Tăng học phí giáo dục đại học là không công bằng với sinh viên nghèo. Quan điểm của bạn về vấn đề này? | Kinh tế vi mô

Tăng học phí giáo dục đại học là không công bằng với sinh viên nghèo. Quan điểm của bạn về vấn đề này? | Kinh tế vi mô được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.

lOMoARcPSD|4053484 8
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
~~~~~~~

~~~~~~~
BÀI THẢO LUẬN
KINH TẾ CÔNG CỘNG
Đề tài 4: Tăng học phí giáo dục đại học không công bằng với sinh
viên nghèo. Quan điểm của bạn về vấn đề này?
Nhóm thảo luận: 9
lớp học phần: 2205FECO0921
Giáo viên hướng dẫn: GV. NGÔ HẢI THANH
NỘI 2022
lOMoARcPSD|4053484 8
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lậpTự doHạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
Học phần Kinh tế Công cộng
I. Thời gian, địa điểm
Cách thức: Online.
Thời gian: 21/02/2022.
Địa điểm: Phần mềm TranS.
Số lượng: 10/10 người tham gia.
II. Mục tiêu
Thảo luận nội dung phân chia công việc.
III. Nội dung công việc
Nhóm trưởng thông báo đề tài thảo luận tới các thành viên trong nhóm.
Nhóm trưởng triển khai đề cương chi tiết, phân chia công việc cho các
thành viên trong nhóm.
IV. Đánh giá
Mọi người tham gia đầy đủ, nghiêm túc, nhiệt tình xây dựng, đóng góp ý kiến.
Thư
Đinh Vân Trang
Nhóm trưởng
Nguyễn Công Tráng
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
lOMoARcPSD|4053484 8
Độc lậpTự doHạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
Học phần Kinh tế Công cộng
I. Thời gian, địa điểm
Cách thức: Online.
Thời gian: 06/03/2022.
Địa điểm: Phần mềm TranS.
Số lượng: 10/10 người tham gia.
II. Mục tiêu
Bổ sung, chỉnh sửa hoàn thiện bài thảo luận.
III. Nội dung công việc
Thành viên lần lượt cho ý kiến về phần tổng hợp bài thảo luận của hai
nhóm.
Thành viên tiến hành bổ sung, chỉnh sửa những điểm chưa hợp phân
chia các công việc còn lại.
IV. Đánh giá
Mọi người tham gia đầy đủ, nghiêm túc, nhiệt tình xây dựng, đóng góp ý kiến.
Thư
Đinh Vân Trang
Nhóm trưởng
Nguyễn Công Tráng
PHÂN CHIA NHIỆM VỤ
lOMoARcPSD|4053484 8
STT
Họ Tên
sinh viên
Lớp hành
chính
Nhiệm vụ
Đánh giá
81
Đinh Vân Trang
(Thư ký)
19D160253
K55F4
Mục 1.1.1 + Mở
đầu + Kết luận +
Powerpoint
+ 0,2
82
Ngô Thị Thùy
Trang
19D160045
K55F1
Mục 1.1.4 + 1.2.1
- 0,1
83
Nguyễn Hoài
Trang
19D160115
K55F2
Mục 2.1.1 + 2.1.2
- 0,1
84
Nguyễn Thị Trang
19D160185
K55F3
Mục 2.2.1 + 2.2.3
- 0,1
85
Nguyễn Thị Huyền
Trang
19D160325
K55F5
Mục 2.3
- 0,1
86
Nguyễn Thị Thu
Trang
19D160116
K55F2
Mục 1.1.2 + 1.1.3 +
Thuyết trình
+ 0,2
87
Phạm Thị Thùy
Trang
19D160255
K55F4
Mục 1.2.2 + 1.2.3
- 0,1
88
Trần Thị Trang
19D160047
K55F1
Mục 2.1.3 + 2.1.4
- 0,1
89
Nguyễn Công Tráng
(Nhóm trưởng)
19D160256
K55F4
Mục 2.2.2 + Word
+ 0,2
90
Thục Trinh
19D160117
K55F2
Chương III
- 0,1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
lOMoARcPSD|4053484 8
CHƯƠNG I. LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG ................................................................. 2
1.1. Vấn đề công bằng bất bình đẳng .......................................................................... 2
1.1.1. Quan niệm về công bằng bất bình đẳng ......................................................... 2
1.1.2. Thước đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ............................................. 4
1.1.3. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ............................ 7
1.1.4. do chính phủ can thiệp nhằm đảm bảo công bằng hội .............................. 9
1.2. Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả ............................................................... 10
1.2.1. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả mâu thuẫn .............................. 10
1.2.2. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả không mâu thuẫn ................... 11
1.2.3. Công bằng hiệu quả trong thực tế ................................................................ 11
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BẰNG TRONG VIỆC TĂNG HỌC PHÍ
ĐẠI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN ...................................................................................... 14
2.1. Sự cần thiết phải tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay ................................ 14
2.1.1. Vấn đề tự chủ tài chính ..................................................................................... 14
2.1.2. Vấn đề chất lượng đào tạo ................................................................................ 16
2.1.3. Vấn đề về sở vật chất ................................................................................... 18
2.2. Thực trạng tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay .......................................... 20
2.2.1. Khởi nguồn của việc tăng học phí đại học ........................................................ 20
2.2.2. Thực trạng tăng học phí của một số trường đại học ......................................... 21
2.2.3. Bất cập của việc tăng học phí đại học ............................................................... 23
2.3. Quy định chung về mức học phí đại học đối với sinh viên nghèo .......................... 25
2.3.1. Đối tượng miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập .................................. 25
2.3.2. chế miễn, giảm học phí hỗ trợ chi phí học tập ....................................... 26
lOMoARcPSD|4053484 8
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG .......................................................... 28
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 30
MỞ ĐẦU
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ, kết hợp với sự
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nguồn nhân lực trở thành một trong
những nhân tố quan trọng, quyết định sự phát triển của một đất nước. Giáo dục ngày
càng nhiều vai trò, nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam
lOMoARcPSD|4053484 8
mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - hội. Đặc biệt giáo dục đại học bước đệm
cho lực lượng lao động tương lai của quốc gia. Để đạt được mục tiêu cải tiến chất
lượng nguồn nhân lực trong tương lai thì cần nâng cao chất lượng giáo dục tại bậc đại
học.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học cần có vốn đầu tư cho cơ sở vật chất
hay đội ngũ giảng viên, vậy kinh phí sẽ được lấy từ đâu? Chắc chắn nguồn thu sẽ được
lấy từ học phí của sinh viên. Nhưng để đáp lại việc cải tiến cơ sở vật chất hàng năm
của tất cả các trường đại học thì học phí phải tăng theo một tỷ lệ nhất định. vậy, câu
hỏi đặt ra ở đây là: Liệu việc tăng học phí giáo dục đại học có thực sự công bằng đối
với sinh viên nghèo hay không?
Nhận thấy đây là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì vậy nhóm 9 quyết
định đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Trong quá trình tìm hiểu nghiên
cứu, do thời gian và kiến thức còn hạn chế, nhóm 9 không tránh khỏi những thiếu sót
mong thầy cô và các thành viên trong lớp cùng đóng góp ý kiến để bài thảo luận của
nhóm được hoàn thiện hơn. Nhóm 9 xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG
1.1. Vấn đề công bằng bất bình đẳng
1.1.1. Quan niệm về công bằng bất bình đẳng
Quan niệm về công bằng
lOMoARcPSD|4053484 8
Công bằng xã hội là một mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng hướng tới trong
quá trình phát triển bền vững. Do đó, các chính sách được đưa ra bên cạnh vấn đề hiệu
quả kinh tế cần được chú trọng tới khía cạnh công bằng xã hội. Nhưng quan niệm về
công bằng còn vấn đề gây nhiều tranh cãi, bởi công bằng là khái niệm chuẩn tắc.
Công bằng hội về phương diện kinh tế không nghĩa là thành quả phát triển
của xã hội được chia đồng đều cho mọi người. Có 2 quan niệm khác nhau về công
bằng xã hội:
Thứ nhất, công bằng theo chiều ngang: là sự đối xử như nhau đối với những
người có tình trạng kinh tế như nhau. Theo quan điểm này, nếu hai cá nhân có tình
trạng kinh tế như nhau (về thu nhập, tôn giáo..) thì chính phủ không được phân biệt đối
xử.
Thứ hai, công bằng theo chiều dọc: đối xử khác nhau với những người khác
biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những
khác biệt sẵn có. Theo cách hiểu này, chính phủ có thể đối xử khác nhau với những
người có tình trạng kinh tế khác nhau nhằm giảm bớt những khác biệt, ví dụ ưu tiên
cho những người già, những người hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc ...
Nếu như công bằng ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế thị trường, thì công
bằng dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ thực thi chính sách phân phối
theo công bằng dọc nhằm giảm chênh lệch về phúc lợi giữa các cá nhân. Điều này
được thể hiện rõ nhất trong chính sách thuế và trợ cấp, đặc biệt là thuế lũy tiến (hoặc
trợ cấp lũy thoái), trong đó người thu nhập càng cao thì thuế suất phải chịu càng cao
(hoặc tương ứng suất trợ cấp càng thấp, thậm chí âm) ngược lại.
Mặc dù về mặt nhận thức, việc phân biệt gia công bằng ngang và công bằng dọc
có vẻ rất rõ ràng, nhưng việc áp dụng các tiêu chuẩn này trong thực tiễn lại rất mơ hồ.
Đó là vì không ai đưa ra được một định nghĩa chuẩn về thế nào được coi là có tình
trạng kinh tế như nhau. Liệu tình trạng đó nên được đo bằng thu nhập hay mức của cải
của nhân? Có nên tính đến cả hoàn cảnh gia đình của họ (như số người ăn theo, khu
lOMoARcPSD|4053484 8
vực địa lý...) hay không. ngay cả khi đã thống nhất sử dụng thu nhập làm thước đo
về tình trạng kinh tế thì vẫn không rõ thu nhập đó nên được đo theo tháng, năm hay
thu nhập cả đời. Tất cả những điều này đã khiến cho nghiên cứu về công bằng xã hội
vẫn một trong những lĩnh vực gây nhiều tranh cãi nhất.
Quan niệm về bất bình đẳng
Bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội, nó là cơ sở tạo nên sự phân
tầng xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa
các cá nhân mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm
xã hội khác. Bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các
hội hoặc lợi ích đối với những nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm
trong hội.
Bất bình đẳng xã hội do nhiều nguyên nhân gây ra, trong những xã hội khác
nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt. Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại
với những nguyên nhân và kết quả cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính,
chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ... Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng hội đa dạng
khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, và các nhà xã hội học đưa về ba loại căn
bản:
Thứ nhất những hội trong cuộc sống: Đó là những thuận lợi về vật chất
cá nhân có được, nhờ vào đó mà các nhân có thể cải thiện cuộc sống vật chất của
mình. Ngoài ra nó còn có những điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khỏe hay an sinh
hội… Cơ hội trong cuộc sống cơ sở khách quan của bất bình đẳng hội.
Thứ hai là địa vị xã hội: Bất bình đẳng về địa vị xã hội là do những thành viên
của các nhóm trong hội tạo nên thừa nhận chúng. Cơ sở địa vịđây thể là bất
cứ cái một nhóm hội cho ưu việt và được nhóm hội khác thừa nhận.
Những người uy tín cao, xã hội sẽ dành cho họ sự ưu ái, trân trọng. Uy tín nhân
đó được là do sự đánh giá của một nhóm người, một cộng đồng người, dựa vào
lOMoARcPSD|4053484 8
bất cứ thứ gì, thể tuổi tác, trình độ, kinh nghiệm, quyền lực, tiền bạc hay giới
tính…
Thứ ba là ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có được
do có ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế, bản thân chức vụ chính trị là cơ sở đạt
được địa vị và những cơ hội trong cuộc sống. Sự bất bình đẳng thể hiện qua mô hình
phân tầng xã hội của xã hội tư bản phương Tây ở thế kỷ XIX, qua sự phối hợp phân
tích của K.Marx M.Web: giai cấp lớp trên; giai cấp trung lưu; giai cấp công nhân
lớp nghèo.
Bất bình đẳng xã hội là vấn đề trung tâm của xã hội học hiện đại. Do đó, nghiên
cứu về bất bình đẳng xã hội giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Ở
phương diện nhân, nghiên cứu bất bình đẳng hội cho ta thấy được điểm xuất phát
của mỗi cá nhân, từ đó đánh giả tương đối chính xác quá trình phấn đấu vươn lên của
mỗi người. Ngoài ra, nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội còn cho thấy giá trị đích thực
của cả nhân trang cuộc sống.
Ở phương diện xã hội, nghiên cứu về bất bình đẳng tạo ra sở luận, tiền đề
để các nhà quản lý đưa ra hệ thống chính sách phù hợp đúng đến nhằm giàu bất công
hội, thúc đẩy công bằng nền tảng phát triển chung, hướng đến việc xây dựng
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.2. Thước đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Đường cong Lorenz
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông, cạnh bên là số phần
trăm thu nhập cộng dồn, còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm cộng dồn các nhóm dân
cư sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz được xây dựng
theo trình tự như sau: (1) sắp xếp thu nhập của dân cư theo thứ tự tăng dần; (2) chia
dân số thành các nhóm số dân bằng nhau (thường chia làm 5 nhóm); (3) đưa số liệu
lên đồ thị: % dân số cộng dồn vào cạnh đáy và % thu nhập cộng dồn tương ứng vào
lOMoARcPSD|4053484 8
cạnh bên; (4) nối các điểm kết hợp giữa % dân số cộng dồn và % thu nhập cộng dồn,
ta được đường cong Lorenz.
Đường cong Lorenz hay còn gọi là đường phân phối thu nhập bắt đầu từ điểm
gốc 0 của đường 450 và kết thúc ở đầu phía bên kia đường 450, nó nằm ở khoảng giữa
đường 450 đường bất bình đẳng tuyệt đối. Đường cong Lorenz càng gần đường 450
thì mức độ bất bình đẳng càng thấp (hay mức độ công bằng càng cao) và ngược lại,
đường cong Lorenz càng xa đường 450 thì mức độ bất bình đẳng càng cao (hay mức
độ công bằng càng thấp). Như vậy, đường cong Lorenz là một công cụ tiện lợi, giúp
chúng ta đánh giá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thông qua việc
quan sát hình dạng đường cong. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép so sánh mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia hay giữa các thời kỳ phát triển.
Tuy nhiên, phương pháp này chỉ cho phép thấy được sự bất bình đẳng một cách
định tính thông qua nhận định chủ quan của người đánh giá cũng như không thể đưa ra
lOMoARcPSD|4053484 8
kết luận chính xác về mức độ bất bình đẳng khi các đường Lorenz giao nhau rất
phức tạp khi so sánh nhiều quốc gia cùng một lúc.
Hệ số Gini
Hệ số Gini là thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được sử
dụng phổ biến nhất. Hệ số Gini được xác định dựa trên đường cong Lorenz, thông qua
công thức sau:
Trong đó:
A phần được giới hạn bởi đường cong Lorenz đường 450.
B phần được giới hạn bởi đường cong Lorenz, cạnh đáy cạnh bên phải hình
vuông.
Đường cong Lorenz càng gần đường 450 thì hệ số Gini càng nhỏ, mức độ bất
bình đẳng càng thấp và ngược lại. Hệ số Gini = 0 xảy ra khi đường Lorenz trùng với
đường bình đẳng tuyệt đối và hệ số Gini = 1 xảy ra khi đường Lorenz trùng với đường
bất bình đẳng tuyệt đối. Thực tế thì hai trường hợp trên không bao giờ xảy ra, do đó hệ
số Gini luôn nằm trong khoảng (0.1) và càng nhỏ càng tốt. Nếu 0,5< G < 0,7: bất bình
đẳng cao; Nếu 0,2 < G < 0,35: bất bình đẳng nằmmức chấp nhận được.
Hệ số Gini đã lượng hoá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
bằng một con số cụ thể tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế như hệ số
Gini bằng nhau thể hiện ở diện tích phần A như nhau nhưng độ phân bố các nhóm dân
cư có mức thu nhập khác nhau là không giống nhau, do đó hình dạng đường Lorenz là
khác nhau. Điều này đặc biệt đúng khi các đường Lorenz giao nhau, làm cho hệ số
Gini trở thành một thước đo không hoàn toàn nhất quán. Ngoài ra không cho phép
phân tách hệ số Gini theo các phân nhóm (chẳng hạn nông thôn, thành thị hay các
vùng trong một nước) rồi sau đó tổng hợp lại để rút ra hệ số Gini quốc gia. Mặc dù
vậy, hệ số Gini hiện nay vẫn thước đo được sử dụng phổ biến để đo mức độ bất bình
đẳng giữa các quốc gia trên thế giới.
lOMoARcPSD|4053484 8
1.1.3. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản
Thứ nhất, tài sản được hình thành do được thừa kế. Của cải của mỗi gia đình
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nên nhiều người trong hội may mắn sinh
ra đã là người giàu có, được thừa kế một cơ nghiệp lớn của cha ông để lại. Trong khi
đó, có rất nhiều người nghèo và sống trong nợ nần túng quẫn từ đời này sang đời khác.
Điều này tạo ra sự bất bình đẳng sâu sắc trong xã hội. Vì vậy, để hạn chế sự bất bình
đẳng này, Chính phủ đã thực hiện chính sách đánh thuế cao vào tài sản thừa kế và quà
tặng.
Thứ hai, tài sản được hình thành do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau:
Các cá nhân trong xã hội có thu nhập giống nhau nhưng cách thức sử dụng thu nhập
của họ khác nhau. Người ý thức tiết kiệm kế hoạch chi tiêu hợp thì tài sản
họ sẽ khác với người luôn “vung tay quá trán” không lo nghĩ cho tương lai.
Chính sự tiêu dùng tiết kiệm khác nhau của các nhân khác nhau đã ảnh hưởng
đến lượng tài sản họ tích luỹ được.
Thứ ba, tài sản được hình thành do kết quả kinh doanh: Thực tế cho thấy những
người giàu có trong xã hội hiện nay đều là những người làm kinh doanh, họ dám đầu
tư tiền bạc và chấp nhận rủi ro. Kết quả kinh doanh thuận lợi khiến họ ngày càng có
nhiều tài sản hơn những người “an phận thủ thường”.
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
Thứ nhất, thu nhập khác nhau do khác nhau về khả năng và kỹ năng lao động.
Trong xã hội hiện nay, những người có trình độ chuyên môn cao sẽ kiếm được công
việc tốt và được hưởng một chế độ lương bổng cao. Khi cuộc sống dư giả về tiền bạc
thì họ sẽ nhiều cơ hội để giao lưu, hưởng thụ các dịch vụ mới, hiện đại của hội;
con cái của họ cũng có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Ngược lại, những người có
trình độ thấp, hội kiếm được việc làm không cao, mức thù lao nhận được cũng
lOMoARcPSD|4053484 8
không cao, chỉ đủ tiêu pha cho cuộc sống hàng ngày một phần cho tiết kiệm, con
cái của họ sẽ không được phát triển trong một môi trường tốt nhất.
Thứ hai, thu nhập khác nhau do khác nhau về cường độ làm việc. Hai cá nhân
giống nhau về mọi yếu tố: trình độ chuyên môn, sức khỏe, cơ hội, môi trường làm
việc... nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau thì thu nhập mà họ khác nhau.
Những người bỏ nhiều thời gian và công sức để làm việc thì thu nhập của họ sẽ cao
hơn những người khác.
Thứ ba, thu nhập khác nhau do khác nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc.
Thực tế cho thấy, những công việc phổ thông, đòi hỏi ít kỹ năng thường được trả
lương thấp; còn công việc chuyên môn hàm lượng chất xám nhiều sẽ được hưởng
lương cao hơn. Những công việc có liên quan đến chất độc hại thì sẽ được trả lương
cao hơn để đắp cho những giảm sút về sức khỏe của người lao động.
Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong thu
nhập từ lao động như: sự phân biệt đối xử trong hội, ảnh hưởng của thiên tai, các
rủi ro khác... dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa các nhân trong hội. Chênh
lệch thu nhập do sự khác biệt trong năng suất tất yếu, động lực cho tăng trưởng,
tiền đề của hiệu quả, đây không phải là nguồn gốc của bất bình đẳng kinh tế. Tuy
nhiên, một nền kinh tế có chênh lệch thu nhập quá lớn sẽ kéo theo những chênh lệch
khác về hội, về khả năng tiếp cận các nguồn lực sẵn có, chênh lệch về trình độ và
về mức sống... khi đó sẽ tạo nên bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập dẫn đến nhiều hệ lụy liên quan đến tăng trưởng kinh tế cũng
như an sinh xã hội.
1.1.4. do chính phủ can thiệp nhằm đảm bảo công bằng hội
hình kinh tế thị trường còn nhiều khiếm khuyết, nhằm hạn chế những tổn thất
phúc lợi xã hội mà nó gây ra, cần có sự tác động kịp thời của nhà nước. Đây là một số
do khiến chính phủ phải can thiệp nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội:
lOMoARcPSD|4053484 8
Thứ nhất, công bằng và hiệu quả là hai mục tiêu cao nhất trong suốt quá trình
phát triển của xã hội loài người. Khi nguồn lực xã hội được sử dụng một cách hiệu quả
nhưng không có tác động gì tới sự công bằng trong phân phối thu nhập giữa các cá
nhân thì Chính phủ phải can thiệp thông qua các công cụ và chính sách về phân phối
lại để giảm bớt sự bất bình đẳng thu nhập trong hội.
Thứ hai, phân phối lại thu nhập tuy không làm tăng mức của cải chung của xã hội
nhưng nó có khả năng làm tăng tổng phúc lợi xã hội. Bởi quá trình phân phối lại thu
nhập giúp cải thiện lợi ích cho người nghèo nhưng lại khiến người giàu bị giảm lợi ích.
Tuy nhiên, do thu nhập của người nghèo thấp nên lợi ích tăng thêm đối với họ sẽ lớn
hơn lợi ích giảm đi của người giàu. Kết quả là tổng phúc lợi hội tăng lên.
Thứ ba, phân phối lại thu nhập tác dụng động viên, giúp đỡ người nghèo vượt
qua những thời điểm khó khăn, nguy khốn, giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Nghèo
đói thường đi liền với các tệ nạn xã hội, do đó khi người nghèo được hỗ trợ tốt thì
cũng góp phần giảm bớt tệ nạn hội và giữ vững ổn định chính trị.
Thứ tư, phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội là cách đảm bảo
khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản mà con người được hưởng với tư cách là quyền
của công dân. Do vậy, giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập tạo ra một ngoại ứng
tích cực đối với quá trình phát triển của nền kinh tế.
Từ những lý do cơ bản trên, việc chính phủ phải can thiệp để cải thiện sự bình
đẳng trong phân phối thu nhập trở thành một điều cần thiết. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt
ra là cần phân phối lại như thế nào để nâng cao sự bình đẳng? Nói cách khác, xã hội
nhận thức như thế nào về phân phối, quan niệm ra sao về một phân phối thu nhập công
bằng. Đây là một vấn đề chuẩn tắc và nó phụ thuộc rất nhiều vào các quan điểm về
phân phối thu nhập mà một hội theo đuổi.
lOMoARcPSD|4053484 8
1.2. Mối quan hệ giữa công bằng hiệu quả
1.2.1. Quan điểm cho rằng công bằng hiệu quả mâu thuẫn
Theo quan điểm này, nếu ưu tiên hiệu quả phải chấp nhận bất công nếu muốn
cải thiện công bằng thì phải hy sinh hiệu quả. Điều này được giải thích bởi những lý
do chính như sau:
Thứ nhất, quá trình phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo sẽ
làm tăng chi phí hành chính để vận hành bộ máy thực hiện chức năng phân phối lại.
Đây là những khoản chi phí không hiệu quả nhưng không thể tránh khỏi trong các
chương trình chi tiêu hỗ trợ người nghèo của Chính phủ. Bên cạnh đó, trong quá trình
phân phối lại còn sự thất thoát nguồn lực do vấn đề tham ô, tham nhũng của một số
cá nhân. Do vậy, có được công bằng phải hy sinh hiệu quả, tổng thu nhập trong nền
kinh tế giảm đi.
Thứ hai, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại được lấy từ ngân
sách với thuế là nguồn thu chủ yếu. Khi thuế thu nhập ngày càng tăng, người làm việc
giảm động cơ làm việc nên họ làm việc ít đi và giảm đóng góp vào tăng trưởng của
nền kinh tế. Đồng thời, nguồn lực được sử dụng để phân phối lại cũng sẽ giảm.
Thứ ba, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại được lấy từ ngân
sách với nguồn hình thành từ tiết kiệm của thu nhập quốc dân. Khi tăng thuế sẽ khiến
lãi suất thực giảm, tiết kiệm giảm và đầu tư giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sự tăng
trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, các chương trình phân phối lại có thể gây ra sự nản lòng đối với những
người phải đóng góp nhiều. Mặt khác, những người nhận được hỗ trợ có thể không
động lực làm việc, vươn lên thoát nghèo mà có tâm lý ỷ lại vào sự giúp đỡ của Chính
phủ các nhân khác trong xã hội.
lOMoARcPSD|4053484 8
1.2.2. Quan điểm cho rằng công bằng hiệu quả không u thuẫn
Theo quan điểm này, việc giải quyết các vấn đề phân phối thu nhập một cách
công bằng sẽ thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế. Điều này được giải thích bởi những
do chính như sau:
Thứ nhất, phân phối lại thu nhập giúp cải thiện mức sống cho người nghèo sẽ
kích cầu trong nước đối với nhiều mặt hàng, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu. Điều
này sẽ kích thích sản xuất phát triển, việc làm được tạo ra nhiều hơn đồng thời gia
tăng thu hút đầu trong nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh.
Thứ hai, quá trình phân phối lại giúp người nghèo gia tăng thu nhập và mức
sống. Qua đó, cuộc sống của họ được cải thiện tốt hơn, nguy bệnh tật giảm,
hội được học hành và tìm được công việc có thu nhập ổn định. Điều này cũng đóng
góp vào quá trình tăng trưởng, phát triển của quốc gia.
Thứ ba, phân phối thu nhập công bằng hơn giúp người nghèo được sự ổn định
về mặt tâm lý để vươn lên trong cuộc sống, không trở thành vật cản đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo là cần thiết và nó
không ảnh hưởng tới tính hiệu quả của nền kinh tế. Bởi những người giàu có ở các
nước đang phát triển thưởng sử dụng một phần lớn thu nhập để tiêu dùng hàng hóa xa
xỉ hay đầu vào vàng, ngoại tệ, đất đai... những loại đầu không đóng góp gì cho
tăng trưởng sản xuất của nền kinh tế.
1.2.3. Công bằng hiệu quả trong thực tế
Simon Kuznets là nhà kinh tế học tiên phong trong việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa công bằng và hiệu quả trong thực tế. Với số liệu thống kê về dân số và thu nhập
nhiều năm của nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, ông đã tìm ra mối quan hệ giữa
hai vấn đề này.
Sử dụng đồ thị với trục hoành là thu nhập bình quân đầu người - đại diện cho tiến
bộ kinh tế của một quốc gia, trục tung hệ số Gini đại diện cho mức độ bất bình đẳng,
lOMoARcPSD|4053484 8
kết quả nghiên cứu của Kuznets cho thấy rằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội tồn tại một mối quan hệ theo dạng hình chữ U ngược. Điều đó có nghĩa là các
quốc gia khi giai đoạn đầu của sự phát triển luôn đi kèm với sự bất bình đẳng cao
khi nền kinh tế phát triển đến một mức nào đó, lợi ích của sự phát triển được chia sẻ
rộng hơn cho các cá nhân trong xã hội thì mức độ bất bình đẳng sẽ giảm xuống.
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cho thấy 3 hình giải quyết
vấn đề công bằng và hiệu quả trong nền kinh tế:
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng trước, công bằng sau (kiểu chữ U ngược): Theo
mô hình này, các nước thưởng không quan tâm đến phân phối lại thu nhập ở giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Do vậy, trong giai đoạn này, cùng với sự tăng trưởng (tăng
thu nhập bình quân đầu người) thì bất bình đẳng trong nền kinh tế có xu hướng tăng
lên. Chỉ đến khi nền kinh tế đạt tới mức phát triển nào đó, thu nhập bình quân đầu
người cao, lúc đó bất bình đẳng mới có xu hướng giảm xuống do chính phủ quan tâm
đến quá trình phân phối lại, làm cho thành quả tăng trưởng được phát huy một cách
rộng rãi.
Thứ hai, hình công bằng trước, tăng trưởng sau: hình này nhấn mạnh vào
các chính sách giải quyết các vấn đề xã hội, tạo ra sự công bằng ngay từ đầu quá trình
phát triển, mặc dù tăng trưởng kinh tế đạt được ở mức độ thấp. Các chính sách phân
phối lại, chính sách phát triển con người như đầu tư vào văn hóa, giáo dục, y tế được
quan tâm. Do vậy, các quốc gia này đạt được mức độ khá tốt về chỉ số xã hội, tuy
nhiên nền kinh tế thiếu động lực phát triển nên tốc độ tăng trưởng thấp.
Thứ ba, mô hình kết hợp đồng thời tăng trưởng và công bằng xã hội: Chiến lược
phát triển lựa chọn mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng xã hội thể
hiện rõ ở sự can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự
đồng bộ của hai yếu tố này. Đặc trưng thứ nhất lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa
hướng ra xuất khẩu, khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh. Đồng thời với đầu vào
các ngành của nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng nhanh nhưng không gây ra gia tăng bất
bình đẳng các quốc gia phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sử dụng nhiều lao
lOMoARcPSD|4053484 8
động và các yếu tố đầu vào sẵn trong nền kinh tế. Sự chuyển dịch cấu kinh tế
thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước.
Các nhà kinh tế trên thế giới cho rằng bất bình đẳng gắn với phương thức phát
triển của nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế thưởng không trung tính về mặt phân phối
thu nhập: tăng trưởng có thể thay đổi phép phân phối theo hướng bình đẳng hơn hoặc
bất bình đẳng hơn. Điều đó tuỳ thuộc vào “phương thức phát triển” mà quốc gia chọn
lựa. Theo nhà kinh tế học Pierre Salama, phương thức phát triển dựa vào cầu nội địa,
đi liền với phép phân phối thu nhập có tính bất bình đẳng thấp nhất; phương thức phát
triển bằng xuất khẩu, đi kèm với phép phân phối thu nhập mang tính bất bình đẳng cao
hơn; phương thức phát triển “tài chính hoá”, tự do hoá thị trường vốn và kích thích
hoạt động đầu - đi đôi với một xã hội cực kỳ bất bình đẳng.
Tăng trưởng và công bằng trong nền kinh tế những mục tiêu tương hợp, không
mâu thuẫn. Các chính sách của chính phủ đóng vai trò quyết định đến việc giải quyết
mối quan hệ này, bởi thực tế chỉ có một số ít các chính sách được coi là hoàn thiện
Pareto, còn hầu hết sẽ dẫn đến lợi cho nhóm này và thiệt cho nhóm kia. Vì vậy, khi
thiết kế và lựa chọn chính sách, chính phủ đều cân nhắc kỹ tác động của nó tới công
bằng (phân phối) hiệu quả kinh tế, hướng tới sự cân bằng trong cả hai mục tiêu này.
lOMoARcPSD|4053484 8
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BẰNG TRONG VIỆC TĂNG HỌC
PHÍ ĐẠI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
2.1. Sự cần thiết phải tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay
2.1.1. Vấn đề tự chủ tài chính
Tự chủ đại học bao gồm 4 nội dung chính: Tự chủ về tổ chức; tự chủ về tài chính;
tự chủ về nhân sự; tự chủ về học thuật (EUA, 2013). Trong các nội dung này, tự chủ về
tổ chức và tự chủ về tài chính được xem là những tiền đề quan trọng có khả năng hoàn
thiện toàn bộ các nội dung tự chủ khác. Tự chủ tài chính cho phép các trường huy
động nguồn lực tài chính và duy trì nguồn lực tài chính, đảm bảo việc tuyển chọn lực
lượng học thuật tốt nhất, từ đó phát triển học thuật theo hướng sáng tạo đổi mới theo
chiến lược của từng trường đại học.
Hiện nay, trung bình trong một năm học tại các trường đại học công lập, mỗi sinh
viên chỉ phải nộp khoảng 4,5 triệu đồng học phí, trong khi, bình quân mức học phí quy
đổi ra đồng VND mà lưu học sinh Việt Nam phải trả cho các trường đại học ở nước
ngoài tùy theo từng trường và từng chuyên ngành khoảng từ 300 triệu đồng đến 500
triệu đồng/năm (gấp khoảng 150 lần so với Việt Nam). Ngoài ra, đối chiếu với khung
phân tích tự chủ đại học, thì mức độ tự chủ tài chính của các trường đại học công lập
Việt Nam là rất thấp, cơ bản các trường đại học công lập mới tự chủ về chi, chưa tự
chủ về thu, đặc biệt là thu học phí, mức thu học phí của hệ công lập vẫn theo lộ trình
quy định của quan quản lý Nhà nước.
Bên cạnh đó, các trường đại học công lập chưa được tự chủ về thu, đặc biệt thu
học phí. Mức học phí các trường vẫn phải tuân thủ theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP.
Theo Nghị định này, đối với các trường tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
được xác định học phí trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ
quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Đối với các trường
còn lại, học phí được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ của Nhà
nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà
lOMoARcPSD|4053484 8
nước. Mức trần học phí được quy định cụ thể, chi tiết cho từng năm học, cho từng loại
trường đại học công lập tại điều 5 Nghị định số 86/2015/NĐ-CP. Mức trần học phí
nhìn chung đã tăng theo từng năm học, nhưng chưa đủ để bù đắp các chi phí đào tạo
của các trường.
Chất lượng quản lý tài chính đại học ở Việt Nam hiện nay đã thay đổi rõ rệt
nhưng mức độ tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập ở nước ta vẫn còn thấp.
Các trường đại học công lập, về cơ bản được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất ban đầu
nhưng đa phần đã đến thời điểm xuống cấp, cần tu bổ, sửa chữa hoặc đầu tư mới.Vì
vậy, nguồn lực tài chính rất cần thiết không chỉ cho việc hỗ trợ chi thường xuyên
cần thiết cho cả đầu tư xây dựng. Phần lớn các trường không thể tự đảm bảo đủ nguồn
lực để chi thường xuyên, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật làm
việc, thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức, người lao động trong trường.
Thêm vào đó, việc chi trả lương cho cán bộ, viên chức, người lao động trong các
trường đại học công lập hiện nay vẫn dựa theo hệ số ngạch, bậc, chức vụ phụ thuộc
vào thang bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP. Điều này ảnh
hưởng lớn đến việc thu hút người tài do sự cạnh tranh về mức lương tại các đơn vị tư
nhân đang trả rất cao, chế độ đãi ngộ rất tốt ảnh hưởng đến năng suất cũng như tinh
thần góp sức tăng cường nguồn thu cho các trường.
Tuy nhiên, gần đây mức thu này có linh hoạt cho các lớp chất lượng cao nhưng
điều này vẫn chưa mang tính chất phổ biến. Việc trả lương cho giảng viên vẫn chủ yếu
theo hệ số, cấp bậc, phụ thuộc vào thang bảng lương theo quy định của Nhà Nước.
Việc kinh doanh tài chính, mặc các trường đại học chuyên môn song cũng chưa
có cơ chế rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm để chính thức hoá các hoạt động kinh
doanh này theo mô hình doanh nghiệp.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trong các trường đại học công lập là một
vấn đề tất yếu bởi nó mang lại những tác động tích cực đến các trường đại học công
lập, giáo dục đại học và xa hơn nữa là đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia. Tự chủ tài chính góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các trường đại
lOMoARcPSD|4053484 8
học công lập, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo; thúc đẩy các trường
đại học công lập nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và
tài sản của đơn vị, sử dụng ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm hiệu quả hơn; tự
chủ tài chính giúp các trường đại học công lập thu hút được cán bộ có trình độ cao và
nâng cao đời sống, thu nhập của cán bộ, giảng viên… Vì vậy tự chủ tài chính là một
vấn đề cần thiết trong quá trình phát triển của các trường đại học hiện nay.
2.1.2. Vấn đề chất lượng đào tạo
Hiện nay, số lượng các trường đại học rất nhiều trong đó nhiều trường năng lực
yếu, chất lượng đào tạo không cao. Các trường này chỉ tập trung vào số lượng để tìm
kiếm lợi nhuận mà không coi trọng vấn đề chất lượng. Điều này làm giảm số lượng
sinh viên đăng ký học tại các trường công lập từ đó giảm nguồn thu đào tạo của các
trường.
Mức học phí còn thấp chưa tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo cho các loại hình
đào tạo và các nhóm ngành đào tạo. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước
cấp còn hạn chế. Điều đó dẫn đến nguồn tài chính không đủ để đầu tư, nâng cao chất
lượng đào tạo một cách tương ứng với nhu cầu đào tạo. Hiện nay, học phí là vấn đề
bức xúc với các trường. Học phí của nước ta quá thấp, chậm thay đổi, với mức học phí
hiện tại thì không thể đắp chi phí để các trường đào tạo chất lượng. Học phí phải
đủ bù chi phí đào tạo. Các trường sẽ phải cạnh tranh về mức học phí trong tương quan
với chất lượng đào tạo để thu hút sinh viên.
Nguồn thu của các trường đại học xuất phát từ: học phí, thu từ các hợp đồng
nghiên cứu khoa học,... các trường phải cải thiện nâng cao chất lượng đào tạo
liên tục; phát triển các chương trình đào tạo hiện đại phù hợp với xu thế và nhu cầu
của xã hội để thu hút người học; nâng cao trình độ nghiên cứu của giảng viên để nhận
được các hợp đồng nghiên cứu khoa học. Vì vậy các trường đại học phải đảm bảo
được nguồn thu mới thể vận hành hoạt động của nhà trường.
lOMoARcPSD|4053484 8
Hiện nay, trước xu thế hội nhập mạnh mẽ giáo dục quốc tế, sự xuất hiện của
nhiều tổ chức giáo dục nước ngoài cũng như việc liên kết đào tạo với nước ngoài làm
gia tăng sự cạnh tranh của giáo dục đại học. Nguồn lực nhà nước vẫn đóng vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ, tạo động lực cho các trường đại học phát triển. Tuy nhiên,
ngân sách chi cho giáo dục đào tạo chưa được phân bổ hợp lý. Điều này khiến cho cơ
sở vật chất, chất lượng đào tạo tại các trường đại học công lập không được nâng cao
làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh, thu hút người học với các trường đại học quốc
tế. Những năm gần đây, khi đề cập tới giáo dục đào tạo đại học, xã hội đều đánh giá
rằng chất lượng đào tạo đại học hiện nay còn thấp, còn có một khoảng cách khá xa so
với các nước phát triển trong khu vực trên thế giới.
Nghị định 86/2015 của Chính phủ đã quy định mức thu học phí, dịch vụ tuyển
sinh, các khoản dịch vụ khác. Đối với các trường đại học tự chủ, Nhà nước quy định
mức trần học phí cho mỗi trường. Như vậy khi các trường áp dụng cơ chế tự chủ, Nhà
nước không cấp chi thường xuyên, lúc đó học phí sẽ phải bù vào một phần. Vì vậy,
việc tăng học phí là điều tất yếu, không thể khác được, để nhà trường tiếp tục tổ chức
hoạt động đào tạo.
Thực tế cho thấy các trường tự chủ được thu mức học phí cao đã đầu sở vật
chất tốt hơn trước, chất lượng dịch vụ, chất lượng đào tạo của trường cũng cải thiện.
Đặc biệt, với chương trình chất lượng cao có mức thu học phí cao hơn, sinh viên đã
được hưởng lợi khác biệt về điều kiện chất lượng học tập (sĩ số lớp ít, phòng học
máy lạnh, giảng viên giỏi...). Vì vậy, ngày càng có thêm nhiều sinh viên lựa chọn học
chương trình chất lượng cao để được hưởng chất lượng đào tạo tốt hơn.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, các sở giáo dục đại học cần chủ động đổi mới
nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực,
tăng cường kỹ năng ứng dụng và thực hành… Các cơ sở đào tạo thực hiện gắn đào tạo
với thị trường lao động, chủ động nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp hoặc phát triển
chương trình đào tạo có sự tham gia của các doanh nghiệp bảo đảm chất lượng đầu ra.
Theo đó, các trường giáo dục đại học cần triển khai chương trình tiên tiến, chương
lOMoARcPSD|4053484 8
trình chất lượng cao chuyển giao từ các nước phát triển để từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Những
điều này phụ thuộc nhiều vào mức độ tài chính, khả năng thực hiện của các trường,
chính vậy đòi hỏi các trường đại học phải tăng học phí để có thể đảm bảo chất lượng
đào tạo của trường mình.
2.1.3. Vấn đề về cơ sở vật chất
Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì sở vật chất, trang thiết bị hiện
đại, tích hợp với các công cụ chuyển đổi số và các hệ thống quản lý học tập
Blackboard, Angel, WebCT, Sakai, Moodle… là cực kỳ quan trọng, mang tính sống
còn đối với sở đào tạo, bồi dưỡng.
Việc nhanh chóng áp dụng công nghệ mới, sử dụng các công cụ đa năng, như:
máy tính, máy chiếu, bài giảng điện tử, bảng điện tử thông minh, sách giáo khoa điện
tử, nhất là các phần mềm dạy học; tổ chức lớp học, giao bài tập, giới hạn thời gian,
kiểm tra bài, cung cấp tài liệu, nhận phản hồi, điều chỉnh hoạt động của giảng viên,
học viên, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, từ xa… là hết sức cần thiết, một mặt,
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mặt khác, tiết kiệm chi phí xã hội cho
việc đào tạo, bồi dưỡng cả về thời gian, tài chính; đồng thời, tạo nền tảng cho việc hội
nhập quốc tế.
Xây dựng các mô hình trường quay thu nhỏ sử dụng công nghệ mới, các phòng
học ảo, phòng thí nghiệm ảo, thiết bị ảo, thư viện ảo, dưới sự hỗ trợ của các thiết bị
thông minh. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ AI, nhất trong tổng hợp thông tin học
tập, các gợi ý hữu ích cho người học và người dạy, tạo điều kiện cho người học tiếp
cận giáo trình chuẩn hóa theo từng cá nhân, trong đánh giá năng lực và nhu cầu của
người học… là một xu thế tương đối phổ biến và phát triển hiện nay ở các cơ sở đào
tạo trên thế giới Việt Nam.
Khi một khảo sát tương đối chi tiết của Cục sở vật chất, thiết bị trường học
đồ chơi trẻ em (Bộ Giáo dục và Đào tạo) về sở vật chất các trường đại học, cao
lOMoARcPSD|4053484 8
đẳng công lập được công bố với 50% trườngmức dưới chuẩn, nhiều người đã gọi đó
“thảm cảnh” của nền giáo dục đại học. Song đó một thực tế đã nhiều năm, khi các
trường đại học tồn tại, phát triển không theo một kế hoạch và quy chuẩn chung nào về
sở vật chất.
Thứ nhất, các trang thiết bị đã được đầu tư hiện đã đưa vào sử dụng từ lâu, nay
đã xuống cấp và hư hỏng thường xuyên như máy vi tính, hệ thống máy chiếu, âm
thanh… các phần mềm quản lý đào tạo, quản lý thư viện, văn thư lưu trữ vẫn còn
hẹp, cục bộ, chưa liên thông, chưa kết nối được với hệ thống mạng chung của Bộ Nội
vụ, với các cơ quan bộ, ngành trung ương. Phòng quay đào tạo từ xa còn đơn chiếc,
máy quay chưa hiện đại, chưa đảm bảo đủ tiêu chuẩn của phòng quay đào tạo từ xa.
Thứ hai, việc cải tạo, sửa chữa tốn nguồn kinh phí không nhỏ song cũng không
khắc phục được tình trạng thiếu đồng bộ về tổng thể công trình và bất cập trong sử
dụng. Khu học tập của sinh viên hầu hết trong tình trạng lạc hậu xuống cấp nghiêm
trọng. Nhiều trường đại học công lập vẫn phải thuê cơ sở bên ngoài làm nơi học tập
hoặc bắt sinh viên học tăng ca do thiếu giảng đường.
Nếu trước đây, giáo dục được xem đơn thuần như một hoạt động sự nghiệp đào
tạo con người mang tính phi thương mại, phi lợi nhuận thì ngày nay, dưới tác động của
các yếu tố bên ngoài và đặc biệt là sự tác động của nền kinh tế thị trường, giáo dục đã
được coi như một “dịch vụ giáo dục” mà ở đó khách hàng (sinh viên, phụ huynh) có
thể đầu tư và lựa chọn một nhà cung cấp dịch vụ (các trường học) mà họ cho là phù
hợp nhất. Để tồn tại phát triển, các trường học cần chú trọng vào chất lượng dịch vụ
nhằm nâng cao sự hài lòng của người học.
Theo lãnh đạo các trường, học phí mà sinh viên đóng hiện nay chưa phải là toàn
bộ chi phí đào tạo mà chỉ là phần lớn, phần còn lại vẫn được đầu tư từ các nguồn
khác. Thực tế cho thấy các trường tự chủ được thu mức học phí cao đã đầu tư cơ sở
vật chất tốt hơn trước, chất lượng dịch vụ của trường cũng cải thiện. Đặc biệt, với
chương trình chất lượng cao mức thu học phí cao hơn, sinh viên đã được hưởng lợi
khác biệt về điều kiện học tập (sĩ số lớp ít, phòng học máy lạnh, giảng viên giỏi...).
lOMoARcPSD|4053484 8
vậy, ngày càng thêm nhiều sinh viên lựa chọn học chương trình chất lượng cao
để được hưởng chất lượng dịch vụ tốt hơn.
2.2. Thực trạng tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khởi nguồn của việc tăng học phí đại học
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao đã được Đảng và Nhà nước
xác định là một trong ba đột phá chiến lược quan trọng hàng đầu của đất nước thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh
nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Trước những yêu cầu mới
của thời đại, giáo dục đại học nước ta cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ, đổi mới
sáng tạo. Trong đó, tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức
quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo
Quá trình tự chủ đại học tại Việt Nam đang có những “điểm nghẽn” tỉ lệ huy
động nguồn lực công thấp và hiệu quả không bền vững. Hiện nguồn thu của các cơ sở
GDĐH 80% đến từ học phí, thu từ nghiên cứu và các nguồn thu nhập khác rất thấp,
trong bối cảnh nguồn thu từ ngân sách nhà nước giảm mạnh. Việc phân bổ nguồn lực
công của Việt Nam cho giáo dục chỉ tầm 5% GDP, rất thấp so với các nước châu Á
(trong đó chỉ dành 0.33% cho GDĐH).
Kinh phí ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng cán bộ giảng dạy, chương trình
đào tạo, cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, thư viện, phòng học, năng lực quản lý
giáo dục và nhiều yếu tố khác. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như lãnh đạo một
số trường đại học, muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì phải có kinh phí, do đó có
việc ng học phí… việc tăng học phí nhằm nâng cao chất lượng giảng dạycác sở
giáo dục đại học công lập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực điều cần thiết.
Trước hết, muốn có đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng, trường đại học phải
đưa ra một mức thu nhập tương đối thu hút. Cơ sở vật chất hiện nay trong các trường
cũng là vấn đề hết sức bức xúc. Sổ sách ghế ngồi trong thư viện theo đầu sinh viên
rất thấp, số phòng thí nghiệm máy móc thiết bị không đủ rất lạc hậu. Với hiện
lOMoARcPSD|4053484 8
trạng này, dễ hiểu sao chất lượng đào tạo thấp. Do đó cần nguồn tiền để đầu
vào cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy. Như vậy tăng nguồn kinh phí là
điều hết sức cần thiết để tăng chất lượng hiện nay.
Nhưng vấn đề nguồnđâu ra thì khả thi hợp lý? Ngân sách nguồn chính
yếu xưa nay, đòi hỏi tăng thêm nữa không phải đơn giản vì ngân sách quốc gia đã chi
cho giáo dục gần 17%, một tỉ lệ cao so với các nước trên thế giới. Mặt khác nếu ngân
sách tăng chi cho giáo dục thì cần nhiều hơn cho cấp học thấp và vùng sâu vùng xa
để đảm bảo cho công bằng xã hội. Nhưng tăng cường chất lượng và số lượng giảng
viên lại mâu thuẫn với nguồn kinh phí hiện có. Việc tăng học phí nằm trong lộ trình
đổi mới cơ chế hoạt động và giao dần việc tự chủ toàn diện đối với các cơ sở giáo dục
đại học công lập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, giảm chi ngân sách Nhà nước.
2.2.2. Thực trạng tăng học phí của một số trường đại học
thể nói trong những năm gần đây, một số trường đại học được Bộ Giáo dục
Đào tạo cho phép thực hiện cơ chế tự chủ có mức tăng học phí khá cao. Theo Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học năm
2018 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, thực hiện hội nhập quốc tế
và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao góp phần phát triển
kinh tế - hội của đất nước.
Đại học Ngoại thươngNội
Theo thông báo của Trường Đại học Ngoại thương, mức học phí dự kiến năm
2021 của chương trình đại trà là 20 triệu đồng/ năm, chương trình chất lượng cao là 40
triệu đồng/năm, chương trình tiên tiến 60 triệu đồng/năm. Trường chưa thông báo
chính thức về học phí nhưng cho biết về cơ bản năm 2021 điều chỉnh không quá nhiều,
cam kết nếu có tăng sẽ không quá 10%/năm.
Đại học Bách khoa Nội
lOMoARcPSD|4053484 8
Lãnh đạo Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho hay, theo lộ trình tăng học phí
từ năm 2020 đến 2025, mức tăng trung bình khoảng 8%/năm học và không vượt quá
mức 10%/năm học đối với từng chương trình đang triển khai đào tạo để phù hợp với lộ
trình tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo vào học phí đến năm 2025.
Đại học Kinh tế - Luật
Dự kiến mức học phí của Trường Đại học Kinh tế - Luật năm 2021 20,5 triệu
đồng; năm 2022 là 22,6 triệu đồng; năm 2023 là 24,8 triệu đồng; năm 2024 là 27,3
triệu đồng và năm 2025 là 30 triệu đồng. Tầm nhìn từ 2026-2030, Trường Đại học
Kinh tế - Luật dự kiến mỗi năm điều chỉnh mức thu tăng từ 10-15%.
Học viện Báo chí Tuyên truyền
Các ngành đào tạo giảng viên luận chính trị được miễn học phí. Hệ đại trà
276.000 đồng/tín chỉ (chương trình toàn khóa 143 tín chỉ). Hệ chất lượng cao
771.200 đồng/tín chỉ (tạm tính - chưa bao gồm 13 tín chỉ Giáo dục Thể chất, Giáo dục
quốc phòng - An ninh). Lộ trình tăng học phí cho từng năm là tối đa 10%.
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Theo công bố của Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch trong đề án tuyển sinh năm
2021, từ năm học 2021-2022, mức học phí không phân chia theo khu vực mà sẽ đồng
giá tăng lên. Theo đó, mức cao nhất không vượt quá 32 triệu đồng cho các ngành Y
khoa, Dược học, Răng-hàm-mặt và không quá 28 triệu đồng cho các ngành Điều
dưỡng, Dinh dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Khúc xạ
nhãn khoa, Y tế công cộng.
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Dự kiến Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh sẽ thu học phí hệ
chính quy (đại trà) là 25 triệu đồng (gấp đôi hiện tại), năm 2022 là 27,5 triệu đồng; các
năm 2023, 2024 2025 là 30 triệu đồng. Tầm nhìn đến năm 2030, trường này đề xuất
thu đủ mức học phí theo giá dịch vụ đào tạo.
lOMoARcPSD|4053484 8
Đại học Quốc tế Hồng Bàng
Tại Trường Đại học Quốc tế Hồng ng, mức học phí của hầu hết các ngành đều
có xu hướng tăng lên (mức học phí nằm trong khoảng 50-55 triệu đồng/năm). Tuy
nhiên, riêng ngành Y và ngành Răng - Hàm - Mặt có học phí 182 triệu đồng/năm
(chương trình dạy bằng tiếng Anh là 220 triệu đồng/năm).
Đại học FPT
Trong năm 2021, Trường Đại học FPT dự kiến tăng học phí đào tạo từ 25,3
triệu/học kỳ lên 27,3 triệu/học kỳ, đối với các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh sẽ
tăng từ 10,35 triệu lên 11,3 triệu cho mỗi mức đào tạo. Học phí của các năm học tiếp
theo dự kiến sẽ tăng 10% mỗi năm.
Đại học Kinh tế Quốc dân
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, học phí hệ chính quy chương trình
chuẩn năm học 2021-2022 theo ngành học cho khóa 63 (tuyển sinh năm 2021) từ 15
triệu đồng đến 20 triệu đồng/năm học. Học phí các chương trình đặc thù từ 40 triệu
đồng đến 60 triệu đồng/năm học. Theo nhà trường, lộ trình tăng học phí không quá
10% hàng năm và không quá trần theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP.
Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang phối hợp với các bộ, ngành, lấy ý kiến các địa
phương, các sở giáo dục trên cả nước để hoàn thiện dự thảo nghị định thay thế Nghị
định số 86/2015/NĐ-CP. Đối với các trường công lập dự thảo lần này, Bộ gắn mức thu
học phí với kết quả kiểm định chất lượng giáo dục - đào tạo, nhằm bảo đảm mức thu
học phí tương xứng với chất lượng. Dự thảo quy định mức tăng học phí tối đa mỗi
năm học không quá 15% đối với đào tạo đại học (riêng mức thu năm học 2021 - 2022
không được ợt quá mức thu năm học 2020 - 2021).
2.2.3. Bất cập của việc tăng học phí đại học
Một vấn đề đặt ra khiến cả chuyên gia giáo dục lẫn cả người học băn khoăn là
việc tăng học phí đại học có thật sự đem lại chất lượng đào được cải thiện hay không?
lOMoARcPSD|4053484 8
Nhiều trường lý giải trong việc tăng học phí là sẽ có nhiều cải tiến trong chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy và trải nghiệm thực tế. Rồi nhà trường sẽ bổ
sung vào chương trình đào tạo các nội dung mới. Thực tế đóng góp của người dân hiện
đã chiếm một nửa tổng chi phí của xã hội cho giáo dục và đào tạo trong khi đó chi tiêu
lại rất kém hiệu quả và lãng phí do sự bất cập của cải cách giáo dục, do họp hành, tham
quan nước ngoài và chi phí cho bộ máy quản lý rất cồng kềnh hiện nay . Kết quả kiểm
toán nhà nước trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tại 23 trường đại học công lập thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố cho thấy một số bất cập.
Thứ nhất, đơn cử như trong chương trình liên kết đào tạo tại một số trường ĐH,
kiểm toán Nhà nước phát hiện thấy tình trạng liên kết đào tạo với các đối tác trong và
ngoài nước trong điều kiện về sở vật chất không đảm bảo, chương trình chưa được
kiểm định, giáo trình chưa tự xây dựng.
Thứ hai, giảng viên giảng dạy thì không bảo đảm và học viên lại chưa đủ điều
kiện đầu vào theo chương trình xây dựng.
Thứ ba, kết quả kiểm toán còn cho thấy nhiều trường chưa thực sự chú trọng
công tác đổi mới nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Việc đổi mới chủ yếu điều
chỉnh một số tín chỉ môn học phù hợp với thực tế đào tạo, cập nhật đề cương môn học,
giảm bớt số tín chỉ các môn học đại cương, tăng tín chỉ tiếng Anh hoặc tăng giảm số
tín chỉ các môn học tự chọn. Ngoài ra, một số trường xây dựng chương trình tiệm cận
với các tiêu chuẩn quốc tế song gặp nhiều trở ngại không đem lại hiệu quả.
Một vấn đề đáng quan tâm đó là, nếu học phí cứ tăng lên mức như dự kiến nêu
trên thì hình trung đã ngăn không cho con em những hộ trung bình và nghèo bước
chân vào trường đại học dù họ đã qua được kỳ thi đại học khắc nghiệt hoặc thậm chí
nhiều sinh viên sẽ phải bỏ học vì gia đình không đủ điều kiện để trang trải chi phí.
Như vậy, hội học tập sẽ không còn bình đẳng cho mọi người.
Trên thực tế, một số gia đình không khả năng chi trả mức học phí này. Nếu
không chính sách hỗ trợ, hệ quả sẽ là khoảng cách ngày càng nới rộng giữa các
lOMoARcPSD|4053484 8
nhóm thu nhập khác nhau, tạo ra bất ổn xã hội. Học sinh viên nghèo, sinh viên nông
thôn sẽ mất cơ hội học tập khi gánh nặng học phí ngày càng trở nên quá tải. Học phí
tăng đè nặng lên vai các bậc phụ huynh khiến nhiều người không khả năng chi trả
cho việc học tập của con em mình. Hơn nữa, khi học phí tăng sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng học tập của sinh viên. Một số bạn sinh viên sẽ phải lao động, làm thêm để phụ
giúp bố mẹ tiền ăn ở, sinh hoạt nên sẽ khó tập trung vào việc học.
Do đó việc tăng học phí, nếu diễn ra, sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều sinh viên
rộng ra là rất nhiều gia đình. Nếu chúng ta tính đến một thực tế là, càng nghèo thì
người dân càng tha thiết cho con vào đại học để mong thoát khỏi cuộc sống lầm than,
thì sẽ thấy không ít gia đình đã phải bán nhà cửa, ruộng vườn, vay mượn để con cái
theo đuổi việc học
2.3. Quy định chung về mức học phí đại học đối với sinh viên nghèo
2.3.1. Đối tượng miễn, giảm học phí hỗ trợ chi phí học tập
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế đòi hỏi các lĩnh vực cần phải có sự
cải cách để phù hợp với xu thế nhất trong vấn đề giáo dục cũng cần được quan tâm
để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng và mở thêm nhiều ngành nghề mới để đáp ứng
được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, đảng và nhà nước ta
đã rất quan tâm đến giáo dục và đưa ra các chính sách để tạo điều kiện để mọi người
đều có quyền đi học trong đó có quy định về chế độ miễn giảm học phí nhằm hỗ trợ
cho các sinh viên có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nghèo khó để mọi người có cơ hội
học tập thực hiện ước góp phần phát triển đất nước.
Ngày 27/8/2021, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy
định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2021.Theo Điều 15 Nghị
định số 81/2021/NĐ-CP quy định miễn học phí đối với các đối tượng: Sinh viên học
tại các sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học người dân tộc thiểu số cha
lOMoARcPSD|4053484 8
hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ hoặc ông bà (trong trường hợp ở với ông bà) thuộc hộ
nghèo và hộ cận nghèo,ở thôn/bản đặc biệt khó khăn, khu vực III vùng dân tộc và
miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển hải đảo.
Theo khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính
phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
giai đoạn 2014- 2017 đã quy định các trường đại học thí điểm cơ chế tự chủ phải thực
hiện chính sách học bổng, học phí đối với đối tượng chính sách như: Cấp học bổng đối
với sinh viên xuất sắc, sinh viên giỏi; sinh viên là đối tượng chính sách; Miễn giảm
học phí cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách và hỗ trợ phần chênh
lệch giữa mức hỗ trợ của Nhà nước với mức học phí của nhà trường; Ưu tiên bố trí nơi
cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách ở ký túc miễn, giảm
tiền thuê túc xá các chính sách khác tùy theo điều kiện của từng trường; Sử dụng
toàn bộ tiền lãi của khoản học phí và các khoản thu sự nghiệp khác gửi ngân hàng
thương mại để lập các quỹ hỗ trợ sinh viên.
Năm 2020-2021 tình hình dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp,
đồng thời nước ta vừa trải qua nhiều đợt bão, lũ nghiêm trọng, để lại hậu quả nặng nề,
ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của người dân. Để chia sẻ và giảm gánh nặng về tài
chính cho phụ huynh và sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản báo cáo
Chính phủ và đề xuất xem xét, cho phép được gia hạn thời gian áp dụng Nghị định số
86 đối với năm học 2021-2022 với mức học phí giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp áp dụng theo mức học phí của năm học 2020-2021 đã được quy định tại Nghị
định số 86. Các chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và các quy định
khác vẫn thực hiện theo quy định tại Nghị định số 86 và các văn bản liên quan.
2.3.2. chế miễn, giảm học phí hỗ trợ chi phí học tập
Việc miễn, giảm học phí sẽ được thực hiện trong suốt thời gian học tập tại nhà
trường, trừ trường hợp những thay đổi về do miễn hoặc giảm học phí. Ngân sách
nhà nước có trách nhiệm cấp bù trực tiếp học phí cho các cơ sở giáo dục công lập để
thực hiện việc miễn, giảm học phí đối với người học thuộc các đối tượng miễn, giảm
lOMoARcPSD|4053484 8
quy định và đang học tại cơ sở giáo dục đó với mức thu học phí tương ứng với từng
cấp học. Hàng năm việc cấp bù học phí cho các cơ sở giáo dục công lập để thực hiện
việc miễn, giảm phải được quyết toán đầy đủ, công khai, minh bạch. Mức cấp bù học
phí cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học theo nhóm ngành, chuyên
ngành, nghề của chương trình đại trà tại sở giáo dục công lập chưa tự bảo đảm kinh
phí chi thường xuyên chi đầu bằng mức đã quy định.
Nhà nước cấp trực tiếp tiền hỗ trợ miễn giảm học phí cho các đối tượng thuộc
diện được miễn, giảm học phí theo học tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập
theo theo mức học phí của chương trình đại trà tại cơ sở giáo dục công lập chưa tự bảo
đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư đã quy định tương ứng với các nhóm
ngành, chuyên ngành và nghề đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.Kinh
phí cấp miễn, giảm học phí; hỗ trợ đóng học phí được cấp theo thời gian học thực tế
nhưng không quá 10 tháng/năm học đối với sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học và thực hiện chi trả cho người học 2 lần trong năm vào đầu
các học kỳ của năm học.
Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định Nhà nước thực hiện hỗ trợ chi phí học tập
trực tiếp cho các đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập với mức 150.000 đồng/học
sinh/tháng để mua sách, vở và các đồ dùng học tập khác. Thời gian được hưởng theo
thời gian học thực tế và không quá 9 tháng/năm học và thực hiện chi trả 2 lần trong
năm vào đầu các học kỳ của năm học. Điều 2 Quyết định số 66/2013/QĐ-TTg ngày
11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ chi phí học tập đối
với sinh viên là người dân tộc thiểu số tại các sở giáo dục đại học với mức hỗ trợ
chi phí học tập bằng 60% mức lương tối thiểu chung và thời gian hưởng không quá 10
tháng/năm học/sinh viên.
lOMoARcPSD|4053484 8
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG
Trong những năm qua do dịch Covid-19 mà hầu hết các trường đại học đều
không tăng mức học phí trong giai đoạn 2019 - 2021. Nhưng tăng học phí là đòi hỏi
bắt buộc. thế, nếu trước đây các trường đại học công lập thu học phí theo Nghị định
86 ban hành từ năm 2015 thì nay theo lộ trình, từ 15/10 áp dụng Nghị định 81, sẽ tăng
mạnh mức trần bắt đầu trong năm 2022. Học phí đại học theo lộ trình sẽ tăng mạnh từ
năm 2022 trở về sau. Bên cạnh đó, hiện nhà nước đang có xu hướng giảm dần ngân
sách cho các trường đại học. Để có nguồn kinh phí hoạt động và nâng cao chất lượng
trong bối cảnh này, phần lớn các trường đại học tại Việt Nam chọn giải pháp tăng học
phí. Vì vậy, nhiều trường công lập chuyển sang cơ chế tự chủ, không nhận ngân sách
của n nước nữa.
Tuy nhiên, đời sống của người dân ở từng khu vực, vùng miền có sự khác biệt
nên chắc chắn việc tăng học phí sẽ tác động không nhỏ đến xã hội, đặc biệt là đối
tượng sinh viên nghèo, gia đình khó khăn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tiếp
cận giáo dục bậc cao của người nghèo. Vẫn có rất nhiều bất cập đối với chính sách
miễn, giảm, hỗ trợ học phí theo nghị định 81/2021/NĐ-CP, cụ thể không chính sách
miễn, giảm học phí cho sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên cả nước nói
chung. Thực tế, nhiều gia đình ở đồng bằng có mức thu nhập thấp nhưng vẫn cao hơn
một chút so với mức thu nhập để công nhận là hộ nghèo, hộ cận nghèo. Khi học phí
đại học tăng, gia đình không thể chi trả cho con mình theo học, điều này làm mất đi cơ
hội đi học của sinh viên nghèo.
Vẫn có nhiều bất cập trong chính sách công nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo như
nhiều tiêu chí không phù hợp với địa phương dẫn đến nhiều gia đình không thể công
nhận hộ nghèo hay cận nghèo. Hạn chế lớn nhất của bộ tiêu chí chấm điểm hộ nghèo
hiện hành là tạo điều kiện cho không ít hộ tìm cách để trở thành hộ nghèo. Thực tế,
không thiếu trường hợp người dân cố tình giấu tài sản, chuyển nhượng hoặc bán đi để
giảm điểm; hoặc hộ có khả năng nhưng không xây nhà, không mua sắm tài sản, dẫn
đến số điểm chấm đạt thấp đương nhiên, họ thuộc diện hộ nghèo hoặc hộ cận
lOMoARcPSD|4053484 8
nghèo. Nhiều gia đình điều kiện sống ổn định nhưng vẫn được liệt vào danh sách
hộ nghèo. Ngược lại, một số trường hợp hoàn cảnh rất khó khăn lại không được công
nhận hộ nghèo.
Mặc dù từ phía nhà nước và trường đại học đều có những cơ chế, chính sách hỗ
trợ sinh viên đặc biệt là sinh viên nghèo nhưng theo đánh giá của nhiều người, trên
thực tế vẫn thiếu hành lang pháp lý nên sinh viên khó tiếp cận. Công bằng mà nói,
chính sách cho vay tín dụng sinh viên của nhà nước khi trở thành chương trình cấp
quốc gia từ năm 2007 đến nay có nhiều điều chỉnh, thay đổi có lợi cho người học. Từ
mức vay 800.000 đồng/tháng, điều chỉnh dần đến 2,5 triệu đồng và nay đang lấy dự
thảo để tăng lên 4 triệu đồng/tháng; đối tượng được vay cũng điều chỉnh phù hợp hơn.
Tuy nhiên, theo một đánh giá công bố vào tháng 4 năm nay, vẫn còn khá nhiều sinh
viên nhu cầu nhưng không tiếp cận được tín dụng do bị hạn chế về nguồn thông tin,
thủ tục pháp lý và chính sách chưa phù hợp.
Về phía các trường đại học, khi thực hiện tự chủ cũng đề ra nhiều chính sách hỗ
trợ học bổng, giảm học phí... Tuy nhiên, số lượng sinh viên nhận được sự hỗ trợ này
cũng không lớn. Quỹ học bổng chưa hướng tới hỗ trợ các đối tượng học sinh nghèo,
học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng không nằm trong diện được miễn giảm
học phí hoặc được hưởng học bổng. Như thế, dù mức học phí đại học đang có xu
hướng tăng nhanh nhưng các chính sách hỗ trợ cho người học vẫn chưa theo kịp, dẫn
đến nguy cơ sinh viên nghèo khó theo học các trường chất lượng.
Đây bất cập nhà nước cần phải sớm giải quyết. Bên cạnh đó, các trường đại
học tự chủ cũng cần bỏ quan niệm xem học phí là nguồn thu chính như hiện nay mà
nên từ những nguồn khác như chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học, quỹ tín
thác từ các nhà tài trợ, đầu tư...
Qua đó, khẳng định tăng học phí giáo dục đại học là không công bằng với sinh
viên nghèo. Tăng học phí nhưng không làm giảm hội của người nghèo mới một
chính sách giáo dục đúng đắn.
lOMoARcPSD|4053484 8
KẾT LUẬN
Chính sách học phí nói riêng và tài chính đại học nói chung là một trong những
vấn đề cốt cử của giáo dục đại học, và tác động sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân
cũng như chiến lược phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia. Chính vì vậy, xây
dựng chính sách học phí là một bài toán có nhiều tham tố và rất cần được nghiên cứu
chu đáo để đưa ra những giải pháp tính đến lợi ích của các bên tham gia, có tính đến
khả năng của nhiều bộ phận dân cư, đến quan hệ giữa chất lượng của nguồn nhân lực
và chỉ số kinh tế tri thức, đến công bằng và ổn định xã hội, dựa trên những quy định
chính sách đã có và thực tiễn đang diễn ra trong hệ thống giáo dục Việt Nam, đặt trong
bối cảnh toàn cầu hóa và kinh nghiệm quốc tế.
Bởi vậy để tạo điều kiện tiếp cận đại học tốt cho học sinh nghèo, Đảng và Nhà
nước cần có những chính sách như: đầu tư cho các chương trình đào tạo tài năng, các
chương trình đào tạo khoa học cơ bản, các ngành xã hội có nhu cầu nhưng khó tuyển
sinh… Các chương trình này được miễn giảm học phí hoặc được cấp học bổng. Bên
cạnh đó, cấp học phí cho con em gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo có
học lực đáp ứng chuẩn chất lượng; Cho sinh viên vay vốn không bảo lãnh. Mức vay đủ
để đóng học phí và chi phí sinh hoạt. Đây là quỹ đầu cho an sinh tạo việc làm.
Sự mở rộng quy mô và phát triển nhanh chóng về số lượng của hệ thống đại học
Việt Nam đặt ra những thử thách to lớn về chất lượng, trong việc giải quyết bài toán
này, tài chính đại học trở thành một vấn đề then chốt. Trong khi ngân sách công không
thể đáp ứng cho một hệ thống đại học đang trở thành đại chúng hóa, truyền thống hiến
tặng cho đại học chưa hình thành, các nguồn thu do hoạt động nghiên cứu và dịch vụ
còn hạn chế, học phí là một nguồn thu quan trọng của đại học công và gần như là
nguồn thu duy nhất của các đại học tư, thì cải cách mức thu học phí là tất yếu để bảo
đảm chất lượng. Vai trò của nhà nước không phải là quy định mức trần mức sàn hay
quản cách chi tiêu của các trường thiết kế bộ khung chính sách nhằm bảo đảm
những định chế phù hợp cho việc thực hiện cơ chế giải trình trách nhiệm của các
trường giám sát việc thực hiện những định chế đó.
lOMoARcPSD|4053484 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An Chi (2021), ‘Các trường đại học công bố lộ trình tăng học phí năm học 2021 -
2022’, Báo Đại Đoàn Kết, <http://daidoanket.vn/cac-truong-dai-hoc-cong-bo-lo-trinh-
tang-hoc-phi-nam-hoc-2021--2022-560322.html>.
2. Bích (2021), ‘Trường đại học đồng loạt tăng học phí: Bộ Giáo dục Đào tạo
yêu cầu giữ ổn định’, Báo Lao Động, <https://laodong.vn/giao-duc/truong-dai-hoc-
dong-loat-tang-hoc-phi-bo-giao-duc-va-dao-tao-yeu-cau-giu-on-dinh-899825.ldo>.
3. Đỗ Văn Dũng (2016), ‘Tăng học phí những hệ lụy’, Báo Tuổi Trẻ,
<https://tuoitre.vn/tang-hoc-phi-va-nhung-he-luy-1098277.htm?
fbclid=IwAR00G1OOq2xQfZr5gAcZPCnSHwu3D4tei7fXEjvbFhMva1P-
jLRbNh3BNEw>.
4. Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về chế thu, quản học phí đối với
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ
trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Chính phủ ban hành
ngày 27 tháng 08 năm 2021.
5. Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017, Chính phủ ban hành ngày 24 háng
10 năm 2014.
6. Nhiên An (2021), ‘Học phí hội cho người nghèo’, Báo Thanh Niên,
<https://thanhnien.vn/hoc-phi-va-co-hoi-cho-nguoi-ngheo-post1395081.html?
fbclid=IwAR1WOlMH4avfyaWh77UDlygS_ibuSfIyXtaSbNbuI6z04DLMh95S5TzE
UT>.
7. Oanh Trần (2021), ‘Học phí cao - bước đột phá nâng chất lượng đào tạo đại
học?’, Báo Kinh tế và Đô thị, <https://kinhtedothi.vn/hoc-phi-cao-buoc-dot-pha-nang-
chat-luong-dao-tao-dai-hoc.html?
fbclid=IwAR3yj3YpcUTDFXCA7pytY0dfvTILz7iccLzhUx1cPhfMM5e8GP4vWuj0x
uM>.
8. Phạm Thị Tuệ (2019), Giáo trình Kinh tế công cộng, Nhà xuất bản Nội,
Nội.
| 1/37

Preview text:

lOMoARcPSD|40534848
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI ~~~~~~~ ~~~~~~~ BÀI THẢO LUẬN KINH TẾ CÔNG CỘNG
Đề tài 4: Tăng học phí giáo dục đại học là không công bằng với sinh
viên nghèo. Quan điểm của bạn về vấn đề này? Nhóm thảo luận: 9
Mã lớp học phần: 2205FECO0921
Giáo viên hướng dẫn: GV. NGÔ HẢI THANH HÀ NỘI – 2022 lOMoARcPSD|40534848
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
Học phần Kinh tế Công cộng I.
Thời gian, địa điểm • Cách thức: Online. • Thời gian: 21/02/2022. •
Địa điểm: Phần mềm TranS. •
Số lượng: 10/10 người tham gia. II. Mục tiêu
Thảo luận nội dung và phân chia công việc.
III. Nội dung công việc
Nhóm trưởng thông báo đề tài thảo luận tới các thành viên trong nhóm. •
Nhóm trưởng triển khai đề cương chi tiết, phân chia công việc cho các thành viên trong nhóm. IV. Đánh giá
Mọi người tham gia đầy đủ, nghiêm túc, nhiệt tình xây dựng, đóng góp ý kiến. Thư ký Nhóm trưởng Đinh Vân Trang Nguyễn Công Tráng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM lOMoARcPSD|40534848
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
Học phần Kinh tế Công cộng I.
Thời gian, địa điểm • Cách thức: Online. • Thời gian: 06/03/2022. •
Địa điểm: Phần mềm TranS. •
Số lượng: 10/10 người tham gia. II. Mục tiêu
Bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện bài thảo luận.
III. Nội dung công việc
Thành viên lần lượt cho ý kiến về phần tổng hợp bài thảo luận của hai nhóm. •
Thành viên tiến hành bổ sung, chỉnh sửa những điểm chưa hợp lý và phân
chia các công việc còn lại. IV. Đánh giá
Mọi người tham gia đầy đủ, nghiêm túc, nhiệt tình xây dựng, đóng góp ý kiến. Thư ký Nhóm trưởng Đinh Vân Trang Nguyễn Công Tráng
PHÂN CHIA NHIỆM VỤ lOMoARcPSD|40534848 STT Họ và Tên
Mã sinh viên Lớp hành Nhiệm vụ Đánh giá chính Mục 1.1.1 + Mở Đinh Vân Trang 81 19D160253 K55F4 đầu + Kết luận + + 0,2 (Thư ký) Powerpoint Ngô Thị Thùy 82 19D160045 K55F1 Mục 1.1.4 + 1.2.1 - 0,1 Trang Nguyễn Lê Hoài 83 19D160115 K55F2 Mục 2.1.1 + 2.1.2 - 0,1 Trang
84 Nguyễn Thị Trang 19D160185 K55F3 Mục 2.2.1 + 2.2.3 - 0,1
Nguyễn Thị Huyền 85 19D160325 K55F5 Mục 2.3 - 0,1 Trang Nguyễn Thị Thu Mục 1.1.2 + 1.1.3 + 86 19D160116 K55F2 + 0,2 Trang Thuyết trình Phạm Thị Thùy 87 19D160255 K55F4 Mục 1.2.2 + 1.2.3 - 0,1 Trang 88 Trần Thị Trang 19D160047 K55F1 Mục 2.1.3 + 2.1.4 - 0,1 Nguyễn Công Tráng 89 19D160256 K55F4 Mục 2.2.2 + Word + 0,2 (Nhóm trưởng) 90 Hà Thục Trinh 19D160117 K55F2 Chương III - 0,1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1 lOMoARcPSD|40534848
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG ................................................................. 2
1.1. Vấn đề công bằng và bất bình đẳng .......................................................................... 2
1.1.1. Quan niệm về công bằng và bất bình đẳng ......................................................... 2
1.1.2. Thước đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ............................................. 4
1.1.3. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ............................ 7
1.1.4. Lý do chính phủ can thiệp nhằm đảm bảo công bằng xã hội .............................. 9
1.2. Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả ............................................................... 10
1.2.1. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả có mâu thuẫn .............................. 10
1.2.2. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả không có mâu thuẫn ................... 11
1.2.3. Công bằng và hiệu quả trong thực tế ................................................................ 11
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BẰNG TRONG VIỆC TĂNG HỌC PHÍ
ĐẠI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN ...................................................................................... 14
2.1. Sự cần thiết phải tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay ................................ 14
2.1.1. Vấn đề tự chủ tài chính ..................................................................................... 14
2.1.2. Vấn đề chất lượng đào tạo ................................................................................ 16
2.1.3. Vấn đề về cơ sở vật chất ................................................................................... 18
2.2. Thực trạng tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay .......................................... 20
2.2.1. Khởi nguồn của việc tăng học phí đại học ........................................................ 20
2.2.2. Thực trạng tăng học phí của một số trường đại học ......................................... 21
2.2.3. Bất cập của việc tăng học phí đại học ............................................................... 23
2.3. Quy định chung về mức học phí đại học đối với sinh viên nghèo .......................... 25
2.3.1. Đối tượng miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập .................................. 25
2.3.2. Cơ chế miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập ....................................... 26 lOMoARcPSD|40534848
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG .......................................................... 28
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 30 MỞ ĐẦU
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ, kết hợp với sự
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nguồn nhân lực trở thành một trong
những nhân tố quan trọng, quyết định sự phát triển của một đất nước. Giáo dục ngày
càng có nhiều vai trò, nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam lOMoARcPSD|40534848
mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt giáo dục đại học là bước đệm
cho lực lượng lao động tương lai của quốc gia. Để đạt được mục tiêu cải tiến chất
lượng nguồn nhân lực trong tương lai thì cần nâng cao chất lượng giáo dục tại bậc đại học.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học cần có vốn đầu tư cho cơ sở vật chất
hay đội ngũ giảng viên, vậy kinh phí sẽ được lấy từ đâu? Chắc chắn nguồn thu sẽ được
lấy từ học phí của sinh viên. Nhưng để đáp lại việc cải tiến cơ sở vật chất hàng năm
của tất cả các trường đại học thì học phí phải tăng theo một tỷ lệ nhất định. Vì vậy, câu
hỏi đặt ra ở đây là: Liệu việc tăng học phí giáo dục đại học có thực sự công bằng đối
với sinh viên nghèo hay không?
Nhận thấy đây là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì vậy nhóm 9 quyết
định đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên
cứu, do thời gian và kiến thức còn hạn chế, nhóm 9 không tránh khỏi những thiếu sót
mong thầy cô và các thành viên trong lớp cùng đóng góp ý kiến để bài thảo luận của
nhóm được hoàn thiện hơn. Nhóm 9 xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG
1.1. Vấn đề công bằng và bất bình đẳng
1.1.1. Quan niệm về công bằng và bất bình đẳng
Quan niệm về công bằng lOMoARcPSD|40534848
Công bằng xã hội là một mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng hướng tới trong
quá trình phát triển bền vững. Do đó, các chính sách được đưa ra bên cạnh vấn đề hiệu
quả kinh tế cần được chú trọng tới khía cạnh công bằng xã hội. Nhưng quan niệm về
công bằng còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi, bởi công bằng là khái niệm chuẩn tắc.
Công bằng xã hội về phương diện kinh tế không có nghĩa là thành quả phát triển
của xã hội được chia đồng đều cho mọi người. Có 2 quan niệm khác nhau về công bằng xã hội:
Thứ nhất, công bằng theo chiều ngang: là sự đối xử như nhau đối với những
người có tình trạng kinh tế như nhau. Theo quan điểm này, nếu hai cá nhân có tình
trạng kinh tế như nhau (về thu nhập, tôn giáo..) thì chính phủ không được phân biệt đối xử.
Thứ hai, công bằng theo chiều dọc: là đối xử khác nhau với những người có khác
biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những
khác biệt sẵn có. Theo cách hiểu này, chính phủ có thể đối xử khác nhau với những
người có tình trạng kinh tế khác nhau nhằm giảm bớt những khác biệt, ví dụ ưu tiên
cho những người già, những người có hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc ...
Nếu như công bằng ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế thị trường, thì công
bằng dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ thực thi chính sách phân phối
theo công bằng dọc nhằm giảm chênh lệch về phúc lợi giữa các cá nhân. Điều này
được thể hiện rõ nhất trong chính sách thuế và trợ cấp, đặc biệt là thuế lũy tiến (hoặc
trợ cấp lũy thoái), trong đó người có thu nhập càng cao thì thuế suất phải chịu càng cao
(hoặc tương ứng là suất trợ cấp càng thấp, thậm chí âm) và ngược lại.
Mặc dù về mặt nhận thức, việc phân biệt gia công bằng ngang và công bằng dọc
có vẻ rất rõ ràng, nhưng việc áp dụng các tiêu chuẩn này trong thực tiễn lại rất mơ hồ.
Đó là vì không ai đưa ra được một định nghĩa chuẩn về thế nào được coi là có tình
trạng kinh tế như nhau. Liệu tình trạng đó nên được đo bằng thu nhập hay mức của cải
của cá nhân? Có nên tính đến cả hoàn cảnh gia đình của họ (như số người ăn theo, khu lOMoARcPSD|40534848
vực địa lý...) hay không. Và ngay cả khi đã thống nhất sử dụng thu nhập làm thước đo
về tình trạng kinh tế thì vẫn không rõ thu nhập đó nên được đo theo tháng, năm hay
thu nhập cả đời. Tất cả những điều này đã khiến cho nghiên cứu về công bằng xã hội
vẫn là một trong những lĩnh vực gây nhiều tranh cãi nhất. ❖
Quan niệm về bất bình đẳng
Bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội, nó là cơ sở tạo nên sự phân
tầng xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa
các cá nhân mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm
xã hội khác. Bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các
cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
Bất bình đẳng xã hội do nhiều nguyên nhân gây ra, trong những xã hội khác
nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt. Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại
với những nguyên nhân và kết quả cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính,
chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ... Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội đa dạng và
khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, và các nhà xã hội học đưa về ba loại căn bản:
Thứ nhất là những cơ hội trong cuộc sống: Đó là những thuận lợi về vật chất mà
cá nhân có được, nhờ vào đó mà các nhân có thể cải thiện cuộc sống vật chất của
mình. Ngoài ra nó còn có những điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khỏe hay an sinh
xã hội… Cơ hội trong cuộc sống là cơ sở khách quan của bất bình đẳng xã hội.
Thứ hai là địa vị xã hội: Bất bình đẳng về địa vị xã hội là do những thành viên
của các nhóm trong xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị ở đây có thể là bất
cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được nhóm xã hội khác thừa nhận.
Những người có uy tín cao, xã hội sẽ dành cho họ sự ưu ái, trân trọng. Uy tín cá nhân
đó có được là do sự đánh giá của một nhóm người, một cộng đồng người, nó dựa vào lOMoARcPSD|40534848
bất cứ thứ gì, có thể là tuổi tác, trình độ, kinh nghiệm, quyền lực, tiền bạc hay giới tính…
Thứ ba là ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có được
do có ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế, bản thân chức vụ chính trị là cơ sở đạt
được địa vị và những cơ hội trong cuộc sống. Sự bất bình đẳng thể hiện qua mô hình
phân tầng xã hội của xã hội tư bản phương Tây ở thế kỷ XIX, qua sự phối hợp phân
tích của K.Marx và M.Web: giai cấp lớp trên; giai cấp trung lưu; giai cấp công nhân và lớp nghèo.
Bất bình đẳng xã hội là vấn đề trung tâm của xã hội học hiện đại. Do đó, nghiên
cứu về bất bình đẳng xã hội giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Ở
phương diện cá nhân, nghiên cứu bất bình đẳng xã hội cho ta thấy được điểm xuất phát
của mỗi cá nhân, từ đó đánh giả tương đối chính xác quá trình phấn đấu vươn lên của
mỗi người. Ngoài ra, nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội còn cho thấy giá trị đích thực
của cả nhân trang cuộc sống.
Ở phương diện xã hội, nghiên cứu về bất bình đẳng tạo ra cơ sở lý luận, tiền đề
để các nhà quản lý đưa ra hệ thống chính sách phù hợp đúng đến nhằm giàu bất công
xã hội, thúc đẩy công bằng và nền tảng phát triển chung, hướng đến việc xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.2. Thước đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập Đường cong Lorenz
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông, cạnh bên là số phần
trăm thu nhập cộng dồn, còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm cộng dồn các nhóm dân
cư sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz được xây dựng
theo trình tự như sau: (1) sắp xếp thu nhập của dân cư theo thứ tự tăng dần; (2) chia
dân số thành các nhóm có số dân bằng nhau (thường chia làm 5 nhóm); (3) đưa số liệu
lên đồ thị: % dân số cộng dồn vào cạnh đáy và % thu nhập cộng dồn tương ứng vào lOMoARcPSD|40534848
cạnh bên; (4) nối các điểm kết hợp giữa % dân số cộng dồn và % thu nhập cộng dồn,
ta được đường cong Lorenz.
Đường cong Lorenz hay còn gọi là đường phân phối thu nhập bắt đầu từ điểm
gốc 0 của đường 450 và kết thúc ở đầu phía bên kia đường 450, nó nằm ở khoảng giữa
đường 450 và đường bất bình đẳng tuyệt đối. Đường cong Lorenz càng gần đường 450
thì mức độ bất bình đẳng càng thấp (hay mức độ công bằng càng cao) và ngược lại,
đường cong Lorenz càng xa đường 450 thì mức độ bất bình đẳng càng cao (hay mức
độ công bằng càng thấp). Như vậy, đường cong Lorenz là một công cụ tiện lợi, giúp
chúng ta đánh giá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thông qua việc
quan sát hình dạng đường cong. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép so sánh mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia hay giữa các thời kỳ phát triển.
Tuy nhiên, phương pháp này chỉ cho phép thấy được sự bất bình đẳng một cách
định tính thông qua nhận định chủ quan của người đánh giá cũng như không thể đưa ra lOMoARcPSD|40534848
kết luận chính xác về mức độ bất bình đẳng khi các đường Lorenz giao nhau và rất
phức tạp khi so sánh nhiều quốc gia cùng một lúc. ❖ Hệ số Gini
Hệ số Gini là thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được sử
dụng phổ biến nhất. Hệ số Gini được xác định dựa trên đường cong Lorenz, thông qua công thức sau: Trong đó:
A là phần được giới hạn bởi đường cong Lorenz và đường 450.
B là phần được giới hạn bởi đường cong Lorenz, cạnh đáy và cạnh bên phải hình vuông.
Đường cong Lorenz càng gần đường 450 thì hệ số Gini càng nhỏ, mức độ bất
bình đẳng càng thấp và ngược lại. Hệ số Gini = 0 xảy ra khi đường Lorenz trùng với
đường bình đẳng tuyệt đối và hệ số Gini = 1 xảy ra khi đường Lorenz trùng với đường
bất bình đẳng tuyệt đối. Thực tế thì hai trường hợp trên không bao giờ xảy ra, do đó hệ
số Gini luôn nằm trong khoảng (0.1) và càng nhỏ càng tốt. Nếu 0,5< G < 0,7: bất bình
đẳng cao; Nếu 0,2 < G < 0,35: bất bình đẳng nằm ở mức chấp nhận được.
Hệ số Gini đã lượng hoá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
bằng một con số cụ thể tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế như hệ số
Gini bằng nhau thể hiện ở diện tích phần A như nhau nhưng độ phân bố các nhóm dân
cư có mức thu nhập khác nhau là không giống nhau, do đó hình dạng đường Lorenz là
khác nhau. Điều này đặc biệt đúng khi các đường Lorenz giao nhau, làm cho hệ số
Gini trở thành một thước đo không hoàn toàn nhất quán. Ngoài ra không cho phép
phân tách hệ số Gini theo các phân nhóm (chẳng hạn nông thôn, thành thị hay các
vùng trong một nước) rồi sau đó tổng hợp lại để rút ra hệ số Gini quốc gia. Mặc dù
vậy, hệ số Gini hiện nay vẫn là thước đo được sử dụng phổ biến để đo mức độ bất bình
đẳng giữa các quốc gia trên thế giới. lOMoARcPSD|40534848
1.1.3. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản
Thứ nhất, tài sản được hình thành do được thừa kế. Của cải của mỗi gia đình
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nên nhiều người trong xã hội may mắn sinh
ra đã là người giàu có, được thừa kế một cơ nghiệp lớn của cha ông để lại. Trong khi
đó, có rất nhiều người nghèo và sống trong nợ nần túng quẫn từ đời này sang đời khác.
Điều này tạo ra sự bất bình đẳng sâu sắc trong xã hội. Vì vậy, để hạn chế sự bất bình
đẳng này, Chính phủ đã thực hiện chính sách đánh thuế cao vào tài sản thừa kế và quà tặng.
Thứ hai, tài sản được hình thành do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau:
Các cá nhân trong xã hội có thu nhập giống nhau nhưng cách thức sử dụng thu nhập
của họ khác nhau. Người có ý thức tiết kiệm và kế hoạch chi tiêu hợp lý thì tài sản mà
họ có sẽ khác với người luôn “vung tay quá trán” và không lo nghĩ gì cho tương lai.
Chính sự tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân khác nhau đã ảnh hưởng
đến lượng tài sản mà họ tích luỹ được.
Thứ ba, tài sản được hình thành do kết quả kinh doanh: Thực tế cho thấy những
người giàu có trong xã hội hiện nay đều là những người làm kinh doanh, họ dám đầu
tư tiền bạc và chấp nhận rủi ro. Kết quả kinh doanh thuận lợi khiến họ ngày càng có
nhiều tài sản hơn những người “an phận thủ thường”. ❖
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
Thứ nhất, thu nhập khác nhau do khác nhau về khả năng và kỹ năng lao động.
Trong xã hội hiện nay, những người có trình độ chuyên môn cao sẽ kiếm được công
việc tốt và được hưởng một chế độ lương bổng cao. Khi cuộc sống dư giả về tiền bạc
thì họ sẽ có nhiều cơ hội để giao lưu, hưởng thụ các dịch vụ mới, hiện đại của xã hội;
con cái của họ cũng có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Ngược lại, những người có
trình độ thấp, cơ hội kiếm được việc làm không cao, mức thù lao nhận được cũng lOMoARcPSD|40534848
không cao, chỉ đủ tiêu pha cho cuộc sống hàng ngày và một phần cho tiết kiệm, con
cái của họ sẽ không được phát triển trong một môi trường tốt nhất.
Thứ hai, thu nhập khác nhau do khác nhau về cường độ làm việc. Hai cá nhân
giống nhau về mọi yếu tố: trình độ chuyên môn, sức khỏe, cơ hội, môi trường làm
việc... nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau thì thu nhập mà họ có khác nhau.
Những người bỏ nhiều thời gian và công sức để làm việc thì thu nhập của họ sẽ cao hơn những người khác.
Thứ ba, thu nhập khác nhau do khác nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc.
Thực tế cho thấy, những công việc phổ thông, đòi hỏi ít kỹ năng thường được trả
lương thấp; còn công việc chuyên môn có hàm lượng chất xám nhiều sẽ được hưởng
lương cao hơn. Những công việc có liên quan đến chất độc hại thì sẽ được trả lương
cao hơn để bù đắp cho những giảm sút về sức khỏe của người lao động.
Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong thu
nhập từ lao động như: sự phân biệt đối xử trong xã hội, ảnh hưởng của thiên tai, các
rủi ro khác... dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội. Chênh
lệch thu nhập do sự khác biệt trong năng suất là tất yếu, là động lực cho tăng trưởng, là
tiền đề của hiệu quả, đây không phải là nguồn gốc của bất bình đẳng kinh tế. Tuy
nhiên, một nền kinh tế có chênh lệch thu nhập quá lớn sẽ kéo theo những chênh lệch
khác về cơ hội, về khả năng tiếp cận các nguồn lực sẵn có, chênh lệch về trình độ và
về mức sống... khi đó sẽ tạo nên bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập dẫn đến nhiều hệ lụy liên quan đến tăng trưởng kinh tế cũng như an sinh xã hội.
1.1.4. Lý do chính phủ can thiệp nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Mô hình kinh tế thị trường còn nhiều khiếm khuyết, nhằm hạn chế những tổn thất
phúc lợi xã hội mà nó gây ra, cần có sự tác động kịp thời của nhà nước. Đây là một số
lý do khiến chính phủ phải can thiệp nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội: lOMoARcPSD|40534848
Thứ nhất, công bằng và hiệu quả là hai mục tiêu cao nhất trong suốt quá trình
phát triển của xã hội loài người. Khi nguồn lực xã hội được sử dụng một cách hiệu quả
nhưng không có tác động gì tới sự công bằng trong phân phối thu nhập giữa các cá
nhân thì Chính phủ phải can thiệp thông qua các công cụ và chính sách về phân phối
lại để giảm bớt sự bất bình đẳng thu nhập trong xã hội.
Thứ hai, phân phối lại thu nhập tuy không làm tăng mức của cải chung của xã hội
nhưng nó có khả năng làm tăng tổng phúc lợi xã hội. Bởi quá trình phân phối lại thu
nhập giúp cải thiện lợi ích cho người nghèo nhưng lại khiến người giàu bị giảm lợi ích.
Tuy nhiên, do thu nhập của người nghèo thấp nên lợi ích tăng thêm đối với họ sẽ lớn
hơn lợi ích giảm đi của người giàu. Kết quả là tổng phúc lợi xã hội tăng lên.
Thứ ba, phân phối lại thu nhập có tác dụng động viên, giúp đỡ người nghèo vượt
qua những thời điểm khó khăn, nguy khốn, giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Nghèo
đói thường đi liền với các tệ nạn xã hội, do đó khi người nghèo được hỗ trợ tốt thì
cũng góp phần giảm bớt tệ nạn xã hội và giữ vững ổn định chính trị.
Thứ tư, phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội là cách đảm bảo
khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản mà con người được hưởng với tư cách là quyền
của công dân. Do vậy, giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập tạo ra một ngoại ứng
tích cực đối với quá trình phát triển của nền kinh tế.
Từ những lý do cơ bản trên, việc chính phủ phải can thiệp để cải thiện sự bình
đẳng trong phân phối thu nhập trở thành một điều cần thiết. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt
ra là cần phân phối lại như thế nào để nâng cao sự bình đẳng? Nói cách khác, xã hội
nhận thức như thế nào về phân phối, quan niệm ra sao về một phân phối thu nhập công
bằng. Đây là một vấn đề chuẩn tắc và nó phụ thuộc rất nhiều vào các quan điểm về
phân phối thu nhập mà một xã hội theo đuổi. lOMoARcPSD|40534848
1.2. Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả
1.2.1. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả có mâu thuẫn
Theo quan điểm này, nếu ưu tiên hiệu quả phải chấp nhận bất công và nếu muốn
cải thiện công bằng thì phải hy sinh hiệu quả. Điều này được giải thích bởi những lý do chính như sau:
Thứ nhất, quá trình phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo sẽ
làm tăng chi phí hành chính để vận hành bộ máy thực hiện chức năng phân phối lại.
Đây là những khoản chi phí không hiệu quả nhưng không thể tránh khỏi trong các
chương trình chi tiêu hỗ trợ người nghèo của Chính phủ. Bên cạnh đó, trong quá trình
phân phối lại còn có sự thất thoát nguồn lực do vấn đề tham ô, tham nhũng của một số
cá nhân. Do vậy, có được công bằng phải hy sinh hiệu quả, tổng thu nhập trong nền kinh tế giảm đi.
Thứ hai, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại được lấy từ ngân
sách với thuế là nguồn thu chủ yếu. Khi thuế thu nhập ngày càng tăng, người làm việc
giảm động cơ làm việc nên họ làm việc ít đi và giảm đóng góp vào tăng trưởng của
nền kinh tế. Đồng thời, nguồn lực được sử dụng để phân phối lại cũng sẽ giảm.
Thứ ba, nếu nguồn kinh phí sử dụng để tiến hành phân phối lại được lấy từ ngân
sách với nguồn hình thành từ tiết kiệm của thu nhập quốc dân. Khi tăng thuế sẽ khiến
lãi suất thực giảm, tiết kiệm giảm và đầu tư giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sự tăng
trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, các chương trình phân phối lại có thể gây ra sự nản lòng đối với những
người phải đóng góp nhiều. Mặt khác, những người nhận được hỗ trợ có thể không có
động lực làm việc, vươn lên thoát nghèo mà có tâm lý ỷ lại vào sự giúp đỡ của Chính
phủ và các cá nhân khác trong xã hội. lOMoARcPSD|40534848
1.2.2. Quan điểm cho rằng công bằng và hiệu quả không có mâu thuẫn
Theo quan điểm này, việc giải quyết các vấn đề phân phối thu nhập một cách
công bằng sẽ thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế. Điều này được giải thích bởi những lý do chính như sau:
Thứ nhất, phân phối lại thu nhập giúp cải thiện mức sống cho người nghèo sẽ
kích cầu trong nước đối với nhiều mặt hàng, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu. Điều
này sẽ kích thích sản xuất phát triển, việc làm được tạo ra nhiều hơn và đồng thời gia
tăng thu hút đầu tư trong nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh.
Thứ hai, quá trình phân phối lại giúp người nghèo gia tăng thu nhập và mức
sống. Qua đó, cuộc sống của họ được cải thiện tốt hơn, nguy cơ bệnh tật giảm, có cơ
hội được học hành và tìm được công việc có thu nhập ổn định. Điều này cũng đóng
góp vào quá trình tăng trưởng, phát triển của quốc gia.
Thứ ba, phân phối thu nhập công bằng hơn giúp người nghèo có được sự ổn định
về mặt tâm lý để vươn lên trong cuộc sống, không trở thành vật cản đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo là cần thiết và nó
không ảnh hưởng tới tính hiệu quả của nền kinh tế. Bởi những người giàu có ở các
nước đang phát triển thưởng sử dụng một phần lớn thu nhập để tiêu dùng hàng hóa xa
xỉ hay đầu tư vào vàng, ngoại tệ, đất đai... là những loại đầu tư không đóng góp gì cho
tăng trưởng sản xuất của nền kinh tế.
1.2.3. Công bằng và hiệu quả trong thực tế
Simon Kuznets là nhà kinh tế học tiên phong trong việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa công bằng và hiệu quả trong thực tế. Với số liệu thống kê về dân số và thu nhập
nhiều năm của nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, ông đã tìm ra mối quan hệ giữa hai vấn đề này.
Sử dụng đồ thị với trục hoành là thu nhập bình quân đầu người - đại diện cho tiến
bộ kinh tế của một quốc gia, trục tung là hệ số Gini đại diện cho mức độ bất bình đẳng, lOMoARcPSD|40534848
kết quả nghiên cứu của Kuznets cho thấy rằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội tồn tại một mối quan hệ theo dạng hình chữ U ngược. Điều đó có nghĩa là các
quốc gia khi ở giai đoạn đầu của sự phát triển luôn đi kèm với sự bất bình đẳng cao và
khi nền kinh tế phát triển đến một mức nào đó, lợi ích của sự phát triển được chia sẻ
rộng hơn cho các cá nhân trong xã hội thì mức độ bất bình đẳng sẽ giảm xuống.
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cho thấy có 3 mô hình giải quyết
vấn đề công bằng và hiệu quả trong nền kinh tế:
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng trước, công bằng sau (kiểu chữ U ngược): Theo
mô hình này, các nước thưởng không quan tâm đến phân phối lại thu nhập ở giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Do vậy, trong giai đoạn này, cùng với sự tăng trưởng (tăng
thu nhập bình quân đầu người) thì bất bình đẳng trong nền kinh tế có xu hướng tăng
lên. Chỉ đến khi nền kinh tế đạt tới mức phát triển nào đó, thu nhập bình quân đầu
người cao, lúc đó bất bình đẳng mới có xu hướng giảm xuống do chính phủ quan tâm
đến quá trình phân phối lại, làm cho thành quả tăng trưởng được phát huy một cách rộng rãi.
Thứ hai, mô hình công bằng trước, tăng trưởng sau: Mô hình này nhấn mạnh vào
các chính sách giải quyết các vấn đề xã hội, tạo ra sự công bằng ngay từ đầu quá trình
phát triển, mặc dù tăng trưởng kinh tế đạt được ở mức độ thấp. Các chính sách phân
phối lại, chính sách phát triển con người như đầu tư vào văn hóa, giáo dục, y tế được
quan tâm. Do vậy, các quốc gia này đạt được mức độ khá tốt về chỉ số xã hội, tuy
nhiên nền kinh tế thiếu động lực phát triển nên tốc độ tăng trưởng thấp.
Thứ ba, mô hình kết hợp đồng thời tăng trưởng và công bằng xã hội: Chiến lược
phát triển lựa chọn mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng xã hội thể
hiện rõ ở sự can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự
đồng bộ của hai yếu tố này. Đặc trưng thứ nhất là lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa
hướng ra xuất khẩu, khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh. Đồng thời với đầu tư vào
các ngành của nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng nhanh nhưng không gây ra gia tăng bất
bình đẳng các quốc gia phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sử dụng nhiều lao lOMoARcPSD|40534848
động và các yếu tố đầu vào có sẵn trong nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước.
Các nhà kinh tế trên thế giới cho rằng bất bình đẳng gắn với phương thức phát
triển của nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế thưởng không trung tính về mặt phân phối
thu nhập: tăng trưởng có thể thay đổi phép phân phối theo hướng bình đẳng hơn hoặc
bất bình đẳng hơn. Điều đó tuỳ thuộc vào “phương thức phát triển” mà quốc gia chọn
lựa. Theo nhà kinh tế học Pierre Salama, phương thức phát triển dựa vào cầu nội địa,
đi liền với phép phân phối thu nhập có tính bất bình đẳng thấp nhất; phương thức phát
triển bằng xuất khẩu, đi kèm với phép phân phối thu nhập mang tính bất bình đẳng cao
hơn; phương thức phát triển “tài chính hoá”, tự do hoá thị trường vốn và kích thích
hoạt động đầu cơ - đi đôi với một xã hội cực kỳ bất bình đẳng.
Tăng trưởng và công bằng trong nền kinh tế là những mục tiêu tương hợp, không
mâu thuẫn. Các chính sách của chính phủ đóng vai trò quyết định đến việc giải quyết
mối quan hệ này, bởi thực tế chỉ có một số ít các chính sách được coi là hoàn thiện
Pareto, còn hầu hết sẽ dẫn đến lợi cho nhóm này và thiệt cho nhóm kia. Vì vậy, khi
thiết kế và lựa chọn chính sách, chính phủ đều cân nhắc kỹ tác động của nó tới công
bằng (phân phối) và hiệu quả kinh tế, hướng tới sự cân bằng trong cả hai mục tiêu này. lOMoARcPSD|40534848
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BẰNG TRONG VIỆC TĂNG HỌC
PHÍ ĐẠI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
2.1. Sự cần thiết phải tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay
2.1.1. Vấn đề tự chủ tài chính
Tự chủ đại học bao gồm 4 nội dung chính: Tự chủ về tổ chức; tự chủ về tài chính;
tự chủ về nhân sự; tự chủ về học thuật (EUA, 2013). Trong các nội dung này, tự chủ về
tổ chức và tự chủ về tài chính được xem là những tiền đề quan trọng có khả năng hoàn
thiện toàn bộ các nội dung tự chủ khác. Tự chủ tài chính cho phép các trường huy
động nguồn lực tài chính và duy trì nguồn lực tài chính, đảm bảo việc tuyển chọn lực
lượng học thuật tốt nhất, từ đó phát triển học thuật theo hướng sáng tạo đổi mới theo
chiến lược của từng trường đại học.
Hiện nay, trung bình trong một năm học tại các trường đại học công lập, mỗi sinh
viên chỉ phải nộp khoảng 4,5 triệu đồng học phí, trong khi, bình quân mức học phí quy
đổi ra đồng VND mà lưu học sinh Việt Nam phải trả cho các trường đại học ở nước
ngoài tùy theo từng trường và từng chuyên ngành khoảng từ 300 triệu đồng đến 500
triệu đồng/năm (gấp khoảng 150 lần so với Việt Nam). Ngoài ra, đối chiếu với khung
phân tích tự chủ đại học, thì mức độ tự chủ tài chính của các trường đại học công lập
Việt Nam là rất thấp, cơ bản các trường đại học công lập mới tự chủ về chi, chưa tự
chủ về thu, đặc biệt là thu học phí, mức thu học phí của hệ công lập vẫn theo lộ trình
quy định của cơ quan quản lý Nhà nước.
Bên cạnh đó, các trường đại học công lập chưa được tự chủ về thu, đặc biệt là thu
học phí. Mức học phí các trường vẫn phải tuân thủ theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP.
Theo Nghị định này, đối với các trường tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
được xác định học phí trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ
quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Đối với các trường
còn lại, học phí được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ của Nhà
nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà lOMoARcPSD|40534848
nước. Mức trần học phí được quy định cụ thể, chi tiết cho từng năm học, cho từng loại
trường đại học công lập tại điều 5 Nghị định số 86/2015/NĐ-CP. Mức trần học phí
nhìn chung đã tăng theo từng năm học, nhưng chưa đủ để bù đắp các chi phí đào tạo của các trường.
Chất lượng quản lý tài chính đại học ở Việt Nam hiện nay đã thay đổi rõ rệt
nhưng mức độ tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập ở nước ta vẫn còn thấp.
Các trường đại học công lập, về cơ bản được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất ban đầu
nhưng đa phần đã đến thời điểm xuống cấp, cần tu bổ, sửa chữa hoặc đầu tư mới.Vì
vậy, nguồn lực tài chính là rất cần thiết không chỉ cho việc hỗ trợ chi thường xuyên mà
cần thiết cho cả đầu tư xây dựng. Phần lớn các trường không thể tự đảm bảo đủ nguồn
lực để chi thường xuyên, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật làm
việc, thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức, người lao động trong trường.
Thêm vào đó, việc chi trả lương cho cán bộ, viên chức, người lao động trong các
trường đại học công lập hiện nay vẫn dựa theo hệ số ngạch, bậc, chức vụ phụ thuộc
vào thang bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP. Điều này ảnh
hưởng lớn đến việc thu hút người tài do sự cạnh tranh về mức lương tại các đơn vị tư
nhân đang trả rất cao, chế độ đãi ngộ rất tốt và ảnh hưởng đến năng suất cũng như tinh
thần góp sức tăng cường nguồn thu cho các trường.
Tuy nhiên, gần đây mức thu này có linh hoạt cho các lớp chất lượng cao nhưng
điều này vẫn chưa mang tính chất phổ biến. Việc trả lương cho giảng viên vẫn chủ yếu
theo hệ số, cấp bậc, phụ thuộc vào thang bảng lương theo quy định của Nhà Nước.
Việc kinh doanh tài chính, mặc dù các trường đại học có chuyên môn song cũng chưa
có cơ chế rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm để chính thức hoá các hoạt động kinh
doanh này theo mô hình doanh nghiệp.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trong các trường đại học công lập là một
vấn đề tất yếu bởi nó mang lại những tác động tích cực đến các trường đại học công
lập, giáo dục đại học và xa hơn nữa là đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia. Tự chủ tài chính góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các trường đại lOMoARcPSD|40534848
học công lập, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo; thúc đẩy các trường
đại học công lập nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và
tài sản của đơn vị, sử dụng ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm và hiệu quả hơn; tự
chủ tài chính giúp các trường đại học công lập thu hút được cán bộ có trình độ cao và
nâng cao đời sống, thu nhập của cán bộ, giảng viên… Vì vậy tự chủ tài chính là một
vấn đề cần thiết trong quá trình phát triển của các trường đại học hiện nay.
2.1.2. Vấn đề chất lượng đào tạo
Hiện nay, số lượng các trường đại học rất nhiều trong đó nhiều trường năng lực
yếu, chất lượng đào tạo không cao. Các trường này chỉ tập trung vào số lượng để tìm
kiếm lợi nhuận mà không coi trọng vấn đề chất lượng. Điều này làm giảm số lượng
sinh viên đăng ký học tại các trường công lập từ đó giảm nguồn thu đào tạo của các trường.
Mức học phí còn thấp chưa tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo cho các loại hình
đào tạo và các nhóm ngành đào tạo. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước
cấp còn hạn chế. Điều đó dẫn đến nguồn tài chính không đủ để đầu tư, nâng cao chất
lượng đào tạo một cách tương ứng với nhu cầu đào tạo. Hiện nay, học phí là vấn đề
bức xúc với các trường. Học phí của nước ta quá thấp, chậm thay đổi, với mức học phí
hiện tại thì không thể bù đắp chi phí để các trường đào tạo có chất lượng. Học phí phải
đủ bù chi phí đào tạo. Các trường sẽ phải cạnh tranh về mức học phí trong tương quan
với chất lượng đào tạo để thu hút sinh viên.
Nguồn thu của các trường đại học xuất phát từ: học phí, thu từ các hợp đồng
nghiên cứu khoa học,... Mà các trường phải cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo
liên tục; phát triển các chương trình đào tạo hiện đại phù hợp với xu thế và nhu cầu
của xã hội để thu hút người học; nâng cao trình độ nghiên cứu của giảng viên để nhận
được các hợp đồng nghiên cứu khoa học. Vì vậy các trường đại học phải đảm bảo
được nguồn thu mới có thể vận hành hoạt động của nhà trường. lOMoARcPSD|40534848
Hiện nay, trước xu thế hội nhập mạnh mẽ giáo dục quốc tế, sự xuất hiện của
nhiều tổ chức giáo dục nước ngoài cũng như việc liên kết đào tạo với nước ngoài làm
gia tăng sự cạnh tranh của giáo dục đại học. Nguồn lực nhà nước vẫn đóng vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ, tạo động lực cho các trường đại học phát triển. Tuy nhiên,
ngân sách chi cho giáo dục đào tạo chưa được phân bổ hợp lý. Điều này khiến cho cơ
sở vật chất, chất lượng đào tạo tại các trường đại học công lập không được nâng cao
làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh, thu hút người học với các trường đại học quốc
tế. Những năm gần đây, khi đề cập tới giáo dục đào tạo đại học, xã hội đều đánh giá
rằng chất lượng đào tạo đại học hiện nay còn thấp, còn có một khoảng cách khá xa so
với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Nghị định 86/2015 của Chính phủ đã quy định mức thu học phí, dịch vụ tuyển
sinh, các khoản dịch vụ khác. Đối với các trường đại học tự chủ, Nhà nước quy định
mức trần học phí cho mỗi trường. Như vậy khi các trường áp dụng cơ chế tự chủ, Nhà
nước không cấp chi thường xuyên, lúc đó học phí sẽ phải bù vào một phần. Vì vậy,
việc tăng học phí là điều tất yếu, không thể khác được, để nhà trường tiếp tục tổ chức hoạt động đào tạo.
Thực tế cho thấy các trường tự chủ được thu mức học phí cao đã đầu tư cơ sở vật
chất tốt hơn trước, chất lượng dịch vụ, chất lượng đào tạo của trường cũng cải thiện.
Đặc biệt, với chương trình chất lượng cao có mức thu học phí cao hơn, sinh viên đã
được hưởng lợi khác biệt về điều kiện và chất lượng học tập (sĩ số lớp ít, phòng học có
máy lạnh, giảng viên giỏi...). Vì vậy, ngày càng có thêm nhiều sinh viên lựa chọn học
chương trình chất lượng cao để được hưởng chất lượng đào tạo tốt hơn.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động đổi mới
nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực,
tăng cường kỹ năng ứng dụng và thực hành… Các cơ sở đào tạo thực hiện gắn đào tạo
với thị trường lao động, chủ động nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp hoặc phát triển
chương trình đào tạo có sự tham gia của các doanh nghiệp bảo đảm chất lượng đầu ra.
Theo đó, các trường giáo dục đại học cần triển khai chương trình tiên tiến, chương lOMoARcPSD|40534848
trình chất lượng cao chuyển giao từ các nước phát triển để từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Những
điều này phụ thuộc nhiều vào mức độ tài chính, khả năng thực hiện của các trường,
chính vì vậy đòi hỏi các trường đại học phải tăng học phí để có thể đảm bảo chất lượng
đào tạo của trường mình.
2.1.3. Vấn đề về cơ sở vật chất
Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện
đại, tích hợp với các công cụ chuyển đổi số và các hệ thống quản lý học tập
Blackboard, Angel, WebCT, Sakai, Moodle… là cực kỳ quan trọng, mang tính sống
còn đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Việc nhanh chóng áp dụng công nghệ mới, sử dụng các công cụ đa năng, như:
máy tính, máy chiếu, bài giảng điện tử, bảng điện tử thông minh, sách giáo khoa điện
tử, nhất là các phần mềm dạy học; tổ chức lớp học, giao bài tập, giới hạn thời gian,
kiểm tra bài, cung cấp tài liệu, nhận phản hồi, điều chỉnh hoạt động của giảng viên,
học viên, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, từ xa… là hết sức cần thiết, một mặt,
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mặt khác, tiết kiệm chi phí xã hội cho
việc đào tạo, bồi dưỡng cả về thời gian, tài chính; đồng thời, tạo nền tảng cho việc hội nhập quốc tế.
Xây dựng các mô hình trường quay thu nhỏ sử dụng công nghệ mới, các phòng
học ảo, phòng thí nghiệm ảo, thiết bị ảo, thư viện ảo, dưới sự hỗ trợ của các thiết bị
thông minh. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ AI, nhất là trong tổng hợp thông tin học
tập, các gợi ý hữu ích cho người học và người dạy, tạo điều kiện cho người học tiếp
cận giáo trình chuẩn hóa theo từng cá nhân, trong đánh giá năng lực và nhu cầu của
người học… là một xu thế tương đối phổ biến và phát triển hiện nay ở các cơ sở đào
tạo trên thế giới và ở Việt Nam.
Khi một khảo sát tương đối chi tiết của Cục Cơ sở vật chất, thiết bị trường học và
đồ chơi trẻ em (Bộ Giáo dục và Đào tạo) về cơ sở vật chất các trường đại học, cao lOMoARcPSD|40534848
đẳng công lập được công bố với 50% trường ở mức dưới chuẩn, nhiều người đã gọi đó
là “thảm cảnh” của nền giáo dục đại học. Song đó là một thực tế đã nhiều năm, khi các
trường đại học tồn tại, phát triển không theo một kế hoạch và quy chuẩn chung nào về cơ sở vật chất.
Thứ nhất, các trang thiết bị đã được đầu tư hiện đã đưa vào sử dụng từ lâu, nay
đã xuống cấp và hư hỏng thường xuyên như máy vi tính, hệ thống máy chiếu, âm
thanh… các phần mềm quản lý đào tạo, quản lý thư viện, văn thư – lưu trữ vẫn còn
hẹp, cục bộ, chưa liên thông, chưa kết nối được với hệ thống mạng chung của Bộ Nội
vụ, với các cơ quan bộ, ngành trung ương. Phòng quay đào tạo từ xa còn đơn chiếc,
máy quay chưa hiện đại, chưa đảm bảo đủ tiêu chuẩn của phòng quay đào tạo từ xa.
Thứ hai, việc cải tạo, sửa chữa tốn nguồn kinh phí không nhỏ song cũng không
khắc phục được tình trạng thiếu đồng bộ về tổng thể công trình và bất cập trong sử
dụng. Khu học tập của sinh viên hầu hết trong tình trạng lạc hậu và xuống cấp nghiêm
trọng. Nhiều trường đại học công lập vẫn phải thuê cơ sở bên ngoài làm nơi học tập
hoặc bắt sinh viên học tăng ca do thiếu giảng đường.
Nếu trước đây, giáo dục được xem đơn thuần như một hoạt động sự nghiệp đào
tạo con người mang tính phi thương mại, phi lợi nhuận thì ngày nay, dưới tác động của
các yếu tố bên ngoài và đặc biệt là sự tác động của nền kinh tế thị trường, giáo dục đã
được coi như một “dịch vụ giáo dục” mà ở đó khách hàng (sinh viên, phụ huynh) có
thể đầu tư và lựa chọn một nhà cung cấp dịch vụ (các trường học) mà họ cho là phù
hợp nhất. Để tồn tại và phát triển, các trường học cần chú trọng vào chất lượng dịch vụ
nhằm nâng cao sự hài lòng của người học.
Theo lãnh đạo các trường, học phí mà sinh viên đóng hiện nay chưa phải là toàn
bộ chi phí đào tạo mà chỉ là phần lớn, phần còn lại vẫn được đầu tư từ các nguồn
khác. Thực tế cho thấy các trường tự chủ được thu mức học phí cao đã đầu tư cơ sở
vật chất tốt hơn trước, chất lượng dịch vụ của trường cũng cải thiện. Đặc biệt, với
chương trình chất lượng cao có mức thu học phí cao hơn, sinh viên đã được hưởng lợi
khác biệt về điều kiện học tập (sĩ số lớp ít, phòng học có máy lạnh, giảng viên giỏi...). lOMoARcPSD|40534848
Vì vậy, ngày càng có thêm nhiều sinh viên lựa chọn học chương trình chất lượng cao
để được hưởng chất lượng dịch vụ tốt hơn.
2.2. Thực trạng tăng học phí đại học tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khởi nguồn của việc tăng học phí đại học
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao đã được Đảng và Nhà nước
xác định là một trong ba đột phá chiến lược quan trọng hàng đầu của đất nước thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh
nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Trước những yêu cầu mới
của thời đại, giáo dục đại học nước ta cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ, đổi mới
sáng tạo. Trong đó, tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức
quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo
Quá trình tự chủ đại học tại Việt Nam đang có những “điểm nghẽn” tỉ lệ huy
động nguồn lực công thấp và hiệu quả không bền vững. Hiện nguồn thu của các cơ sở
GDĐH có 80% đến từ học phí, thu từ nghiên cứu và các nguồn thu nhập khác rất thấp,
trong bối cảnh nguồn thu từ ngân sách nhà nước giảm mạnh. Việc phân bổ nguồn lực
công của Việt Nam cho giáo dục chỉ tầm 5% GDP, rất thấp so với các nước châu Á
(trong đó chỉ dành 0.33% cho GDĐH).
Kinh phí ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng cán bộ giảng dạy, chương trình
đào tạo, cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, thư viện, phòng học, năng lực quản lý
giáo dục và nhiều yếu tố khác. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như lãnh đạo một
số trường đại học, muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì phải có kinh phí, do đó có
việc tăng học phí… việc tăng học phí nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở các cơ sở
giáo dục đại học công lập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều cần thiết.
Trước hết, muốn có đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng, trường đại học phải
đưa ra một mức thu nhập tương đối thu hút. Cơ sở vật chất hiện nay trong các trường
cũng là vấn đề hết sức bức xúc. Sổ sách và ghế ngồi trong thư viện theo đầu sinh viên
là rất thấp, số phòng thí nghiệm máy móc thiết bị không đủ và rất lạc hậu. Với hiện lOMoARcPSD|40534848
trạng này, dễ hiểu vì sao chất lượng đào tạo thấp. Do đó cần có nguồn tiền để đầu tư
vào cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy. Như vậy tăng nguồn kinh phí là
điều hết sức cần thiết để tăng chất lượng hiện nay.
Nhưng vấn đề là nguồn ở đâu ra thì khả thi và hợp lý? Ngân sách là nguồn chính
yếu xưa nay, đòi hỏi tăng thêm nữa không phải đơn giản vì ngân sách quốc gia đã chi
cho giáo dục gần 17%, một tỉ lệ cao so với các nước trên thế giới. Mặt khác nếu ngân
sách có tăng chi cho giáo dục thì cần nhiều hơn cho cấp học thấp và vùng sâu vùng xa
để đảm bảo cho công bằng xã hội. Nhưng tăng cường chất lượng và số lượng giảng
viên lại mâu thuẫn với nguồn kinh phí hiện có. Việc tăng học phí là nằm trong lộ trình
đổi mới cơ chế hoạt động và giao dần việc tự chủ toàn diện đối với các cơ sở giáo dục
đại học công lập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, giảm chi ngân sách Nhà nước.
2.2.2. Thực trạng tăng học phí của một số trường đại học
Có thể nói trong những năm gần đây, một số trường đại học được Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho phép thực hiện cơ chế tự chủ có mức tăng học phí khá cao. Theo Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học năm
2018 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, thực hiện hội nhập quốc tế
và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. ❖
Đại học Ngoại thương Hà Nội
Theo thông báo của Trường Đại học Ngoại thương, mức học phí dự kiến năm
2021 của chương trình đại trà là 20 triệu đồng/ năm, chương trình chất lượng cao là 40
triệu đồng/năm, chương trình tiên tiến là 60 triệu đồng/năm. Trường chưa có thông báo
chính thức về học phí nhưng cho biết về cơ bản năm 2021 điều chỉnh không quá nhiều,
và cam kết nếu có tăng sẽ không quá 10%/năm. ❖
Đại học Bách khoa Hà Nội lOMoARcPSD|40534848
Lãnh đạo Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho hay, theo lộ trình tăng học phí
từ năm 2020 đến 2025, mức tăng trung bình khoảng 8%/năm học và không vượt quá
mức 10%/năm học đối với từng chương trình đang triển khai đào tạo để phù hợp với lộ
trình tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo vào học phí đến năm 2025. ❖
Đại học Kinh tế - Luật
Dự kiến mức học phí của Trường Đại học Kinh tế - Luật năm 2021 là 20,5 triệu
đồng; năm 2022 là 22,6 triệu đồng; năm 2023 là 24,8 triệu đồng; năm 2024 là 27,3
triệu đồng và năm 2025 là 30 triệu đồng. Tầm nhìn từ 2026-2030, Trường Đại học
Kinh tế - Luật dự kiến mỗi năm điều chỉnh mức thu tăng từ 10-15%. ❖
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Các ngành đào tạo giảng viên lý luận chính trị được miễn học phí. Hệ đại trà là
276.000 đồng/tín chỉ (chương trình toàn khóa 143 tín chỉ). Hệ chất lượng cao là
771.200 đồng/tín chỉ (tạm tính - chưa bao gồm 13 tín chỉ Giáo dục Thể chất, Giáo dục
quốc phòng - An ninh). Lộ trình tăng học phí cho từng năm là tối đa 10%. ❖
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Theo công bố của Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch trong đề án tuyển sinh năm
2021, từ năm học 2021-2022, mức học phí không phân chia theo khu vực mà sẽ đồng
giá và tăng lên. Theo đó, mức cao nhất không vượt quá 32 triệu đồng cho các ngành Y
khoa, Dược học, Răng-hàm-mặt và không quá 28 triệu đồng cho các ngành Điều
dưỡng, Dinh dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Khúc xạ
nhãn khoa, Y tế công cộng. ❖
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Dự kiến Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh sẽ thu học phí hệ
chính quy (đại trà) là 25 triệu đồng (gấp đôi hiện tại), năm 2022 là 27,5 triệu đồng; các
năm 2023, 2024 và 2025 là 30 triệu đồng. Tầm nhìn đến năm 2030, trường này đề xuất
thu đủ mức học phí theo giá dịch vụ đào tạo. lOMoARcPSD|40534848 ❖
Đại học Quốc tế Hồng Bàng
Tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng, mức học phí của hầu hết các ngành đều
có xu hướng tăng lên (mức học phí nằm trong khoảng 50-55 triệu đồng/năm). Tuy
nhiên, riêng ngành Y và ngành Răng - Hàm - Mặt có học phí 182 triệu đồng/năm
(chương trình dạy bằng tiếng Anh là 220 triệu đồng/năm). ❖ Đại học FPT
Trong năm 2021, Trường Đại học FPT dự kiến tăng học phí đào tạo từ 25,3
triệu/học kỳ lên 27,3 triệu/học kỳ, đối với các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh sẽ
tăng từ 10,35 triệu lên 11,3 triệu cho mỗi mức đào tạo. Học phí của các năm học tiếp
theo dự kiến sẽ tăng 10% mỗi năm. ❖
Đại học Kinh tế Quốc dân
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, học phí hệ chính quy chương trình
chuẩn năm học 2021-2022 theo ngành học cho khóa 63 (tuyển sinh năm 2021) từ 15
triệu đồng đến 20 triệu đồng/năm học. Học phí các chương trình đặc thù từ 40 triệu
đồng đến 60 triệu đồng/năm học. Theo nhà trường, lộ trình tăng học phí không quá
10% hàng năm và không quá trần theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP.
Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang phối hợp với các bộ, ngành, lấy ý kiến các địa
phương, các cơ sở giáo dục trên cả nước để hoàn thiện dự thảo nghị định thay thế Nghị
định số 86/2015/NĐ-CP. Đối với các trường công lập dự thảo lần này, Bộ gắn mức thu
học phí với kết quả kiểm định chất lượng giáo dục - đào tạo, nhằm bảo đảm mức thu
học phí tương xứng với chất lượng. Dự thảo quy định mức tăng học phí tối đa mỗi
năm học không quá 15% đối với đào tạo đại học (riêng mức thu năm học 2021 - 2022
không được vượt quá mức thu năm học 2020 - 2021).
2.2.3. Bất cập của việc tăng học phí đại học
Một vấn đề đặt ra khiến cả chuyên gia giáo dục lẫn cả người học băn khoăn là
việc tăng học phí đại học có thật sự đem lại chất lượng đào được cải thiện hay không? lOMoARcPSD|40534848
Nhiều trường lý giải trong việc tăng học phí là sẽ có nhiều cải tiến trong chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy và trải nghiệm thực tế. Rồi nhà trường sẽ bổ
sung vào chương trình đào tạo các nội dung mới. Thực tế đóng góp của người dân hiện
đã chiếm một nửa tổng chi phí của xã hội cho giáo dục và đào tạo trong khi đó chi tiêu
lại rất kém hiệu quả và lãng phí do sự bất cập của cải cách giáo dục, do họp hành, tham
quan nước ngoài và chi phí cho bộ máy quản lý rất cồng kềnh hiện nay . Kết quả kiểm
toán nhà nước trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tại 23 trường đại học công lập thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố cho thấy một số bất cập.
Thứ nhất, đơn cử như trong chương trình liên kết đào tạo tại một số trường ĐH,
kiểm toán Nhà nước phát hiện thấy tình trạng liên kết đào tạo với các đối tác trong và
ngoài nước trong điều kiện về cơ sở vật chất không đảm bảo, chương trình chưa được
kiểm định, giáo trình chưa tự xây dựng.
Thứ hai, giảng viên giảng dạy thì không bảo đảm và học viên lại chưa đủ điều
kiện đầu vào theo chương trình xây dựng.
Thứ ba, kết quả kiểm toán còn cho thấy nhiều trường chưa thực sự chú trọng
công tác đổi mới nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Việc đổi mới chủ yếu điều
chỉnh một số tín chỉ môn học phù hợp với thực tế đào tạo, cập nhật đề cương môn học,
giảm bớt số tín chỉ các môn học đại cương, tăng tín chỉ tiếng Anh hoặc tăng giảm số
tín chỉ các môn học tự chọn. Ngoài ra, một số trường xây dựng chương trình tiệm cận
với các tiêu chuẩn quốc tế song gặp nhiều trở ngại và không đem lại hiệu quả.
Một vấn đề đáng quan tâm đó là, nếu học phí cứ tăng lên mức như dự kiến nêu
trên thì vô hình trung đã ngăn không cho con em những hộ trung bình và nghèo bước
chân vào trường đại học dù họ đã qua được kỳ thi đại học khắc nghiệt hoặc thậm chí
nhiều sinh viên sẽ phải bỏ học vì gia đình không đủ điều kiện để trang trải chi phí.
Như vậy, cơ hội học tập sẽ không còn là bình đẳng cho mọi người.
Trên thực tế, một số gia đình không có khả năng chi trả mức học phí này. Nếu
không có chính sách hỗ trợ, hệ quả sẽ là khoảng cách ngày càng nới rộng giữa các lOMoARcPSD|40534848
nhóm thu nhập khác nhau, tạo ra bất ổn xã hội. Học sinh viên nghèo, sinh viên nông
thôn sẽ mất cơ hội học tập khi gánh nặng học phí ngày càng trở nên quá tải. Học phí
tăng đè nặng lên vai các bậc phụ huynh khiến nhiều người không có khả năng chi trả
cho việc học tập của con em mình. Hơn nữa, khi học phí tăng sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng học tập của sinh viên. Một số bạn sinh viên sẽ phải lao động, làm thêm để phụ
giúp bố mẹ tiền ăn ở, sinh hoạt nên sẽ khó tập trung vào việc học.
Do đó việc tăng học phí, nếu diễn ra, sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều sinh viên và
rộng ra là rất nhiều gia đình. Nếu chúng ta tính đến một thực tế là, càng nghèo thì
người dân càng tha thiết cho con vào đại học để mong thoát khỏi cuộc sống lầm than,
thì sẽ thấy không ít gia đình đã phải bán nhà cửa, ruộng vườn, vay mượn để con cái theo đuổi việc học
2.3. Quy định chung về mức học phí đại học đối với sinh viên nghèo
2.3.1. Đối tượng miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế đòi hỏi các lĩnh vực cần phải có sự
cải cách để phù hợp với xu thế nhất là trong vấn đề giáo dục cũng cần được quan tâm
để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng và mở thêm nhiều ngành nghề mới để đáp ứng
được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, đảng và nhà nước ta
đã rất quan tâm đến giáo dục và đưa ra các chính sách để tạo điều kiện để mọi người
đều có quyền đi học trong đó có quy định về chế độ miễn giảm học phí nhằm hỗ trợ
cho các sinh viên có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nghèo khó để mọi người có cơ hội
học tập thực hiện ước mơ góp phần phát triển đất nước.
Ngày 27/8/2021, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy
định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2021.Theo Điều 15 Nghị
định số 81/2021/NĐ-CP quy định miễn học phí đối với các đối tượng: Sinh viên học
tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học người dân tộc thiểu số có cha lOMoARcPSD|40534848
hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ hoặc ông bà (trong trường hợp ở với ông bà) thuộc hộ
nghèo và hộ cận nghèo,ở thôn/bản đặc biệt khó khăn, xã khu vực III vùng dân tộc và
miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển hải đảo.
Theo khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính
phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
giai đoạn 2014- 2017 đã quy định các trường đại học thí điểm cơ chế tự chủ phải thực
hiện chính sách học bổng, học phí đối với đối tượng chính sách như: Cấp học bổng đối
với sinh viên xuất sắc, sinh viên giỏi; sinh viên là đối tượng chính sách; Miễn giảm
học phí cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách và hỗ trợ phần chênh
lệch giữa mức hỗ trợ của Nhà nước với mức học phí của nhà trường; Ưu tiên bố trí nơi
ở cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách ở ký túc xá và miễn, giảm
tiền thuê ký túc xá và các chính sách khác tùy theo điều kiện của từng trường; Sử dụng
toàn bộ tiền lãi của khoản học phí và các khoản thu sự nghiệp khác gửi ngân hàng
thương mại để lập các quỹ hỗ trợ sinh viên.
Năm 2020-2021 tình hình dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp,
đồng thời nước ta vừa trải qua nhiều đợt bão, lũ nghiêm trọng, để lại hậu quả nặng nề,
ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của người dân. Để chia sẻ và giảm gánh nặng về tài
chính cho phụ huynh và sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản báo cáo
Chính phủ và đề xuất xem xét, cho phép được gia hạn thời gian áp dụng Nghị định số
86 đối với năm học 2021-2022 với mức học phí giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp áp dụng theo mức học phí của năm học 2020-2021 đã được quy định tại Nghị
định số 86. Các chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và các quy định
khác vẫn thực hiện theo quy định tại Nghị định số 86 và các văn bản liên quan.
2.3.2. Cơ chế miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập
Việc miễn, giảm học phí sẽ được thực hiện trong suốt thời gian học tập tại nhà
trường, trừ trường hợp có những thay đổi về lý do miễn hoặc giảm học phí. Ngân sách
nhà nước có trách nhiệm cấp bù trực tiếp học phí cho các cơ sở giáo dục công lập để
thực hiện việc miễn, giảm học phí đối với người học thuộc các đối tượng miễn, giảm lOMoARcPSD|40534848
quy định và đang học tại cơ sở giáo dục đó với mức thu học phí tương ứng với từng
cấp học. Hàng năm việc cấp bù học phí cho các cơ sở giáo dục công lập để thực hiện
việc miễn, giảm phải được quyết toán đầy đủ, công khai, minh bạch. Mức cấp bù học
phí cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học theo nhóm ngành, chuyên
ngành, nghề của chương trình đại trà tại cơ sở giáo dục công lập chưa tự bảo đảm kinh
phí chi thường xuyên và chi đầu tư bằng mức đã quy định.
Nhà nước cấp trực tiếp tiền hỗ trợ miễn giảm học phí cho các đối tượng thuộc
diện được miễn, giảm học phí theo học tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập
theo theo mức học phí của chương trình đại trà tại cơ sở giáo dục công lập chưa tự bảo
đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư đã quy định tương ứng với các nhóm
ngành, chuyên ngành và nghề đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.Kinh
phí cấp bù miễn, giảm học phí; hỗ trợ đóng học phí được cấp theo thời gian học thực tế
nhưng không quá 10 tháng/năm học đối với sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học và thực hiện chi trả cho người học 2 lần trong năm vào đầu
các học kỳ của năm học.
Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định Nhà nước thực hiện hỗ trợ chi phí học tập
trực tiếp cho các đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập với mức 150.000 đồng/học
sinh/tháng để mua sách, vở và các đồ dùng học tập khác. Thời gian được hưởng theo
thời gian học thực tế và không quá 9 tháng/năm học và thực hiện chi trả 2 lần trong
năm vào đầu các học kỳ của năm học. Điều 2 Quyết định số 66/2013/QĐ-TTg ngày
11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ chi phí học tập đối
với sinh viên là người dân tộc thiểu số tại các cơ sở giáo dục đại học với mức hỗ trợ
chi phí học tập bằng 60% mức lương tối thiểu chung và thời gian hưởng không quá 10 tháng/năm học/sinh viên. lOMoARcPSD|40534848
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VỀ SỰ CÔNG BẰNG
Trong những năm qua do dịch Covid-19 mà hầu hết các trường đại học đều
không tăng mức học phí trong giai đoạn 2019 - 2021. Nhưng tăng học phí là đòi hỏi
bắt buộc. Vì thế, nếu trước đây các trường đại học công lập thu học phí theo Nghị định
86 ban hành từ năm 2015 thì nay theo lộ trình, từ 15/10 áp dụng Nghị định 81, sẽ tăng
mạnh mức trần bắt đầu trong năm 2022. Học phí đại học theo lộ trình sẽ tăng mạnh từ
năm 2022 trở về sau. Bên cạnh đó, hiện nhà nước đang có xu hướng giảm dần ngân
sách cho các trường đại học. Để có nguồn kinh phí hoạt động và nâng cao chất lượng
trong bối cảnh này, phần lớn các trường đại học tại Việt Nam chọn giải pháp tăng học
phí. Vì vậy, nhiều trường công lập chuyển sang cơ chế tự chủ, không nhận ngân sách của nhà nước nữa.
Tuy nhiên, đời sống của người dân ở từng khu vực, vùng miền có sự khác biệt
nên chắc chắn việc tăng học phí sẽ tác động không nhỏ đến xã hội, đặc biệt là đối
tượng sinh viên nghèo, gia đình khó khăn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tiếp
cận giáo dục bậc cao của người nghèo. Vẫn có rất nhiều bất cập đối với chính sách
miễn, giảm, hỗ trợ học phí theo nghị định 81/2021/NĐ-CP, cụ thể không có chính sách
miễn, giảm học phí cho sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên cả nước nói
chung. Thực tế, nhiều gia đình ở đồng bằng có mức thu nhập thấp nhưng vẫn cao hơn
một chút so với mức thu nhập để công nhận là hộ nghèo, hộ cận nghèo. Khi học phí
đại học tăng, gia đình không thể chi trả cho con mình theo học, điều này làm mất đi cơ
hội đi học của sinh viên nghèo.
Vẫn có nhiều bất cập trong chính sách công nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo như
nhiều tiêu chí không phù hợp với địa phương dẫn đến nhiều gia đình không thể công
nhận hộ nghèo hay cận nghèo. Hạn chế lớn nhất của bộ tiêu chí chấm điểm hộ nghèo
hiện hành là tạo điều kiện cho không ít hộ tìm cách để trở thành hộ nghèo. Thực tế,
không thiếu trường hợp người dân cố tình giấu tài sản, chuyển nhượng hoặc bán đi để
giảm điểm; hoặc hộ có khả năng nhưng không xây nhà, không mua sắm tài sản, dẫn
đến số điểm chấm đạt thấp và đương nhiên, họ thuộc diện hộ nghèo hoặc hộ cận lOMoARcPSD|40534848
nghèo. Nhiều gia đình có điều kiện sống ổn định nhưng vẫn được liệt kê vào danh sách
hộ nghèo. Ngược lại, một số trường hợp hoàn cảnh rất khó khăn lại không được công nhận hộ nghèo.
Mặc dù từ phía nhà nước và trường đại học đều có những cơ chế, chính sách hỗ
trợ sinh viên đặc biệt là sinh viên nghèo nhưng theo đánh giá của nhiều người, trên
thực tế vẫn thiếu hành lang pháp lý nên sinh viên khó tiếp cận. Công bằng mà nói,
chính sách cho vay tín dụng sinh viên của nhà nước khi trở thành chương trình cấp
quốc gia từ năm 2007 đến nay có nhiều điều chỉnh, thay đổi có lợi cho người học. Từ
mức vay 800.000 đồng/tháng, điều chỉnh dần đến 2,5 triệu đồng và nay đang lấy dự
thảo để tăng lên 4 triệu đồng/tháng; đối tượng được vay cũng điều chỉnh phù hợp hơn.
Tuy nhiên, theo một đánh giá công bố vào tháng 4 năm nay, vẫn còn khá nhiều sinh
viên có nhu cầu nhưng không tiếp cận được tín dụng do bị hạn chế về nguồn thông tin,
thủ tục pháp lý và chính sách chưa phù hợp.
Về phía các trường đại học, khi thực hiện tự chủ cũng đề ra nhiều chính sách hỗ
trợ học bổng, giảm học phí... Tuy nhiên, số lượng sinh viên nhận được sự hỗ trợ này
cũng không lớn. Quỹ học bổng chưa hướng tới hỗ trợ các đối tượng học sinh nghèo,
học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng không nằm trong diện được miễn giảm
học phí hoặc được hưởng học bổng. Như thế, dù mức học phí đại học đang có xu
hướng tăng nhanh nhưng các chính sách hỗ trợ cho người học vẫn chưa theo kịp, dẫn
đến nguy cơ sinh viên nghèo khó theo học các trường chất lượng.
Đây là bất cập mà nhà nước cần phải sớm giải quyết. Bên cạnh đó, các trường đại
học tự chủ cũng cần bỏ quan niệm xem học phí là nguồn thu chính như hiện nay mà
nên từ những nguồn khác như chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học, quỹ tín
thác từ các nhà tài trợ, đầu tư...
Qua đó, khẳng định tăng học phí giáo dục đại học là không công bằng với sinh
viên nghèo. Tăng học phí nhưng không làm giảm cơ hội của người nghèo mới là một
chính sách giáo dục đúng đắn. lOMoARcPSD|40534848 KẾT LUẬN
Chính sách học phí nói riêng và tài chính đại học nói chung là một trong những
vấn đề cốt cử của giáo dục đại học, và tác động sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân
cũng như chiến lược phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia. Chính vì vậy, xây
dựng chính sách học phí là một bài toán có nhiều tham tố và rất cần được nghiên cứu
chu đáo để đưa ra những giải pháp có tính đến lợi ích của các bên tham gia, có tính đến
khả năng của nhiều bộ phận dân cư, đến quan hệ giữa chất lượng của nguồn nhân lực
và chỉ số kinh tế tri thức, đến công bằng và ổn định xã hội, dựa trên những quy định
chính sách đã có và thực tiễn đang diễn ra trong hệ thống giáo dục Việt Nam, đặt trong
bối cảnh toàn cầu hóa và kinh nghiệm quốc tế.
Bởi vậy để tạo điều kiện tiếp cận đại học tốt cho học sinh nghèo, Đảng và Nhà
nước cần có những chính sách như: đầu tư cho các chương trình đào tạo tài năng, các
chương trình đào tạo khoa học cơ bản, các ngành xã hội có nhu cầu nhưng khó tuyển
sinh… Các chương trình này được miễn giảm học phí hoặc được cấp học bổng. Bên
cạnh đó, là cấp bù học phí cho con em gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo có
học lực đáp ứng chuẩn chất lượng; Cho sinh viên vay vốn không bảo lãnh. Mức vay đủ
để đóng học phí và chi phí sinh hoạt. Đây là quỹ đầu tư cho an sinh và tạo việc làm.
Sự mở rộng quy mô và phát triển nhanh chóng về số lượng của hệ thống đại học
Việt Nam đặt ra những thử thách to lớn về chất lượng, trong việc giải quyết bài toán
này, tài chính đại học trở thành một vấn đề then chốt. Trong khi ngân sách công không
thể đáp ứng cho một hệ thống đại học đang trở thành đại chúng hóa, truyền thống hiến
tặng cho đại học chưa hình thành, các nguồn thu do hoạt động nghiên cứu và dịch vụ
còn hạn chế, học phí là một nguồn thu quan trọng của đại học công và gần như là
nguồn thu duy nhất của các đại học tư, thì cải cách mức thu học phí là tất yếu để bảo
đảm chất lượng. Vai trò của nhà nước không phải là quy định mức trần mức sàn hay
quản lý cách chi tiêu của các trường mà là thiết kế bộ khung chính sách nhằm bảo đảm
những định chế phù hợp cho việc thực hiện cơ chế giải trình trách nhiệm của các
trường và giám sát việc thực hiện những định chế đó. lOMoARcPSD|40534848
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An Chi (2021), ‘Các trường đại học công bố lộ trình tăng học phí năm học 2021 -
2022’, Báo Đại Đoàn Kết, tang-hoc-phi-nam-hoc-2021--2022-560322.html>.
2. Bích Hà (2021), ‘Trường đại học đồng loạt tăng học phí: Bộ Giáo dục và Đào tạo
yêu cầu giữ ổn định’, Báo Lao Động, dong-loat-tang-hoc-phi-bo-giao-duc-va-dao-tao-yeu-cau-giu-on-dinh-899825.ldo>.
3. Đỗ Văn Dũng (2016), ‘Tăng học phí và những hệ lụy’, Báo Tuổi Trẻ,
fbclid=IwAR00G1OOq2xQfZr5gAcZPCnSHwu3D4tei7fXEjvbFhMva1P- jLRbNh3BNEw>.
4. Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ
trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
, Chính phủ ban hành ngày 27 tháng 08 năm 2021.
5. Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017
, Chính phủ ban hành ngày 24 háng 10 năm 2014.
6. Nhiên An (2021), ‘Học phí và cơ hội cho người nghèo’, Báo Thanh Niên,
fbclid=IwAR1WOlMH4avfyaWh77UDlygS_ibuSfIyXtaSbNbuI6z04DLMh95S5TzE UT>.
7. Oanh Trần (2021), ‘Học phí cao - bước đột phá nâng chất lượng đào tạo đại
học?’, Báo Kinh tế và Đô thị, chat-luong-dao-tao-dai-hoc.html?
fbclid=IwAR3yj3YpcUTDFXCA7pytY0dfvTILz7iccLzhUx1cPhfMM5e8GP4vWuj0x uM>.
8. Phạm Thị Tuệ (2019), Giáo trình Kinh tế công cộng, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội.