


Preview text:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như thế nào? Tại sao sự ra đời của Đảng là tất yếu?
Hoàn cảnh quốc tế: -
Từ cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền:
Vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước.
Vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Khi các quyền lợi
và sự tự do, dân chủ bị kìm chặt, đến giới hạn chịu đựng của người dân. Những cuộc phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. Từ đó mang đến nhận thức
dân tộc sâu sắc và kinh nghiệm đấu tranh. -
Quốc tế Cộng sản ra đời:
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản vào tháng 03/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mang đến nhận thức và bài học quý báu cho nhân dân lao
động, người dân bị áp bức.
Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ủng hộ về tinh thần, mang đến sức mạnh
đấu tranh giải phóng dân tộc. -
Cách mạng Tháng Mười Nga dành thắng lợi đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân
tộc bị áp bức. Chủ nghĩa Mác-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực. Qua đó mở ra một thời đại
mới, thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Càng thúc đẩy tinh thần, tăng
cường sức mạnh cho dân tộc ta.
Hoàn cảnh trong nước -
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Về Kinh tế:
+ Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo. Do đó mà
đời sống của người dân vô cùng khổ cực và tăm tối.
+ Chúng cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, ra sức vơ vét tài nguyên.
+ Xác định nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý. Chúng dồn nhân dân ta vào phục vụ sản
xuất, khai thác và bóc lột sức lao động.
+ Xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về Chính trị:
+ Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, quản lý và quyết định các chính sách quản lý nước ta.
Chúng tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một
chính sách chuyên chế điển hình. Do đó mà nước ta không có sự lãnh đạo, quản lý từ lực lượng trong nước.
+ Chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người dân. Tất cả các cuộc
đấu tranh mang tính nhỏ lẻ đều nhanh chóng bị dập tắt. Mọi quyền tự do của con người, của cá nhân đều bị cấm.
+ Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương. Chia Việt Nam thành ba kỳ, gồm có Bắc kỳ, Trung kỳ,
Nam kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Về Văn hóa:
+ Thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
+ Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên Thế giới.
+ Khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam.
+ Dung tính, duy trì các hủ tục lạc hậu.
Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến:
+ Nhiều phong trào nổ ra, trong đó: o
Phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); o
Phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: o
Các phong trào do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. o
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị tất bại, … o
Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Cách mạng Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng -
Sau những năm bôn ba ở nước ngoài, lập nên những thành tựu vĩ đại, Người đã tìm thấy được con
đường cứu nước, nhận thức được tầm quan trọng của “đảng cách mệnh” và chuẩn bị kĩ càng cho sự ra đời của Đảng. -
Đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi. -
Thế nên, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình
và phê bình, "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản
Đông Dương "Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng
11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên cũng
quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt
cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản
Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức Cộng sản nên không tránh khỏi
sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm
lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam. -
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh
niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh
cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại
hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng là tất yếu -
Thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam -
Là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân và tư tưởng Mác – Lenin. -
Là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. -
Giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối, giai cấp lãnh đạo, mở ra con đường phát triển mới cho đất nước.
2. Chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Ngay từ khi mới thành lập (3-2-1930), căn cứ vào đặc điểm tình hình của đất nước, Đảng ta đã xác định
đúng đắn mục tiêu, nội dung, đối tượng, lực lượng của cách mạng trong Chánh cương Vắn tắt, Sách lược
Vắn tắt và Luận cương Chính trị 1930. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, đường lối quân sự của
Đảng được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Từ cao trào
1930 - 1931 đến Cách mạng tháng Tám 1945, xuất phát từ đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
Đảng đã đề ra đường lối khởi nghĩa toàn dân và chỉ đạo cả nước tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền thắng lợi. Đường lối của Đảng đã giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, nên đã tập hợp, đoàn kết được toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng được lực lượng
chính trị rộng khắp làm cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân; đẩy mạnh đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang từ thấp lên cao; thực hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước, đập tan chính quyền phát xít Nhật và tay sai, lập ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, căn cứ vào tình hình trong nước và thế giới, Đảng đã đề ra
đường lối: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến.Đảng ta chủ trương dựa
vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ
thù chung; phát triển lực lượng chính trị, xây dựng LLVT ba thứ quân; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị, kết hợp tiến công địch cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao; phát triển
chiến tranh du kích tiến lên kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; phát huy sức mạnh toàn
dân tộc làm phá sản mọi chiến lược của thực dân Pháp… Nhờ vậy, chúng ta đã huy động được sức mạnh
của mọi tầng lớp nhân dân, phát huy được truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của toàn dân
tộc "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" để chiến thắng
quân thù. Trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, nhờ có đường lối kháng chiến, kiến quốc
đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta chiến đấu, chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ bằng
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đề ra đường lối đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm mục
tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên CNXH. Xuất phát từ vấn đề cơ bản đó, Đảng xác định đường lối chiến tranh nhân dân, đường
lối quốc phòng toàn dân và xây dựng LLVT nhân dân. Thực hiện đường lối của Đảng, quân và dân miền
Bắc đã tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH, củng cố quốc phòng, xây dựng miền Bắc thành hậu
phương lớn; tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân và chống phong tỏa đường biển bằng hải quân của đế quốc Mỹ; đồng thời, làm tròn nhiệm vụ
hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho chiến trường đánh thắng.
Ở miền Nam, quân và dân ta đã quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, với sự sáng tạo và tinh thần bất khuất, kiên cường, dũng cảm vô
song. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, từ đấu tranh chính trị, nhân dân miền Nam đã tiến hành
đồng khởi rồi phát triển lực lượng tiến hành chiến tranh cách mạng và chiến tranh giải phóng; kết hợp chặt
chẽ giữa chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị; đẩy
mạnh đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, bằng cả lực lượng quân sự và chính trị; kết hợp tiến công quân
sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận, liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh
của đế quốc Mỹ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử đã giành thắng lợi vẻ vang, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.