi thu nhận thông tin nhờ các phương pháp. Có nhiều thử nghiệm, quan 
sát thí nghiệm một mình không thể làm nổi, cần phải sử dụng một nhóm đông 
người (một nhóm) thí dụ: Khi quan sát kỹ thuật chạy ngắn, trong trường hợp này 
phải có sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp.  
Trong thực tế, có loại đề tài nhiều người cùng tham gia nghiên cứu trong một 
ban chủ nhiệm. Họ có sự phân công cụ thể công việc cho từng cá nhân. Đó là những 
đề tài do tập thể quản lý, mọi người đều chịu trách nhiệm ngang nhau, tự bồi dưỡng      lOMoAR cPSD| 22014077
nghiệp vụ nghiên cứu chuyên môn. Song, các đề tài nghiên cứu do các cá nhân đảm 
nhiệm (đề tài nghiên cứu giành học vị), nhà khoa học phải tổ chức đào tạo người  giúp đỡ. 
Người giúp đỡ cho nhà khoa học phải đảm bảo một số yêu cầu quan trọng  sau đây: 
- Phải nắm vững chuyên môn của từng công việc được phân công (thí dụ: khi đo chiều 
cao người, phải hiểu tư thế đứng đúng của người đo và các điểm chạm của cơ thể) 
và sử dụng thành thạo dụng cụ nghiên cứu. 
- Phải là những người ham mê với công tác nghiên cứu khoa học, vì sự say mê là cơ 
sở của tinh thần trách nhiệm. 
- Người giúp đỡ phải có đức tính thật thà, trung thực, khách quan với công việc thực 
hiện, làm đúng nhiệm vụ được phân công, không ngại khó khăn gian khổ. 
Số lượng người giúp đỡ nhiều hay ít, tuỳ thuộc vào công việc nghiên cứu cụ 
thể. Nhà nghiên cứu phải tổ chức, phân công trách nhiệm theo khả năng và điều 
kiện. Nếu cần bồi dưỡng kiến thức mới, phải tổ chức để họ được học tập, nhất là 
các thao tác thực hành để sử dụng dụng cụ nghiên cứu. 
3.3. Nghiên cứu về phương pháp 
Số lượng phương pháp nghiên cứu có rất nhiều, nhà nghiên cứu không thể 
nắm vững ngay một lúc. Trong giai đoạn nghiên cứu cơ bản, căn cứ vào các phương 
pháp dự kiến sử dụng, cần tìm kiếm các sách chuyên môn để đọc trước, hiểu rõ bản 
chất của từng phương pháp, cách sử dụng chúng để thu thập thông tin. Nếu 
phương pháp nghiên cứu có liên quan đến việc sử dụng phương tiện như: máy móc, 
dụng cụ, nhà nghiên cứu phải làm quen, học tập, để sử dụng thành thạo. 
Trước khi làm thí nghiệm, nhà nghiên cứu nên làm thử một số lần rồi mới lấy  số liệu chính thức. 
3.4. Chuẩn bị các loại mẫu biểu ghi chép 
Để thu thập thông tin nghiên cứu, cần chuẩn bị chu đáo các mẫu biểu nghiên 
cứu như: phiếu trích dẫn, phiếu tóm tắt (trong phương pháp đọc và phân tích tài 
liệu tham khảo); phiếu phỏng vấn; điều tra, trưng cầu ý kiến (trong phương pháp 
phỏng vấn - toạ đàm); biên bản quan sát (phương pháp quan sát sư phạm); biên 
bản thử nghiệm, điều tra (phương pháp dùng bài thử); biên bản thực nghiệm sư 
phạm (phương pháp thực nghiệm sư phạm); biên bản thi đấu và (phương pháp  quan sát sư phạm).  
Do nội dung thông tin thu được phong phú, nhiều hình loại, nên các mẫu biểu 
ghi chép cũng không giống nhau. Ngay trong cùng một loại mẫu biểu, hình thức và 
nội dung cũng khác nhau. Thí dụ: Cùng sử dụng phương pháp phỏng vấn, song hai 
đề tài nghiên cứu khác nhau, số lượng, nội dung câu hỏi, cách trả lời, ký hiệu sử 
dụng cũng khác nhau và hình thức của phiếu hỏi cũng khác nhau. Nhà nghiên cứu 
phải căn cứ vào vấn đề nghiên cứu, cách thu nạp thông tin, mà xây dựng mẫu biểu 
thích hợp; sao cho thu thập thông tin đầy đủ, ghi chép nhanh chóng, xử lý thuận    
