lOMoARcPSD| 59452058
Tham Vấn Tâm Lý
Phân biệt: Tham vấn, Tư vấn, Cố vấn, Hướng dẫn, Trợ giúp. Cho ví dụ
Trợ giúp: 1 khái niệm chung nhất, chỉ sự giúp đỡ lẫn nhau trong các mối quan hệ
giao tiếp thông thường ai đó giúp đỡ ai đó.
- Trợ giúp tâm lý: là một hoạt động giúp đỡ cho người đang gặp khó khăn tâm
để họ thực hiện được điều họ mong muốn trong cuộc sống.
- Trợ giúp tâm lý: Bao hàm những công việc của những người giúp đỡ không
chuyên- tất cả mọi người.
- Tất cả mọi người đều thể người trợ giúp tâm bằng cách như cho lời
khuyên, răn dạy, tư vấn,...
* Có 3 kiểu trợ giúp tâm lý:
Người trợ giúp chuyên nghiệp: Là những người được đào tạo sâu và chuyên biệt
về những kiến thức, kỹ năng tâm lý, hành vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải
quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ để có thể đáp ứng với đối tượng mà
họ giúp đỡ như người nghề tâm học, tham vấb, công tác hội, tâm thần
học,...
Người trợ giúp bán chuyên: Họ là những người được đào tạo, tập huấn ngắn hạn
về các lĩnh vực trợ giúp hoặc khinh nghiệm từ mối quan hệ giúp đỡ. VD: Giáo
viên- học sinh, giám đốc- nhân viên, cha linh mục- con chiêm, cha mẹ- con cái,
cán bộ hòa giải xã- người dân,....
Người trợ giúp không chuyên: những người không qua đào tạo, huấn luyện
chính thức về các kỹ năng trợ giúp chuyên biệt. Sự trợ giúp của học thể xảy
ra nhất thời trong mối quan hệ tạm thời với đối tượng của họ.
VD: Nhân viên bán hàng, tiếp tân, ...- khách hàng, Các tình nguyện viên cộng
đồng giúp đỡ- người nghiện ma túy, người bị nhiễm HIV,...
Tư vấn: Là mối quan hệ giữa 1 người trợ giúp chuyên nghiệp và 1 người cần được giúp
đỡ cho thân chủ trong việc xác định giải quyết một vấn đề liên quan đến công việc
hoặc người khác.
- Trong từ điển tiếng Việt, vấn được giải thích là: “Đóng góp ý kiến về những
vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định”.
- Mục tiêu của vấn cung cấp kiến thức, kỹ năng thái độ cho người đang
làm thực hành công việc trợ giúp, giúp cho nhân đó làm việc hiệu quả hơn; nhìn nhận
xuyên suốt các vấn đề mối quan tâm trong việc trợ giúp của mình cho thân chủ,
nhân trở nên khách quan hơn, tự tin hơn và dần trở nên độc lập trong việc tham vấn của
mình.
lOMoARcPSD| 59452058
- vấn cũng thể dành riêng cho nhân hoặc nhóm thông qua hoạt động phát
triển đội ngũ (như phát triển cán bộ tham vấn). Trong vai trò vấn, người tham vấn
làm việc với các sinh viên tâm lý học hay công tác hội, người tham vấn nhân viên
công tác hội mới ra trường, các cán bộ hội, cộng tác viên công tác hội, giáo
viên, nhà quản lý, hay phụ huynh học sinh để lắng nghe, chia sẻ những quan tâm của
họ về đối tượng họ đang giúp đỡ, trong nỗ lực tìm tòi những ch thức làm việc
mới, hiệu quả hơn với đối tượng của họ.
VD: Một giáo viên chủ nghiệm mời một nhà vấn đến để giải quyết những vấn đề mâu
thuẫn trong sinh hoạt chung của nhóm sinh viên do phụ trách ( chứ không phải vấn
đề tâm lý của cô giáo phụ trách).
Hướng dẫn: được hiểu là một hoạt động cung cấp thông tin, cho lời khuyên theo chủ đề
cụ thể được dẫn dắt từ người tham vấn (trong vai trò của một cố vấn).
Người tham vấn trong vai trò hướng dẫn (có thể gọi cố vấn), công việc của họ có một
số đặc điểm sau:
Dẫn dắt, điều khiển buổi làm việc
Thảo luận tập trung vào một chủ đề, không quan tâm đến việc chuyển tảisự thấu
cảm, chấp nhận tới thân chủ.
Cuộc trò chuyện chủ yếu cung cấp thông tin đưa ra lời khuyên theo vấn đ
được hỏi
Trọng tâm cuộc trò chuyện thường tập trung vào hiểu biết của người hướng dẫn
• Diễn ra trong thời gian ngắn
Mối quan hệ giữa người hướng dẫn thân chủ không quyết định hiệu quả hướng
dẫn. Mà, kiến thức, sự hiểu biết của người hướng dẫn về lĩnh vực thân chủ
nhu cầu trợ giúp mới là yếu tố quyết định.
Người tham vấn trong vai trò hướng dẫn thường tạo điều kiện thuận lợi cho buổi
thảo luận ít nhấn mạnh đến “tính chất tham vấn” không tập trung vào khía cạnh
tâm lý của thân chủ không tìm kiếm nguồn lực từ chính thân chủ, trọng tâm
của cuộc trò chuyện tập trung vào sự hiểu biết của người giúp đỡ (không phải
người được giúp đỡ).
VD: David nhà khai vấn tâm vừa hợp đồng với Steve. Sau một vài buổi học,
Steve đã bộc lộ một số nhu cầu chỉ một ncố vấn được đào tạo giấy phép
hành nghề mới có thể phục vụ được.
David có mối quan hệ làm việc thân thiện với một số cố vấn ở địa phương. Anh đã giới
thiệu Steve đến một trong số họ. Họ quyết định cùng nhau hợp tác hỗ trợ Steve thông
qua việc chia sẻ những mong muốn thiết lục mục tiêu trong tương lai gần của anh
ấy.
Tham Vấn:
lOMoARcPSD| 59452058
Tham vấn tâm là: Được hiểu là: Sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khỏe tinh thần
hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách
hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự phát triển nhân lành
mạnh, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý” (Hiệp hội tham vấn Hoa Kỳ,
1997).
- Tham vấn là một hoạt động trợ giúp mang tính chuyên nghiệp, trong đó đòi hỏi
nhàtham vấn kiến thức sâu về tâm hành vi con người nhằm giải quyết những
vấn đề của cuộc sống hội được coi nguyên nhân nảy sinh những rối loạn tâm
cần được giúp đỡ ở các cá nhân.
- Trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn tự phát và ai cũng có thể tự
cho mình người tham vấn, khi họ muốn làm công việc trgiúp người khác, thì một
định nghĩa về tham vấn thể phát biểu với những lời giải thích m theo như sau:
“Tham vấn một quá trình tương tác giữa người tham vấn (người có chuyên môn
kỹ năng tham vấn, các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn được pháp luật thừa
nhận) với thân chủ (còn gọi thân chủ - người đang vấn đề khó khăn về tâm muốn
được giúp đỡ). Thông qua các kỹ năng trao đổi chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên
tắc đạo đức mối quan hệ mang nh nghề nghiệp), thân chủ hiểu chấp nhận thực
tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. Thuật
ngữ tham vấn tả chính xác bản chất của nghề trợ giúp giúp người khác đang
khó khăn tâm lí mà không hướng họ theo ý mình.
- Triết lý của nghề tham vấn là giúp thân chủ nhìn vấn đề như vốn có, giúp thân
chủ tự giải quyết vấn đề của mình. Hay: Một nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ!
Người tham vấn là người soi sáng vấn đề, cung cấp thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây
ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không hướng thân chủ theo ý
của nhà tham vấn hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ.
VD: Lucy, 28 tuổi, tham gia tham vấn tâm với Ron về vấn đề lạm dụng chất kích
thích. Sau một vài phiên, Ron phát hiện ra rằng Lucy những mục tiêu nhân khác
ngoài việc ngừng uống rượu.
Ron đã liên hệ với Donna, một chuyên gia về cuộc sống - nhà cố vấn để hỗ trợ Lucy đạt
được những mục tiêu này. Ba người họ cùng nhau m ra một kế hoạch hành động cụ
thể cho Lucy.
Donna ủng hộ những quyết định của Lucy trong khi Ron tiếp tục hỗ trợ Lucy khám p
những tổn thương trong quá khứ và lý do tại sao cô lại lạm dụng rượu.
So Sánh giữa Tham vấn và Tư Vấn:
Tiêu chí
Tham vấn
Tư vấn
lOMoARcPSD| 59452058
Về mục tiêu
Tham vấn tâm một cuộc nói
chuyện mang tính nhân giữa nhà
tham vấn với một hoặc một vài người
đang cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó
khăn hoặc thách thức trong cuộc sống.
Tham vấn khác nói chuyện ở chỗ trọng
tâm của cuộc tham vấn nhằm vào người
nhận tham vấn.
Hướng tới mục tiêu lâu dài đó giúp
nhân nâng cao khả năng giải quyết
vấn đề tâm của nh sau khi được
tham vấn.
vấn m một cuộc
nói chuyện giữa một
“chuyên gia” về một lĩnh
vực nhất định với một hoặc
nhiều người đang cần lời
khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh
vực đó, chủ yếu hướng đến
giải quyết vấn đề hiện tại.
Về tiến trình
Nhà tham vấn hỗ trợ thân chủ ra quyết
định bằng cách giúp họ xác định và làm
sáng tỏ vấn đề, xem xét tất cả các khả
năng, đưa ra lựa chọn tối ưu nhất cho
chính họ sau khi xem xét kỹ ỡng các
quan điểm khác nhau. Do đó, tham vấn
tâm lý là một quá trình gồm nhiều cuộc
nói chuyện hoặc gặp gỡ liên tục (bởi vì
những vấn đề của mỗi người hình thành
phát triển trong một khoản thời gian,
do đó cũng cần thời gian để giải
quyết chúng).
Tư vấn thường là cung cấp
thông tin hay đưa ra lời
khuyên. Nhà vấn giúp
thân chủ ra quyết định
bằng cách đưa ra những lời
khuyên “mang tính chuyên
môn” cho thân chủ. Do vậy
chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn, giải quyết
vấn đề tức thời. Kết quả tư
vấn không lâu bền; vấn đề
sẽ lập lại các nguyên
nhân sâu xa của vấn đề
chưa được giải quyết.
lOMoARcPSD| 59452058
Về mối quan
hệ
Tham vấn tâm lại mối quan hệ
ngang bằng, bình đẳng dòi hỏi sự
tương tác rất chặt chẽ tích cực cả
đôi bên.
Nhà tham vấn thông cảm chấp nhận
điều kiện với những cảm xúc tình
cảm của thân chủ, từ đó thân chủ làm
chủ cuộc nói chuyện: Nhà tham vấn
lắng nghe, phản hồi, tổng kết đặt câu
hỏi.
Trong vấn tâm thì mối
quan hệ có thể là trêndưới,
giữa một người được xem
uyên bác với những
thông tin chuyên môn để
đưa ra những lời khuyên
không quan tâm đến
việc thể hiện sự thông cảm
hay chấp nhận thân chủ.
Còn bên kia người gặp
phải vấn đề tâm lý nào đó
không biết cách giải
quyết thế nào cần đến lời
khuyên từ nhà
tư vấn tâm lý.
Mối quan hệ đây không
đòi hỏi sự tương tác tích
cực từ phía người được
vấn. Sau khi thân chủ trình
bày vấn đề, nhà tư vấn làm
chủ cuộc nói chuyện
đưa ra những lời khuyên
Về tương tác
Mối quan hệ tham vấn quyết định kết
quả đạt được của quá trình tham vấn,
nhà tham vấn phải xây dựng lòng tin
với thân chủ thể hiện thái độ thừa
nhận, thông cảm và không phán xét.
Sự thành công phụ thuộc vào kỹ năng
tương tác của nhà tham vấn để giúp đối
tượng thể nhận ra được vấn đề của
mình, hiểu mình để từ đó tìm kiếm giải
pháp phù hợp và thực hiện nó.
Trong vấn tâm thì mối
quan hệ giữa nhà tư vấn
thân chủ không quyết định
kết quả vấn bằng kiến
thức sự hiểu biết của
nhà vấn về lĩnh vực
thân chủ đang cần tư vấn.
Hình thức can thiệp chính
cung cấp thông tin lời
khuyên nên sự thành công
phụ thuộc vào những kiến
thức chuyên sâu của nhà
vấn tâm lý.
lOMoARcPSD| 59452058
Về cách thức
Nhà tham vấn kiến thức về hành vi
sự phát triển của con người. Họ
các kỹ năng nghe giao tiếp, khả
năng khai thác những vấn đề cảm
xúc của thân chủ.
Đồng thời, th hiện s tin tưởng vào
khả năng tự ra các quyết định tốt nhất
của thân chủ; vai trò của nhà tham vấn
chỉ để “lái” cho các thân chủ đến
những ớng lành mạnh nhất. Giúp
thân chủ nhận ra và sử dụng những khả
năng và thế mạnh riêng của họ
Nhà tư vấn có kiến thức về
những lĩnh vực cụ thể
khả năng truyền đạt
những kiến thức đó đến
người cần hỗ trợ hay
hướng dẫn trong lĩnh vực
đó.
Họ với thân chủ về những
quyết định h cho phù
hợp nhất đối với tình
huống của thân chủ thay
tăng cường khả năng của
thân chủ.
Việc tập trung vào thế
mạnh của thân chủ không
phải là xu hướng chung
của tư vấn
Đưa ra tình huống tham vấn tâm lý:
Bạn Nam một học sinh cấp 2 chuẩn bị bước sang cấp 3 chăm học giỏi chăm ngoan học
giỏi. Bạn sống trong một gia đình bố mẹ đều làm trong nghề giáo, mẹ làm giáo viên cấp
3 còn bố làm giảng viên đại học. Bố mẹ đều rất kỳ vọng vào bạn luôn dạy dỗ
đặt niềm kỳ vọng cao đối với bạn trong kỳ thi vào cấp 3 của bạn. Bạn luôn cố gắng để
đạt được những bạn mong muốn nhưng rồi một bạn trong lớp đã rủ bạn đi chơi
game để giải tỏa căng thẳng rồi từ đấy bạn đã ngày càng nghiện game. Bạn đã có những
hành vi trốn bố mẹ đi chơi game hay nói học bài nhưng thực chất là đang chơi điện tử.
Việc đó mới đầu chỉ tầng xuất ít nhưng ngày càng nhiều đỉnh điểm bạn bỏ
việc học và trốn học đi chơi game. Sự việc đã được bố mẹ bạn biết là qua lời thông báo
của giáo viên chủ nghiệm của bạn. Bố mẹ bạn đã rất tức giận những hành động
dạy dỗ bạn như đánh mắng hay nói nhẹ nhàng với bạn. Nhưng bạn vẫn không quan
tâm và hành vi phản kháng lại bố mẹ như chửi rủa đánh lại bố mẹ thậm chí chạy
ra ngoài đường đứng ngoài ý chửi bố mẹ chửi mọi người xung quanh khi cố tiếp xúc
can ngăn bạn. Bạn lúc nào cũng nổi giận hay cáu gắt mỗi khi bố mẹ hoặc một ai đấy
đến gần. Bạn luôn cầm điện thoại trên tay để chơi game hoặc tự nhốt mình trong phòng
chơi không mở cửa cho ai khác bước vào. Bạn luôn có những suy nghĩ chống đối lại bố
mẹ hay là những việc trái lại với những điều bố mẹ bảo. Bố mẹ bạn Nam đã ngày càng
mệt mỏi về những hành động của bạn Nam đã cố gắng tìm mọi cách để bạn thể
trở lại giống trước kia vì bạn Nam sắp phải bước vào kì thi quan trọng là kỳ tuyển sinh
lOMoARcPSD| 59452058
vào cấp 3 những vọng với những hành động của bạn không thể làm bạn dứt ra
khỏi game.
Phân tâm học
Phân tâm học được định nghĩa là một chuỗi các học thuyết và kỹ thuật trị liệu tâm lý có
nguồn gốc từ những công trình học thuyết của Sigmund Freud. Ý tưởng chủ đạo của
phân tâm học chính niềm tin cho rằng tất cmọi người đều sở hữu những suy nghĩ,
cảm xúc, ham muốn, và ký ức ẩn sâu trong vô thức. Bằng cách chuyển những nội dung
vô thức sang vùng ý thức, con người ta sẽ thể trải nghiệm sự “thanh tẩy” tâm trí
hiểu sâu sắc hơn về trạng thái tâm lý hiện tại của bản thân. Qua quá trình này, con người
ta sẽ có thể tìm thấy sự giải thoát khỏi những sự khó chịu và vướng bận về mặt tâm lý.
- Phân tâm học đề cập đến một thuyết một loại liệu pháp dựa trên niềm tin
rằngtất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ, cảm xúc, mong muốn và ký ức trong
vô thức.
- Phân tâm một phương pháp trị liệu trong đó người bệnh nói về những trải
nghiệm, thời thơ ấu và cả những giấc mơ.
- Theo Hiệp hội Phân tâm học Hoa Kỳ (APA), phân tâm học có thể giúp mọi người
hiểu bản thân bằng cách khám phá những xung động không dễ nhận thấy được ẩn trong
vô thức.
- Trong liệu pháp tâm lý, mọi người thể cảm thấy an toàn khi họ khám phá
những cảm giác, mong muốn, ức những yếu tố gây ng thẳng thể dẫn đến
những khó khăn về tâm lý. Nghiên cứu đã chứng minh rằng trong quá trình phân tích
tâm lý, việc tự đánh giá về bản thân thể góp phần vào sự phát triển cảm xúc về lâu
dài.
lOMoARcPSD| 59452058
Ý thức bao gồm tất cả
những suy nghĩ, ức,
cảm giác mong muốn
ta nhận thức được một
cách ràng vào bất kỳ
thời điểm nào. Ta thể
nghĩ đến trò chuyện về
những thứ kể trên theo
trí. Ý thức còn bao gồm cả
ức, không phải lúc nào
ức cũng nằm ngay trong
vùng ý thức nhưng
thể được triệu hồi dễ dàng
vào bất kỳ thời điểm nào
giúp ta nhận thức nó
ràng.
VD: Đang làm việc, cảm
thấy đói bụng khiến bạn
muốn đi ra ngoài để mua
thức ăn. Nhưng nhờ ý thức
được trách nhiệm của mình
những hậu quả thể
xảy ra nếu mình bỏ ngang
việc đi ăn khiến chúng ta
ngồi lại tiếp tục làm
việc.
thức một ‘kho ng”
các cảm xúc, suy nghĩ,
ham muốn ức nằm
bên ngoài vùng kiểm soát
của ý thức. Hầu hết các nội
dung của vùng vô thức đều
khá khó chịu không
được chủ thể chấp nhận,
như cảm giác đau đớn, lo
âu hay xung đột. Theo
Freud, tâm trí thức
không ngừng ảnh ởng
lên hành vi trải nghiệm
của ta, thậm chí ta còn
không biết đến sự tồn tại
của nguồn sức mạnh này.
Vô thức có thể bao gồm cả
những cảm xúc bị đè nén,
những ức, thói quen,
suy nghĩ, khao khát
phản ứng ẩn giấu kỹ càng.
Khi còn vào Mall thì
chúng ta thường đòi cha
mẹ mua món đồ chơi cho
bằng được. Nếu không thì
khóc lóc…Như vậy hành
động đòi mua quà của đứa
thức bởi
không thể ý thức được
hành vi của chỉ
muốn thỏa mãn bản ngã
lúc đó mà thôi.
Freud liên hệ ba cấp độ của
tâm trí như một tảng băng.
Phần chóp băng bạn thấy
trên mặt nước thể hiện cho
vùng ý thức. Phần băng
ngay ới mặt nước nhưng
vẫn thể nhìn thấy chính
tiền ý thức. phần
băng lớn, nằm ẩn sâu ới
nước mắt không thấy
được chính là vô thức.
Tâm trí hoạt động ý
thức bao gồm những thứ
chúng ta nhận thức
được. Hay nói cách khác,
những gì thuộc về một tâm
trí hoạt động ý thức
những thứ chúng ta
thể dễ dàng cho vào vùng
nhận thức.
Phân tâm học dựa trên thuyết của nhà tâm học Sigmund Freud rằng con người sẽ
trải qua quá trình giải phóng cảm xúc được cái nhìn sâu sắc về trạng thái tâm lý
của họ khi họ đưa những gì thuộc về vô thức vào trong nhận thức (có nghĩa ý thức về
cái vô thức). Thông qua quá trình này, một người có thể tìm thấy sự giải tỏa khỏi những
đau khổ về mặt tâm lý.
Phân tâm học cũng cho rằng:
Hành vi của một người bị ảnh hưởng bởi những động lực vô thức của họ.
Các vấn đề về cảm c tâm như trầm cảm lo âu thường bắt nguồn từ
những xung đột giữa tâm trí khi có ý thức và khi vô thức.
Sự phát triển nhân cách chịu tác động lớn bởi các sự kiện diễn ra vào thời thơ ấu
(Freud cho rằng nhân cách phần lớn đã được định sẵn vào năm tuổi).
lOMoARcPSD| 59452058
Con người sử dụng chế phòng vệ để bảo vệ bản thân khỏi những thông tin
chứa trong vô thức.
Hướng đi của thuyết phân tâm học đó là thường được ứng dụng trong các nghiên
cứu điển hình. Dưới đây sẽ giúp bạn giải thích về thuật ngữ này.
Nghiên Cứu Điển Hình (Case Study)
Nghiên cứu điển hình được định nghĩa một nghiên cứu chuyên sâu về một người, một
nhóm người hoặc một sự kiện. Một số nghiên cứu điển hình nổi tiếng nhất của Freud
bao gồm Dora, Little Hans Anna O. Những trường hợp này có ảnh ởng mạnh mẽ
đến quá trình ông phát triển lý thuyết phân tâm học của mình. Trong một nghiên cứu
điển hình, nhà nghiên cứu cố gắng xem xét kỹ lưỡng mọi khía cạnh trong cuộc
sống của một cá nhân. Bằng cách nghiên cứu kỹ một người, một nhà nghiên cứu
có thể hiểu sâu về lịch sử của một cá nhân có đóng góp như thế nào vào hành vi
hiện tại của họ.
Cái Nó – Cái Tôi – Siêu Tôi
Freud tin rằng nhân cách của một cá nhân có ba thành phần: cái nó, cái tôi và siêu tôi.
* Cái Nó ( Bản năng) :
- Là thành tố duy nhất của tính cách xuất hiện từ lúc mới sinh ra.
- Khía cạnh này của tính cách hoàn toàn thức, gồm nhiều hành vi thuộc về bản
năng nguyên thủy.
- Bản năng bị điều khiến bởi nguyên thỏa mãn, tức luôn đi tìm kiếm sự dễ chịu, thoải
mái ngay tức khắc, đáp ứng lại mọi khao khát, ham muốn nhu cầu. Nếu những nhu
cầu này không được ngay lập tức đáp ng, chủ thể sẽ rơi vào trạng thái lo âu hoặc
căng thẳng.
dụ, cơn đói hay cơn khát tăng lên sẽ làm xuất hiện nỗ lực tìm kiếm cái ăn hay đồ
uống ngay lập tức.
- Bản năng rất quan trọng trong những năm tháng đầu đời đảm bảo những nhu
cầu của trẻ sinh được đáp ứng. Nếu trẻ đói và không thoải mái, trẻ sẽ khóc cho đến
khi nhu cầu này của bản năng được thỏa n. trẻ nhỏ thường bthống trị hoàn
toàn bởi bản năng nên sẽ không cóphải bàn cãi khi những nhu cầu này phải được
đáp ứng ngay.
- Dạng hành vi này có thể vừa mang tính phá hoại, vừa không được xã hội chấp nhận.
Theo Freud, bản năng cố giải quyết căng thẳng hình thành bởi nguyên thỏa mãn
qua quá trình đáp ứng nhu cầu cấp. Tại đây, chủ thể nh thành một hình nh về
những thứ chủ thể mong muốn trong tâm trí như một cách để thỏa mãn nhu cầu.
lOMoARcPSD| 59452058
- Mặc con người ta rồi cũng sẽ học được ch kiểm soát bản năng nhưng bộ phận
này của tính cách sẽ vẫn tồn tại như thời ta còn nhỏ, nguồn ng lượng căn bản
nhất trong cả cuộc đời. Chính sự hình thành của cái tôi siêu tôi cho phép ta kiểm
soát những bản năng nguyên thủy nhất của cái ‘nó’khiến ta hành xử theo một cách
vừa thực tế vừa được xã hội chấp nhận.
* Cái Tôi ( Bản ngã) :
- Bản ngã cấu phần của tính cách chịu trách nhiệm giúp ta xoay xở với đời sống thực.
Đây là phần tính cách phải đối phó với những yêu cầu của thực tế.
- Theo Freud, cái tôi phát triển nên từ bản năng, nhiệm vụ của đảm bảo
nhữngthôi thúc của bản năng được thể hiện ra một cách dễ chấp nhận trong thế giới
thực.
- Cái tôi vận hành trong cả trạng thái ý thức, tiền ý thức và vô thức.
- Bản ngã vận hành dựa trên nguyên tắc hiện thức, tức cố gắng thỏa mãn ham muốn của
bản năng một cách thực tế và được xã hội chấp nhận. Nguyên tắc hiện thực sẽ cân đo
lợi ích cái giá phải trả cho hành vi trước khi chủ thể quyết định thực hiện hay bỏ
qua hành vi này. Trong nhiều trường hợp, thôi thúc của bản năng thể được thỏa
mãn qua một quá trình trì hoãn đáp ứng nhu cầu nói chung, bản ngã rốt cuộc cũng
sẽ cho phép hành vi bản năng xuất hiện nhưng chỉ vào lúc nào tại nơi nào đó p
hợp.
- Freud so sánh bản ng với một chú ngựa và bản ngã như người cưỡi ngựa. Con ngựa
mang đến sức mạnh sự di chuyển, tuy nhiên người cưỡi mới người đưa ra
phương ớng chỉ dẫn. Nếu không người cưỡi, con ngựa sẽ thể chỉ đi lang
thang bất kỳ i o muốn và làm bất cứ cái thích. Người ỡi đưa ra phương
hướng và mệnh lệnh để dẫn dắt ngựa theo con đường mà người cưỡi muốn đi.
- Bản ngã cũng loại bỏ sự căng thẳng gây ra bởi những ham muốn không được đáp ứng
qua quá trình đáp ứng nhu cầu thứ cấp, tại đây bản ngã sẽ cố tìm một thứ nào đó trong
thế giới thực tương thích với hình hảnh do bản năng hình thành trong tâm trí qua quá
trình đáp ứng nhu cầu sơ cấp này.
VD: Ví dụ, thử tưởng tượng bạn đang mắc kẹt trong một cuộc họp dài lê thê ở chỗ làm.
Bạn thấy mình càng lúc càng đói cuộc họp thì cứ lan man mãi. Mặc bản năng
thúc ép bạn nhảy khỏi chỗ ngồi, chạy đến phòng giải lao để lót dạ cái gì đó, nhưng bản
ngã lại ghìm bạn ngồi yên lặng tại ghế của mình và chờ cho đến khi cuộc họp kết thúc.
Thay vì hành xử theo thôi thúc của bản năng, bạn lại dành phần lớn thời gian ngồi họp
để tưởng tượng cảnh mình đang ăn một cái nh kẹp thịt phô mai. Ngay khi cuộc họp
kết thúc, bạn sẽ ngay lập tức đi tìm kiếm thứ nãy giờ bạn vẫn tưởng tượng trong đầu và
thỏa mãn nhu cầu của bản năng một cách vừa thích hợp vừa thực tế.
* Siêu Tôi ( Siêu ngã ):
lOMoARcPSD| 59452058
- Siêu Tôi một phần trong tính cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức
tưởng bạn tiếp nhận từ cả cha mẹ hội chính cảm nhận của chúng ta
về cái đúng cái sai trong cuộc sống.
- Siêu ngã chỉ dẫn giúp ta đưa ra phán xét.
- Theo Freud, siêu ngã bắt đầu xuất hiện từ khoảng độ tuổi lên 5.
- Có 2 phần siêu tôi:
+ Lý tưởng của bản ngã bao gồm những quy tắc và tiêu chuẩn cho các hành vi tốt, bao
gồm các hành vi được cha mẹ những người khác chấp nhận. Phục tùng những quy
tắc này làm chủ thể cảm thấy tự hào, thấy mình giá trị đưa đến cảm giác thành
tựu.
+ Lương tâm thể hiện những điều bị cha mẹ và xã hội coi là tệ hại. Những hành vi này
thường bị cấm đưa đến hậu quả xấu, khiến chủ thể bị phạt, cảm giác tội lỗi hoặc
ăn năn.
- Siêu ngã giúp hoàn thiện giáo hóa hành vi. đàn áp tất cả những thôi thúc khó
chấp nhận của bản năng cố tranh đấu để khiến bản ngã hành xử theo những tiêu
chuẩn tưởng hóa thay theo những nguyên hiện thực kia. Siêu ngã xuất hiện
trong cả trạng thái có ý thức, tiền ý thức và vô thức.
Cơ Chế Phòng Vệ Của Cái Tôi
chế phòng vệ là những chiến lược cái tôi sdụng để bảo vệ bản thân khỏi
lo âu. Những cơ chế phòng vệ này hoạt động như một biện pháp bảo vệ để ngăn
những điều khó chịu hoặc đau khổ của thức xâm nhập vào nhận thức của
chúng ta. Khi một điều gì đó khiến chúng ta quá tải hoặc đơn giản là không phù
hợp, các cơ chế phòng vệ sẽ ngăn thông tin về điều đó xâm nhập vào nhận thức
của chúng ta, điều này giúp giảm thiểu sự lo lắng trong tâm trí.
Điểm Yếu Của Phân Tâm Học
– Các học thuyết của Freud quá đặt nặng tâm trí vô thức, tình dục, sự hung hăng và trải
nghiệm thời thơ ấu.
- Nhiều quan niệm do các nhà phân tâm học đưa ra rất khó để đo lường và định lượng.
Hầu hết các ý tưởng của Freud đều dựa vào các nghiên cứu ca bệnh quan sát tại
phòng khám thay vì nghiên cứu khoa học, thực nghiệm.
Điểm Mạnh Của Phân Tâm Học
- Đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của tâm học. ảnh hưởng
lên cách ta tiếp cận điều trị cho các vấn đề sức khỏe tâm thần và tiếp tục ảnh hưởng lên
tâm lý học trong thời điểm hiện tại.
lOMoARcPSD| 59452058
- Phân tâm học mở ra góc nhìn mới về bệnh tâm thần, u rằng nói chuyện
vềvấn đề với một người chuyên gia thể giúp giảm bớt các triệu chứng tâm khó
chịu.
- Nhiều học thuyết nhân cách được phát triển bởi các nhà tưởng tâm động học
vẫncòn sức ảnh hưởng đến tận ngày nay, bao gồm học thuyết các giai đoạn phát triển
tâm lý xã hội của Erikson và học thuyết phát triển tâm lý tính dục của Freud. Một đánh
giá năm 2015 cho thấy liệu pháp tâm động học có thể có hiệu quả trong điều trị một số
tình trạng bao gồm trầm cảm, rối loạn ăn uống, rối loạn bản thể, rối loạn lo âu.
Vận Dụng Kỹ Thuật: Liên tưởng tự do
Liên tưởng tự do kỹ thuật giải tỏa dồn nén loại bỏ đối kháng. Kỹ thuật này giúp
thăm cõi thức của người bệnh. Họ sẽ được ngồi thoải mái trên ghế hoặc nằm nghỉ
ngơi trên trường kỷ, thả lỏng tinh thần, tự do nghĩ nói ra những điều họ nghĩ: ước
vọng, cảm xúc tâm trạng, các vấn đề thể, những rắc rối công việc hoặc đau khổ đời
tư, đôi khi những điều tưởng chừng ít quan trọng hay nghĩa. Nhà trị liệu theo Phân
tâm học sẽ đứng phía sau kích thích bệnh nhân liên tưởng không theo bất cứ chiều
hướng nào (không suy nghĩ một cách ý thức) tập trung nghe, ghi chép, cố gắng
để không làm gián đoạn mạch liên tưởng của người bệnh. Sau đó, nhà trị liệu sẽ dùng
năng lực và kinh nghiệm của mình để bóc tách những lớp vỏ ngoài của ý thức để người
bệnh nhìn trực tiếp vào các vấn đề thức, những dồn nén, những xung đột bị kiềm chế
của chính mình. Thông thường nguyên nhân của những vấn đề hiện tại bệnh nhân đang
gặp phải đến từ những trải nghiệm trong quá khứ – những điều bệnh nhân không muốn
nhớ lại một cách ý thức. Khi nhà trị liệu khuấy động được cõi thức, diễn giải để
người bệnh hiểu được một phần trong thức của mình, c dấu hiệu thực thể hay
những vấn đề gây khó chịu, đau khổ sẽ biến mất.
Thuyết Nhận Thức Và Hành Vi

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59452058 Tham Vấn Tâm Lý
Phân biệt: Tham vấn, Tư vấn, Cố vấn, Hướng dẫn, Trợ giúp. Cho ví dụ
Trợ giúp: Là 1 khái niệm chung nhất, chỉ sự giúp đỡ lẫn nhau trong các mối quan hệ
giao tiếp thông thường ai đó giúp đỡ ai đó. -
Trợ giúp tâm lý: là một hoạt động giúp đỡ cho người đang gặp khó khăn tâm lý
để họ thực hiện được điều họ mong muốn trong cuộc sống. -
Trợ giúp tâm lý: Bao hàm những công việc của những người giúp đỡ không
chuyên- tất cả mọi người. -
Tất cả mọi người đều có thể là người trợ giúp tâm lý bằng cách như cho lời
khuyên, răn dạy, tư vấn,...
* Có 3 kiểu trợ giúp tâm lý:
• Người trợ giúp chuyên nghiệp: Là những người được đào tạo sâu và chuyên biệt
về những kiến thức, kỹ năng tâm lý, hành vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải
quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ để có thể đáp ứng với đối tượng mà
họ giúp đỡ như người là nghề tâm lý học, tham vấb, công tác xã hội, tâm thần học,...
• Người trợ giúp bán chuyên: Họ là những người được đào tạo, tập huấn ngắn hạn
về các lĩnh vực trợ giúp hoặc có khinh nghiệm từ mối quan hệ giúp đỡ. VD: Giáo
viên- học sinh, giám đốc- nhân viên, cha linh mục- con chiêm, cha mẹ- con cái,
cán bộ hòa giải xã- người dân,....
• Người trợ giúp không chuyên: Là những người không qua đào tạo, huấn luyện
chính thức về các kỹ năng trợ giúp chuyên biệt. Sự trợ giúp của học có thể xảy
ra nhất thời trong mối quan hệ tạm thời với đối tượng của họ.
VD: Nhân viên bán hàng, tiếp tân, ...- khách hàng, Các tình nguyện viên cộng
đồng giúp đỡ- người nghiện ma túy, người bị nhiễm HIV,...
Tư vấn: Là mối quan hệ giữa 1 người trợ giúp chuyên nghiệp và 1 người cần được giúp
đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết một vấn đề liên quan đến công việc hoặc người khác. -
Trong từ điển tiếng Việt, tư vấn được giải thích là: “Đóng góp ý kiến về những
vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định”. -
Mục tiêu của tư vấn là cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cho người đang
làm thực hành công việc trợ giúp, giúp cho cá nhân đó làm việc hiệu quả hơn; nhìn nhận
xuyên suốt các vấn đề và mối quan tâm trong việc trợ giúp của mình cho thân chủ, cá
nhân trở nên khách quan hơn, tự tin hơn và dần trở nên độc lập trong việc tham vấn của mình. lOMoAR cPSD| 59452058 -
Tư vấn cũng có thể dành riêng cho cá nhân hoặc nhóm thông qua hoạt động phát
triển đội ngũ (như phát triển cán bộ tham vấn). Trong vai trò tư vấn, người tham vấn
làm việc với các sinh viên tâm lý học hay công tác xã hội, người tham vấn và nhân viên
công tác xã hội mới ra trường, các cán bộ xã hội, cộng tác viên công tác xã hội, giáo
viên, nhà quản lý, hay phụ huynh học sinh để lắng nghe, và chia sẻ những quan tâm của
họ về đối tượng mà họ đang giúp đỡ, trong nỗ lực tìm tòi những cách thức làm việc
mới, hiệu quả hơn với đối tượng của họ.
VD: Một giáo viên chủ nghiệm mời một nhà tư vấn đến để giải quyết những vấn đề mâu
thuẫn trong sinh hoạt chung của nhóm sinh viên do cô phụ trách ( chứ không phải vấn
đề tâm lý của cô giáo phụ trách).
Hướng dẫn: được hiểu là một hoạt động cung cấp thông tin, cho lời khuyên theo chủ đề
cụ thể được dẫn dắt từ người tham vấn (trong vai trò của một cố vấn).
Người tham vấn trong vai trò hướng dẫn (có thể gọi là cố vấn), công việc của họ có một số đặc điểm sau:
• Dẫn dắt, điều khiển buổi làm việc
• Thảo luận tập trung vào một chủ đề, không quan tâm đến việc chuyển tảisự thấu
cảm, chấp nhận tới thân chủ.
• Cuộc trò chuyện chủ yếu cung cấp thông tin và đưa ra lời khuyên theo vấn đề được hỏi
• Trọng tâm cuộc trò chuyện thường tập trung vào hiểu biết của người hướng dẫn
• Diễn ra trong thời gian ngắn
• Mối quan hệ giữa người hướng dẫn và thân chủ không quyết định hiệu quả hướng
dẫn. Mà, kiến thức, sự hiểu biết của người hướng dẫn về lĩnh vực thân chủ có
nhu cầu trợ giúp mới là yếu tố quyết định.
Người tham vấn trong vai trò hướng dẫn thường tạo điều kiện thuận lợi cho buổi
thảo luận và ít nhấn mạnh đến “tính chất tham vấn” – không tập trung vào khía cạnh
tâm lý của thân chủ và không tìm kiếm nguồn lực từ chính thân chủ, mà trọng tâm
của cuộc trò chuyện là tập trung vào sự hiểu biết của người giúp đỡ (không phải
người được giúp đỡ).
VD: David là nhà khai vấn tâm lý vừa ký hợp đồng với Steve. Sau một vài buổi học,
Steve đã bộc lộ một số nhu cầu mà chỉ một nhà cố vấn được đào tạo và có giấy phép
hành nghề mới có thể phục vụ được.
David có mối quan hệ làm việc thân thiện với một số cố vấn ở địa phương. Anh đã giới
thiệu Steve đến một trong số họ. Họ quyết định cùng nhau hợp tác hỗ trợ Steve thông
qua việc chia sẻ những mong muốn và thiết lục mục tiêu trong tương lai gần của anh ấy. Tham Vấn: lOMoAR cPSD| 59452058
Tham vấn tâm lý là: Được hiểu là: “Sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khỏe tinh thần
hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách
có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự phát triển cá nhân lành
mạnh, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý” (Hiệp hội tham vấn Hoa Kỳ, 1997). -
Tham vấn là một hoạt động trợ giúp mang tính chuyên nghiệp, trong đó đòi hỏi
nhàtham vấn có kiến thức sâu về tâm lý và hành vi con người nhằm giải quyết những
vấn đề của cuộc sống xã hội được coi là nguyên nhân nảy sinh những rối loạn tâm lý
cần được giúp đỡ ở các cá nhân. -
Trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn tự phát và ai cũng có thể tự
cho mình là người tham vấn, khi họ muốn làm công việc trợ giúp người khác, thì một
định nghĩa về tham vấn có thể phát biểu với những lời giải thích kèm theo như sau:
“Tham vấn là một quá trình tương tác giữa người tham vấn (người có chuyên môn và
kỹ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa
nhận) với thân chủ (còn gọi là thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí muốn
được giúp đỡ). Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên
tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực
tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. Thuật
ngữ tham vấn mô tả chính xác bản chất của nghề trợ giúp là giúp người khác đang có
khó khăn tâm lí mà không hướng họ theo ý mình. -
Triết lý của nghề tham vấn là giúp thân chủ nhìn vấn đề như nó vốn có, giúp thân
chủ tự giải quyết vấn đề của mình. Hay: Một nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ!
Người tham vấn là người soi sáng vấn đề, cung cấp thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây
ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không hướng thân chủ theo ý
của nhà tham vấn hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ.
VD: Lucy, 28 tuổi, tham gia tham vấn tâm lý với Ron về vấn đề lạm dụng chất kích
thích. Sau một vài phiên, Ron phát hiện ra rằng Lucy có những mục tiêu cá nhân khác
ngoài việc ngừng uống rượu.
Ron đã liên hệ với Donna, một chuyên gia về cuộc sống - nhà cố vấn để hỗ trợ Lucy đạt
được những mục tiêu này. Ba người họ cùng nhau tìm ra một kế hoạch hành động cụ thể cho Lucy.
Donna ủng hộ những quyết định của Lucy trong khi Ron tiếp tục hỗ trợ Lucy khám phá
những tổn thương trong quá khứ và lý do tại sao cô lại lạm dụng rượu.
So Sánh giữa Tham vấn và Tư Vấn: Tiêu chí Tham vấn Tư vấn lOMoAR cPSD| 59452058 Về mục tiêu
Tham vấn tâm lý là một cuộc nói Tư vấn tâm lý là một cuộc
chuyện mang tính cá nhân giữa nhà nói chuyện giữa một
tham vấn với một hoặc một vài người “chuyên gia” về một lĩnh
đang cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó vực nhất định với một hoặc
khăn hoặc thách thức trong cuộc sống. nhiều người đang cần lời
Tham vấn khác nói chuyện ở chỗ trọng khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh
tâm của cuộc tham vấn nhằm vào người vực đó, chủ yếu hướng đến nhận tham vấn.
giải quyết vấn đề hiện tại.
Hướng tới mục tiêu lâu dài đó là giúp
cá nhân nâng cao khả năng giải quyết
vấn đề tâm lý của mình sau khi được tham vấn.
Về tiến trình Nhà tham vấn hỗ trợ thân chủ ra quyết Tư vấn thường là cung cấp
định bằng cách giúp họ xác định và làm thông tin hay đưa ra lời
sáng tỏ vấn đề, xem xét tất cả các khả khuyên. Nhà tư vấn giúp
năng, và đưa ra lựa chọn tối ưu nhất cho thân chủ ra quyết định
chính họ sau khi xem xét kỹ lưỡng các bằng cách đưa ra những lời
quan điểm khác nhau. Do đó, tham vấn khuyên “mang tính chuyên
tâm lý là một quá trình gồm nhiều cuộc môn” cho thân chủ. Do vậy
nói chuyện hoặc gặp gỡ liên tục (bởi vì nó chỉ diễn ra trong một
những vấn đề của mỗi người hình thành thời gian ngắn, giải quyết
và phát triển trong một khoản thời gian, vấn đề tức thời. Kết quả tư
do đó cũng cần có thời gian để giải vấn không lâu bền; vấn đề quyết chúng).
sẽ lập lại vì các nguyên
nhân sâu xa của vấn đề
chưa được giải quyết. lOMoAR cPSD| 59452058 Về mối quan
Tham vấn tâm lý lại có mối quan hệ Trong tư vấn tâm lý thì mối hệ
ngang bằng, bình đẳng và dòi hỏi sự quan hệ có thể là trêndưới,
tương tác rất chặt chẽ và tích cực ở cả giữa một người được xem đôi bên. là uyên bác với những
Nhà tham vấn thông cảm và chấp nhận thông tin chuyên môn để
vô điều kiện với những cảm xúc và tình đưa ra những lời khuyên
cảm của thân chủ, từ đó thân chủ làm mà không quan tâm đến
chủ cuộc nói chuyện: Nhà tham vấn việc thể hiện sự thông cảm
lắng nghe, phản hồi, tổng kết và đặt câu hay chấp nhận thân chủ. hỏi.
Còn bên kia là người gặp
phải vấn đề tâm lý nào đó
mà không biết cách giải
quyết thế nào cần đến lời khuyên từ nhà tư vấn tâm lý.
Mối quan hệ ở đây không
đòi hỏi sự tương tác tích
cực từ phía người được tư
vấn. Sau khi thân chủ trình
bày vấn đề, nhà tư vấn làm
chủ cuộc nói chuyện và
đưa ra những lời khuyên
Về tương tác Mối quan hệ tham vấn quyết định kết Trong tư vấn tâm lý thì mối
quả đạt được của quá trình tham vấn, quan hệ giữa nhà tư vấn và
nhà tham vấn phải xây dựng lòng tin thân chủ không quyết định
với thân chủ và thể hiện thái độ thừa kết quả tư vấn bằng kiến
nhận, thông cảm và không phán xét.
thức và sự hiểu biết của
Sự thành công phụ thuộc vào kỹ năng nhà tư vấn về lĩnh vực mà
thân chủ đang cần tư vấn.
tương tác của nhà tham vấn để giúp đối
tượng có thể nhận ra được vấn đề của Hình thức can thiệp chính
mình, hiểu mình để từ đó tìm kiếm giải là cung cấp thông tin và lời
pháp phù hợp và thực hiện nó.
khuyên nên sự thành công
phụ thuộc vào những kiến
thức chuyên sâu của nhà tư vấn tâm lý. lOMoAR cPSD| 59452058
Về cách thức Nhà tham vấn có kiến thức về hành vi Nhà tư vấn có kiến thức về
và sự phát triển của con người. Họ có những lĩnh vực cụ thể và
các kỹ năng nghe và giao tiếp, có khả có khả năng truyền đạt
năng khai thác những vấn đề và cảm những kiến thức đó đến xúc của thân chủ. người cần hỗ trợ hay
Đồng thời, thể hiện sự tin tưởng vào hướng dẫn trong lĩnh vực
khả năng tự ra các quyết định tốt nhất đó.
của thân chủ; vai trò của nhà tham vấn Họ với thân chủ về những
chỉ là để “lái” cho các thân chủ đến quyết định họ cho là phù
những hướng lành mạnh nhất. Giúp hợp nhất đối với tình
thân chủ nhận ra và sử dụng những khả huống của thân chủ thay vì
năng và thế mạnh riêng của họ
tăng cường khả năng của thân chủ. Việc tập trung vào thế
mạnh của thân chủ không phải là xu hướng chung của tư vấn
Đưa ra tình huống tham vấn tâm lý:
Bạn Nam một học sinh cấp 2 chuẩn bị bước sang cấp 3 chăm học giỏi chăm ngoan học
giỏi. Bạn sống trong một gia đình bố mẹ đều làm trong nghề giáo, mẹ làm giáo viên cấp
3 còn bố làm giảng viên đại học. Bố mẹ đều rất kỳ vọng vào bạn vì và luôn dạy dỗ và
đặt niềm kỳ vọng cao đối với bạn trong kỳ thi vào cấp 3 của bạn. Bạn luôn cố gắng để
đạt được những gì bạn mong muốn nhưng rồi một bạn trong lớp đã rủ rê bạn đi chơi
game để giải tỏa căng thẳng rồi từ đấy bạn đã ngày càng nghiện game. Bạn đã có những
hành vi trốn bố mẹ đi chơi game hay nói học bài nhưng thực chất là đang chơi điện tử.
Việc đó mới đầu chỉ là tầng xuất ít nhưng ngày càng nhiều và đỉnh điểm là bạn bỏ bê
việc học và trốn học đi chơi game. Sự việc đã được bố mẹ bạn biết là qua lời thông báo
của giáo viên chủ nghiệm của bạn. Bố mẹ bạn đã rất tức giận và có những hành động
dạy dỗ bạn như là đánh mắng hay nói nhẹ nhàng với bạn. Nhưng bạn vẫn không quan
tâm và có hành vi phản kháng lại bố mẹ như chửi rủa đánh lại bố mẹ thậm chí là chạy
ra ngoài đường đứng ngoài ý chửi bố mẹ và chửi mọi người xung quanh khi cố tiếp xúc
can ngăn bạn. Bạn lúc nào cũng nổi giận hay cáu gắt mỗi khi bố mẹ hoặc một ai đấy
đến gần. Bạn luôn cầm điện thoại trên tay để chơi game hoặc tự nhốt mình trong phòng
chơi không mở cửa cho ai khác bước vào. Bạn luôn có những suy nghĩ chống đối lại bố
mẹ hay là những việc trái lại với những điều bố mẹ bảo. Bố mẹ bạn Nam đã ngày càng
mệt mỏi về những hành động của bạn Nam và đã cố gắng tìm mọi cách để bạn có thể
trở lại giống trước kia vì bạn Nam sắp phải bước vào kì thi quan trọng là kỳ tuyển sinh lOMoAR cPSD| 59452058
vào cấp 3 những vô vọng với những hành động của bạn và không thể làm bạn dứt ra khỏi game. Phân tâm học
Phân tâm học được định nghĩa là một chuỗi các học thuyết và kỹ thuật trị liệu tâm lý có
nguồn gốc từ những công trình và học thuyết của Sigmund Freud. Ý tưởng chủ đạo của
phân tâm học chính là niềm tin cho rằng tất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ,
cảm xúc, ham muốn, và ký ức ẩn sâu trong vô thức. Bằng cách chuyển những nội dung
vô thức sang vùng ý thức, con người ta sẽ có thể trải nghiệm sự “thanh tẩy” tâm trí và
hiểu sâu sắc hơn về trạng thái tâm lý hiện tại của bản thân. Qua quá trình này, con người
ta sẽ có thể tìm thấy sự giải thoát khỏi những sự khó chịu và vướng bận về mặt tâm lý. -
Phân tâm học đề cập đến một lý thuyết và một loại liệu pháp dựa trên niềm tin
rằngtất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ, cảm xúc, mong muốn và ký ức trong vô thức. -
Phân tâm là một phương pháp trị liệu trong đó người bệnh nói về những trải
nghiệm, thời thơ ấu và cả những giấc mơ. -
Theo Hiệp hội Phân tâm học Hoa Kỳ (APA), phân tâm học có thể giúp mọi người
hiểu bản thân bằng cách khám phá những xung động không dễ nhận thấy được ẩn trong vô thức. -
Trong liệu pháp tâm lý, mọi người có thể cảm thấy an toàn khi họ khám phá
những cảm giác, mong muốn, ký ức và những yếu tố gây căng thẳng có thể dẫn đến
những khó khăn về tâm lý. Nghiên cứu đã chứng minh rằng trong quá trình phân tích
tâm lý, việc tự đánh giá về bản thân có thể góp phần vào sự phát triển cảm xúc về lâu dài. lOMoAR cPSD| 59452058
Ý thức bao gồm tất cả Vô thức là một ‘kho tàng” Freud liên hệ ba cấp độ của
những suy nghĩ, ký ức, các cảm xúc, suy nghĩ, tâm trí như một tảng băng.
cảm giác và mong muốn ham muốn và ký ức nằm Phần chóp băng bạn thấy ở
mà ta nhận thức được một bên ngoài vùng kiểm soát trên mặt nước thể hiện cho
cách rõ ràng vào bất kỳ của ý thức. Hầu hết các nội vùng ý thức. Phần băng ở
thời điểm nào. Ta có thể dung của vùng vô thức đều ngay dưới mặt nước nhưng
nghĩ đến và trò chuyện về khá khó chịu và không vẫn có thể nhìn thấy chính
những thứ kể trên theo lý được chủ thể chấp nhận, là tiền ý thức. Và phần
trí. Ý thức còn bao gồm cả như cảm giác đau đớn, lo băng lớn, nằm ẩn sâu dưới
ký ức, không phải lúc nào âu hay xung đột. Theo nước mà mắt không thấy
ký ức cũng nằm ngay trong Freud, tâm trí vô thức được chính là vô thức.
vùng ý thức nhưng nó có không ngừng ảnh hưởng
thể được triệu hồi dễ dàng lên hành vi và trải nghiệm Tâm trí hoạt động có ý
vào bất kỳ thời điểm nào của ta, thậm chí ta còn thức bao gồm những thứ
và giúp ta nhận thức nó rõ không biết đến sự tồn tại mà chúng ta nhận thức ràng.
của nguồn sức mạnh này. được. Hay nói cách khác,
VD: Đang làm việc, cảm Vô thức có thể bao gồm cả những gì thuộc về một tâm
thấy đói bụng khiến bạn những cảm xúc bị đè nén, trí hoạt động có ý thức là
muốn đi ra ngoài để mua những ký ức, thói quen, những thứ mà chúng ta có
thức ăn. Nhưng nhờ ý thức suy nghĩ, khao khát và thể dễ dàng cho vào vùng
được trách nhiệm của mình phản ứng ẩn giấu kỹ càng. nhận thức.
và những hậu quả có thể Khi còn bé vào Mall thì
xảy ra nếu mình bỏ ngang chúng ta thường đòi cha
việc đi ăn khiến chúng ta mẹ mua món đồ chơi cho
ngồi lại và tiếp tục làm bằng được. Nếu không thì việc. khóc lóc…Như vậy hành
động đòi mua quà của đứa
bé là vô thức bởi vì nó
không thể ý thức được hành vi của nó mà chỉ muốn thỏa mãn bản ngã lúc đó mà thôi.
Phân tâm học dựa trên lý thuyết của nhà tâm lý học Sigmund Freud rằng con người sẽ
trải qua quá trình giải phóng cảm xúc và có được cái nhìn sâu sắc về trạng thái tâm lý
của họ khi họ đưa những gì thuộc về vô thức vào trong nhận thức (có nghĩa là ý thức về
cái vô thức). Thông qua quá trình này, một người có thể tìm thấy sự giải tỏa khỏi những
đau khổ về mặt tâm lý.
Phân tâm học cũng cho rằng: •
Hành vi của một người bị ảnh hưởng bởi những động lực vô thức của họ. •
Các vấn đề về cảm xúc và tâm lý như trầm cảm và lo âu thường bắt nguồn từ
những xung đột giữa tâm trí khi có ý thức và khi vô thức. •
Sự phát triển nhân cách chịu tác động lớn bởi các sự kiện diễn ra vào thời thơ ấu
(Freud cho rằng nhân cách phần lớn đã được định sẵn vào năm tuổi). lOMoAR cPSD| 59452058 •
Con người sử dụng cơ chế phòng vệ để bảo vệ bản thân khỏi những thông tin chứa trong vô thức.
Hướng đi của thuyết phân tâm học đó là thường được ứng dụng trong các nghiên
cứu điển hình. Dưới đây sẽ giúp bạn giải thích về thuật ngữ này.
Nghiên Cứu Điển Hình (Case Study)
Nghiên cứu điển hình được định nghĩa là một nghiên cứu chuyên sâu về một người, một
nhóm người hoặc một sự kiện. Một số nghiên cứu điển hình nổi tiếng nhất của Freud
bao gồm Dora, Little Hans và Anna O. Những trường hợp này có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến quá trình ông phát triển lý thuyết phân tâm học của mình. Trong một nghiên cứu
điển hình, nhà nghiên cứu cố gắng xem xét kỹ lưỡng mọi khía cạnh trong cuộc
sống của một cá nhân. Bằng cách nghiên cứu kỹ một người, một nhà nghiên cứu
có thể hiểu sâu về lịch sử của một cá nhân có đóng góp như thế nào vào hành vi hiện tại của họ.
Cái Nó – Cái Tôi – Siêu Tôi
Freud tin rằng nhân cách của một cá nhân có ba thành phần: cái nó, cái tôi và siêu tôi. * Cái Nó ( Bản năng) :
- Là thành tố duy nhất của tính cách xuất hiện từ lúc mới sinh ra.
- Khía cạnh này của tính cách hoàn toàn là vô thức, gồm nhiều hành vi thuộc về bản năng nguyên thủy.
- Bản năng bị điều khiến bởi nguyên lý thỏa mãn, tức luôn đi tìm kiếm sự dễ chịu, thoải
mái ngay tức khắc, đáp ứng lại mọi khao khát, ham muốn và nhu cầu. Nếu những nhu
cầu này không được ngay lập tức đáp ứng, chủ thể sẽ rơi vào trạng thái lo âu hoặc căng thẳng.
Ví dụ, cơn đói hay cơn khát tăng lên sẽ làm xuất hiện nỗ lực tìm kiếm cái ăn hay đồ uống ngay lập tức.
- Bản năng rất quan trọng trong những năm tháng đầu đời vì nó đảm bảo những nhu
cầu của trẻ sơ sinh được đáp ứng. Nếu trẻ đói và không thoải mái, trẻ sẽ khóc cho đến
khi nhu cầu này của bản năng được thỏa mãn. Vì trẻ nhỏ thường bị thống trị hoàn
toàn bởi bản năng nên sẽ không có gì phải bàn cãi khi những nhu cầu này phải được đáp ứng ngay.
- Dạng hành vi này có thể vừa mang tính phá hoại, vừa không được xã hội chấp nhận.
Theo Freud, bản năng cố giải quyết căng thẳng hình thành bởi nguyên lý thỏa mãn
qua quá trình đáp ứng nhu cầu sơ cấp. Tại đây, chủ thể hình thành một hình ảnh về
những thứ chủ thể mong muốn trong tâm trí như một cách để thỏa mãn nhu cầu. lOMoAR cPSD| 59452058
- Mặc dù con người ta rồi cũng sẽ học được cách kiểm soát bản năng nhưng bộ phận
này của tính cách sẽ vẫn tồn tại như thời ta còn nhỏ, là nguồn năng lượng căn bản
nhất trong cả cuộc đời. Chính sự hình thành của cái tôi và siêu tôi cho phép ta kiểm
soát những bản năng nguyên thủy nhất của cái ‘nó’ và khiến ta hành xử theo một cách
vừa thực tế vừa được xã hội chấp nhận. * Cái Tôi ( Bản ngã) :
- Bản ngã là cấu phần của tính cách chịu trách nhiệm giúp ta xoay xở với đời sống thực.
Đây là phần tính cách phải đối phó với những yêu cầu của thực tế.
- Theo Freud, cái tôi phát triển nên từ bản năng, và nhiệm vụ của nó là đảm bảo
nhữngthôi thúc của bản năng được thể hiện ra một cách dễ chấp nhận trong thế giới thực.
- Cái tôi vận hành trong cả trạng thái ý thức, tiền ý thức và vô thức.
- Bản ngã vận hành dựa trên nguyên tắc hiện thức, tức cố gắng thỏa mãn ham muốn của
bản năng một cách thực tế và được xã hội chấp nhận. Nguyên tắc hiện thực sẽ cân đo
lợi ích và cái giá phải trả cho hành vi trước khi chủ thể quyết định thực hiện hay bỏ
qua hành vi này. Trong nhiều trường hợp, thôi thúc của bản năng có thể được thỏa
mãn qua một quá trình trì hoãn đáp ứng nhu cầu – nói chung, bản ngã rốt cuộc cũng
sẽ cho phép hành vi bản năng xuất hiện nhưng chỉ vào lúc nào và tại nơi nào đó phù hợp.
- Freud so sánh bản năng với một chú ngựa và bản ngã như người cưỡi ngựa. Con ngựa
mang đến sức mạnh và sự di chuyển, tuy nhiên người cưỡi mới là là người đưa ra
phương hướng và chỉ dẫn. Nếu không có người cưỡi, con ngựa sẽ có thể chỉ đi lang
thang bất kỳ nơi nào nó muốn và làm bất cứ cái gì nó thích. Người cưỡi đưa ra phương
hướng và mệnh lệnh để dẫn dắt ngựa theo con đường mà người cưỡi muốn đi.
- Bản ngã cũng loại bỏ sự căng thẳng gây ra bởi những ham muốn không được đáp ứng
qua quá trình đáp ứng nhu cầu thứ cấp, tại đây bản ngã sẽ cố tìm một thứ nào đó trong
thế giới thực tương thích với hình hảnh do bản năng hình thành trong tâm trí qua quá
trình đáp ứng nhu cầu sơ cấp này.
VD: Ví dụ, thử tưởng tượng bạn đang mắc kẹt trong một cuộc họp dài lê thê ở chỗ làm.
Bạn thấy mình càng lúc càng đói mà cuộc họp thì cứ lan man mãi. Mặc dù bản năng
thúc ép bạn nhảy khỏi chỗ ngồi, chạy đến phòng giải lao để lót dạ cái gì đó, nhưng bản
ngã lại ghìm bạn ngồi yên lặng tại ghế của mình và chờ cho đến khi cuộc họp kết thúc.
Thay vì hành xử theo thôi thúc của bản năng, bạn lại dành phần lớn thời gian ngồi họp
để tưởng tượng cảnh mình đang ăn một cái bánh kẹp thịt phô mai. Ngay khi cuộc họp
kết thúc, bạn sẽ ngay lập tức đi tìm kiếm thứ nãy giờ bạn vẫn tưởng tượng trong đầu và
thỏa mãn nhu cầu của bản năng một cách vừa thích hợp vừa thực tế. * Siêu Tôi ( Siêu ngã ): lOMoAR cPSD| 59452058
- Siêu Tôi là một phần trong tính cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức và lý
tưởng mà bạn tiếp nhận từ cả cha mẹ và xã hội – nó chính là cảm nhận của chúng ta
về cái đúng cái sai trong cuộc sống.
- Siêu ngã chỉ dẫn giúp ta đưa ra phán xét.
- Theo Freud, siêu ngã bắt đầu xuất hiện từ khoảng độ tuổi lên 5. - Có 2 phần siêu tôi:
+ Lý tưởng của bản ngã bao gồm những quy tắc và tiêu chuẩn cho các hành vi tốt, bao
gồm các hành vi được cha mẹ và những người khác chấp nhận. Phục tùng những quy
tắc này làm chủ thể cảm thấy tự hào, thấy mình có giá trị và đưa đến cảm giác thành tựu.
+ Lương tâm thể hiện những điều bị cha mẹ và xã hội coi là tệ hại. Những hành vi này
thường bị cấm và đưa đến hậu quả xấu, khiến chủ thể bị phạt, có cảm giác tội lỗi hoặc ăn năn.
- Siêu ngã giúp hoàn thiện và giáo hóa hành vi. Nó đàn áp tất cả những thôi thúc khó
mà chấp nhận của bản năng và cố tranh đấu để khiến bản ngã hành xử theo những tiêu
chuẩn lý tưởng hóa thay vì theo những nguyên lý hiện thực kia. Siêu ngã xuất hiện
trong cả trạng thái có ý thức, tiền ý thức và vô thức.
Cơ Chế Phòng Vệ Của Cái Tôi
Cơ chế phòng vệ là những chiến lược mà cái tôi sử dụng để bảo vệ bản thân khỏi
lo âu. Những cơ chế phòng vệ này hoạt động như một biện pháp bảo vệ để ngăn
những điều khó chịu hoặc đau khổ của vô thức xâm nhập vào nhận thức của
chúng ta. Khi một điều gì đó khiến chúng ta quá tải hoặc đơn giản là không phù
hợp, các cơ chế phòng vệ sẽ ngăn thông tin về điều đó xâm nhập vào nhận thức
của chúng ta, điều này giúp giảm thiểu sự lo lắng trong tâm trí.

Điểm Yếu Của Phân Tâm Học
– Các học thuyết của Freud quá đặt nặng tâm trí vô thức, tình dục, sự hung hăng và trải nghiệm thời thơ ấu.
- Nhiều quan niệm do các nhà phân tâm học đưa ra rất khó để đo lường và định lượng.
– Hầu hết các ý tưởng của Freud đều dựa vào các nghiên cứu ca bệnh và quan sát tại
phòng khám thay vì nghiên cứu khoa học, thực nghiệm.
Điểm Mạnh Của Phân Tâm Học -
Đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của tâm lý học. Nó ảnh hưởng
lên cách ta tiếp cận điều trị cho các vấn đề sức khỏe tâm thần và tiếp tục ảnh hưởng lên
tâm lý học trong thời điểm hiện tại. lOMoAR cPSD| 59452058 -
Phân tâm học mở ra góc nhìn mới về bệnh lý tâm thần, nêu rõ rằng nói chuyện
vềvấn đề với một người chuyên gia có thể giúp giảm bớt các triệu chứng tâm lý khó chịu. -
Nhiều học thuyết nhân cách được phát triển bởi các nhà tư tưởng tâm động học
vẫncòn sức ảnh hưởng đến tận ngày nay, bao gồm học thuyết các giai đoạn phát triển
tâm lý xã hội của Erikson và học thuyết phát triển tâm lý tính dục của Freud. Một đánh
giá năm 2015 cho thấy liệu pháp tâm động học có thể có hiệu quả trong điều trị một số
tình trạng bao gồm trầm cảm, rối loạn ăn uống, rối loạn bản thể, rối loạn lo âu.
Vận Dụng Kỹ Thuật: Liên tưởng tự do
Liên tưởng tự do là kỹ thuật giải tỏa dồn nén và loại bỏ đối kháng. Kỹ thuật này giúp
thăm dò cõi vô thức của người bệnh. Họ sẽ được ngồi thoải mái trên ghế hoặc nằm nghỉ
ngơi trên trường kỷ, thả lỏng tinh thần, tự do nghĩ và nói ra những điều họ nghĩ: ước
vọng, cảm xúc tâm trạng, các vấn đề cơ thể, những rắc rối công việc hoặc đau khổ đời
tư, đôi khi là những điều tưởng chừng ít quan trọng hay vô nghĩa. Nhà trị liệu theo Phân
tâm học sẽ đứng phía sau kích thích bệnh nhân liên tưởng không theo bất cứ chiều
hướng nào (không suy nghĩ một cách có ý thức) và tập trung nghe, ghi chép, cố gắng
để không làm gián đoạn mạch liên tưởng của người bệnh. Sau đó, nhà trị liệu sẽ dùng
năng lực và kinh nghiệm của mình để bóc tách những lớp vỏ ngoài của ý thức để người
bệnh nhìn trực tiếp vào các vấn đề vô thức, những dồn nén, những xung đột bị kiềm chế
của chính mình. Thông thường nguyên nhân của những vấn đề hiện tại bệnh nhân đang
gặp phải đến từ những trải nghiệm trong quá khứ – những điều bệnh nhân không muốn
nhớ lại một cách có ý thức. Khi nhà trị liệu khuấy động được cõi vô thức, diễn giải để
người bệnh hiểu được một phần trong vô thức của mình, các dấu hiệu thực thể hay
những vấn đề gây khó chịu, đau khổ sẽ biến mất.
Thuyết Nhận Thức Và Hành Vi