Tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay | Tiểu luận Hệ thống chính trị và quản lý xã hội

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc  gia, dân tộc và nhân loại. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
22 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay | Tiểu luận Hệ thống chính trị và quản lý xã hội

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc  gia, dân tộc và nhân loại. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

3 2 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
--- ---
TIỂU LUẬN
MÔN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài: Tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối
với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay
Họ và tên : Lê Minh Ngọc
Lớp : Truyền thông chính sách K40
Mã sinh viên : 2055380034
Giảng viên : TS. Dương Thị Thục Anh
HÀ NỘI –2022
A. MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết
Văn hóa vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống hội; năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài
năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc nhân
loại.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã chứng minh: nhờ có nền tảng văn hóa,
hòa nhập và phát triển, nên nhân dân ta đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, sức sáng tạo to lớn để thắng “thiên tai, địch họa”, giữ vững nền độc lập và bản sắc văn hóa.
Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thì vai trò của văn hóa càng được khẳng định, nhất
trong điều tiết, cân bằng sự phát triển của đất nước, không để sự phát triển nhanh, nóng, dẫn tới
những hệ lụy khó lường cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v.
Trong sự tồn tại phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa đóng vai trò rất quan trọng. Trên
phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý văn hóa sẽ góp phần định hướng, điều chỉnh sự phát triển
của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng
cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa dân tộc. Trên phương diện vi mô,
hoạt động quản lý văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, nhóm dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự
tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi cácchế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Những năm qua, quán triệt tinh thần: “Văn hóa nền tảng tinh thần của hội, mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội”1 của Đảng, hoạt động quản lý văn hóa ở Việt Nam đã những kết quả khả quan. Việc
xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa ngày càng được kiện toàn theo hướng thiết thực, hiệu quả.
Ngành văn hóa đã tập trung xây dựng, ban hành trình các cấp thẩm quyền ban hành hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ, giá trị pháp cao trên lĩnh vực văn
hóa, tạo điều kiện để hoạt động quản ngày càng thuận lợi. Một số Luật đã được sửa đổi, bổ
sung ban hành, đáp ứng tình hình thực tiễn, như: Luật Di sản vǎn hóa, Luật Điện ảnh, Luật
Thể dục thể thao, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Du lịch, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện,… Bên cạnh đó, hàng loạt các văn bản
quy phạm pháp luật khác cũng được xây dựng hoàn thiện, góp phần tạo sở pháp cho
công tác quảnvăn hóa. Qua đó, đã tạo điều kiện cho sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế trong kinh doanh hoạt động văn hóa, khuyến khích sự mở cửa, giải phóng các nguồn lực,
huy động được sự tham gia của toàn xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa. Hệ thống
tổ chức bộ máy quản nhà nước trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được kiện toàn củng cố.
Công tác “chuẩn hóa” cán bộ bước đầu phát huy tác dụng; đội ngũ cán bộ quản ngành văn
hóa được đảm bảo về phẩm chất chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ,
tin học,… Các thiết chế văn hóa từ Trung ương tới địa phương từng bước được hoàn chỉnh,
nâng cao chất lượng hoạt động. Nhiều trung tâm văn hoá - thông tin - thể thao, nhà hát, câu lạc
bộ, rạp chiếu phim, khu di tích lịch sử - văn hoá, bảo tàng, thư viện, nhà triển lãm, cửa hàng
sách, báo, khu vui chơi giải trí,… những đổi mới về phương thức hoạt động, sở vật chất
được cải thiện. Một số công trình quy lớn, kiến trúc đẹp, chất lượng phục vụ tốt đã đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao đa dạng của người dân. Việc kiểm tra, giám
sát các hoạt động văn hóa được thực hiện thường xuyên, liên tục, bảo đảm sự vận hành của các
hoạt động văn hóa. Nhiều vụ việc gây bức xúc trongluận đã được thanh tra, kiểm tra, xử
kịp thời. Nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra ngày càng đi vào quy củ, công tác quản văn hóa
đã có những chuyển biến tốt. Cơ chế quản lý văn hóa đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa đất
nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của
các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa loại hình
giải trí. Chính sách hội hóa trong văn hóa đã khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia
xây dựng và phát triển văn hóa đất nước, v.v
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, không một quốc gia nào thể phát triển nếu
đứng ngoài quá trình này. Việt Nam cũng một quốc gia biến động không ngừng nghỉ
nhiều biến chuyển do tác động của toàn cầu hoá. Tuy nhiên, trước quá trình toàn cầu hoá, trong
lòng hội đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, đặc biệt trong các hoạt động văn hoá, đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân vai trò quản lý của nhà nước. Đây thời điểm
nhà nước cần nâng cao trách nhiệm vai trò quản trong các hoạt động văn hoá của đất
nước.
Chính vì lý do trên, tiểu luận lựa chọn “Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động
văn hoá trong thời đại toàn cầu hoá” vấn đề nghiên cứu nhằm thể hiện góc nhìn về thực tiễn
của các hoạt động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của nhà nước trong quản các hoạt động văn hoá trong thời đại không ngừng biến
chuyển của đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trước những tác động của quá trình toàn cầu hoá đến các hoạt động văn hoá, gây nên những
ảnh hưởng tiêu cực của đời sống thì vai trò quản lý của nhà nước cần phải được tăng cường hơn
bao giờ hết. Mặc dù đãnhiều thành tựu trong quá trình quản lý, song những ảnh hưởng tiêu
cực vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết triệt để. Vậy nên, bài tiểu luận “Tăng cường vai trò
quản lý Nhà nước đối với hoạt động văn hoá trong thời đại toàn cầu hoá” được thực hiện nhằm
mục đích đưa ra thực trạng của quá trình toàn cầu hoá trong các hoạt động văn hoá tại Việt Nam
hiện nay và đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với
các hoạt động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Để bài tiểu luận đạt được mục đích đã đề ra thì cần làm rõ những nhiệm vụ sau:
Vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động văn hoá
Tác động của toàn cầu hoá đến các hoạt động văn hoá của Việt Nam hiện nay.
Giải pháp đổi mới nâng cao vai trò quản của nhà nước đối với hoạt động văn hoá
trong bối cảnh toàn cầu hoá.
3. Đốối t ng và ph m vi nghiên c uượ :
V i đềề tài “Tăng c ng vai trò qu n lý Nhà n c đốối v i ho t đ ng văn hoá trong th i đ i toàn ườ ướ
cầều hoá”, bài t u lu n gi i h n ph m vi nghiền c u vai trò qu n lý c a nhà n c trong các ho t ướ
đ ng văn hoá và đốối t ng chính là vai trò qu n lý c a nhà n c. ượ ướ
Ph ng pháp nghiền c u:ươ
Ti u lu n d a trền ph ng pháp duy v t bi n ch ng c a ch nghĩa Mác – Lenin, t t ng Hốề ươ ư ưở
Chí Minh cùng các quan đi m c a Đ ng C ng s n Vi t Nam, chính sách c a nhà n c vềề văn ướ
hoá. Đốềng th i, s d ng ph ng pháp nghiền c u phần tch và t ng h p lý thuyềốt, ph ng ươ ươ
pháp thu th p thống tn.
4. Kêốt cấốu c a t u lu n:
Đ đ t đ c m c đích đã đềề ra và khai thác tri t đ ch đềề, bài nghiền c u seẽ bao gốềm 3 phầền: ượ
M đầều, N i dung và Kềốt lu n. Trong đó, phầền N i dung seẽ có các ch ng sau: ươ
Ch ng 1: Vai trò qu n lý c a nhà n c đốối v i ho t đ ng văn hoá.ươ ướ
Ch ng 2: Tác đ ng c a toàn cầều đềốn các ho t đ ng văn hoá c a Vi t Nam hi n nay.ươ
Ch ng 3: Gi i pháp đ i m i và nầng cao vai trò qu n lý c a nhà n c đốối v i ho t đ ng văn ươ ướ
hoá trong bốối c nh toàn cầều hoá.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
VĂN HOÁ
1. Một số những khái niệm cơ bản:
a, Văn hoá và hoạt động văn hoá:
rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá, mỗi định nghĩa đều phản ánh một cách nhìn
nhận đánh giá khác nhau. Chung quy thể rút ra một định nghĩa văn hoá theo khái niệm
như sau: Văn hoá tất cả những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo tích luỹ
trong lịch sử, phục vụ cho sự tồn tại và phát triển, nhằm hướng tới chân, thiện, mỹ.
Như vậy, hoạt động văn hoá là quá trình sáng tạo và tổ chức những giá trị vật chất, tinh thần
hưởng thụ các sản phẩm văn hoá.
b, Quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng pháp luật đến các
đối tượng được quản nhằm thực hiện các chức năng chức năng đối ngoại của nhà
nước.Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước gồm:quan nhà nước,nhân được ủy quyền
thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
Hoạt động quảnhiện nay được thực hiện trên các lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và pháp
nhằm thực hiện các chức năng đối với hoạt động quản lý nhà nước.
c, Toàn cầu hoá:
Toàn cầu hoá một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm
tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn
hoá đến môi trường,…) giữa các quốc gia. Nói một cách khác thì “Toàn cầu hoá quá trình
tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất
cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi quan
hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.”.
d, Vai trò của hoạt động văn hoá:
Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa
hội. mục tiêu của phát triển, văn hoá thể hiện trình độ nhân bản hoá ngày càng đầy đủ,
ngày càng toàn diện của con người, khiến mỗi nhân cả cộng đồng ngày một tiến bộ, văn
minh hơn. động lực của phát triểm, văn hoá giải phóng nhân lên tiềm năng sáng tạo
tận của nguồn lực con người, từ đó khai thác tốt nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất
nước, đồng thời tiếp thu sử dụng hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư tài chính cho văn hoá:
Đầu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là một hoạt động sản xuất cũng cần tính đến hiệu quả
đầu tư. Cấp ngân sách cho văn hoá cũng kèm theo những quy tắc như bất kỳ loại hoạt động tài
chính nào khác khi yêu cầu đặt ra là phải đạt tới mục tiêu quốc gia mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra.
- Kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá:
Tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động văn hoá là nhiệm vụ quan trọng
của quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt đoojng của các cơ quan kiểm duyệt, thanh tra do văn hoá
mối quan hệ trực tiếp với chính trị, tác động trực tiếp tới việc hình thành nhân cách; do xu
hướng xã hội hoá văn hoá ngày càng phát triển và mở rộng.
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN HOẠT
ĐỘNG VĂN HOÁ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Toàn cầu hóa xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham
gia. Quá trình này ảnh hưởng rất lớn đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc,
mà trực tiếp nhất là ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước. Đặc biệt là vai trò của nhà nước trong
quản lý hoạt động văn hoá.
1. Thực tiễn của hoạt động văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá:
Thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay
Đảng Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt
Nam, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản nhà nước về văn hóa. Thời gian qua,
công tác quản lý nhà nước về văn hóa đã đạt được nhiều kết quả.
Trước tiên, việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa ở nước ta đã và đang tiếp tục
được hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn. Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan
trọng, như Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện...; kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ
sung một số văn bản luật đã ban hành để phù hợp với tình hình mới, như Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Điện ảnh, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa...
Bên cạnh đó hàng loạt các văn bản dưới luật đã được xây dựng, ban hành. Nhờ đó hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về văn hóa từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả quản nhà nước về văn hóa, tích cực bảo vệ các quyền nghĩa vụ của
nhân dân, tác động sâu rộng đến đời sống văn hóa của đất nước.
Chính phủ ban hành nhiều chế độ, chính sách đặc thù, như chính sách về hoạt động hưởng
thụ văn hóa, nhấtđối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chính sách
về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; những chính sách khuyến khích tôn vinh hoạt động sáng
tạo (Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu
tú, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú); chế độ ưu đãi đặc thù đối với nghệ sĩ, học sinh các
trường văn hóa - nghệ thuật...; các quy định về thành lập bảo tàng, xây dựng tượng đài...; xây
dựng hoàn thiện các quy định, hướng dẫn tổ chức việc cưới, việc tang lễ hội; việc cúng
bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã, việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng...; khuyến khích
nhân dân các xã, phường, thôn ấp, cụm dân cư, khu tập thể, nghiệp, quan xây dựng các
quy ước về nếp sống vǎn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, bảo vệ môi trường thiên
nhiên, cảnh quan sạch đẹp.
Các chiến lược, quy hoạch phát triển các lĩnh vực cũng được xây dựng trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành, gồm Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020; Chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược
phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...; Quy hoạch
phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch phát
triển ngành điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...
Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành văn hóa ngày càng được kiện toàn và củng cố,
từng bước nâng cao năng lực quản lý, đổi mới phương thức quản lý, thúc đẩy sự phát triển
hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, văn nghệ. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
đạo đức, lối sống trong gia đình gắn với chủ đề “Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo
dục đạo đức, lối sống trong gia đình” được đẩy mạnh, đặc biệt vào các dịp Ngày Gia đình
Việt Nam, Ngày Quốc tế hạnh phúc, Ngày Thế giới phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em gái, Tháng Hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.
Thứ ba, Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan các địa
phương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiểm kê, lập hồ đề nghị xếp hạng, ghi danh di sản
văn hóa ở trong nước quốc tế. Cả nước hiện trên 4 vạn di tích được kiểm kê, trong đó
gần 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.486 di tích quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di
sản thế giới (2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa, 1 di sản hỗn hợp), 12 di sản văn hóa phi vật
thể. Ngoài ra, theo Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, đến nay Việt Nam đã có 7 di sản
liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 di sản liệu thế giới và 4 di sản liệu khu vực châu
Á - Thái Bình Dương).
Thứ tư, công tác bảo tàng cũng có những bước phát triển đáng ghi nhận. 166 bảo tàng (127 bảo
tàng công lập 39 bảo tàng ngoài công lập) - nơi lưu giữ phát huy giá trcủa hơn 3 triệu
hiện vật phản ánh toàn diện về đất nước con người Việt Nam trong trường kỳ lịch sử, đã
đang phát huy giá trị góp phần không nhỏ trong việc giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc, về bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời tạo ra những điểm, tuyến du lịch
hấp dẫn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển du lịch. Nhiều bảo tàng trên cả nước bước đầu được
đổi mới trưng bày theo định hướng tăng cường các hiện vật gốc, áp dụng các phương tiện khoa
học - kỹ thuật để làm phong phú hấp dẫn nội dung trưng bày, đổi mới hình thức phục vụ
công chúng để thu hút ngày càng nhiều hơn khách tham quan. Hệ thống bảo tàng phối hợp chặt
chẽ với ngành giáo dục tổ chức cho các em học sinh đến tham quan học tập, tổ chức các hoạt
động văn hóa, thể thao cho các đối tượng học sinh trong dịp kỷ niệm hằng năm, như Ngày Quốc
tế bảo tàng (18-5), Ngày Quốc tế thiếu nhi (1-6), Ngày Hội khai trường (5-9), Ngày Di sản văn
hóa Việt Nam (23-11) nhằm tạo cho thế hệ trẻ niềm tự hào, lòng say tìm hiểu văn hóa, lịch
sử dân tộc để nâng cao tri thức. Hằng năm, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều thu hút trên 1 triệu lượt
khách tham quan; Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng
Lịch sử quân sự Việt Nam, Bảo tàng Điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng, Bảo tàng Đắk Lắk...
cùng nhiều bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh khác cũng đã tự vươn lên để trở thành
những điểm đến thường xuyên trong các tuyến du lịch của nhiều đối tượng du khách. Năm 2017
và 2018, tổng số khách tham quan bảo tàng đều đạt khoảng 16,5 triệu lượt.
Thứ năm, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn cả nước đã có sự chuyển biến tích cực,
dần đi vào nền nếp. Các hoạt động lễ hội diễn ra trang trọng, an toàn, tiết kiệm, cùng nhiều hoạt
động văn hóa, thể thao các trò chơi dân gian sôi nổi thu hút đông đảo nhân dân và du khách
tham gia. Các lễ hội tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với xu thế thời đại đã
chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ.
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành những điểm đến thu hút khách trong ngoài
nước, tạo nên thương hiệu, dấu ấn riêng của địa phương di sản, như Lễ hội đền Sóc, chùa
Hương Nội, Lễ hội đền Hùng tỉnh Phú Thọ, Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc tỉnh Hải
Dương, Lễ hội Yên Tử ở tỉnh Quảng Ninh, ca Huế, Lễ hội Bà Chúa Xứ ở tỉnh An Giang, Lễ hội
Ook om bok tỉnh Trà Vinh, Lễ hội Kate hay Gốm Chăm ở Bàu Trúc, tỉnh Ninh Thuận..., góp
phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao đời sống cộng đồng.
Thứ sáu, việc tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, vượt bậc so với những giai đoạn trước. Quốc hội đã ban hành Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo - một kết quả quan trọng, nỗ lực nhằm mục đích thể chế hóa một cách đầy
đủ nhất quan điểm, chính sách của Đảng về tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Việc xây dựng và ban hành luật này nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân.
Bên cạnh việc thể chế hóa quan điểm, chính sách về tôn giáo, toàn bộ hệ thống chính trị đã rất
quan tâm, chú trọng việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đông đảo chức sắc,
chức việc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân
tộc; đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo đoàn kết, tích cực tham gia phát triển kinh tế
- xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự... góp
phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.
Thứ bảy, hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá
trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, hoạt động giao lưu các đoàn biểu
diễn nghệ thuậttrao đổi sách, báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu, đào tạo... giữa Việt Nam
với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy mạnh. Nhiều hiệp định văn hóa với
các nước nhiều tổ chức quốc tế, các điều ước quốc tế song phương đa phương về di sản
văn hóa, về quyền tác giả quyền liên quan đã được kết; nhiều dự án về hợp tác văn hóa
được thực hiện có hiệu quả. Chúng ta có nhiều cơ hội tiếp xúc rộng rãi hơn với văn hóa thế giới
chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước
những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa
quốc tế trên quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo
được ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn về truyền thống văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Sự
hiện diện, tham gia ảnh hưởng của Việt Nam được tăng cường tại các sự kiện quy mô,
chất lượng, uy tín nhất trên thế giới về văn hóa, như Triển lãm EXPO (EXPO Thượng Hải 2010,
EXPO Hàn Quốc 2012, EXPO Milan 2015, EXPO Astana 2017). Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp
ảnh quốc tế vào Việt Nam các triển lãm của Việt Nam ra nước ngoài thời gian qua cũng đã
làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người bạn bè quốc tế và con người Việt Nam, góp
phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế
giới.
Thứ tám, phát triển công nghiê ˜p văn hóa cũng đạt những thành tựu nhất định. Doanh thu khu
vực doanh nghiệp điện ảnh năm 2018 đạt 3.353 tỷ đồng (tương đương khoảng 145 triệu USD),
dự báo đến năm 2020 ngành điện ảnh thể đạt mức 150 triệu USD. Về du lịch, năm 2018,
nước ta đón gần 15,5 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu
đạt hơn 620.000 tỷ đồng. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, năm 2017 tổng số triển lãm nghệ
thuật trong cả nước 380 cuộc; tác phẩm/tác giả tham gia triển lãm, hội chợ 70.160 tác
phẩm/10.958 tác giả; số lượng người xem triển lãm 1.131.252 người; tổng số kinh phí dành
cho hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh triển lãm 74.949.283 đồng, trong đó từ nguồn ngân
sách nhà nước 43.301.638 đồng, còn lại từ nguồn hội hóa. Về nghệ thuật biểu diễn, năm
2018, 2.118 buổi biểu diễn được tổ chức, doanh thu bán khoảng 104.165.240.400 đồng. Về
quảng cáo, năm 2017 6 tháng đầu năm 2018, doanh thu quảng cáo trên các phương tiện
truyền hình 64.104.908.921 đồng; trên báo in: 1.067.129.234 đồng; trên tạp chí: 762.907.174
đồng; trên đài phát thanh: 1.462.066.374. Số lượng doanh nghiệp của ngành quảng cáo đến năm
2017 là 2.963.
2. Về hạn chế của quản lý nhà nước về văn hóa
Tuy nhiên, công tác quản nhà nước về văn hóa vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay,
tuy chúng ta đang tiến hành quản văn hóa trong chế kinh tế thị trường, nhưng dấu ấn của
chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm, khiến cho nhiều quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức
văn hóa vẫn trông chờ,lại vào Nhà nước, chưa phát huy tốt tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
Chủ trương hội hóa các hoạt động văn hóa chưa phát huy hiệu quả cao. Việc xây dựng
hoàn thiện thể chế văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp luật về văn
hóa chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, việc tổ chức thực hiện còn chậm, một số văn bản
chưa thực sự đi vào cuộc sống. Công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành Văn hóa,
nhất khi mới sáp nhập thành bộ đa ngành còn nhiều lúng túng. Trong khi quản văn hóa
một công việc rất phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi cả về kiến thức, kỹ năng lẫn tâm huyết, tinh thần
trách nhiệm, thì một số cán bộ trong lĩnh vực này (nhất là cấp cơ sở) luôn biến động, còn nhiều
hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng yêu cầu công tác. Thực tế cho thấy, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa ở một số địa phương và lĩnh vực cụ thể chưa cao. Sự tách
bạch giữa quảnnhà nước với hoạt động tác nghiệp chưa rõ, vẫn còn sự trùng chéo, nhầm lẫn
giữa chức năng quản nhà nước với chức năng triển khai các hoạt động mang tính sự nghiệp.
lúc, nơi còn biểu hiện buông lỏng quản lý, nhất trong các lĩnh vực như: di sản văn
hóa, tổ chức lễ hội, bản quyền tác giả,… Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nội dung quản lý ở
một số đơn vị còn yếu, ngân sách sử dụng chưa hiệu quả. Đặc biệt, còn lúng túng trong xử
các hiện tượng văn hóa mới, như: văn hóa trên in-tơ-nét, văn hóa mạng, văn hóa giới trẻ, văn
hóa các nhóm thiểu số trong xã hội, các loại hình nghệ thuật đương đại,… Việc tổ chức một số
phong trào văn hóa còn mang tính hình thức, bề nổi; nội dung phong trào còn nghèo nàn, hiệu
quả xã hội chưa cao. Công tác quản lý tổ chức các lễ kỷ niệm, sự kiện, festival,… còn chưa sát
sao, để xảy ra tình trạng lãng phí, phô trương, hình thức. Hệ thống các thiết chế văn hóa vùng
nông thôn (nhất vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số) còn thiếu; khoảng cách
chênh lệch trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các bộ phận dân còn cao. Việc
kiểm soát xu thế thương mại hóa văn hóa thái quá trong kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa
và sự phục hồi, bùng phát hiện tượng mê tín dị đoan, các hủ tục còn chưa hiệu quả, v.v.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên do văn hóa một ngành đa lĩnh vực, rất phức
tạp, nhạy cảm, chứa đựng cả những yếu tố vật thể phi vật thể, mang tính đặc thù cao, nên
việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, văn hóa dân tộc đang bị chi phối bởi mặt trái
của kinh tế thị trường, với những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, nên thường xuyên xuất
hiện những vấn đề, hiện tượng văn hóa mới, phức tạp, không dễ giải quyết một sớm một chiều.
Quan niệm về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của cấp ủy, chính quyền
một số địa phương cũng như người dân chưa đầy đủ, sâu sắc, làm ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu quả của công tác quản lý. Hệ thống luật pháp liên quan đến văn hóa chưa đồng bộ, còn
nhiều khoảng trống hoặc trùng chéo. Nguồn ngân sách dành cho hoạt động quản chưa đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn. Năng lực nguồn nhân lực quản văn hóa của đất nước vẫn còn
nhiều hạn chế, v.v.
Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế làm xuất hiện tâm lý sùng ngoại, thực
dụng và cá nhân cực đoan, ích kỷ, phai nhạt những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; làm
suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy đảng,
chính quyền, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam còn chưa đầy đủ; văn hóa chưa được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội; việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam ở
một số nơi còn chưa sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nguồn lực đầu trong lĩnh vực
văn hóa còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ. Hệ thống thiết chế văn hóa hiện tại một số địa
phương, từ cấp tỉnh đến cơ sở thiếu kinh phí hoạt động, hiệu quả hoạt động chưa cao. Hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách chưasự ưu tiên, đột phá. Để tháo gỡ những
khó khăn, hạn chế trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam cần có sự đột phá,
ưu tiên về quy trình, thủ tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật. Văn học nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật truyền thống đang bị khủng hoảng lực lượng
sáng tác. Hoạt động luận phê bình các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn còn yếu, thiếu chính
sách thu hút tài năng văn hóa. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho văn
hóa chưa được quan tâm đúng mức. Các ngành công nghiệp văn hóa chưa được đầu đủ
mạnh; chưa có cơ chế thu hút đầu tư quy mô lớn; do vậy chưa tạo bước đột phá.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HOÁ
Giải pháp đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững
Để nâng cao hiệu quả quản nhà nước về văn hóa, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững,
thời gian tới cần triển khai đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp như sau:
3t là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong đổi mới phát triển bền vững.
Đổi mới duy lãnh đạo của Đảng, quảncủa Nhà nước về phát triển văn hóa, xây dựng con
người. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền toàn hội về vị trí, vai trò,
chức năng của văn hóa trong đổi mới và phát triển bền vững, phải văn hóa ngang hàng với kinh
tế, chính trị, hội. Phát triển văn hóa, xây dựng con người phải được chú trọng tương xứng,
hài hòa với phát triển kinh tế - hội. Văn hóa phải giữ vai trò điều tiết, định hướng sự phát
triển đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa hội nhập quốc tế bằng mục tiêu nhân văn, hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa. Đổi
mới việc giáo dục luận chính trị, tưởng trong hội; tăng cường tuyên truyền, nâng cao
nhận thức theo hướng thiết thực, hiệu quả, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội.
Nâng tầm lãnh đạo của Đảng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đổi mới tư duy lãnh đạo
văn hóa - văn nghệ, xây dựng con người của Đảng theo hướng dân chủ, cởi mở, phát huy tính
sáng tạo, chủ động của các chủ thể văn hóa. Xây dựng các chủ trương, đường lối, nghị quyết
bám sát thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa yêu cầu phát triển bền
vững; sự phân quyền ràng giữa Đảng chính quyền trong triển khai thực hiện. Gia tăng
việc kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá trong quá trình thực hiện.
Hai là, hoàn thiện thể chế, đổi mới duy quản văn hóa, cải cách bộ máy quản nhà nước
về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm vai trò kiến tạo phát triển văn hóa,
xây dựng con người, tăng cường hiệu quả của hệ thống thiết chế văn hóa.
Nâng cao năng lực quản nhà nước về văn hóa, xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa cho các
quan quản nhà nước các cấp, đặc biệt năng lực xây dựng thể chế, chính sách, các chương
trình và kế hoạch dài hạn. Từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ văn hóa
thông qua quá trình tiêu chuẩn hóa, tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ.
Xây dựng các luật, chế, chính sách, huy động các lực lượng hội trên nguyên tắc khuyến
khích chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia sáng tạo phân phối sản phẩm văn hóa. Hoàn
thiện các luật trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, các chính sách cụ thể liên quan tới quy trình
sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.
Đổi mới duy quản văn hóa dựa trên tưởng về quyền văn hóa tinh thần xây dựng hệ
thống hành chính công hiện đại; từng bước xây dựng chế phân cấp, phân quyền mới theo
nguyên tắc các cơ quan nhà nước tập trung vào phát triển hệ thống thể chế, đầu tư vào phát triển
kết cấu hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực bậc cao, tổ chức một số hoạt động sự
kiện văn hóa - nghệ thuật quốc gia. Đồng thời, từng bước xây dựngchế tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa. Nghiên cứu
để có lộ trình bỏ chế thẩm định tác phẩm nghệ thuật. Chuyển đổi một phần các tổ chức văn
hóa - nghệ thuật sang hình thức cổ phần hóa.
Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa mới theo hướng tăng cường tính hiệu quả, không phát
triển thiết chế theo một hình thống nhất phải phù hợp với đặc điểm vùng, miền với nhu
cầu và nguyện vọng của người dân; phát huy vai trò và tính tích cực của hệ thống thiết chế văn
hóa cổ truyền, của các tôn giáo và tín ngưỡng; xây dựng một số thiết chế văn hóa tiêu biểu cho
thời đại mới, có trang thiết bị hiện đại, chuyên nghiệp tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm.
Ba là, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của
người tiêu dùng và thị trường ngoài nước.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, tính chuyên môn hóa
cao và đồng bộ, theo đúng quy luật phát triển của công nghiệp văn hóa thế giới, dựa trên đặc thù
tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, hội các vùng, miền, các địa phương khác nhau. Các
ngành công nghiệp văn hóa nội địa được khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa ra các thị
trường nước ngoài, góp phần đưa thông điệp văn hóa Việt Nam, quảng bá văn hóa quốc gia, đưa
thương hiệu văn hóa Việt Nam ra với thế giới. Xây dựng các tổ chức doanh nghiệp văn hóa
đạt tầm quốc tế về chất lượng, hướng đến công chúng phù hợp hơn với hội đương đại.
Xây dựng các thành phố sáng tạo và các vùng sáng tạo để Việt Nam định vị văn hóa và sự sáng
tạo như điểm trọng tâm của các thành phố lớn.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, những chủ thể văn hóa bản
lĩnh, sáng tạo, có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế.
Hướng các hoạt đô ˜ng văn hóa, giáo dục, khoa học vào viê ˜c xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diê ˜n, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, tinh thần nhân văn ý thức lao động. Đề cao
trách nhiê ˜m của mỗi người đối với bản thân, gia đìnhxã hô ˜i. Nâng cao vai trò của gia đình,
nhà trường, tập thể các tổ chức hội khác trong việc thúc đẩy con người hình thành tự
hoàn thiện nhân cách. Huy động sức mạnh của toàn hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Đẩy mạnh các
chương trình giáo dục nghệ thuật truyền thống nhằm làm cho văn hóa Việt Nam thấm sâu vào
tâm hồn và tình cảm mỗi người dân, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
Năm là, củng cố các chính sách, chương trình về văn hóa, tập trung nguồn lực từ Nhà nước
các thành phần kinh tế khác ưu tiên đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng vùng miền núi, biên
giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách hội, đối tượng
chịu thiệt thòi, một số loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại cần bảo tồn, phát triển...
Đổi mới căn bảntoàn diện hệ thống các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật, chú ý tính đặc
thù của văn hóa. Hình thành một số sở đào tạo đại học, sau đại học trọng điểm, bảo đảm
cung cấp nguồn nhân lực văn hóa chất lượng cao. Phấn đấu trường đại học văn hóa - nghệ
thuật đạt đẳng cấp quốc tế.
Xây dựng cơ chế lựa chọn, sử dụng cán bộ văn hóa, văn nghệ. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cấp chiến lược nâng tầm đội ngũ cán bộ tham mưu xây dựng chế, chính sách, pháp
luật; cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ sở. Thực hiện chế
tuyển chọn cán bộ công khai, minh bạch, theo hình thức cạnh tranh, trọng dụng người tài, đức.
Xây dựng các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng văn học - nghệ thuật, phát
triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản... Tiếp tục chế độ tài trợ, đặt hàng giải thưởng cho các tác
phẩm văn học - nghệ thuật, kịch bản phim điện ảnh sản xuất phim, trợ giá xuất bản. Thực
hiện ưu đãi về đất, thuế, phí đối với các cơ sở đào tạo và các thiết chế văn hóa.
Sáu là, xác lập “quyền lực mềm” quốc gia bằng văn hóa, với các chính sách phát triển hợp
trên sở các giá trị đặc sắc, lợi thế cạnh tranh của văn hóa Việt Nam, tạo sức đề kháng trước
sự gia tăng “sức mạnh mềm” của một số quốc gia. Phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc sức hấp dẫn, quảng hiệu quả với cộng đồng quốc tế về một Việt Nam thân
thiện, linh hoạt và yêu chuộng hòa bình. Thúc đẩy các hoạt động tuyên truyền, giáo dục văn hóa
trong nước kết hợp với mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, đa dạng hóa các kênh
truyền thông quảng hình ảnh quốc gia, cũng như phát huy vai trò kết nối, truyền tải các giá
trị văn hóa của kiều bào trên khắp thế giới. Tập trung xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi
đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Phát huy tài năng, tâm huyết của lực lượng trí thức, văn nghệ người Việt Nam ở nước ngoài
trong việc tham gia phát triển văn hóa, văn học - nghệ thuật của đất nước. Thành lập, phát huy
hiệu quả các trung tâm văn hóa và các cơ sở văn hóa ở một số khu vực trọng điểm trên thế giới
để mở rộng việc trao đổi, hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, góp phần nâng cao “sức
mạnh mềm” văn hóa.
Bảy là, phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xây dựng con người
Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ Chính trị, về “Tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trọng tâm là tiếp tục đổi mới,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học - nghệ thuật về đề tài,
nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm. Đẩy mạnh nghiên cứu
hoạt động luận, phê bình văn hóa, văn học - nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết
phục, góp phần hướng dẫn sáng tác xây dựng hệ thống lý luận văn hóa, văn nghệ Việt Nam.
Đề cao đạo đức phê bình, văn hóa tranh luận ý thức trách nhiệm của người phê bình trước
công chúng. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học - nghệ thuật.
Giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với yêu cầu phát
triển kinh tế - hội. Đầu bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu trở thành
những di sản chất lượng cao về khoa học bảo tồn môi trường văn hóa, phục vụ giáo dục
truyền thống phát triển kinh tế du lịch. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận một
cách bài bản, khoa học, góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia. Thực hiê ˜n cơ chế, chính sách tôn
vinh, đãi ngộ các nghê ˜ sĩ, nghê˜ nhân tiêu biểu.
Nâng cao nhận thức, tri thức ý thức chấp hành các quy định pháp luật về quyền tác giả
quyền liên quan trong cộng đồng, đặc biệt là đối với các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ
liên quan. Củng cố, tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động của các quan quản
quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến địa phương.
Chủ động thích ứng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong việc phát triển văn hóa,
xây dựng con người. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt độngquảnhệ thống truyền
thông đại chúng, các phương tiện truyền thông mới, vừa chặt chẽ về nguyên tắc, vừa cởi mở về
cơ chế và hình thức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về văn hóa, thông tin của nhân dân.
Ngoài ra, để tiếp tục đưa văn hóa vào mọi mặt đời sống của xã hội, trở thành động lực thúc đẩy
sự phát triển của đất nước, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, thời gian tới, công
tác quản lý văn hóa phải có những giải pháp quyết liệt, mang tính đổi mới căn bản và toàn diện.
Thực hiện tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 33-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về
“Xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, công tác quản lý văn hoá cần chú trọng một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, . Theo đó, Ngành Vănđẩy nhanh việc củng cố, hoàn thiện thể chế quản văn hóa
hóa, Thể thao và Du lịch cần kịp thời triển khai, cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 9 (khóa XI), làm sở để xây dựng ban hành những chính sách mới về văn hóa; tích
cực hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa, quyền tác giả các
quyền liên quan phù hợp với chuẩn mực quốc tế thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, đẩy mạnh
điều chỉnh hệ thống chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật; bổ sung các
chính sách “kinh tế trong văn hóa” và “văn hóa trong kinh tế”, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
để phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Nhà nước
cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách về xã hội hóa văn hóa; xây dựng các chính sách văn hóa
đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, bùng nổ công nghệ thông tin và truyền thông. Đây
vấn đề rất quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản nhà nước về văn
hóa. Vì thế, các cấp cần thay đổi cách tư duyphương thức tổ chức, điều hành văn hóa, khắc
phục cung cách quan liêu, mệnh lệnh - hành chính, chủ quan, áp đặt từ trên xuống. Mặt khác,
phải đổi mới cách thức quản cung ứng dịch vụ công, nhằm đề cao trách nhiệm, hiệu lực
quản lý của Nhà nước; kiên quyết loại trừ cơ chế “xin - cho” trong đầucho văn hóa. Mọi kế
hoạch phát triển văn hóa phải được xây dựng dựa trên nhu cầu, điều kiện thực tiễn chiến
lược phát triển tổng thể của Ngành đất nước, tạo sự chuyển biến rệt trong công tác cải
cách hành chính, chấn chỉnh lề lối làm việc; chú trọng hiện đại hóa công sở, ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý văn hóa.
Thứ ba, hoàn thiện chế quản đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Với
phương châm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phi tập trung hóa trong quản văn hóa, Nhà
nước cần tăng cường phân cấp cho địa phương để gia tăng trách nhiệm quản cấp sở.
Đồng thời, xác địnhnhững lĩnh vực cần can thiệp hoặc không can thiệp. Theo đó, Nhà nước
chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, không lấn sân, làm thay công việc của người dân; đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp
trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực văn hóa; tiến hành
rà soát, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm
nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Các cấp cần phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội
của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động
văn hóa; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời các tổ chức, cá nhân có đóng
góp hiệu quả trong công tác quản lý văn hóa.
Thứ năm, . Các cấp cần thực hiện tốt côngnâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa
tác “chuẩn hóa” cán bộ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trong hàng ngũ lãnh
đạo, quản lý, tham mưu cũng như công chức, viên chức ngành Văn hóa. Thực hiện chính sách
trọng dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ cán bộ phù hợp; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý văn hóa.
Thứ sáu, tăng cường chế phối hợp trong quản văn hóa với các bộ, ban, ngành, đoàn thể,
đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin truyền thông, pháp luật, an ninh,… Chủ động xử
hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, hội, nghề nghiệp cộng
đồng, v.v.
KẾT LUẬN
Phải khẳng định rằng, toàn cầu hoá chính xu thế tất yếu trong lịch sử nhân loại. Các hoạt
động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đã có sự thay đổi đáng kể, có cả những tác động tích
cực lẫn tiêu cực. Văn hoá lại đóng vai trò cùng quan trọng trong đời sống tinh thần vật
chất của con người, đặc biệt với một đất nước coi trọng các giá trị văn hoá giàu truyền
thống như Việt Nam chúng ta. Để có thể giữ gìn được các hoạt động văn hoá và vẫn có thể hội
nhập với xu thế toàn cầu thì vai trò quảncủa nhà nước cùng quan trọng trong bối cảnh
hiện tại. Chúng ta không thể đứng ngoài xu thế chung này chúng ta thể lựa chọn một
chính sách khôn ngoan tận dụng hội từ quá trình hội nhập. Chúng ta cần phải biết chủ
động hướng các chính sách sao cho phù hợp với xu thế toàn cầu hoá về văn hoá không làm
mất đi bản sắc dân tộc. Đây một biện pháp cấp bách tốt nhất của Việt Nam tất cả các
dân tộc cùng nhau xây dựng một thời đại toàn cầu hoá, vừa cạnh tranh vừa hợp tác hoà bình,
một thế giới ngày càng ổn định hơn trong tương lai.
Văn hóa một lĩnh vực rộng lớn, đa dạng phức tạp. Do vậy, quản văn hóa luôn phải
đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn. Để đạt được những bước đột phá trong công tác này
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về văn hóa, những năm tới, đòi hỏi ngành
Văn hóa, từ cấp lãnh đạo đến địa phương, cơ sở cùng toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của
Ngành phảinhững cố gắng, nỗ lực cao, đưa văn hóa dân tộc hoạt động đúng hướng, bắt kịp
thực tiễn phát triển của đất nước và xu thế hội nhập toàn cầu mạnh mẽ trên thế giới hiện nay.
| 1/22

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC --- --- TIỂU LUẬN
MÔN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài: Tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối
với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay
Họ và tên : Lê Minh Ngọc Lớp
: Truyền thông chính sách K40 Mã sinh viên : 2055380034
Giảng viên : TS. Dương Thị Thục Anh HÀ NỘI –2022 A. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài
năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và nhân loại.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã chứng minh: nhờ có nền tảng văn hóa,
hòa nhập và phát triển, nên nhân dân ta đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, sức sáng tạo to lớn để thắng “thiên tai, địch họa”, giữ vững nền độc lập và bản sắc văn hóa.
Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thì vai trò của văn hóa càng được khẳng định, nhất là
trong điều tiết, cân bằng sự phát triển của đất nước, không để sự phát triển nhanh, nóng, dẫn tới
những hệ lụy khó lường cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v.
Trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa đóng vai trò rất quan trọng. Trên
phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý văn hóa sẽ góp phần định hướng, điều chỉnh sự phát triển
của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng
cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa dân tộc. Trên phương diện vi mô,
hoạt động quản lý văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, nhóm dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự
tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Những năm qua, quán triệt tinh thần: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội”1 của Đảng, hoạt động quản lý văn hóa ở Việt Nam đã có những kết quả khả quan. Việc
xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa ngày càng được kiện toàn theo hướng thiết thực, hiệu quả.
Ngành văn hóa đã tập trung xây dựng, ban hành và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ, có giá trị pháp lý cao trên lĩnh vực văn
hóa, tạo điều kiện để hoạt động quản lý ngày càng thuận lợi. Một số Luật đã được sửa đổi, bổ
sung và ban hành, đáp ứng tình hình thực tiễn, như: Luật Di sản vǎn hóa, Luật Điện ảnh, Luật
Thể dục thể thao, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Du lịch, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện,… Bên cạnh đó, hàng loạt các văn bản
quy phạm pháp luật khác cũng được xây dựng và hoàn thiện, góp phần tạo cơ sở pháp lý cho
công tác quản lý văn hóa. Qua đó, đã tạo điều kiện cho sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế trong kinh doanh và hoạt động văn hóa, khuyến khích sự mở cửa, giải phóng các nguồn lực,
huy động được sự tham gia của toàn xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa. Hệ thống
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được kiện toàn và củng cố.
Công tác “chuẩn hóa” cán bộ bước đầu phát huy tác dụng; đội ngũ cán bộ quản lý ngành văn
hóa được đảm bảo về phẩm chất chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ,
tin học,… Các thiết chế văn hóa từ Trung ương tới địa phương từng bước được hoàn chỉnh,
nâng cao chất lượng hoạt động. Nhiều trung tâm văn hoá - thông tin - thể thao, nhà hát, câu lạc
bộ, rạp chiếu phim, khu di tích lịch sử - văn hoá, bảo tàng, thư viện, nhà triển lãm, cửa hàng
sách, báo, khu vui chơi giải trí,… có những đổi mới về phương thức hoạt động, cơ sở vật chất
được cải thiện. Một số công trình có quy mô lớn, kiến trúc đẹp, chất lượng phục vụ tốt đã đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân. Việc kiểm tra, giám
sát các hoạt động văn hóa được thực hiện thường xuyên, liên tục, bảo đảm sự vận hành của các
hoạt động văn hóa. Nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận đã được thanh tra, kiểm tra, xử lý
kịp thời. Nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra ngày càng đi vào quy củ, công tác quản lý văn hóa
đã có những chuyển biến tốt. Cơ chế quản lý văn hóa đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa đất
nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của
các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa và loại hình
giải trí. Chính sách xã hội hóa trong văn hóa đã khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia
xây dựng và phát triển văn hóa đất nước, v.v
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, không một quốc gia nào có thể phát triển nếu
đứng ngoài quá trình này. Việt Nam cũng là một quốc gia biến động không ngừng nghỉ và có
nhiều biến chuyển do tác động của toàn cầu hoá. Tuy nhiên, trước quá trình toàn cầu hoá, trong
lòng xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, đặc biệt là trong các hoạt động văn hoá, đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân và vai trò quản lý của nhà nước. Đây là thời điểm
mà nhà nước cần nâng cao trách nhiệm và vai trò quản lý trong các hoạt động văn hoá của đất nước.
Chính vì lý do trên, tiểu luận lựa chọn “Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động
văn hoá trong thời đại toàn cầu hoá” là vấn đề nghiên cứu nhằm thể hiện góc nhìn về thực tiễn
của các hoạt động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của nhà nước trong quản lý các hoạt động văn hoá trong thời đại không ngừng biến chuyển của đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trước những tác động của quá trình toàn cầu hoá đến các hoạt động văn hoá, gây nên những
ảnh hưởng tiêu cực của đời sống thì vai trò quản lý của nhà nước cần phải được tăng cường hơn
bao giờ hết. Mặc dù đã có nhiều thành tựu trong quá trình quản lý, song những ảnh hưởng tiêu
cực vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết triệt để. Vậy nên, bài tiểu luận “Tăng cường vai trò
quản lý Nhà nước đối với hoạt động văn hoá trong thời đại toàn cầu hoá” được thực hiện nhằm
mục đích đưa ra thực trạng của quá trình toàn cầu hoá trong các hoạt động văn hoá tại Việt Nam
hiện nay và đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với
các hoạt động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Để bài tiểu luận đạt được mục đích đã đề ra thì cần làm rõ những nhiệm vụ sau:
Vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động văn hoá
Tác động của toàn cầu hoá đến các hoạt động văn hoá của Việt Nam hiện nay.
Giải pháp đổi mới và nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động văn hoá
trong bối cảnh toàn cầu hoá. 3. Đốối t ng và ph ượ ạm vi nghiên cứ u: V i đềề tài “ ớ Tăng c n
ườ g vai trò qu n lý Nhà n ả c đốối v ướ ớ i ho ạ t đ
ộ ng văn hoá trong thờ i đ ạ i toàn cầều hoá”, bài t u lu ể n gi ậ
ớ i hạ n phạ m vi nghiền c ứ u vai trò qu ả n lý c ủ a nhà n ướ c trong các ho ạ t đ ng vă ộ
n hoá và đốối tượng chính là vai trò quản lý củ a nhà nướ c.
Phươ ng pháp nghiền cứ u: Ti u lu ể n d ậ a trền ph ự ng pháp duy v ươ t bi ậ n ch ệ ng c ứ a ch ủ nghĩa Mác – Lenin, t ủ t ư ưở ng Hốề
Chí Minh cùng các quan đi m c ể a Đ ủ ng C ả n ộ g s n
ả Việt Nam, chính sách của nhà nước vềề văn hoá. Đốềng th i, s
ờ ử dụ ng phươ ng pháp nghiền cứ u phần tch và tổng hợ p lý thuyềốt, ph ươ ng pháp thu thậ p thống tn.
4. Kêốt cấốu củ a tể u luậ n: Đ đ t đ ể ạ c m
ượ c đích đã đềề ra v ụ à khai thác tri t đệ ch ể đềề, bài nghiền c ủ
u seẽ bao gốềm 3 phầền: ứ M đầều, N ở i dung v ộ à Kềốt lu n. ậ Trong đó, phầền N i
ộ dung seẽ có các chươ ng sau: Ch ng 1: ươ Vai trò qu n lý c ả a nhà n ủ c đốối v ướ ớ i hoạ t đ ộ ng văn hoá. Ch ng 2: ươ Tác đ ng c ộ a
ủ toàn cầều đềốn các hoạ t độ ng văn hoá củ a Việ t Nam hiệ n nay. Ch ng 3: Gi ươ i pháp đ ả i m ổ i và nầng c ớ ao vai trò qu n lý c ả a nhà n ủ c đốối v ướ ớ i hoạ t đ ộ ng văn hoá trong bốối c nh toà ả n cầều hoá. B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ
1. Một số những khái niệm cơ bản:
a, Văn hoá và hoạt động văn hoá:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá, mỗi định nghĩa đều phản ánh một cách nhìn
nhận và đánh giá khác nhau. Chung quy có thể rút ra một định nghĩa văn hoá theo khái niệm
như sau: Văn hoá là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ
trong lịch sử, phục vụ cho sự tồn tại và phát triển, nhằm hướng tới chân, thiện, mỹ.
Như vậy, hoạt động văn hoá là quá trình sáng tạo và tổ chức những giá trị vật chất, tinh thần và
hưởng thụ các sản phẩm văn hoá. b, Quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng pháp luật đến các
đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và chức năng đối ngoại của nhà
nước.Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước gồm: cơ quan nhà nước, cá nhân được ủy quyền
thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
Hoạt động quản lý hiện nay được thực hiện trên các lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm thực hiện các chức năng đối với hoạt động quản lý nhà nước. c, Toàn cầu hoá:
Toàn cầu hoá là một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm
tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn
hoá đến môi trường,…) giữa các quốc gia. Nói một cách khác thì “Toàn cầu hoá là quá trình
tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất
cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan
hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.”.
d, Vai trò của hoạt động văn hoá:
Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội. Là mục tiêu của phát triển, văn hoá thể hiện trình độ nhân bản hoá ngày càng đầy đủ,
ngày càng toàn diện của con người, khiến mỗi cá nhân và cả cộng đồng ngày một tiến bộ, văn
minh hơn. Là động lực của phát triểm, văn hoá giải phóng và nhân lên tiềm năng sáng tạo vô
tận của nguồn lực con người, từ đó khai thác tốt nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất
nước, đồng thời tiếp thu và sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư tài chính cho văn hoá:
Đầu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là một hoạt động sản xuất cũng cần tính đến hiệu quả
đầu tư. Cấp ngân sách cho văn hoá cũng kèm theo những quy tắc như bất kỳ loại hoạt động tài
chính nào khác khi yêu cầu đặt ra là phải đạt tới mục tiêu quốc gia mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
- Kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá:
Tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động văn hoá là nhiệm vụ quan trọng
của quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt đoojng của các cơ quan kiểm duyệt, thanh tra do văn hoá
có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, tác động trực tiếp tới việc hình thành nhân cách; do xu
hướng xã hội hoá văn hoá ngày càng phát triển và mở rộng.
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN HOẠT
ĐỘNG VĂN HOÁ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham
gia. Quá trình này có ảnh hưởng rất lớn đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc,
mà trực tiếp nhất là ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước. Đặc biệt là vai trò của nhà nước trong
quản lý hoạt động văn hoá.
1. Thực tiễn của hoạt động văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá:
Thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Thời gian qua,
công tác quản lý nhà nước về văn hóa đã đạt được nhiều kết quả.
Trước tiên, việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa ở nước ta đã và đang tiếp tục
được hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn. Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan
trọng, như Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện...; kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ
sung một số văn bản luật đã ban hành để phù hợp với tình hình mới, như Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Điện ảnh, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa...
Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản dưới luật đã được xây dựng, ban hành. Nhờ đó hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về văn hóa từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, tích cực bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của
nhân dân, tác động sâu rộng đến đời sống văn hóa của đất nước.
Chính phủ ban hành nhiều chế độ, chính sách đặc thù, như chính sách về hoạt động và hưởng
thụ văn hóa, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chính sách
về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; những chính sách khuyến khích và tôn vinh hoạt động sáng
tạo (Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu
tú, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú); chế độ ưu đãi đặc thù đối với nghệ sĩ, học sinh các
trường văn hóa - nghệ thuật...; các quy định về thành lập bảo tàng, xây dựng tượng đài...; xây
dựng và hoàn thiện các quy định, hướng dẫn tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội; việc cúng
bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã, việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng...; khuyến khích
nhân dân các xã, phường, thôn ấp, cụm dân cư, khu tập thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các
quy ước về nếp sống vǎn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, bảo vệ môi trường thiên
nhiên, cảnh quan sạch đẹp.
Các chiến lược, quy hoạch phát triển các lĩnh vực cũng được xây dựng và trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành, gồm Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020; Chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược
phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...; Quy hoạch
phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch phát
triển ngành điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...
Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành văn hóa ngày càng được kiện toàn và củng cố,
từng bước nâng cao năng lực quản lý, đổi mới phương thức quản lý, thúc đẩy sự phát triển và
hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, văn nghệ. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
đạo đức, lối sống trong gia đình gắn với chủ đề “Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo
dục đạo đức, lối sống trong gia đình” được đẩy mạnh, đặc biệt là vào các dịp Ngày Gia đình
Việt Nam, Ngày Quốc tế hạnh phúc, Ngày Thế giới phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em gái, Tháng Hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.
Thứ ba, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa
phương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiểm kê, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng, ghi danh di sản
văn hóa ở trong nước và quốc tế. Cả nước hiện có trên 4 vạn di tích được kiểm kê, trong đó có
gần 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.486 di tích quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di
sản thế giới (2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa, 1 di sản hỗn hợp), 12 di sản văn hóa phi vật
thể. Ngoài ra, theo Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, đến nay Việt Nam đã có 7 di sản
tư liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 4 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương).
Thứ tư, công tác bảo tàng cũng có những bước phát triển đáng ghi nhận. 166 bảo tàng (127 bảo
tàng công lập và 39 bảo tàng ngoài công lập) - nơi lưu giữ và phát huy giá trị của hơn 3 triệu
hiện vật phản ánh toàn diện về đất nước và con người Việt Nam trong trường kỳ lịch sử, đã và
đang phát huy giá trị góp phần không nhỏ trong việc giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc, về bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời tạo ra những điểm, tuyến du lịch
hấp dẫn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển du lịch. Nhiều bảo tàng trên cả nước bước đầu được
đổi mới trưng bày theo định hướng tăng cường các hiện vật gốc, áp dụng các phương tiện khoa
học - kỹ thuật để làm phong phú và hấp dẫn nội dung trưng bày, đổi mới hình thức phục vụ
công chúng để thu hút ngày càng nhiều hơn khách tham quan. Hệ thống bảo tàng phối hợp chặt
chẽ với ngành giáo dục tổ chức cho các em học sinh đến tham quan học tập, tổ chức các hoạt
động văn hóa, thể thao cho các đối tượng học sinh trong dịp kỷ niệm hằng năm, như Ngày Quốc
tế bảo tàng (18-5), Ngày Quốc tế thiếu nhi (1-6), Ngày Hội khai trường (5-9), Ngày Di sản văn
hóa Việt Nam (23-11) nhằm tạo cho thế hệ trẻ niềm tự hào, lòng say mê tìm hiểu văn hóa, lịch
sử dân tộc để nâng cao tri thức. Hằng năm, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều thu hút trên 1 triệu lượt
khách tham quan; Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng
Lịch sử quân sự Việt Nam, Bảo tàng Điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng, Bảo tàng Đắk Lắk...
cùng nhiều bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh khác cũng đã tự vươn lên để trở thành
những điểm đến thường xuyên trong các tuyến du lịch của nhiều đối tượng du khách. Năm 2017
và 2018, tổng số khách tham quan bảo tàng đều đạt khoảng 16,5 triệu lượt.
Thứ năm, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn cả nước đã có sự chuyển biến tích cực,
dần đi vào nền nếp. Các hoạt động lễ hội diễn ra trang trọng, an toàn, tiết kiệm, cùng nhiều hoạt
động văn hóa, thể thao và các trò chơi dân gian sôi nổi thu hút đông đảo nhân dân và du khách
tham gia. Các lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với xu thế thời đại đã
chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ.
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành những điểm đến thu hút khách trong và ngoài
nước, tạo nên thương hiệu, dấu ấn riêng của địa phương có di sản, như Lễ hội đền Sóc, chùa
Hương ở Hà Nội, Lễ hội đền Hùng ở tỉnh Phú Thọ, Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc ở tỉnh Hải
Dương, Lễ hội Yên Tử ở tỉnh Quảng Ninh, ca Huế, Lễ hội Bà Chúa Xứ ở tỉnh An Giang, Lễ hội
Ook om bok ở tỉnh Trà Vinh, Lễ hội Kate hay Gốm Chăm ở Bàu Trúc, tỉnh Ninh Thuận..., góp
phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao đời sống cộng đồng.
Thứ sáu, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, vượt bậc so với những giai đoạn trước. Quốc hội đã ban hành Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo - một kết quả quan trọng, nỗ lực nhằm mục đích thể chế hóa một cách đầy
đủ nhất quan điểm, chính sách của Đảng về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Việc xây dựng và ban hành luật này nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân.
Bên cạnh việc thể chế hóa quan điểm, chính sách về tôn giáo, toàn bộ hệ thống chính trị đã rất
quan tâm, chú trọng việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đông đảo chức sắc,
chức việc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân
tộc; đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo đoàn kết, tích cực tham gia phát triển kinh tế
- xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự... góp
phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.
Thứ bảy, hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá
trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, hoạt động giao lưu các đoàn biểu
diễn nghệ thuật và trao đổi sách, báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu, đào tạo... giữa Việt Nam
với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy mạnh. Nhiều hiệp định văn hóa với
các nước và nhiều tổ chức quốc tế, các điều ước quốc tế song phương và đa phương về di sản
văn hóa, về quyền tác giả và quyền liên quan đã được ký kết; nhiều dự án về hợp tác văn hóa
được thực hiện có hiệu quả. Chúng ta có nhiều cơ hội tiếp xúc rộng rãi hơn với văn hóa thế giới
và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước
những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa
quốc tế trên quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo
được ấn tượng tốt đẹp trong lòng bè bạn về truyền thống văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Sự
hiện diện, tham gia và ảnh hưởng của Việt Nam được tăng cường tại các sự kiện có quy mô,
chất lượng, uy tín nhất trên thế giới về văn hóa, như Triển lãm EXPO (EXPO Thượng Hải 2010,
EXPO Hàn Quốc 2012, EXPO Milan 2015, EXPO Astana 2017). Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp
ảnh quốc tế vào Việt Nam và các triển lãm của Việt Nam ra nước ngoài thời gian qua cũng đã
làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người bạn bè quốc tế và con người Việt Nam, góp
phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Thứ tám, phát triển công nghiê ˜p văn hóa cũng đạt những thành tựu nhất định. Doanh thu khu
vực doanh nghiệp điện ảnh năm 2018 đạt 3.353 tỷ đồng (tương đương khoảng 145 triệu USD),
dự báo đến năm 2020 ngành điện ảnh có thể đạt mức 150 triệu USD. Về du lịch, năm 2018,
nước ta đón gần 15,5 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu
đạt hơn 620.000 tỷ đồng. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, năm 2017 tổng số triển lãm nghệ
thuật trong cả nước là 380 cuộc; tác phẩm/tác giả tham gia triển lãm, hội chợ là 70.160 tác
phẩm/10.958 tác giả; số lượng người xem triển lãm là 1.131.252 người; tổng số kinh phí dành
cho hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm là 74.949.283 đồng, trong đó từ nguồn ngân
sách nhà nước là 43.301.638 đồng, còn lại từ nguồn xã hội hóa. Về nghệ thuật biểu diễn, năm
2018, 2.118 buổi biểu diễn được tổ chức, doanh thu bán vé khoảng 104.165.240.400 đồng. Về
quảng cáo, năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018, doanh thu quảng cáo trên các phương tiện
truyền hình là 64.104.908.921 đồng; trên báo in: 1.067.129.234 đồng; trên tạp chí: 762.907.174
đồng; trên đài phát thanh: 1.462.066.374. Số lượng doanh nghiệp của ngành quảng cáo đến năm 2017 là 2.963.
2. Về hạn chế của quản lý nhà nước về văn hóa
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về văn hóa vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay,
tuy chúng ta đang tiến hành quản lý văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, nhưng dấu ấn của
cơ chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm, khiến cho nhiều cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức
văn hóa vẫn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa phát huy tốt tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa phát huy hiệu quả cao. Việc xây dựng và
hoàn thiện thể chế văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp luật về văn
hóa chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, việc tổ chức thực hiện còn chậm, một số văn bản
chưa thực sự đi vào cuộc sống. Công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành Văn hóa,
nhất là khi mới sáp nhập thành bộ đa ngành còn nhiều lúng túng. Trong khi quản lý văn hóa là
một công việc rất phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi cả về kiến thức, kỹ năng lẫn tâm huyết, tinh thần
trách nhiệm, thì một số cán bộ trong lĩnh vực này (nhất là cấp cơ sở) luôn biến động, còn nhiều
hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng yêu cầu công tác. Thực tế cho thấy, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa ở một số địa phương và lĩnh vực cụ thể chưa cao. Sự tách
bạch giữa quản lý nhà nước với hoạt động tác nghiệp chưa rõ, vẫn còn sự trùng chéo, nhầm lẫn
giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng triển khai các hoạt động mang tính sự nghiệp.
Có lúc, có nơi còn có biểu hiện buông lỏng quản lý, nhất là trong các lĩnh vực như: di sản văn
hóa, tổ chức lễ hội, bản quyền tác giả,… Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nội dung quản lý ở
một số đơn vị còn yếu, ngân sách sử dụng chưa hiệu quả. Đặc biệt, còn lúng túng trong xử lý
các hiện tượng văn hóa mới, như: văn hóa trên in-tơ-nét, văn hóa mạng, văn hóa giới trẻ, văn
hóa các nhóm thiểu số trong xã hội, các loại hình nghệ thuật đương đại,… Việc tổ chức một số
phong trào văn hóa còn mang tính hình thức, bề nổi; nội dung phong trào còn nghèo nàn, hiệu
quả xã hội chưa cao. Công tác quản lý tổ chức các lễ kỷ niệm, sự kiện, festival,… còn chưa sát
sao, để xảy ra tình trạng lãng phí, phô trương, hình thức. Hệ thống các thiết chế văn hóa vùng
nông thôn (nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số) còn thiếu; khoảng cách
chênh lệch trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các bộ phận dân cư còn cao. Việc
kiểm soát xu thế thương mại hóa văn hóa thái quá trong kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa
và sự phục hồi, bùng phát hiện tượng mê tín dị đoan, các hủ tục còn chưa hiệu quả, v.v.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do văn hóa là một ngành đa lĩnh vực, rất phức
tạp, nhạy cảm, chứa đựng cả những yếu tố vật thể và phi vật thể, mang tính đặc thù cao, nên
việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, văn hóa dân tộc đang bị chi phối bởi mặt trái
của kinh tế thị trường, với những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, nên thường xuyên xuất
hiện những vấn đề, hiện tượng văn hóa mới, phức tạp, không dễ giải quyết một sớm một chiều.
Quan niệm về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của cấp ủy, chính quyền
một số địa phương cũng như người dân chưa đầy đủ, sâu sắc, làm ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu quả của công tác quản lý. Hệ thống luật pháp liên quan đến văn hóa chưa đồng bộ, còn
nhiều khoảng trống hoặc trùng chéo. Nguồn ngân sách dành cho hoạt động quản lý chưa đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn. Năng lực nguồn nhân lực quản lý văn hóa của đất nước vẫn còn nhiều hạn chế, v.v.
Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế làm xuất hiện tâm lý sùng ngoại, thực
dụng và cá nhân cực đoan, ích kỷ, phai nhạt những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; làm
suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy đảng,
chính quyền, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam còn chưa đầy đủ; văn hóa chưa được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội; việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam ở
một số nơi còn chưa có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nguồn lực đầu tư trong lĩnh vực
văn hóa còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ. Hệ thống thiết chế văn hóa hiện có tại một số địa
phương, từ cấp tỉnh đến cơ sở thiếu kinh phí hoạt động, hiệu quả hoạt động chưa cao. Hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách chưa có sự ưu tiên, đột phá. Để tháo gỡ những
khó khăn, hạn chế trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam cần có sự đột phá,
ưu tiên về quy trình, thủ tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật. Văn học nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật truyền thống đang bị khủng hoảng lực lượng
sáng tác. Hoạt động lý luận phê bình các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn còn yếu, thiếu chính
sách thu hút tài năng văn hóa. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho văn
hóa chưa được quan tâm đúng mức. Các ngành công nghiệp văn hóa chưa được đầu tư đủ
mạnh; chưa có cơ chế thu hút đầu tư quy mô lớn; do vậy chưa tạo bước đột phá.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ
Giải pháp đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững,
thời gian tới cần triển khai đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp như sau: Mô 3
t là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong đổi mới và phát triển bền vững.
Đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về phát triển văn hóa, xây dựng con
người. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội về vị trí, vai trò,
chức năng của văn hóa trong đổi mới và phát triển bền vững, phải văn hóa ngang hàng với kinh
tế, chính trị, xã hội. Phát triển văn hóa, xây dựng con người phải được chú trọng tương xứng,
hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải giữ vai trò điều tiết, định hướng sự phát
triển đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế bằng mục tiêu nhân văn, hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa. Đổi
mới việc giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong xã hội; tăng cường tuyên truyền, nâng cao
nhận thức theo hướng thiết thực, hiệu quả, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội.
Nâng tầm lãnh đạo của Đảng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đổi mới tư duy lãnh đạo
văn hóa - văn nghệ, xây dựng con người của Đảng theo hướng dân chủ, cởi mở, phát huy tính
sáng tạo, chủ động của các chủ thể văn hóa. Xây dựng các chủ trương, đường lối, nghị quyết
bám sát thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu phát triển bền
vững; có sự phân quyền rõ ràng giữa Đảng và chính quyền trong triển khai thực hiện. Gia tăng
việc kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá trong quá trình thực hiện.
Hai là, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý nhà nước
về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm vai trò kiến tạo phát triển văn hóa,
xây dựng con người, tăng cường hiệu quả của hệ thống thiết chế văn hóa.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về văn hóa, xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa cho các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp, đặc biệt là năng lực xây dựng thể chế, chính sách, các chương
trình và kế hoạch dài hạn. Từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ văn hóa
thông qua quá trình tiêu chuẩn hóa, tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ.
Xây dựng các luật, cơ chế, chính sách, huy động các lực lượng xã hội trên nguyên tắc khuyến
khích và chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia sáng tạo và phân phối sản phẩm văn hóa. Hoàn
thiện các luật trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, các chính sách cụ thể liên quan tới quy trình
sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.
Đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa trên tư tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ
thống hành chính công hiện đại; từng bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo
nguyên tắc các cơ quan nhà nước tập trung vào phát triển hệ thống thể chế, đầu tư vào phát triển
kết cấu hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực bậc cao, tổ chức một số hoạt động và sự
kiện văn hóa - nghệ thuật quốc gia. Đồng thời, từng bước xây dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa. Nghiên cứu
để có lộ trình bỏ cơ chế thẩm định tác phẩm nghệ thuật. Chuyển đổi một phần các tổ chức văn
hóa - nghệ thuật sang hình thức cổ phần hóa.
Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa mới theo hướng tăng cường tính hiệu quả, không phát
triển thiết chế theo một mô hình thống nhất mà phải phù hợp với đặc điểm vùng, miền với nhu
cầu và nguyện vọng của người dân; phát huy vai trò và tính tích cực của hệ thống thiết chế văn
hóa cổ truyền, của các tôn giáo và tín ngưỡng; xây dựng một số thiết chế văn hóa tiêu biểu cho
thời đại mới, có trang thiết bị hiện đại, chuyên nghiệp tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm.
Ba là, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của
người tiêu dùng và thị trường ngoài nước.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa
cao và đồng bộ, theo đúng quy luật phát triển của công nghiệp văn hóa thế giới, dựa trên đặc thù
tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng, miền, các địa phương khác nhau. Các
ngành công nghiệp văn hóa nội địa được khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa ra các thị
trường nước ngoài, góp phần đưa thông điệp văn hóa Việt Nam, quảng bá văn hóa quốc gia, đưa
thương hiệu văn hóa Việt Nam ra với thế giới. Xây dựng các tổ chức và doanh nghiệp văn hóa
đạt tầm quốc tế về chất lượng, hướng đến công chúng và phù hợp hơn với xã hội đương đại.
Xây dựng các thành phố sáng tạo và các vùng sáng tạo để Việt Nam định vị văn hóa và sự sáng
tạo như điểm trọng tâm của các thành phố lớn.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, là những chủ thể văn hóa có bản
lĩnh, sáng tạo, có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế.
Hướng các hoạt đô ˜ng văn hóa, giáo dục, khoa học vào viê ˜c xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diê ˜n, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, có tinh thần nhân văn và ý thức lao động. Đề cao
trách nhiê ˜m của mỗi người đối với bản thân, gia đình và xã hô ˜i. Nâng cao vai trò của gia đình,
nhà trường, tập thể và các tổ chức xã hội khác trong việc thúc đẩy con người hình thành và tự
hoàn thiện nhân cách. Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Đẩy mạnh các
chương trình giáo dục nghệ thuật truyền thống nhằm làm cho văn hóa Việt Nam thấm sâu vào
tâm hồn và tình cảm mỗi người dân, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
Năm là, củng cố các chính sách, chương trình về văn hóa, tập trung nguồn lực từ Nhà nước và
các thành phần kinh tế khác ưu tiên đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng vùng miền núi, biên
giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách xã hội, đối tượng
chịu thiệt thòi, một số loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại cần bảo tồn, phát triển...
Đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật, chú ý tính đặc
thù của văn hóa. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, sau đại học trọng điểm, bảo đảm
cung cấp nguồn nhân lực văn hóa chất lượng cao. Phấn đấu có trường đại học văn hóa - nghệ
thuật đạt đẳng cấp quốc tế.
Xây dựng cơ chế lựa chọn, sử dụng cán bộ văn hóa, văn nghệ. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ ở cấp chiến lược và nâng tầm đội ngũ cán bộ tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách, pháp
luật; cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Thực hiện cơ chế
tuyển chọn cán bộ công khai, minh bạch, theo hình thức cạnh tranh, trọng dụng người tài, đức.
Xây dựng các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học - nghệ thuật, phát
triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản... Tiếp tục chế độ tài trợ, đặt hàng và giải thưởng cho các tác
phẩm văn học - nghệ thuật, kịch bản phim điện ảnh và sản xuất phim, trợ giá xuất bản. Thực
hiện ưu đãi về đất, thuế, phí đối với các cơ sở đào tạo và các thiết chế văn hóa.
Sáu là, xác lập “quyền lực mềm” quốc gia bằng văn hóa, với các chính sách phát triển hợp lý
trên cơ sở các giá trị đặc sắc, lợi thế cạnh tranh của văn hóa Việt Nam, tạo sức đề kháng trước
sự gia tăng “sức mạnh mềm” của một số quốc gia. Phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc có sức hấp dẫn, quảng bá hiệu quả với cộng đồng quốc tế về một Việt Nam thân
thiện, linh hoạt và yêu chuộng hòa bình. Thúc đẩy các hoạt động tuyên truyền, giáo dục văn hóa
trong nước kết hợp với mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, đa dạng hóa các kênh
truyền thông quảng bá hình ảnh quốc gia, cũng như phát huy vai trò kết nối, truyền tải các giá
trị văn hóa của kiều bào trên khắp thế giới. Tập trung xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi
đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Phát huy tài năng, tâm huyết của lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài
trong việc tham gia phát triển văn hóa, văn học - nghệ thuật của đất nước. Thành lập, phát huy
hiệu quả các trung tâm văn hóa và các cơ sở văn hóa ở một số khu vực trọng điểm trên thế giới
để mở rộng việc trao đổi, hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, góp phần nâng cao “sức mạnh mềm” văn hóa.
Bảy là, phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xây dựng con người
Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ Chính trị, về “Tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trọng tâm là tiếp tục đổi mới,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học - nghệ thuật về đề tài,
nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm. Đẩy mạnh nghiên cứu và
hoạt động lý luận, phê bình văn hóa, văn học - nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết
phục, góp phần hướng dẫn sáng tác và xây dựng hệ thống lý luận văn hóa, văn nghệ Việt Nam.
Đề cao đạo đức phê bình, văn hóa tranh luận và ý thức trách nhiệm của người phê bình trước
công chúng. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học - nghệ thuật.
Giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu trở thành
những di sản có chất lượng cao về khoa học bảo tồn và môi trường văn hóa, phục vụ giáo dục
truyền thống và phát triển kinh tế du lịch. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận một
cách bài bản, khoa học, góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia. Thực hiê ˜n cơ chế, chính sách tôn
vinh, đãi ngộ các nghê ˜ sĩ, nghê ˜ nhân tiêu biểu.
Nâng cao nhận thức, tri thức và ý thức chấp hành các quy định pháp luật về quyền tác giả và
quyền liên quan trong cộng đồng, đặc biệt là đối với các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ
liên quan. Củng cố, tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ
quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến địa phương.
Chủ động và thích ứng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong việc phát triển văn hóa,
xây dựng con người. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động và quản lý hệ thống truyền
thông đại chúng, các phương tiện truyền thông mới, vừa chặt chẽ về nguyên tắc, vừa cởi mở về
cơ chế và hình thức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về văn hóa, thông tin của nhân dân.
Ngoài ra, để tiếp tục đưa văn hóa vào mọi mặt đời sống của xã hội, trở thành động lực thúc đẩy
sự phát triển của đất nước, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, thời gian tới, công
tác quản lý văn hóa phải có những giải pháp quyết liệt, mang tính đổi mới căn bản và toàn diện.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 33-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, công tác quản lý văn hoá cần chú trọng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc củng cố, hoàn thiện thể chế quản lý văn hóa. Theo đó, Ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch cần kịp thời triển khai, cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 9 (khóa XI), làm cơ sở để xây dựng và ban hành những chính sách mới về văn hóa; tích
cực hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa, quyền tác giả và các
quyền liên quan phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, đẩy mạnh
điều chỉnh hệ thống chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật; bổ sung các
chính sách “kinh tế trong văn hóa” và “văn hóa trong kinh tế”, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
để phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Nhà nước
cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách về xã hội hóa văn hóa; xây dựng các chính sách văn hóa
đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, bùng nổ công nghệ thông tin và truyền thông . Đây là
vấn đề rất quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn
hóa. Vì thế, các cấp cần thay đổi cách tư duy và phương thức tổ chức, điều hành văn hóa, khắc
phục cung cách quan liêu, mệnh lệnh - hành chính, chủ quan, áp đặt từ trên xuống. Mặt khác,
phải đổi mới cách thức quản lý và cung ứng dịch vụ công, nhằm đề cao trách nhiệm, hiệu lực
quản lý của Nhà nước; kiên quyết loại trừ cơ chế “xin - cho” trong đầu tư cho văn hóa. Mọi kế
hoạch phát triển văn hóa phải được xây dựng dựa trên nhu cầu, điều kiện thực tiễn và chiến
lược phát triển tổng thể của Ngành và đất nước, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong công tác cải
cách hành chính, chấn chỉnh lề lối làm việc; chú trọng hiện đại hóa công sở, ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý văn hóa.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế quản lý đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Với
phương châm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phi tập trung hóa trong quản lý văn hóa, Nhà
nước cần tăng cường phân cấp cho địa phương để gia tăng trách nhiệm quản lý ở cấp cơ sở.
Đồng thời, xác định rõ những lĩnh vực cần can thiệp hoặc không can thiệp. Theo đó, Nhà nước
chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, không lấn sân, làm thay công việc của người dân; đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi cơ chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp
trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực văn hóa; tiến hành
rà soát, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá
nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Các cấp cần phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội
của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động
văn hóa; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời các tổ chức, cá nhân có đóng
góp hiệu quả trong công tác quản lý văn hóa.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa. Các cấp cần thực hiện tốt công
tác “chuẩn hóa” cán bộ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trong hàng ngũ lãnh
đạo, quản lý, tham mưu cũng như công chức, viên chức ngành Văn hóa. Thực hiện chính sách
trọng dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ cán bộ phù hợp; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý văn hóa.
Thứ sáu, tăng cường cơ chế phối hợp trong quản lý văn hóa với các bộ, ban, ngành, đoàn thể,
đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin truyền thông, pháp luật, an ninh,… Chủ động xử
lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng, v.v. KẾT LUẬN
Phải khẳng định rằng, toàn cầu hoá chính là xu thế tất yếu trong lịch sử nhân loại. Các hoạt
động văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đã có sự thay đổi đáng kể, có cả những tác động tích
cực lẫn tiêu cực. Văn hoá lại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần và vật
chất của con người, đặc biệt là với một đất nước coi trọng các giá trị văn hoá và giàu truyền
thống như Việt Nam chúng ta. Để có thể giữ gìn được các hoạt động văn hoá và vẫn có thể hội
nhập với xu thế toàn cầu thì vai trò quản lý của nhà nước là vô cùng quan trọng trong bối cảnh
hiện tại. Chúng ta không thể đứng ngoài xu thế chung này và chúng ta có thể lựa chọn một
chính sách khôn ngoan và tận dụng cơ hội từ quá trình hội nhập. Chúng ta cần phải biết chủ
động hướng các chính sách sao cho phù hợp với xu thế toàn cầu hoá về văn hoá và không làm
mất đi bản sắc dân tộc. Đây là một biện pháp cấp bách và tốt nhất của Việt Nam và tất cả các
dân tộc cùng nhau xây dựng một thời đại toàn cầu hoá, vừa cạnh tranh vừa hợp tác hoà bình, vì
một thế giới ngày càng ổn định hơn trong tương lai.
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, đa dạng và phức tạp. Do vậy, quản lý văn hóa luôn phải
đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn. Để đạt được những bước đột phá trong công tác này
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về văn hóa, những năm tới, đòi hỏi ngành
Văn hóa, từ cấp lãnh đạo đến địa phương, cơ sở cùng toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của
Ngành phải có những cố gắng, nỗ lực cao, đưa văn hóa dân tộc hoạt động đúng hướng, bắt kịp
thực tiễn phát triển của đất nước và xu thế hội nhập toàn cầu mạnh mẽ trên thế giới hiện nay.