
















Preview text:
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
1. NHÂN CÁCH LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÂN CÁCH. LIÊN HỆ THỰC TẾ BẢN THÂN.
⇨ Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Ví dụ về nhân cách trong tâm lý học bao gồm:
– Một người có tính cách hướng ngoại và thích giao tiếp với người khác. Họ thường có sự tự tin, năng
lượng và thường được coi là hướng đến những người khác.
– Một người khác có tính cách hướng nội và thích ở một mình. Họ thường là những người suy nghĩ sâu
sắc, nhạy cảm và thích thú với việc tìm hiểu bản thân.
+ Trước hết, nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ bao hàm những
đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên toàn bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị
và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
+ Nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một cấu tạo tâm lý mới. Nói
cách khác, nhân cách là tổng hợp những đặc điểm tâm lý đặc trưng với một cơ cấu xác định. Do đó,
không phải con người sinh ra là đã có nhân cách. Nhân cách được hình thành dần dần trong quá trình con
người tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
+ Nhân cách quy định bản sắc, cái riêng của cá nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái
phổ biến của cộng đồng mà cá nhân đó là đại diện. Ví dụ, mỗi sinh viên Việt Nam đề là nhân cách duy
nhất với tất cả những đặc điểm riêng biệt của mình, song đều có cái chung của con người Việt Nam là
tình yêu xóm làng, quê hương, đất nước mình.
+ Nhân cách biểu hiện trên 3 cấp độ : cấp độ bên trong cá nhân; cấp độ liên cá nhân; cấp độ siêu cá nhân.
(1) Ở cấp độ thứ nhất, nhân cách được thể hiện dưới dạng cá nhân, ở tính không đồng nhất, ở sự khác
biệt với mọi người, với cái chung. Chính vì vậy, giá trị nhân cách ở cấp độ này là tính tích cực của nó
trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những hạn chế của bản thân. Có thể nói phân tích
nhân cách ở cấp độ bên trong cá nhân là xem xét nhân cách từ bên trong bản thân như một đại diện của toàn xã hội.
(2) Ở cấp độ thứ hai, nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ, liên hệ với nhân cách khác. Nhân
cách nằm trong mối quan hệ liên nhân cách, tạo nên đặc trưng của mỗi nhân cách. Giá trị của nhân cách
ở cấp độ này được thể hiện trong các hành vi ứng xử xã hội của chủ thể. Như vậy, phân tích nhân cách ở
cấp độ liên cá nhân là đã tách ra thành các mức độ trong nhóm của nó (trong giai cấp, trong nhóm, trong tập thể).
(3) Ở cấp độ thứ ba, cũng là cấp độ cao nhất, cấp độ siêu nhân cách, nhân cách được xem xét như là một
chủ thể đang tích cực hoạt động và gây ra những biến đổi ở người khác. Ở cấp độ này, giá trị nhân cách
được xác định ở những hành động và hoạt động của nhân cách này có ảnh hưởng như thế nào đến những nhân cách khác.
❖ Các đặc điểm cơ bản của nhân cách:
Tính thống nhất của nhân cách
– Nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm lý xã
hội, thống nhất giữa phẩm chấy và năng lực, giữa đức và tài.
– Sự liên kết những thành phần của nhân cách như một tổng thể hữu cơ và chặt chẽ, chúng luôn tương
tác và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
– Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ba cấp độ : cấp độ bên trong cá nhân,
cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Đó chính là sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động, giao tiếp của nhân cách.
- Ca dao, tục ngữ: “Nói đi đôi với làm”; “Học đi đôi với hành” thể hiện được sự thống nhất giữa ý thức với hoạt động.
Ví dụ: Một người có tính quyết đoán kết hợp với lòng nhân ái sẽ hành động khác với một người có tính
quyết đoán nhưng độc ác.
Người có tính quyết đoán và longd nhân ái thì họ sẽ là những người khoan dung độ lượng. Sẵn sàng giúp
đỡ mọi người mà không cần danh lợi. Và cũng là thuộc tính quyết đoán nhưng kết hợp với đặc điểm tâm
lý độc ác thì nhân cách của họ sẽ là một người vô cùng nguy hiểm. Có thể họ sẽ là một người vô cùng
tàn bạo và mặc cho người khác như thế nào thì họ vẫn làm theo những suy nghĩ của mình.
Kết luận: Vì vậy, khi xem xét đánh giá một nét nào đó của nhân cách, phải xét nó trong mối quan hệ
với các thuộc tính khác của nhân cách và toàn bộ nhân cách. Tóm lại tính thống nhất của nhân cách cho
phép chúng ta luôn nhìn nhận, đánh giá và giáo dục nhân cách hoàn chỉnh, toàn diện, không biệt lập và tách rời.
Tính ổn định của nhân cách
– Những thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định và bền vững. Nhân cách là tổ
hợp những thuộc tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào nói lên bản chất xã
hội của cá nhân đó. Vì thế, các đặc điểm nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách khó hình thành và cũng khó mất đi.
– Trong thực tế, từng nét nhân cách (cá tính, phẩm chất) có thể thay đổi trong quá trình sống của con
người, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.
Chính nhờ vậy, chúng ta mới có thể dự kiến trước được hành vi của một nhân cách nào đó trong một tình
huống, hoàn cảnh nhất định nào đó.
– Ca dao, tục ngữ: “ Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”; “ Cái nết đánh chết vẫn còn”
VÍ DỤ: Một người có tính trung thực sẽ thể hiện nét nhân cách này một cách thường xuyên trong nhiều
công việc, nhiều mối quan hệ và nhiều tình huống. Kết luận:
– Nhân cách có tính ổn định vì thế mà một người đang tốt không thể xấu ngay được và ngược lại. Từ sự
ổn định đó chúng ta có thể đánh giá, dự đoán những biểu hiện của một nhân cách nào đó trước những
tình huống của cuộc cống và những tác động giáo dục cụ thể.
Tính tích cực của nhân cách
– Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội. Vì thế, tính tích cực là một
thuộc tính của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước hết ở việc xác định một cách
tự giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ động, tự giác thực hiện các hoạt động, giao tiếp nhằm hiện
thực hóa mục đích. Ở đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội.
Đây cũng là biểu hiện của tính tích cực của nhân cách. Tùy theo mức độ và loại hình hoạt động mà mục
đích của nó được nhân cách xác định là nhận thức hay cải tạo thế giới, nhận thức hay cải tạo chính bản thân mình.
Ví dụ: Về việc sinh viên tham gia vào các phong trào Đoàn, Hội… thì nhân cách của mỗi sinh viên vừa
chịu tác động đồng thời tác động tới những nhân cách.
– Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét
tính tích cực của nhân cách.
– Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu của nó. Không chỉ
thỏa mãn với các đối tượng sẵn có, con người luôn luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương thức
thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của con người. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt động có mục
đích, tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình.
– Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là cần khơi dậy tính tích cực hoạt động của cá nhân trên cơ sở nắm
bắt được nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu, từ đó cần giáo dục cá nhân có những nhu cầu cao cả và chính đáng.
Tính giao lưu của nhân cách
– Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ
giao lưu với những cá nhân khác.
– Nhu cầu giao tiếp, giao lưu được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người. Thông qua quan hệ
giao tiếp với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ
thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng thông qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội.
– Điều quan trọng là thông qua giao tiếp, con người còn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho
người khác, và cho xã hội. Giao tiếp chính là điều kiện để nhân cách biểu hiện cả ba cấp độ của mình.
– Ca dao, tục ngữ: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”; “Đi cho biết đó biết đây/Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”.
Ví dụ: Những đứa bé mới sinh ra không được sống trong mối quan hệ loài người, không được tiếp xúc,
giao lưu với những nhân cách khác thì không thể hình thành một nhân cách. Bởi vì những đứa trẻ đó
thiếu mất yếu tố quan trọng là sự giao lưu. Và thiết yếu phải có sự tương tác qua lại giữa người với người
thì mới hoàn thành nhân cách.
“ Gần mực đen, gần đèn thì sáng” ⇨ cũng là một biểu hiện của tính giao lưu.
Kết luận: Nhờ tính giao lưu của nhân cách mà mỗi cá nhân học hỏi những hành vi, ứng xủa theo kểu
con người. Cá nhân lĩnh hội, thực thi và khẳng định giá trị bản thân. Từ đó, nhận biết, so sánh và khẳng
định giá trị bản thân. Tạo sự chuyển biến thay đổi của mỗi cá nhân sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh
và ác chuẩn mực xã hội.
2. TÌNH CẢM LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CÁC QUY LUẬT CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO BẢN THÂN?
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với sự vật, hiện tượng có liên quan
đến nhu cầu và động cơ của họ. Nó mang tính chất ổn định hơn xúc cảm vì tình cảm sẽ không diễn ra
ngay tức thời mà phải trải qua một quá trình nhất định.
Tình cảm cũng là thái độ rung động của một cá nhân nào đó, tuy nhiêntình cảm là những thái độ rung
động, ấn tượng tốt đối với một người nàođó chứ không được thể hiện dưới dạng thái độ tích cực. Tình
cảm với tư cách là một thuộc tính tâm lý ổn định, tiềm tàng của nhân cách cũng mang đậm màu sắc chủ
thể hơn so với nhận thức. Quá trình hình thành tình cảm cũng lâu dài, phức tạp hơn rất nhiều và diễn ra
theo những quy luật khác với quá trình nhận thức.
Đây là một hình thức phản ánh tâm lý mới – phản ánh cảm xúc (rung cảm). Do vậy, ngoài những điểm
giống với sự phản ánh của nhận thức mang tính chủ thể, có bản chất xã hội lịch sử, phản ánh cảm xúc
cũng cónhững đặc điểm riêng.
+ Về nội dung phản ánh: Trong khi nhận thức chủ yếu phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ của
bản thân thế giới thì tình cảm phản ánhmối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con người.
+ Về phạm vi phản ánh: Phạm vi phản ánh của tình cảm có tính lựa chọn. Mọi sự vật, hiện tượng tác
động vào giác quan của chúng ta ít nhiều cũng đều được ta nhận thức nhưng không phải mọi tác động
đều được ta tỏ thái độ. Chỉ có những sự vật, hiện tượng có liên quan đến sự thỏa mãn hoặc động cơ của
con người mới có thể gây nên cảm xúc.
+ Về phương thức phản ánh: Nhận thức phản ánh thế giới bằng hình ảnh, biểu tượng, khái niệm >< Còn
tình cảm phản ánh thế giới dưới hình thức rung cảm.
+ Mức độ thể hiện tính chủ thể trong tình cảm cao hơn và đậm nét hơn so với trong nhận thức.
❖ Các quy luật của tình cảm:
Quy luật "lây lan" tình cảm: Xúc cảm -tình cảm có thể truyền"lây" từ người này sang người khác. Nền
tảng của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người. Tình cảm tập thể và xã hội được hình
thành trên cơ sở này. Biểu hiện: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” “Niềm vui nhân đôi, nỗi buồn sẻ nửa”.
Ví dụ: An vừa nhận được giấy báo nhập học. An vô cùng sung sướng, vui mừng. An thông báo cho bố
mẹ và bạn bè của mình. Sự vui vẻ của An đã tạo nên không khí thoải mái, vui mừng cho mọi người xung quanh.
Ý nghĩa: Có ý nghĩa đối hoạt động học tập, lao động, chiến đấu… trong đời sống con người. Quy luật
này là cơ sở của nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể.
Ví dụ: Ba lớp : Kinh tế - Tài chính – Công nghệ thông tin cùng chung một lớp. Lúc đầu mỗi thành viên
của 3 lớp luôn tự đặt cho mình một khoảng cách. Nhưng khi 3 lớp trưởng đều là những người biết quan
tâm, giúp đỡ, hòa đồng với tất cả các thành viên không phân biệt lớp nào đã tạo cho lớp không khí vui vẻ đoàn kết.
Quy luật thích ứng: Một xúc cảm, tình cảm được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không thay đổi thì
cuối cùng sẽ bị suy yếu, bị lắng xuống. Đó là hiện tượng “chai sạn” tình cảm. Biểu hiện: “Gần thường xa
thương”; Dao năng mài thì sắc, người năng chào thì quen.
Ví dụ: Một người thân của chúng ta đột ngột qua đời, làm cho ta và gia đình đau khổ, vất vả, nhớ
nhung… nhưng năm tháng và thời gian cũng lui dần vào dĩ vãng, ta cũng phải nguôi dần… để sống.
Ý nghĩa: Nó được ứng dụng trong đời sống hằng ngày. Chẳng hạn để là trẻ mất tính nhút nhát, thì giáo
viên cần gọi em đó nhiều hơn, qui luật này được ứng dụng như phương pháp “lấy độc trị độc”học sinh.
Cần khắc phục tình trạng đơn điệu trong giao tiếp để khắc phục hiện tượng" gần thường, xa nhớ".
Ví dụ: Hoa là một học sinh nhút nhát, luôn rụt rè trước mọi người. Mỗi lần bị giáo viên gọi dậy trả lời
câu hỏi, Hoa đều tỏ ra lúng túng và đỏ mặt. Nhưng một thời gian sau, việc Hoa luôn phải đứng dậy trả
lời lặp đi lặp lại nhiều lần và nhờ sự khuyến khích động viên của bạn bè thầy cô thì Hoa đã tự tin trả lời
những câu hỏi trước lớp.
Quy luật"tương phản" hay "cảm ứng": Đây là sự tác động qua lại giữa những xúc cảm dương tính và
âm tính, tích cực và tiêu cực thuộc cùng một loại. Cụ thể là: trải nghiệm này có thể làm tăng hay giảm
một trải nghiệm khác xảy ra đồng thời hay nối tiếp nó.
Ví dụ: Càng yêu nước càng căm thù giặc; “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ý nghĩa:
Dựa vào quy luật này người ta xây dựng các tình tiết, các tinh cách nhân vật, hành động nhân vật trong
văn học, nghệ thuật nhằm đánh trúng tâm lý của khán giả hay độc giả. Nhằm thỏa man nhu cầu về đạo đưc, thẩm mỹ của họ.
Trong dạy học, giáo dục tư tưởng, tình cảm người ta sử dụng quy luật này như một biện pháp “ôn nghèo
nhớ khổ, ôn cố tri ân” và nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện chính diện.
Ví dụ: Càng yêu mến nhân vật chính lương thiện thì càng căm ghét nhân vật phụ độc ác.
Khi chấm bài, sau một loạt bài kém, gặp một bài khá, giáo viên thấy hài lòng. Bình thường bài khá này
chỉ đạt điểm 7 nhưng trong hoàn cảnh này giáo viên sẽ cho điểm 9.
Quy luât "di chuyển" tình cảm: Xúc cảm-tình cảm của con người có thể di chuyển từ đối tượng này
sang đối tượng khác, kiếu" giận cá, chém thớt".
Ví dụ: “Yêu nhau yêu cả đường đi/Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”.
Hương đang tập trung làm một bài tập rất khó, áp lực tâm lí đang đè lên người cô. Lúc này cô cần sự yên
tĩnh nhưng Hạnh vô tình đã hỏi cô liên tục một câu hỏi. Hương cảm thấy khó chịu và cáu gắt với Hạnh
cho dù Hạnh không thực sự có lỗi.
Ý nghĩa: Quy luật này nhắc nhở chúng ta kiểm soát xúc cảm của mình, làm cho nó có tính chọn lọc tích
cực, tránh vơ đũa cả nắm, tránh thiên vị trong đánh giá “yêu tốt ghét xấu”.
Ví dụ: Giáo viên phải luôn là một người khách quan, công bằng khi chấm bài.
Quy luật" pha trộn" tình cảm: Đó là sự kết hợp màu sắc âm tính của biểu tượng và màu sắc dương
tính của nó, hơn nữa màu sắc âm tính còn là cơ sở để nảy sinh màu sắc dương tính. Tính pha trộn cho
phép hai xúc cảm-tình cảm đối lập có thể cùng tồn tại ở một con người, chúng không loại trừ mà quy
định lẫn nhau. Biểu hiện: “Giận mà thương,thương mà giận”; “Cái gì càng khó khăn gian khổ mới đạt
được thì khi đạt được ta càng tự hào”.
Ví dụ: Thanh yêu Lợi, cô luôn muốn Lợi ở bên cạnh cô, quan tâm chăm sóc cô. Nhưng khi cô thấy Lợi
có một cử chỉ thân mật hay một hành động quan tâm tới một người con gái khác thì Thanh tỏ ra khó chịu ghen tuông.
Ý nghĩa: Quy luật này cho ta thấy rõ tính phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn trong tình cảm con người. Vì
vậy cần phải biết quy luật này để thông cảm, điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình.
Ví dụ: Giáo viên phải luôn là một người khách quan công bằng. Khi chấm bài, không vì sự yêu mến học
trò này mà cho điểm cao và không có cảm tình với học trò kia nên cho điểm thấp. Phải nhìn vào kết quả
học sinh đó làm được để đánh giá.
Quy luật về sự hình thành tình cảm: Xúc cảm là cơ sở của tình cảm, tình cảm được hình thành từ
những xúc cảm đồng loại, chúng được động hình hóa, tổng hợp hóa và khái quát hóa mà thành. Biểu
hiện: Năng mưa thì giếng năng đầy; Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén; Mưa dầm thấm đất…
◆ Tổng hợp hóa: là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách rồi nhờ sựphân tích thành một chỉnh thể.
◆ Động hình hóa: là khả năng làm sống lại một phản xạ hoặc một chuỗi phản xạ đã được hình thành từ trước.
◆ Khái quát hóa: là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một
loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ chung nhất định.
Ví dụ: Tình cảm của con cái đối với bố mẹ là cảm xúc thường xuyên xuất hiện do liên tục được bố mẹ
yêu thương,thỏa mãn nhu cầu, dần dần được tổng hợp hóa, động hình hóa và khái quát hóa mà thành.
Ý nghĩa: Quy luật cho ta thấy muốn hình thành tình cảm phải đi từ xúc cảm, không có xúc cảm không có
rung động… thì không có tình cảm nào cả.
Ví dụ: Xây dựng tình yêu Tổ quốc phải xuất phát từ tình yêu gia đình, mái nhà, làng xóm.
Vận dụng tri thức của quy luật lây lan
Quy luật lây lan có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của em. Đôi khi em nhận được sự vui lây từ mọi
người, nhận được sự buồn lây của mọi người; nhưng cũng có những lúc e lan tỏa không khí vui tươi đi,
hoặc là những lúc e mệt mỏi cũng khiến cho không khí trong gia đình trầm xuống. Nhận thức được tầm
quan trọng của quy luật nên em đã áp dụng rất nhiều vào trong cuộc sống của bản thân mình:
– Tránh những người tiêu cực khi mình đang buồn
– Tích cực tiếp xúc với những người đang vui, hạnh phúc để họ lan truyền cảm xúc cho mình.
– Lắng nghe để hiểu thấu mọi người, để đồng cảm, đặt mình vào tâm trạng của người khác
– Các hoạt động tập thể của con người. Đây là cơ sở tạo ra các phong trào, hoạt động mang tính tập thể.
– Còn trong học tập, quy luật lây lan cũng được em áp dụng rất nhiều:
– Xây dựng một môi trường học tập hòa đồng, đoàn kết, niềm vui nhân đôi, nổi buồn sẻ nửa.
– Xây dựng cho mình một tấm gương sáng trong học tập để noi theo.
– Hạn chế lây lan cái xấu, cái tiêu cức cho các bạn trong lớp.
Ví dụ: Trong quá trình học môn Tâm lí học đại cương ở trường Đại học luật Hà Nội. Lúc đầu do là chưa
quen các bạn trong lớp vì đây là môn tự chọn nên em đã tạo khoảng cách với mọi người. Nhưng trong
quá trình học tập, đặc biệt là trong quãng thời gian làm bài tập nhóm tất cả các bạn trong lớp đều biết
quan tâm, giúp đỡ, hòa đồng với tất cả các thành viên không phân biệt lớp nào đã tạo cho lớp không khí
vui vẻ đoàn kết. Và chính vì thế em đã hòa nhập với các bạn
Vận dụng tri thức của quy luật thích ứng
Quy luật thích ứng được em vận dụng khá nhiều trong đời sống. Nhờ có quy luật mà em biết trân trọng
những gì mình đang có. Không phải lúc mất đi rồi mới nhận ra nói quan trọng. Tạo ra dấu ấn riêng của
bản thân mình như: từ việc tỏ tình, tặng qùa, đi chơi, uống nước, trang phục, ăn nói. Tránh gây nhàm
chán tới mức mình “chưa mở mồm”, người ta đã biết mình sẽ nói gì. Trong điều trị một số bệnh của bản
thân sẽ giúp bản thân tránh thích ứng để không bị “chai sạn” với thuốc.
Còn trong học tập quy luật thích ứng rất quan trọng. Nhờ có quy luật thích ứng mà bản thân em đạt được
hiệu quả cao hơn trong học tập:
Thứ nhất: em đã biết thay đổi phương pháp học tập hiệu quả hơn, chánh gây nhàm chán cho bản thân.
Thứ hai: Luôn năng động, sáng tạo, hội nhập trong các hoạt động để rèn luyện thêm các kĩ năng cho bản thân.
Thứ ba: thay đổi liên tục, thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi môi trường học tập
Vận dụng tri thức của quy luật tương phản
Nắm được kiến thức về quy luật tương phản đã giúp em có cái nhìn đúng đắn hơn trong một số trường
hợp. Vận dụng tri thức của quy luật tương phản vào cuộc sống và học tập giúp em có cái nhìn toàn diện
hơn về một vấn đề, lý tính hơn và công bằng hơn. Nhờ có quy luật tương phản giúp em tránh được
những trường hợp nhìn vậy nhưng mà không phải vậy: Ví dụ “ Trong một cuộc tranh luận giữa A và B.
Và A đang chiếm ưu thế, ta không thể cứ thế theo bên A mà phải có cái nhìn khách quan về 2 phía vấn đề”.
Vận dụng tri thức của quy luật di chuyển
Trong cuộc sống nói chung và trong công việc học tập của em nói riêng, quy luật di chuyển có tầm ảnh
hưởng rất lớn. Vận dụng tri thức của quy luật giúp em kiềm chế được cảm xúc của bản thân mình, tránh
hiện tượng vơ đũa cả nắm. Tránh thiên vị trong đánh giá “yêu tốt ghét xấu”. Và đặc biệt là luôn tạo cho
mình một không khí vui tươi, thoải mái; nhận định và đánh giá vấn đề một cách chính xác. Hay nói cách
khác là luyện cho bản thân một cái đầu lạnh và trái tim nóng.
Ví dụ: em đang tập trung làm một bài tập rất khó. Lúc này emcần sự yên tĩnh nhưng bạn cùng phòng vô
tình đã hỏi em liên tục một câu hỏi khiến em bực tức. Vận dụng quy luật di chuyển sẽ giúp em biết là
phải kiềm chế bản thân, không thể vì không giải được bài tập mà quay ra chút bực tức lên người bạn mình được.
Vận dụng tri thức của quy luật pha trộn
Giữa áp lực đến từ học tập và cuộc sống thì quy luật như một hướng giải quyết giúp bản thân em. Nhờ có
quy luật pha trộn mà em biết điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình. Nắm được tri thức về quy luật pha
trộn nên em biết trong cuộc sống không phải những gì em nghe thấy thì nó là như vậy, ví dụ như: bố mẹ
mắng tem nhưng thực chất là bố mẹ yêu thương ta vô cùng những lời bố mẹ nói ra là chỉ muốn em tốt
hơn. Hay trong học tập, đôi khi cô giáo mắng em một vài câu nhưng trong thâm tâm cô chỉ muốn em học
tốt lên. Và biết về quy luật pha trộn giúp em cẩn thận suy xét về những hành vi đối lập của một số người trong cuộc sống.
Vận dụng tri thức của quy luật hình thành tình cảm
Nhờ có quy luật hình thành tình cảm mà em biết muốn hình thành một thứ tình cảm nào đó thì phải bắt
nguồn từ đâu. Ví dụ như muốn xây dựng tình yêu với trường thì phải xuất phát từ tình yêu với các môn
học. Hay là để tự tạo những xúc cảm, trong khi học tập của bản thân em, thì em thường gắn những kiến
thức đó với thực tiễn cuộc sống. Và cũng biết được trong một số trường hợp nào đó thì không nên hình thành tình cảm
Tóm lại: các quy luật của xúc cảm và tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống nói chung và vấn đề
học tập nói riêng của bản thân em. Nắm được tri thức về các quy luật sẽ giúp cuộc sống của em trở nên dễ dàng hơn.
Kết luận: Nếu không có các quy luật đời sống tình cảm thì sẽ khó hình thành nên tình cảm hoặc gây ra
hiện tượng “ đói tình cảm” làm cho toàn bộ hoạt động sống của con người không thể phát triển bình
thường. Đời sống tình cảm rất phong phú, đa dạng và phức tạp chính vì vậy chúng ta phải nắm bắtđược
tình cảm của bản thân.Tham gia nhiều hoạt động để nắm bắt được đời sống tình cảm của mọi người.Tạo
môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện về mặt tình cảm.
3. THẾ NÀO LÀ TƯ DUY? PHÂN TÍCH CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ DUY, TỪ ĐÓ RÚT RA KẾT LUẬN
SƯ PHẠM. MUỐN PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC SINH CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP GÌ?
Có nhiều định nghĩa về tư duy theo các góc độ khác nhau, cụ thể:
Dưới góc độ sinh lý học, tư duy được biết đến là một hình thức hoạt động của hệ thần kinh thể hiện qua
việc tạo ra những liên kết giữa các phần tử đã ghi nhớ, chọn lọc và kích thích chúng hoạt động để thực
hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, từ đó định hướng cho hành vi tích cực, phù hợp với môi trường sống.
Dưới góc độ tâm lý học thì tư quy là một quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối quan hệ và liên hệ bên trong, có tính quy luật của sự vật, sự việc và hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Theo đó, tư duy không chỉ giải quyết những nhiệm vụ trước mắt mà còn giải quyết cả các vấn đề trong
tương lai. Hoạt động của vỏ đại não chính là cơ sở sinh lý của tư duy, hoạt động tư duy đồng nghĩa với
hoạt động của trí tuệ. Mục tiêu của tư duy chính là tìm ra những lý luận, triết lý, phương pháp luận và
giải pháp trong các tình huống hoạt động của con người.
Đặc điểm của tư duy:
Tính có vấn đề của tư duy
Vấn đề là những hoàn cảnh, tình huống có mục đích nhất định, một vấn đề mới mà những hiểu biết cũ,
những phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết song không đủ sức giải quyết.
Tư duy sẽ xuất hiện khi gặp phải những tình huống, hoàn cảnh có vấn đề. Tuy nhiên, không phải trong
bất cứ hoàn cảnh nào tư quy cũng nảy sinh, hoàn cảnh có vấn để có thể là một câu hỏi lý thuyết, một bài
tập thực hành, một vấn để bức xúc của thực tiễn.
Muốn kich thích được tư duy cần có 2 điều kiện: gặp hoàn cảnh, tình huống có vấn đề; cá nhân phải
nhận thức được đầy đủ hoàn cảnh có vấn đề đó.
Ví dụ: Giả sử để giải một bài toán, trước hết học sinh phải nhận thức được yêu cầu, nhiệm vụ của bài
toán, sau đó nhớ lại các quy tắc, công thức, định lí có liên quan về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái
cần tìm, phải chứng minh để giải được bài toán. Khi đó tư duy xuất hiện.
Ví dụ: Nếu đặt câu hỏi "giai cấp là gì ?" Với học sinh lớp 1 thì sẽ không kích thích được học sinh suy
nghĩ; Nếu cho bài toán : 2(x+1) = ? thì với học sinh lớp 2 tư duy sẽ không xuất hiện.
Tư duy có tính gián tiếp
Tư duy của con người không nhận thức được thế giới một cách trực tiếp mà là nhận thức gián tiếp. Tính
gián tiếp của tư duy thể hiện ở chỗ để có được tư duy thì con người phải biết sử dụng ngôn ngữ. Ngôn
ngữ giúp con người sử dụng các kết quả của nhận thức (khái niệm, quy tắc, quy luật, công thức. .) và
những kinh nghiệm vốn có của bản thân vào quá trình tư duy (khái quát, so sánh, phân tích,. .) để hiểu về
bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví du: Để giải một bài toán thì trước hết học sinh phải biết được yêu cầu, nhiệm vụ của bài toán, nhớ lại
các công thức, định lí…có liên quan để giải bài toán. Ta thấy rõ rằng trong quá trình giải bài toán đó con
người đã dùng ngôn ngữ mà thể hiện là các quy tắc, định lí… ngoài ra còn có cả kinh nghiệm của bản
thân chủ thể thông qua nhiều lần giải toán trước đó.
Ngoài ra, tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện qua quá trình con người sử dụng phương tiện, công cụ
máy móc để nhận thức đối tượng mà không thể trực tiếp đụng vào chúng.
Ví dụ: Để biết được nhiệt độ sôi của nước ta dùng nhiệt kế để đo.
Bên cạnh đó, tính gián tiếp của tư duy còn giúp con người có được những phán đoán mang tính khoa học
với những sự vật, hiện tượng xảy ra trong cả quá khứ và tương lai.
Ví dụ: Dựa trên những dữ liệu thiên văn, khí hậu con người thu thập được mà con người dự báo được bão.
Ví dụ: Các phát minh do con người tạo ra như nhiệt kế, tivi… giúp chúng ta hiểu biết về những hiện
tượng thiên nhiên, thực tế nhưng chúng ta không tri giác trực tiếp.
Ví dụ: Dựa vào những thành tựu và tri thức các nhà khoa học lưu lại mà chúng ta tính toán được nhiều
về vũ trụ, mà kết quả là chúng ta phát hiện thêm nhiều thiên hà mới mà chúng ta chưa một lần đặt chân đến.
Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
- Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thể và riêng lẻ. Tư
duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ
giữ lại những thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự vật hiện tượng, trên cơ sở đó mà khái quát những
sự vật hiện tượng riêng lẻ, nhưng có những thuộc tính chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù.
Nói cách khác tư duy mang tính trừu tượng và khái quát.
+ Trừu tượng là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu
không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy.
+ Khái quát là dùng tri óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại, một phạm
trù theo những thuộc tính, liên hệ, quan hệ chung nhất định.
=>Trừu tượng và khái quát có mối liên hệ mật thiết với nhau ở mức độ cao. Không có trừu tượng thì
không thể tiến hành khái quát, nhưng trừu tượng mà không khái quát thì hạn chế quá trình nhận thức. Ví dụ:
+ Nói về khái niệm “cái cốc”, con người trừu xuất những thuộc tính không quan trọng như chất liệu,
màu sắc, kiểu dáng mà chỉ giữ lại những thuộc tính cần thiết như hình trụ, dùng để đựng nước uống. Đó là trừu tượng.
+ Khái quát gộp tất cả những đồ vật có những thuộc tính cơ bản nói trên dù làm bằng nhôm, sứ, thủy
tinh…có màu xanh hay vàng…tất cả điều xếp vào một nhóm “cái cốc”.
- Nhờ có đặc điểm này mà con người không chỉ giải quyết được những nhiệm vụ hiện tại mà còn có thể
giải quyết được những nhiệm vụ của tương lai, trong khi giải quyết nhiệm vụ cụ thể vẫn có thể sắp xếp
nó vào một nhóm, một loại, một phạm trù để có những quy tắc, những phương pháp giải quyết tương tự.
Ví dụ: Khi tính diện tích hình chữ nhật ta có công thức: S = (a x b).Công thức này được áp dụng cho
nhiều trường hợp tương tự với nhiều con số khác nhau.
Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
- Tư duy mang tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát là do nó gắn chặt với ngôn
ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư
duy của con người không thể diễn ra được, đồng thời các sản phẩm của tư duy (khái niệm, phán
đoán…)cũng không được chủ thể và người khác tiếp nhận.
Ví dụ: Nếu không có ngôn ngữ thì những công thức toán học sẽ không có và không thể hiện được những
hiểu biết về tự nhiên.
Ví dụ: khi tiến hành lập trình PASCAL, người ta dùng ngôn ngữ để ghi lại để có một chương trình lập
trình hoàn chỉnh. Nếu không có ngôn ngữ để ghi lại thì cả chủ thể lẫn người học đều không thể tiếp nhận
được trọn vẹn tri thức.
- Ngôn ngữ cố định lại kết quả của tư duy, là phương tiện biểu đạt kết quả tư duy, do đó có thể khách
quan hóa kết quả tư duy cho người khác và cho bản thân chủ thể tư duy. Ngược lại, nếu không có tư duy
thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa. Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà chỉ là phương tiện của tư duy.
- Ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là kết quả của quá trình phát triển tư duy lâu dài trong lịch sử phát
triển của nhân loại, do đó ngôn ngữ luôn thể hiện kết quả tư duy của con người.
Ví dụ: Công thức tính diện tích hình vuông S = (a x a) là kết quả của quá trình con người tìm hiểu tính
toán. Nếu không có tư duy thì rõ ràng công thức này vô nghĩa.
Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
- Nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó:
+ Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp
tác động vào giác quan của ta.
+ Tri giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng
khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
- Tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính, dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, trên cơ sở
trực quan sinh động. Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy
sinh tình huống có vấn đề. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy với hiện
thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm dưới dạng những khái niệm, quy luật… là chất liệu của
những khái quát hiện thực theo một nhóm, một lớp, một phạm trù mang tính quy luật trong quá trình tư duy.
Vi dụ: Khi có một vụ tai nạn giao thông xảy ra mà ta thấy. Thì trong đầu ta sẽ đặt ra hàng loạt các câu hỏi
như: Tại sao lại xảy ra tai nạn ? Ai là người có lỗi ?. .như vậy là từ những nhận thức cảm tính như : nhìn,
nghe…quá trình tư duy bắt đầu xuất hiện.
- Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối khả năng phản ánh của nhận
thức cảm tính: làm cho khả năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy bén hơn, làm cho tri giác của con
người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
Kết luận: Từ những đặc điểm trên đây của tư duy, ta có thể ra những kết luận cần thiết:
- Phải coi trọng việc phát triển tư duy cho học sinh. Bỡi lẽ, không có khả năng tư duy học sinh không
học tập và rèn luyện được.
- Muốn kích thích học sinh tư duy thì phải đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề và tổ chức cho
học sinh độc lập, sáng tạo giải quyết tình huống có vấn đề.
- Việc phát triển tư duy phải được tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức. Mọi tri thức đều
mang tính khái quát, nếu không tư duy thì không thực sự tiếp thu, lại không vận dụng được những tri thức đó.
- Việc phát triển tư duy phải gắn với việc trau dồi ngôn ngữ. Bởi lẽ có nắm vững ngôn ngữ thì mới có
phương tiện để tư duy có hiệu quả.
- Tăng cường khả năng trừu tượng và khái quát trong suy nghĩ.
- Việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và trí nhớ.
Bỡi lẽ, thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra được.
- Để phát triển tư duy không còn con đường nào khác là thường xuyên tham gia vào các hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Qua đó tư duy của con người sẽ không ngừng được nâng cao.
Ngoài ra cần tránh một số vấn đề như:
- Quá định kiến trong tư duy.
- Tránh những trường hợp bị ám ảnh, bị áp lực.
- Chủ thể mang một tư duy hoang tưởng mà điển hình dễ thấy nhất là người bị ám ảnh bởi tội lỗi.
4. PHÂN TÍCH CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC?
* Các quy luật cơ bản của cảm giác
Quy luật ngưỡng cảm giác và tính nhạy cảm của cảm giác
- Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác hoặc là giới hạn mà ở đó cường
độ kích thích (tối đa hay tối thiểu) vẫn còn đủ gây ra cảm giác của con người.
Ngưỡng cảm giác bao gồm:
* Ngưỡng cảm giác phía trên: Là kích thích tối đa mà ở đó vẫn gây ra cảm giác
* Ngưỡng cảm giác phía dưới: là kích thích tối thiểu mà ở đó vẫn gây ra cảm giác
* Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác nêu trên là vùng cảm giác được, trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất.
Ví dụ: Tai người bình thường có thể nghe được âm thanh ở tần số 16 – 20.000Hz. Vậy 16Hz là ngưỡng
cảm giác phía dưới, 20.000Hz là ngưỡng cảm giác phía trên.
Ngưỡng sai biệt: Là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để
phân biệt sự khác nhau giữa chúng.
Ví dụ: A và B đang nói chuyện với nhau, những người thân của họ có thể phân biệt đâu là giọng của A và đâu là của B.
- Tính nhạy cảm là năng lực nhạy bén, chính xác, tinh vi của con người. Tính nhạy cảm có quan hệ với
ngưỡng tuyệt đối phía dưới, nó tỉ lệ nghịch với ngưỡng tuyệt đối phía dưới. Nếu ngưỡng tuyệt đối phía
dưới càng thấp thì độ nhảy cảm càng cao.
Kết luận: Giáo viên không nên nói quá to hay quá nhỏ, chữ viết trên bảng phải rõ ràng, đủ to để học
sinh ngồi cuối nhìn thấy,…Những điểm lưu ý, cần ghi nhớ thì giáo viên có thể viết đậm hơn, thay đổi
kiểu chữ… để làm học sinh chú ý hơn, làm cho vùng cảm giác được rộng hơn.
Quy luật thích ứng của cảm giác
- Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Biểu
hiện tăng độ nhạy cảm khi gặp kích thích yếu, giảm độ nhạy cảm khi gặp kích thích mạnh.
VD: khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), đi vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc
đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Cảm giác của con người có thể dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của môi trường như cách thích ứng với
bóng tối hay nhiệt độ của nước nóng. Ngoài ra, cảm giác của con người còn có khả năng thích ứng với
những kích thích kéo dài nhưng không làm thay đổi cường độ hay tính chất bất kỳ nào đó . Trong tình
huống này chúng ta sẽ ngừng nhận thấy những kích thích cho đến khi những kích thích này có sự thay đổi.
Ví dụ: Khi ta đeo vòng tay thì lâu ngày ta sẽ không cảm nhận được sức nặng của nó như khi mới đeo nữa.
Sự thích ứng cảm giác giúp chúng ta dễ dàng thích nghi với những điều kiện thiên nhiên, môi trường
xung quanh luôn tiến hóa không ngừng. Ngoài ra còn bảo vệ hệ thần kinh tránh bị quá tải bởi sự tác động
của những kích thích cũ.
Đồng thời nó còn cho phép con người luôn thay đổi cảm giác thông qua những kích thích phong phú,
nhiều mẫu mã hơn. Sự thích ứng của cảm giác tại mỗi loại cảm giác khác nhau sẽ có mức độ khác nhau.
Nó hoàn toàn có thể phát triển nhờ rèn luyện và các hoạt động giải trí nghề nghiệp.
Ví dụ: Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảmvới ánh sáng
tăng gần 200.000 ần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Ví dụ: Công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 - 600C trong hàng giờ đồng hồ. - Các dạng thích ứng :
* Thích ứng làm cảm giác tăng lên khi gặp kích thích yếu
* Thích ứng làm cảm giác yếu đi khi gặp kích thích mạnh
* Thích ứng làm cảm giác biến mật khi gặp kích thích liên tục trong một thời gian dài với cường độ không đổi.
Kết luận: Trong dạy học chúng ta không nên nói đều đều kéo dài, không nên chỉ áp dụng một biện pháp
để dạy học và giáo dục.
Quy luật tác động qua lại của cảm giác
- Quy luật tác động qua lại là sự kích thích yếu lên giác quan này làm tăng độ nhạy cảm của giác quan
kia và ngược lại sự kích thích mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của giác quan kia.
Ví dụ: Những người mù có khả năng nghe được âm thanh tốt hơn so với người bình thường. Hay trẻ tự
kỷ gặp những vấn đề về giao tiếp xã hội nhưng lại giỏi trong việc tính toán logic.
Sự tác động qua lại của cảm giác diễn ra theo 4 hướng:
+ Sự tác động lẫn nhau của các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác cùng
loại hay khác loại, có 2 loại cảm giác tương phản: tương phản nối tiếp và đồng thời.
+Tương phản nối tiếp đuôi nhau chính là tương phản khi hai kích thích tác động ảnh hưởng tiếp nối
nhau trên cùng một cơ quan cảm giác.
+ Tương phản đồng thời xảy ra khi hai loại kích thích tác động ảnh hưởng cùng lúc lên cơ quan cảm giác.
Ví dụ: Sau khi chịu một kích thích lạnh thì kích thích ấm sẽ tạo cảm giác ấm nóng hơn.
Ví dụ: Khi bạn đặt tờ giấy màu trắng trên nền đen sẽ tạo cảm giác tờ giấy trắng hơn khi đặt trên nền xám.
Đây là tương phản đồng thời.
Ví dụ: Sau khi ăn kẹo ta tiếp tục ăn thêm 1 quả ổi thì sẽ cảm thấy quả ổi không còn ngọt như trước nữa
=> tương phản nối tiếp
+ Chuyển cảm giác: khi một kích thích đáng lẽ ra gây ra cảm giác này thì lại gây ra cảm giác kia.
+ Tăng cảm giác: kích thích yếu lên một cảm giác này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cảm giác kia.
* Các quy luật cơ bản của tri giác
Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Khi những sự vật, hiện tượng nào đó của thế giới khách quan tác động trực tiếp vào các giác quan của
con người thì tính tri giác được hình thành. Mỗi hành động tri giác (nghe, nhìn, nhìn. ) có một đối tượng
cụ thể (nghe âm thanh, nhìn hình ảnh, ngửi mùi hương. ) tồn tại khách quan được ta phản ánh. Đó là tính
đối tượng của tri giác.
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện tượng nhất định
của thế giới bên ngoài.
Ví dụ: Những chú bộ đội có thể tri giác được chiếc xe tăng chỉ dựa vào tiếng xích và tiếng động cơ.
Ví dụ: Ta có thể phân biệt được chiếc áo cũ hay mới thông qua việc quan sát màu sắc và cảm nhận chất liệu. Quy luật này có vai trò:
+ Giúp con người phản ánh hiện thực khách quan chân thực về một sự vật hiện tượng nào đó.
+ Có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng định hướng cho hành vi và hoạt động của con người.
Ví dụ: Người họa sĩ có thể dễ dàng tri giác bức tranh tốt hơn chúng ta.
Quy luật tính lựa chọn của tri giác
- Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên giác quan của con người
ở tại một thời điểm mà chỉ tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.=> Điều này nói lên tính tích cực của tri giác
- Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài cũng
như bên trong của chủ thể.
Đối tượng của tri giác càng nổi rõ trong bối cảnh thì sự lựa chọn sẽ diễn ra nhanh hơn và ngược lại.
- Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ thể dễ chọn đối tượng đó làm tri giác.
VD: Trong sách để giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức quan trọng, người ta thường in nghiêng để
nhấn mạnh. Hay giáo viên thường dùng bút đỏ để chấm bài giúp học sinh có thể nhận ra chỗ sai của mình dễ dàng.
Ví dụ: Trong quá trình học tập tại, chúng ta không thể đồng thời học và chơi game cùng một lúc mà vẫn
đạt được hiểu quả cao, chúng ta phải chọn một trong hai và tập trung vào nó.
Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác
- Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép người ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có thểsắp xếp
chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
- Trong tri giác, việc tách đối tượng ra khỏi bối cảnh gắn liền với việc hiểu ý nghĩa và tên gọicủa chúng.
Ví dụ: Tìm hiểu về loài cá voi, ta không thể xếp nó vào loài cá mà phải xếp nóvào loài động vật có vú,
trên cơ sở đó mới có thể nghiên cứu rõ hơn những đặcđiểm của loài cá heo này.
Ví dụ: Với những người thường xuyên tiếp xúc với các loại xe cộ họ thường cóthể phân biệt rõ các dòng
xe như honda, mercedes, rolls royce,mazda… dựa trênngoại hình,nội thất,biểu tượng…
Quy luật Tính ổn định của tri giác
- Đó là khả năng phản ánh sự vật hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác đã thay đổi. Tính ổn
định biểu hiện rõ nhất trong tri giác độ lớn, tri giác hình 13 dáng, tri giác màu sắc…
Ví dụ: Ngôi nhà, dù có cách xa chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình
ảnh của một người đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn so với con người.
Ví dụ: Khi viết lên trang giấy ta luôn thấy trang giấy có màu trắng mặc dù ta viết dưới ánh đèn dầu, lúc trời tối.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào:
+ Cấu trúc ổn định của sự vật hiện tượng.
+ Vốn tri thức, kinh nghiệm của cá nhân.
+ Cơ chế tự điều khiển của hệ thần kinh, cụ thể là mối liên hệ ngược của hệ thần kinh. Quy luật tổng giác
- Hiện tượng tổng giác là sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người vàđặc điểm
nhân cách của họ : thái độ, nhu cầu, hứng thú, sở thích, tình cảm, mục đích, động cơ,….=> con người có
thể điều khiển được tri giác
Ví dụ: Khi bạn no, bạn thấy những món ăn khoái khẩu mà bình thường vẫn thích ăn không còn ngon nữa.
Ví dụ: Khi bạn cảm thấy cô đơn, bạn thường dễ động lòng đối với người khác giới hơn nếu thường
xuyên tiếp xúc, nói chuyện. Ảo giác
-Trong một số trường hợp, tri giác có thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo
ảnh thị giác, gọi tắt là ảo giác.
- Ảo ảnh là tri giác không đúng, bị sai lệch, tuy không xuất hiện nhiều nhưng có tính chất quyluật.
-Tính sai lầm của ảo giác có thể được kiểm tra bằng thực tế như đo đạc.
Ví dụ: Nếu bạn nữ có da trắng hồng thì nên chọn những trang phục có màu thẫm hoặc tối để làm tôn lên
làn da đó. Ngược lại, những bạn có da tối thì nên mặc những trang phục có màu sáng.
5. HIỆN TƯỢNG “ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG” NÓI LÊN ĐIỀU GÌ?
Trong câu “Điếc không sợ súng”, từ điếc là khả năng mất thính lực ở người, ám chỉ người có vấn đề
nặng về tai, không nghe được. Súng là một loại vũ khí tối tân, hiện đại. Nó có sức công phá lớn, có khi
tạo ra tiếng nổ rất to, gây khó chịu.
“Điếc không sợ súng” phản ánh đặc điểm đặc trưng của tình cảm là tính nhận thức. Tình cảm được hình
thành trên cơ sở những cảm xúc của con người trong quá trình nhận thức về đối tượng. Trong tình cảm,
chủ thể luôn nhận thức được nguyên nhân gây ra chúng. Người ta nói : “ Điếc không sợ súng ” nghĩa là
không nhận thức được thì sẽ không có thái độ. Ngược lại, không phải bất cứ qúa trình nhận thức nào
cũng có tình cảm. Có nhiều bài học, môn học rất khô khan nhưng ta bắt buộc phải học.
Giải thích theo nghĩa đen thì “Điếc không sợ súng” là người điếc không nghe được âm thanh nên tiếng
súng không thể làm họ bị giật mình. Với nghĩa bóng, câu thành ngữ này chỉ những người chưa biết hay
chưa từng trải qua nỗi sợ hãi, họ sẽ không biết sợ là gì, chỉ thích làm theo ý mình.
Những người “điếc không sợ súng” thường nhận những cái kết đáng tiếc do làm việc gì cũng không suy
nghĩ thấu đáo, chu toàn. Họ chỉ chăm chăm làm việc mà mình muốn, liều lĩnh, hiếu thắng, bất chấp lao
vào khó khăn mà không suy xét đến hậu quả một cách kỹ lưỡng. Họ hành xử theo cảm tính, mù quáng
nên thường mắc phải sai lầm, gây hại cho bản thân và người khác.
Một số người cho rằng, những người “điếc không sợ súng” cũng là một lợi thế, bởi họ sẽ làm việc sẽ
không ngại khó khăn, không sợ hiểm nguy. Họ dám đương đầu với mọi việc, sẵn sàng lao vào thử thách,
làm những điều mà không ai dám thực hiện. Dường như họ quên đi sợ hãi, dẹp đi nỗi lo lắng trong lòng
để hướng tới giá trị, những điều mình mong muốn.
“Điếc không sợ súng” là dũng cảm hay liều lĩnh? Nó sẽ phụ thuộc vào suy nghĩ và hành động của chính
mình. Dũng cảm là một đức tính tốt, mang tới những giá trị giàu tính nhân văn. Liều lĩnh thì hoàn toàn
trái ngược, nó trở thành rào cản nếu con người muốn chinh phục đỉnh cao thành công.
Vậy nên mỗi người hãy suy nghĩ cẩn thận, suy xét đến hậu quả, đừng biến những hành động của bản
thân thành vô ích. Đồng thời, chúng ta cũng không nên quá rụt rè, nhát gan, mạnh mẽ đối mặt với
những khắc nghiệt của cuộc sống. Càng trong nghịch cảnh, càng cần có bản lĩnh hơn người.
6. VÌ SAO TÂM LÝ CỦA NGƯỜI NÀY LẠI KHÁC VỚI NGƯỜI KIA? Tâm lí người:
Trong tâm lí học: Tâm lí là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào não người thông qua “lăng kính chủ quan”.
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý được thể hiện ở những khía cạnh sao:
+ Cùng nhận sự tác động của TG về một HTKQ nhưng ở những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình
ảnh tâm lý với những mức độ sắc thái khác nhau.
+ Cũng có khi cùng một HTKQ tác động vào một chủ thể duy nhất, nhưng tùy vào thời điểm, hoàn cảnh,
trạng thái cơ thể và tinh thần khác nhau có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
+ Chính chủ thể tâm lý là người cảm nhận,cảm nghiệm và thể hiện rõ nhất, sau đó thông qua các mức độ
và sắc thái tâm lý khác nhau mà biểu hiện thành những hành vi, thái độ khác nhau với hiện thực.
Tâm lý người này lại khác tâm lý người kia là vì:
+ Mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan,hệ thần kinh và bộ não.
+ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục khác nhau.
+ Sự ảnh hưởng của môi trường của mỗi ngưỡi khác nhau.
⇒ Kết luận : Tâm lí của mỗi người khác nhau hoàn toàn.
7. NGƯỜI ĐIẾC BẨM SINH CÓ BIỂU TƯỢNG TRÍ NHỚ VỀ ÂM THANH HAY KHÔNG? VÌ SAO?
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng
bằng cách ghi nhớ, giữ gìn và làm xuất hiện lại những điều mà con người đã trải qua. Sản phẩm tạo ra
trong trí nhớ được gọilà biểu tượng. Đó là hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi
không còn sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta.
Trí nhớ chỉ phản ánh sự vật, hiện tượng khi chúng không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Biểu
tượng của trí nhớ chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hóa các hình ảnh của tri giác trước đây.
Không có tri giác thì không có biểu tượng được. Cho nên, những người bị mù bẩm sinh không hề có
biểu tượng về màu sắc và những người bị điếc bẩm sinh đều không có biểu tượng về âm thanh.
Biểu tượng của trí nhớ khác với hình ảnh của cảm giác, tri giác ở chỗ: biểu tượng của trí nhớ phản ánh
sự vật, hiện tượng. Vì vậy, biểu tượng của trí nhớ vừa mang tính trực quan, vừa mang tính khái quát. Tuy
nhiên, so với biểu tượng của tưởng tượng thì biểu tượng của trí nhớ không khái quát bằng. Hơn nữa, nếu
biểu tượng của tưởng tượng mang tính sáng tạo, thì biểu tượng của trí nhớ mang tính tái tạo (tức là phản
ánh một cách trung thành những gì đã trải qua).
8. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC “ÔN NGHÈO NHỚ KHỔ, ÔN CỐ TRI TÂN” THUỘC QUI LUẬT
NÀO CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM, XÚC CẢM?
“Ôn cố tri tân” là thành ngữ được phiên âm Hán Việt từ câu “Ôn cố nhi tri tân , khả dĩ vi sư hĩ” trong
cuốn sách Luận ngữ, chương Vi Chính của Khổng Tử. Cụm từ “ôn cố” là ôn lại, nhắc lại điều cũ hay
những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Đến với “tri tân” nghĩa là suy ngẫm về sự việc hiện tại, hiểu biết
hơn về điều mới hay biết được chuyện sẽ đến trong tương lai. Biện pháp giáo dục “ôn nghèo nhớ khổ”,
“ôn cố tri tân” xuất phát từ quy luật tương phản.
Ý nghĩa của thành ngữ “Ôn cố tri tân” chính là ôn lại chuyện cũ hiểu rõ tận tường nguyên nhân, gốc rễ
của vấn đề và mối liên quan giữa những sự việc với nhau. Sau đó, chiêm nghiệm để có nhận thức tốt hơn
và tiên đoán được chuyện mới sẽ xảy ra.
Lấy ví dụ về việc làm luận án tốt nghiệp, chắc rằng bạn sẽ phải tìm hiểu và nghiên cứu thông tin liên
quan đến đề tài. Thông qua việc đọc tài liệu cũ giúp bạn không bị lạc đề, thông tin xác thực hơn cũng
như nâng cao việc nắm bắt thông tin của bản thân. Sau đó, bạn mới có thể đặt bút cho những dòng chữ
đầu tiên trong bài luận của mình.
“Ôn cố tri tân” của Khổng Tử mang đến bài học và triết lý về cuộc sống vô cùng quý báu. Đặc biệt là đối
với nền giáo dục, đòi hỏi mỗi cá nhân không ngừng ôn tập, củng cố lại những kiến thức đã học được, qua
đó có thể nắm bắt và bổ sung thêm kiến thức mới.
Như ta thấy, bất cứ việc gì cũng đòi hỏi chúng ta phải dựa trên “nền móng” kiến thức sẵn có rồi mới xây
dựng và phát triển thêm kiến thức mới, nâng cao trình độ bản thân. Bởi vậy, “Ôn cố tri tân” được xem là
phương pháp học tập hữu ích trong giáo dục cũng như mọi khía cạnh khác trong cuộc sống.
Document Outline
- Tính thống nhất của nhân cách
 - Tính ổn định của nhân cách
 - 🖎 Kết luận:
 - Tính tích cực của nhân cách
 - Tính giao lưu của nhân cách
- ❖Các quy luật của tình cảm:
 - Ý nghĩa:
 
 - Vận dụng tri thức của quy luật lây lan
 - Vận dụng tri thức của quy luật thích ứng
 - Vận dụng tri thức của quy luật tương phản
 - Vận dụng tri thức của quy luật di chuyển
 - Vận dụng tri thức của quy luật pha trộn
 - Vận dụng tri thức của quy luật hình thành tình cảm
 - Đặc điểm của tư duy:
 - Tư duy có tính gián tiếp
 - Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
 - Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
 - Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm 
- Ngoài ra cần tránh một số vấn đề như:
 
 - 4.PHÂN TÍCH CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI 
- *Các quy luật cơ bản của cảm giác
 - Quy luật thích ứng của cảm giác
 - Quy luật tác động qua lại của cảm giác
 - *Các quy luật cơ bản của tri giác Quy luật về tính
 - Quy luật tính lựa chọn của tri giác
 - Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác
 - Quy luật Tính ổn định của tri giác
 - Quy luật tổng giác
 - Ảo giác
 
 - 5.HIỆN TƯỢNG “ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG” NÓI LÊN ĐIỀU GÌ?
 - 6.VÌ SAO TÂM LÝ CỦA NGƯỜI NÀY LẠI KHÁC VỚI NGƯỜI KIA
 - 7.NGƯỜI ĐIẾC BẨM SINH CÓ BIỂU TƯỢNG TRÍ NHỚ VỀ ÂM TH
 - 8.BIỆN PHÁP GIÁO DỤC “ÔN NGHÈO NHỚ KHỔ, ÔN CỐ TRI TÂ