






Preview text:
lOMoAR cPSD| 60884712
Địa hình tương đối bằng phẳng với hệ thống sông ngòi dày đặc đã tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển hệ thống giao thông thuỷ bộ và cơ sở hạ tầng của vùng.
Hệ thống sông ngòi tương đối phát triển. Tuy nhiên về mùa mưa lưu lượng dòng chảy quá
lớn có thể gây ra lũ lụt, nhất là ở các vùng cửa sông khi nước lũ và triều lên gặp nhau gây ra
hiện tượng dồn ứ nước trên sông. Về mùa khô (tháng 10 đến tháng 4 năm sau), dòng nước
trên sông chỉ còn 20-30% lượng nước cả năm gây ra hiện tượng thiếu nước. Bởi vậy, để ổn
định việc phát triển sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp thì phải xây dựng hệ thống thuỷ nông
đảm bảo chủ động tưới tiêu và phải xây dựng hệ thống đê điều chống lũ và ngăn mặn.
*Duyên hải Đông Bắc: Địa hình:
Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá vôi hoặc núi đất. Phía Đông thấp
hơn có nhiều dãy núi hình vòng cung.
Phía Tây Bắc cao hơn, với các khối núi đá và dãy núi đá cao. Khí hậu:
Khí hậu của vùng ĐBSH so với các nơi khác ấm áp hơn với nhiệt độ trung bình hàng năm từ
230C - 240C, lượng mưa trung bình từ 1 - 1 mm và mùa mưa thường từ tháng 5 đến tháng
10. Các tháng cuối năm và đầu năm thời tiết đẹp, trời ấm áp, khô ráo, dễ chịu Ngay trong
vùng cũng có những sự khác biệt về khí hậu giữa vùng đồng bằng và vùng duyên hải. So với
vùng đồng bằng, vùng duyên hải có lượng mưa lớn hơn và thường có nhiều cơn giông nên
mưa nặng hạt hơn. Nhiệt độ ở vùng duyên hải thường có biên độ dao động cao hơn đồng
bằng khoảng 1 - 2oC. Vùng ĐBSH là một trong những lãnh thổ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất
của gió mùa Đông Bắc ở nước ta, trung bình mỗi năm có 20 - 25 đợt gió mùa Đông Bắc. Đây
cũng là khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão, tập trung từ tháng 6 - 9,
Đặc trưng khí hậu của vùng là mùa đông từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa này cũng là
mùa khô. Mùa xuân có tiết mưa phùn
•Tài nguyên khoáng sản:
Đáng kể nhất là tài nguyên đất sét, đặc biệt là đất sét trắng ở Hải Dương, phục vụ cho phát
triển sản xuất các sản phẩm sành sứ. Tài nguyên đá vôi ở Thuỷ Nguyên - Hải Phòng đến Kim
Môn - Hải Dương, dải đá vôi từ Hà Tây đến Ninh Bình chiếm 5,4% trữ lượng đá vôi cả nước,
phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng. Tài nguyên than nâu ở độ sâu
200m đến 2 có trữ lượng hàng chục tỷ tấn đứng hàng đầu cả nước, hiện chưa có điều kiện
khai thác. Ngoài ra vùng còn có tiềm năng về khí đốt. Nhìn chung khoáng sản của vùng không
nhiều chủng loại và có trữ lượng vừa và nhỏ nên việc phát triển công nghiệp phụ thuộc nhiều
vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Tài nguyên biển:
Đồng bằng sông Hồng có một vùng biển lớn, với bờ biển kéo dài từ Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
đến Kim Sơn - Ninh Bình. Bờ biển có bãi triều rộng và phù sa dày là cơ sở nuôi trồng thuỷ hải
sản, nuôi rong câu và chăn vịt ven bờ.
Ngoài ra một số bãi biển, đảo có thể phát triển thành khu du lịch như bãi biển Đồ Sơn, huyện
đảo Cát Bà,... Tài nguyên đất đai: lOMoAR cPSD| 60884712
Đất đai nông nghiệp là nguồn tài nguyên cơ bản của vùng do phù sa của hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình bồi đắp. Hiện có trên 103 triệu ha đất đã được sử dụng, chiếm 82,48 %
diện tích đất tự nhiên của vùng và chiếm 5,5% diện tích đất sử dụng của cả nước. Như vậy
mức sử dụng đất của vùng cao nhất so với các vùng trong cả nước.
Đất đai của vùng rất thích hợp cho thâm canh lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp
ngắn ngày. Vùng có diện tích trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước với diện tích đạt 1242,9 nghìn ha.
Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng vẫn còn khoảng 137 nghìn ha. Quá trình mở rộng
diện tích gắn liền với quá trình chinh phục biển thông qua sự bồi tụ và thực hiện các biện
pháp quai đê lấn biển theo phương thức “lúa lấn cói, cói lấn sú vẹt, sú vẹt lấn biển”.
cũng khá phong phú. Trong tài nguyên nước ngầm, các mỏ nước khoáng có tác dụng sinh lý
tốt đối với cơ thể con người do có chứa những thành phần đặc biệt có hàm lượng cao và
nhiệt độ thích hợp là tài nguyên du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ, sắc đẹp.v.v..ỏ nước
khoáng Kênh Gà (Ninh Bình), Quang Hanh (Quảng Ninh), Tiền Hải (Thái Bình)...
2.Đặc điểm tài nguyên du lịch của vùng du lịch đồng bằng sông hồng Tài
nguyên du lịch tự nhiên: Tiềm năng du lịch:
Vùng du lịch đồng bằng sông Hồng có tiềm năng rất phong phú và đa dạng và có sức hấp
dẫn rất đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Có khả năng đáp ứng các yêu cầu của
nhiều loại hình du lịch với các loại đối tượng khác nhau và có khả năng tiếp nhận số lượng
lớn khách du lịch. Trong số các di tích Việt Nam thì vùng này chiếm hơn 90% về số lượng.
Số lượng các danh hiệu thế giới do UNESCO xếp hạng cũng đứng đầu với quần thể danh
thắng Tràng An, vịnh Hạ Long, Hoàng thành Thăng Long, Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long,
ca trù, dân ca quan họ, khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển châu
thổ sông Hồng... *Tài nguyên du lịch biển:
Vùng ĐBSH có đường bờ biển tương đối dài với nhiều bãi biển đẹp có thể khai thác cho hoạt
động du lịch như bãi biển Trà Cổ, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Cò
1,2,3, Đồ Sơn (Hải Phòng), Đồng Châu (Thái Bình), Thịnh Long, Giao Lâm (Nam Định).. nhiên
các bãi biển có giá trị tắm biển nằm ở khu vực phía Bắc và các đảo như Trà Cổ, Quan Lạn.
Vịnh Hạ Long có giá trị cảnh quan đặc biệt, nhưng giá trị tắm biển không cao. Các bãi biển
như Đồ Sơn, Quất Lâm, Thịnh Long..ước đục nên cũng ít có giá trị đối với du lịch tắm biển.
Hệ thống đảo ven bờ là những tài nguyên du lịch giá trị.
Các đảo Cô Tô, Ngọc Vừng, Quan Lạn (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)... có
những bãi tắm đẹp, môi trường trong lành là tài nguyên du lịch tắm biển, thể thao và khám
phá. Các đặc sản từ biển gồm những loại thực phẩm cao cấp như bào ngư, tôm hùm,
mực.v...ở khu vực này rất sẵn và rẻ. Bên cạnh đó, các sản phẩm khác từ biển như hàng hàng
mỹ nghệ, đồ lưu niệm cũng rất có giá trị đối với du lịch.
*Tài nguyên du lịch hang động:
Trong số rất nhiều hang động đã được phát hiện ở vùng ĐBSH có rất nhiều hang đẹp, rộng
có khả năng khai thác phục vụ mục đích du lịch tham quan, nghiên cứu như Tràng an - Tam
Cốc - Bích Động, Địch Lộng (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Nội); Bồ Nâu, Sửng Sốt (Quảng Ninh).v... lOMoAR cPSD| 60884712
3.1. Tài nguyên du lịch thuộc sông, hồ, suối nước nóng, nước khoáng: Sông, hồ, suối nước
nóng, nước khoáng là những tài nguyên du lịch rất phong phú ở vùng ĐBSH. Những tài
nguyên này được khai thác phục vụ mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thể
dục thể thao và chữa bệnh. Điển hình có hồ Đại Lải, Đầm Vạc (Vĩnh Phúc); Đồng Mô, hồ Tây,
Quan Sơn, Suối Hai (Hà Nội); Tam Chúc (Hà Nam) v...; các suối nước nóng Kênh Gà (Ninh
Bình), Quang Hanh (Quảng Ninh), Tiền Hải (Thái Bình) và các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình.
Tài nguyên du lịch rừng:
Vùng ĐBSH có 32 khu bảo tồn chiếm xấp xỉ 29%, trong đó có 6 vườn quốc gia; 14 khu dự trữ
động thực vật và 12 khu rừng văn hóa - môi trường. Đặc biệt trên lãnh thổ có một số khu bảo
tồn đất ngập nước có giá trị du lịch cao như Xuân Thủy (Nam Định) và Vân Long (Ninh Bình)
trong đó Xuân Thủy là 1 trong 4 khu Ramsar của cả nước, 2 khu dữ trữ sinh quyển là đảo Cát
Bà (Hải Phòng) và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (gồm vùng ven biển cửa sông Đáy
thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình và Nghĩa Hưng, Nam Định; vùng ven biển cửa cửa Ba Lạt
thuộc huyện Giao Thủy, Nam Định và Tiền Hải, Thái Bình và vùng ven biển cửa cửa Thái Bình
thuộc huyện Thái Thụy, Thái Bình).
Các vườn quốc gia Bái Tử Long (Quảng Ninh); Cát Bà (Hải Phòng); Cúc Phương (Ninh Bình);
Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Ba Vì (Hà Nội) và Xuân Thủy (Nam Định) còn bảo tồn được nhiều diện
tích rừng nguyên sinh với nhiều loại thực, động vật nhiệt đới điển hình. Đây là nơi lưu giữ tốt
nhất nguồn gen động thực vật, bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh học vì thế có ý nghĩa rất lớn
về khoa học, về kinh tế, giáo dục và du lịch.
Các khu dự trữ động, thực vật và đặc biệt là các khu rừng văn hóa - lịch sử môi trường như
Côn Sơn, Hương Tích, Chùa Thầy.v. đều nằm trong các khu vực được quy hoạch để phục vụ
mục đích du lịch cần sớm có sự kết hợp để đạt hiệu quả cao trong việc bảo vệ, khai thác sử
dụng. 2 Tài nguyên du lịch nhân văn:
Là cái nôi của văn minh sông Hồng vì vậy vùng ĐBSH có hệ thống tài nguyên du lịch nhân
văn nổi bật thể hiện qua các Di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ; Lễ hội
văn hóa dân gian; Ca múa nhạc; Ẩm thực; Làng nghề thủ công truyền thống, làng Việt cổ;
Các bảo tàng và cơ sở văn hóa nghệ thuật; Yếu tố con người và bản sắc văn hóa dân tộc đều
gắn liền với các giá trị của văn minh sông Hồng. Đây là cơ sở để phát triển các loại hình và
sản phẩm du lịch du lịch đặc trưng mang thương hiệu vùng và có sức hấp dẫn khách du lịch cao.
Các di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ:
Vùng ĐBSH là nôi của nền văn minh sông Hồng nên tập trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa,
kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ. gắn với các giá trị văn minh sông Hồng. Toàn vùng có 2 di tích
cấp quốc gia so với cả nước có 3 di tích trong đó có 12 di tích cấp quốc gia đặc biệt với 2 Di
sản văn hóa vật thể .Đây là hệ thống tài nguyên đặc biệt giá trị phục vụ du lịch của vùng.
Hà Nội, Thủ đô nghìn năm văn hiến, trung tâm của vùng với hơn 1 di tích văn hóa-lịch sử cấp
quốc gia có nguồn tài nguyên nổi bật. Những di tích nổi tiếng trong và ngoài nước như
Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Cổ Loa, chùa Trấn Quốc, chùa Một
Cột, phủ Tây Hồ, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, phố cổ Hà Nội.v... kết hợp văn hóa ẩm thức,
văn hóa phi vật thể luôn thu hút khách du lịch. Các di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ
thuật khác của vùng như cố đô Hoa Lư, nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), đền Đô, chùa
Phật Tích, chùa Bút Tháp... (Bắc Ninh), Côn Sơn-Kiếp
Bạc (Hải Dương), di tích chiến thắng Bạch Đằng (Quảng Ninh), đền Trần, tháp Phổ Minh (Nam
Định), đền thờ các vua Trần, chùa Keo (Thái Bình).v... *Làng nghề thủ công truyền thống, làng
Việt cổ: Nghề thủ công truyền thống ở vùng ĐBSH&DHĐB có lịch sử phát triển từ lâu
đời,tiêu biểu là vùng Hà Nội xưa. Nhiều phường nghề, làng nghề nổi tiếng từ xưa của vùngác
làng nghề tiêu biêu có giá trị khai thác du lịch như dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng lOMoAR cPSD| 60884712
(Hà Nội), mộc Bích Chu, rèn Lý Nhân (Vĩnh Phúc), mộc Tiên Sơn, đúc đồng Đại Bái, tranh
Đông Hồ (Bắc Ninh), dệt cói Kim Sơn (Ninh Bình), tương Bần (Hưng Yên), gốm Chu Đậu (Hải
Dương), đúc đồng La Xuyên (Nam Định), chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình) và một số làng
chài ở Hải Phòng, Quảng Ninh... Có thể nói các sản phẩm thủ công truyền thống ở vùng
ĐBSH là một loại hình sản phẩm du lịch độc đáo cần được đầu tư nghiên cứu và phát triển.
Bên cạnh làng nghề truyền thống, các làng Việt cổ là sự thể hiện sinh động bản sắc văn hóa
của nền văn minh lúa nước sông Hồng.
*Lễ hội văn hóa dân gian: -
Vùng ĐBSH là miền đất của lễ hội. Các lễ hội ở vùng gắn liền với nền văn minh lúa
nước sông Hồng nên mang tính khái quát cao, phản ánh sinh động đời sống tâm linh, tư
tưởng triết học và bản sắc văn hóa Việt Nam và quốc tế;Đồng bằng sông Hồng là quê hương
của hội làng, hội vùng, hội của cả nước; là cái nôi của lễ hội nông nghiệp và lễ hội mang nội dung lịch sử -
văn hóa ở tầm quốc gia và quốc tế ;. Cho nên dù có những khác biệt nhất định, song
các loại hình lễ hội Bắc Bộ ít nhiều đều mang tính đại diện cho cả nước. Đây chính là một
trong những điểm chủ yếu hấp dẫn du khách đến với vùng ĐBSH. Tuy nhiên, dưới góc độ du
lịch cần thiết phải nghiên cứu chọn lọc, có kế hoạch khôi phục hay phát triển một số hình thức
lễ hội có giá trị phục vụ du lịch. Trong số các lễ hội có hội Gióng được UNESCO công nhận
Di sản văn hóa phi vật thể là tài nguyên du lịch tầm vóc quốc tế, ngoài ra còn các lễ hội nổi
tiếng như chùa Hương (Hà Nội), Yên Tử (Quảng Ninh), hội Lim (Bắc Ninh),hội Bạch Hạc,hội
Xoan, hội chọi trâu Phù Ninh (Phú Thọ).v.v.. hút khách du lịch trong và ngoài nước. +Ca múa
nhạc: Đối với phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB, ca múa nhạc dân tộc cũng là một
loại tài nguyên du lịch giá trị. Hầu hết các loại dân tại vùng ĐBSH như ngâm thơ, hát ru, hát
vè, trống quân, hát đám, quan họ... đều
Các cơ sở văn hóa nghệ thuật: Thủ đô Hà Nội vốn là nơi có truyền thống trong các hoạt động
văn hóa nghệ thuật. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế, những hoạt động văn hóa nghệ
thuật đang được chú ý phát triển. Nhiều cơ sở văn hóa được phục hồi, nâng cấp hoặc xây
mới như nhà hát Thành phố Hà Nội cổ kính đã 100 năm tuổi, nhà hát Tuồng, Chèo Trung
ương, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Múa rối nước. Hầu như địa phương nào cũng có các đoàn
nghệ thuật riêng. Những hoạt động nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dân tộc đã thực sự có
sức hấp dẫn và thu hút du khách.
Yếu tố con người và bản sắc văn hóa dân tộc: Con người Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH
nói riêng vốn mang đậm nét những cư dân nông nghiệp thuần phác, chân thật và hiếu khách.
Trong quá trình lịch sử lâu dài, trước một thiên nhiên hào phóng nhưng cũng khắc nghiệt con
người đã phải cố kết lại với nhau để bám trụ và tồn tại. Do vậy khó có nơi nào có thể thấy rõ
hơn tính cộng đồng vững chắc như ở người Việt.. Các tư tưởng chung được thể hiện trong
một loạt quan niệm cơ bản như: uống nước nhớ nguồn; đất lề quê thói; tôn sư trọng đạo; tiên
học lễ, hậu học văn; đói cho sạch, rách cho thơm... Chính tất cả điều đó đã tạo nên bản sắc
văn hóa đặc trưng của người Việt, là điểm hấp dẫn du khách.
2 Đánh giá chung thực trạng khai thác:
-Hiện trạng khai thác: Sự phát triển du lịch của vùng ĐBSH trong thời gian qua ngoài các yếu
tố về cơ chế chính sách, về sự cải thiện các điều kiện hạ tầng cơ sở, cơ sở vật chất kỹ thuật
và sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân lao động ngành, luôn gắn liền với việc khai
thác tiềm năng tài nguyên du lịch hết sức đa dạng và phong phú của vùng. Ngoài việc khai
thác tài nguyên tại các điểm du lịch truyền thống như Hạ Long, Đồ Sơn, Ba Vì, Tam Đảo...
nhiều tiềm năng du lịch của vùng ĐBSH đang được tiếp tục mở rộng khai thác như vườn quốc
gia Cát Bà, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc Bích Động, cụm di tích thắng cảnh Tràng An, hồ Đồng lOMoAR cPSD| 60884712
Mô, Ao Vua, Ba Vì - Suối Hai, hồ Đại Lải, hồ Tam Chúc.v... Có thể nói, trong những năm gần
đây tiềm năng tài nguyên du lịch của vùng đang thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà
du lịch mà còn của các nhà hoạch định kinh tế nói chung. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển
của vùng ĐBSH , góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế - xã
hội vùng. Bên cạnh các hoạt động khai thác tích cực, nhiều tài nguyên du lịch có giá trị của
vùng ĐBSH, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan vẫn chưa được đầu tư khai thác
tương xứng với tiềm năng. Trước hết đó là vịnh Hạ Long, với vị trí là di sản thiên nhiên; lớn
nhất ở khu vực, nơi có nhiều thắng cảnh đặc sắc, tài nguyên sinh vật phong phú song các
hoạt động du lịch ở khu vực này còn tương đối đơn điệu, chưa thực sự thu hút được sự quan
tâm của các tập đoàn du lịch lớn tới đầu tư.
- Ngoài ra, nhiều điểm tài nguyên có giá trị khác của vùng ĐBSH như hệ thống các di tích lịch
sử - văn hóa đời Trần ở Nam Định, di tích Cổ Loa, hệ thống các làng Việt cổ, các làng nghề,
v... vẫn đang còn ở dạng tiềm năng. Đây là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu để
sớm làm thức dậy những tiềm năng hết sức to lớn của vùng ĐBSH, nhanh chóng đưa vào
khai thác, gúp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của vùng và của các địa phương.
Hiện nay ngành du lịch của cả nước nói chung và vùng ĐBSH nói riêng đang đứng trước khó
khăn hết sức lớn là sự thống nhất giữa hai mặt: khai thác và bảo tồn phát triển tài nguyên du
lịch, đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay khi trình độ dân trí còn thấp, khi sự phát triển kinh tế -
xã hội chưa cao. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc khai thác tài nguyên quá mức, thiếu
quy hoạch làm suy kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường và dẫn đến sự giảm tính hấp dẫn
ở một số điểm du lịch như Đồ Sơn, Tam Đảo. Nhiều di tích lịch sử - văn hóa có giá trị bị xâm
phạm, xuống cấp nghiêm trọng như đền Hai Bà Trưng, Cổ Loa (Hà Nội), đền Đinh, đền Lê
(Hoa Lư Ninh Bình)... Sự khai thác quá tải ở một số điểm du lịch văn hóa cũng ảnh hưởng
đến việc bảo tồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường sinh thái nghiêm trọng như Chùa
Hương (Hà Nội). Ngoài ra, việc thiếu quan tâm của các ngành, các cấp khiến nhiều di tích lịch
sử - văn hóa bị xuống cấp, việc tự ý tu sửa làm các di tích văn hóa mất đi giá trị vốn có của
mình như di tích làng cổ Đường Lâm, chùa Trăm gian (Hà Nội). Các mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình khai thác tài nguyên: Trong quá trình khai thác tài nguyên du lịch hiện nay trên địa
bàn vùng đã nảy sinh những vấn đề phức tạp mâu thuẫn nhau giữa các ngành:
Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Lâm nghiệp trong việc khai thác các tài nguyên sinh
vật, đặc biệt tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Công nghiệp trong khai thác tài nguyên khoáng
sản, vật liệu xây dựng. Việc khai thác đá tại các khu vực núi karst có hang động (Ninh Bình,
Hà Nam, Hạ Long...) hoặc có cảnh quan đẹp (hệ thống đảo ven bờ Hạ Long) khai thác than
tại Hòn Gai, khai thác san hô tại các đảo ven bờ, vịnh Hạ Long... vừa huỷ hoại tài nguyên du
lịch, vừa ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, làm giảm đi đáng kể sức hấp dẫn của những
khu vực có tiềm năng du lịch lớn, thậm chí rất lớn như vịnh Hạ Long.
Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Thủy lợi thể hiện trong việc khai thác các hồ chứa
nước lớn. Phần lớn các hồ nước trên địa bàn vùng
Hệ thống cảnh quan vùng núi: các khu nghỉ dưỡng Tam Đảo (Vĩnh Yên). Các khu núi cao:
Ba Vì, Tam Tam Điệp và Yên Tử.
Các khu hang động núi đá Krasto: cụm Quảng Ninh (vịnh Hạ Long), cụm Ninh Bình (động Vân
Trình, động Địch Lộng, động Hoa Lư, Bích Động...)
Đặc biệt, khu vực này có rất nhiều di sản thế giới đã được UNESCO công nhận như: vịnh Hạ
Long (Quảng Ninh), khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, bia đá các khoa
thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội. Ngoài ra, vịnh Hạ
Long còn được Tổ chức New7Wonders công nhận là Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới,
thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. lOMoAR cPSD| 60884712
Du lịch tôn giáo hệ thống di tích lịch sử, văn hóa với hàng nghìn đình, đền, chùa, miếu mạo
cùng kho tàng kiến trúc, mỹ thuật độc đáo như chùa Một Cột, chùa Tây Phương (Hà Nội),
chùa Bút Tháp, đền Đô (Bắc Ninh), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam Định), chùa Bái
Đính, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình)... cũng khiến bao du khách phải trầm trồ thán phục. Du lịch
văn hóa: Đây cũng là quê hương của nhiều lễ hội truyền thống điển hình như lễ hội đền Trần,
hội Gióng, hội Lim, lễ hội chùa Hương... cùng nhiều loại hình nghệ thuật đặc sắc như chèo,
quan họ, hát văn, tuồng, múa rối nước... Ca trù và Quan họ Bắc Ninh Các di tích giữ nước, dựng nước:
Cụm Hà Nội: Hoàng thành Thăng Long – Cổ Loa – hồ Gươm - chùa Trấn Quốc - Khu di tích Phủ Chủ tịch.
Cụm Ninh Bình: cố đô Hoa Lư – chùa Bái Đính - chùa Địch Lộng - phòng tuyến Tam Điệp - đền Trần.
Cụm Quảng Ninh – Hải Phòng: Vân Đồn, Yên Tử, Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Sông Bạch Đằng
Du khảo đồng quê: văn minh lúa nước, văn hóa Đông Sơn. Các địa bàn có nhiều ảnh hưởng
văn hóa các dân tộc Mường như: Ba Vì, Chương Mỹ, Nho Quan. 4.Đánh giá chung:
4 Đánh giá chung về điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông:
Hệ thống giao thông Vùng ĐBSH có hệ thống giao thông phát triển thuộc diện nhất nước và
hội tụ đầy đủ các loại hình giao thông đường bộ, đường thủy (sông và biển), đường sắt và
đường không, thuận lợi cho việc liên kết phát triển du lịch.
+Đường bộ: Vùng ĐBSH có Hà Nội là thủ đô của cả nước, Hải Phòng là một trong năm Trung
tâm quốc gia và nhiều đô thị lớn nên mạng lưới giao thông đường bộ phát triển gồm các
đường quốc lộ và đường tỉnh. Các tuyến quốc lộ đều chủ yếu được bắt đầu từ thủ đô Hà Nội
nối với các trung tâm hành chính của các tỉnh trong vùng. Ngoài ra, hệ thống đường tỉnh, đường huyện
*Các tuyến quốc lộ quan trọng thuộc vùng ĐBSH bao gồm Quốc lộ 1A (AH 1): Con đường
huyết mạch nối Hà Nội với các tỉnh Bắc Ninh, về phía Bắc và nối Hà Nội với các tỉnh Hà Nam,
Ninh Bình, và các tỉnh miền Trung, miền Nam. Quốc lộ 2 (AH 14): Nối Hà Nội với tỉnh Vĩnh
Phúc và đi các tỉnh phía Bắc .Quốc lộ 5A (AH 14): Nối Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
Đường sắt: Vùng ĐBSH hội tụ của nhiều tuyến đường sắt với các nhánh đi và về qua thủ đô
Hà Nội. Giao thông đường sắt là phương tiện vận chuyển quan trọng, một trong những điều
kiện để liên kết vùng và liên kết quốc tế phát triển du lịch. Đặc biệt là tuyến đường sắt xuyên
Á, với định hướng phát triển mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi để kết nối du lịch vùng ĐBSH với
các nước trong khối ASEAN và Trung Quốc.
Đường không: Hiện nay ở vùng ĐBSH có các sân bay sau: o Sân bay quốc tế Nội Bài
(Hà Nội) cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 30 km đủ khả năng phục vụ 25 triệu hành
khách mỗi năm vào năm 2020
o Sân bay Gia Lâm cách trung tâm Hà Nội khoảng 4 km,
Sân bay Cát Bi (Hải Phòng) đã được phép tổ chức các chuyến bay quốc tế nối Hải Phòng với
Ma Cao (Trung Quốc) Các tuyến bay trong nước và quốc tế được mở rộng, các chuyến bay
được tăng cường đón 2 triệu hành khách một năm
Đường thủy: Vùng ĐBSH hai loại hình giao thông thủy là giao thông đường sông và giao thông đường biển.
Cùng với sự gia tăng lượng khách .Hệ thống các cơ sở lưu trú ở vùng phát triển với tốc độ
nhanh. Năm Du lịch Quốc gia 2018 - Hạ Long - Quảng Ninh có chủ đề “Hạ Long - Di sản, Kỳ
quan - Điểm đến thân thiện” sẽ có hơn 100 sự kiện diễn ra. Nhìn chung các cơ sở lưu trú du lOMoAR cPSD| 60884712
lịch trong vùng đạt tiêu chuẩn xếp hạng và tiêu chuẩn chất lượng cao còn ít, chưa đáp ứng
được nhu cầu của khách du lịch.Vùng ĐBSH rất coi trọng cách thức ăn uống và đã chăm chút
nâng lên đến tầm nghệ thuật. Ngoài các món ăn ở hàng vương giả cầu kỳ, tinh tế còn có hàng
trăm món ăn dân dã hấp dẫn lại rẻ. Có những món ăn dân gian đã nổi tiếng trong và ngoài
nước như chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm hồ Tây, cốm làng Vòng, bánh cuốn
chả Phủ Lý, bánh phu thê Đình Bảng, cỗ chay Đào Xá, bánh nhãn Hải Hậu, bánh cáy làng
Nguyễn, canh cá Quỳnh Côi.v...
Đồ uống tuy không phong phú song cũng nhiều loại độc đáo. Rượu dân gian Bắc Bộ nổi tiếng
với rượu làng Vân (Bắc Ninh). Nghệ thuật pha trà, có thể sánh ngang với nghệ thuật pha trà
cầu kỳ của Trung Hoa, Nhật Bản là cảm hứng của nhiều du khách.
Hệ thống cơ sở dịch vụ ăn uống ở trong vùng là tương đối tốt, đặc biệt ở khu vực Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh. Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách, các khu du lịch đều có cơ
sở ăn uống phục vụ nhiều món ăn khác nhau. Bên cạnh đó là hệ thống các quán ăn tư nhân
tập trung ở hầu hết các đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn phục vụ các món ăn đa dạng, hấp
dẫn. Ẩm thực vùng là một đặc trưng, hấp dẫn và được thể hiện ở hệ thống các nhà hàng ăn uống.
Tuy nhiên, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đồ uống, chất lượng phục vụ của đội ngũ tiếp
viên và vấn đề giá cả còn bất cập. Một số cơ sở (đặc biệt là các cơ sở tư nhân) còn buông
lỏng việc quản lý, kiểm tra vệ sinh thực phẩm, đồ uống, giá cả còn tùy tiện, chất lượng lao
động còn kém ảnh hưởng đến tâm lý khách du lịch.
Vùng ĐBSH có Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng là các trung tâm quốc gia và nhiều đô thị lớn, nhiều
cơ sở kinh tế.v.v..ì vậy hệ thống cơ sở vui chơi giải trí, thể thao khá phát triển trong đó nổi bật
như Casino Đồ Sơn, các sân Golf Đồng Mô, Sóc Sơn, Tam Đảo, Hải Dương, Trà Cổ, quần
thể khu vui chơi giải trí ở khu du lịch Đảo Tuần Châu và nhiều cơ sở vui chơi cao cấp khác.
Tuy nhiên hệ thống này chủ yếu phục vụ người nước ngoài hoặc những người có thu nhập cao.
-Hệ thống nhà hát, rạp chiếp phim, rạp xiếc, công viên gắn với các đô thị lớn cũng khá phát
triển, trong đó Nhà hát lớn ở Hà Nội, Hải Phòng có sức thu hút khách cao. Tuy nhiên các hình
thức vui chơi giải trí khác mang tính chất quần chúng, hoặc vui chơi thể thao mạo hiểm còn
thiếu. Đây là điểm yếu chung của du lịch Việt Nam.