lOMoARcPSD| 61197966
Nói về việc bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, C. Mác Ph. Ăngghen đã đưa
ra quan điểm: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - hội một quá trình
lịch sử tự nhiên”. Nghĩa việc các nước bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ bỏ qua bản
chủ nghĩa không phải là điều đi ngược lại với tự nhiên để phù hợp với điều kiện thực
tế lịch sử của nước đó. Hơn nữa, sau khi dựa trên điều kiện nước Nga viết cũng như
tìm hiểu thực tiễn lúc bấy giờ, quan điểm ấy càng trở nên hợp lý chính xác. Các dân tộc
sớm hay muộn đều sẽ tiến đến chủ nghĩa hội, đây điều tất yếu không tránh khỏi,
thế nhưng có một điều chắc chắn rằng từng quốc gia sẽ những cách thức khác nhau để
thực hiện điều đó. Với lợi thế của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nước lạc hậu
sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có 2 thể tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội. Với các nước đã trải qua hình thái tư bản chủ nghĩa, thời kì quá độ sẽ
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, đủ để cải biến cách mạng từ xã hội này sang
hội khác. Nhưng đối với các nước bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa thì nhất thiết “cần
phải một thời kỳ quá độ lâu dài phức tạp” V.I. Lênin đã gọi đó thời kỳ của
“những cơn đau đẻ kéo dài”. Thực chất, thời kỳ quá độ là thời kỳ phôi thai từ các hình thái
xã hội cũ, tiến hành những hoạt động tạo điều kiện xây dựng và cải tiến xã hội mới; có s
đan xen giữa những nhân tố mới tàn tích của hội cũ. để cải tạo cách mạng sâu sắc,
triệt để toàn diện trên tất cả lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tưởng văn hóa, xã hội;
thời kỳ quá độ theo như C. Mác thì “Từ hội bản chủ nghĩa lên hội cộng sản chủ
nghĩa cả một thời kỳ lịch sử lâu dài từ khi giai cấp ng nhân giành được chính quyền
đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản”. Quá độ gián tiếp hay trực tiếp phụ thuộc
phần lớn vào điều kiện cũng như thực tiễn lịch sử của từng dân tộc. Thông thường, quá độ
theo hình thức gián tiếp sẽ xảy ra những ớc chưa qua giai đoạn phát triển bản ch
nghĩa lên chủ nghĩa hội. thời kỳ này, nhiệm vụ trách nhiệm của mỗi quốc gia trở
nên nặng nề và khó khăn hơn, vừa phải dành thời gian để xây dựng, phát triển các quan hệ
sản xuất, lực lượng sản xuất tạo ra sở vật chất kĩ thuật nhất định cho chủ nghĩa hội;
vừa phải xây dựng chủ nghĩa hội trên nền sản xuất đại công nghiệp. Đây quá trình
mới mẻ nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp và trở thành thách thức của hầu hết các quốc
gia lựa chọn đi lên chủ nghĩa hội theo con đường này, trong đó có Việt Nam. I. s
lý thuyết về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Bối cảnh thực hiện thời kỳ
quá độ những khó khăn, thuận lợi đối với Việt Nam Ngay từ trong Cương lĩnh của Đảng
năm 1930 đã chỉ rõ quan điểm: “Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nghĩa ngay từ đầu, tiến lên chủ nghĩa xã hội đã luôn là con
lOMoARcPSD| 61197966
đường tất yếu nước ta phải đi qua. Thực tiễn tiến trình lịch sử khẳng định rằng đây
sự lựa chọn đúng đắn, dứt khoát, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân xu thế phát
triển của thời đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng diễn ra vào tháng 9/1960
đã tiếp tục khẳng định con đường cách mạng sản xác định nhiệm vụ trọng tâm xây
dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, giải phóng miền Nam, trong khi đó phải đưa
miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Và phải đến năm 1975 khi kết thúc kháng chiến chống Mĩ,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp còn nhiều yếu kém, mang
nặng tính tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta mới nảy sinh yêu cầu khách quan chuyển
nền kinh tế 3 tự nhiên lên nền kinh tế hàng hóa dựa trên sở vật chất thuật hiện đại.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử,
chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm
1991, bổ sung phát triển năm 2011, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức kinh tế, hội đan xen”. Việt Nam
bước vào thời kỳ quá độ lên chnghĩa hội với những thuận lợi khó khăn đan xen.
Mặc dù đất nước đã hoàn thành thành công nhiệm vụ cách mạng thế nhưng các thế lực thù
địch không lúc nào ngừng tìm cách phá hoại nước ta. Bên cạnh đó, sau khi tiến hành cách
mạng, dù nhận về phần thắng nhưng nước ta lại chịu rất nhiều mất mát, hậu quả chiến tranh
để lại vô cùng nặng nề. Đây là thời kỳ nước ta bị đảo lộn về mọi mặt trong đời sống hội,
vẫn còn hạn chế trong kinh nghiệm xây dựng và tổ chức xã hội mới. Hơn nữa, khởi nguồn
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa hội đã cho thấy điểm xuất
phát của nước ta còn thấp. Bên cạnh những khó khăn, không thể không kể đến những điều
kiện thuận lợi cho thời kỳ quá độ lúc bấy giờ. Điều quan trọng nhất khi ấy là nước ta được
đặt ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng tiên phong cho hàng hoạt những
chiến lược đổi mới, giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo. Hơn nữa, Bắc Nam được giải
phóng, những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp, những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu
thương đùm bọc đáng trân trọng vẫn đang được gìn giữ một cách cẩn thận. Với điều kiện
tự nhiên và lịch sử khách quan, Đảng đã chỉ huy thiết lập được chính quyền của nhân dân,
quá trình phát triển chủ nghĩa bản đã tạo dựng svật chất thuật ban đầu cho chủ
nghĩa hội. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển như vũ bão, mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đã mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn
chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, ng nghệ lạc hậu,... nhờ đó ta thể tận
lOMoARcPSD| 61197966
dụng được thành tựu của nền sản xuất đại ng nghiệp để “rút ngắntiến trình phát triển
của nước ta, làm dịu bớt “những cơn đau đẻ”. Như vậy, bối cảnh lịch sử đã cho thấy việc
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự
lựa chọn duy nhất đúng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Quá
độ lên chủ nghĩa hội không những phù hợp với quy luật lịch sử còn thống nhất với
nguyện vọng thiết tha của nhân dân độc lập dân tộc, cuộc sống ấm no, hội công
bằng, dân chủ, văn minh – những yêu cầu chỉ hội chủ nghĩa mới đáp ứng được.
4 2. Quan điểm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa Trung thành với các lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không
có nghĩa là Đảng ta sẽ vận dụng chúng một cách máy móc và dập khuôn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tiên phong trong việc tìm ra những luận điểm làm phong phú, sáng tạo, phát triển
hơn những tưởng, đường lối của V.I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp. Dựa vào việc
nghiên cứu thực tiễn lịch sử, tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã bổ sung, xác định nội
dung quan trọng mới: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Thế nhưng điều đó không có nghĩa
nước ta phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa bản dưới hình thái kinh tế hội bản chủ
nghĩa tiếp thu kế thừa những thành tựu một cách chọn lọc. Thực tế về thành
công cũng như hạn chế của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đều đã chứng minh lý
luận của Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp này chính xác. Để không lặp lại những thất
bại của chủ nghĩa bản vẫn thể phát triển nhanh, bền vững thì nhất thiết phải trải
qua thời kỳ quá độ. Điểm mới trong nhận thức của Việt Nam là chỉ bỏ qua sự thống trị của
giai cấp tư sản quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong xã hội vẫn sử dụng và khai
thác kinh tế bản chnghĩa để phục vụ cho chủ nghĩa hội; đặc biệt trước hết
thành tựu về trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản vận hành để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại dựa trên nền sản xuất đại công
nghiệp. Đồng thời, Việt Nam với vai trò nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, Nhân dân, chắc chắn sẽ điều tiết sự phát triển
nhân văn hơn. Càng đi vào phân tích điều kiện khách quan của lịch sử, Đảng ta càng nhận
thức được tính chất phức tạp lâu dài của snghiệp xây dựng chủ nghĩa hội. Cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không phải vấn đề có thể giải quyết và thực hiện trong một
thời gian ngắn. Không chỉ cải tạo, phát triển về mặt cơ sở vật chất kĩ thuật mà còn cải tạo
về mặt tư tưởng, gạt bỏ những nhận thức lạc hậu, cũ kĩ, những thói hư tật xấu, những thiết
lOMoARcPSD| 61197966
chế, thể chế chính trị không phù hợp làm kìm hãm sự phát triển. Trong đường lối thực hiện
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội bqua bản chủ nghĩa này nhất định phải đảm bảo
quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản không còn xác
lập vị trí thống trị chiếm vai trò chủ đạo. Đây sự nghiệp đi lên Đảng ta xác định
là vô cùng cam go, khó khăn, đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới với nhiều
chặng đường phát triển biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực. do đó kiên
quyết đòi hỏi Đảng ta phải có quyết tâm chính trị vững chắc, kiên định và sáng 5 tạo trong
lãnh đạo thực hiện mục tiêu; phải sự phối hợp đồng ng, đồng khát vọng của toàn
Đảng, toàn dân trên con đường đi lên chnghĩa hội dựa trên nền tảng chính là chủ nghĩa
Mác - nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
hội Việt Nam phương hướng xây dựng của Đảng Trong quá trình tổng kết thực tiễn
quá trình cách mạng và thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng nhân dân ta về thời kỳ quá
độ đã phát triển cao hơn, tầm nhìn sáng rõ hơn. chặng đầu tiên của thời kỳ quá độ, Đại
hội IV đã xác định công nghiệp hóa hội chủ nghĩa “nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức đó
đã tạo điều kiện thuận lợi để đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng xác định nhiệm vụ của
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Đúc kết từ những mục tiêu đề ra trước đó, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) do Đại hội VII đã xác
định 6 đặc trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Tuy nhiên, đến Đại
hội XI của Đảng, các Văn kiện Đại hội X (2006) Cương lĩnh (bsung, phát triển năm
2011) đã hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng nhằm tổng kết những thành tựu trong thời kỳ
đổi mới đồng thời định hướng cho chặng đường sau. Trong số đó, đặc trưng quan trọng
nhất làvề “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mô hình nhà nước xã hội
chủ nghĩa và các thể chế kinh tế mà nhân dân tập trung xây dựng trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội ở Việt Nam cũng liên tục được nhận thức, tập trung xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Cương lĩnh 1991 trong Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra rằng:
“nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa hội. hội nhân dân ta xây dựng hội do nhân dân lao
động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Văn kiện Đại hội XII đã thng nhất
nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “nền kinh tế vận hành
lOMoARcPSD| 61197966
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”. Đại hội XIII (2021) tiếp tục
khẳng định “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Đưa ra các quan điểm luận về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa một ớc ngoặt đột phá sáng tạo trong nhận thức của Đảng
ta, là thành quả to lớn sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới. 6 Ngoài ra thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá kết hợp với chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đối ngoại tự chủ, đa phương, đa dạng không ngừng khẳng định nâng cao vị thế đất
nước cũng một trong những phương ớng quan trọng được Đảng Nhà ớc ta xây
dựng trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nhập nhưng không “hòa tan”, nhất
thiết phải đảm bảo và giữ gìn nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, có biện pháp
cụ thể ng trong vấn đề bảo vệ quốc phòng an ninh quốc gia. Chđộng ngăn
ngừa các nguy chiến tranh, xung đột từ sớm; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch. Một vấn đề tất yếu khác cần phải xây dựng
Đảng ngày càng vững mạnh, có tư duy đổi mới, luôn cập nhật những xu hướng phát triển,
nâng cao năng lực lãnh đạo; hiện đại hóa, thống nhất bộ máy tổ chức, đảm bảo lập trường
chính trị nghiêm chỉnh, trong sạch. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa hoạt
động hiệu quả, vì nhân dân phục vụ, vì sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó Nhà nước
cũng cần tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ sử dụng tối đa các nguồn lực,
thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh; ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu quan trọng của
cuộc Cách mạng ng nghiệp lần thứ vào tất cả lĩnh vực của đời sống hội, nhất
một số ngành trọng điểm tiềm năng làm động lực cho sự tăng trưởng với tinh thần bắt
kịp và vượt lên so với các quốc gia khu vực và thế giới. Đồng thời, cần phải nắm vững
luận và giải quyết được các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định phát triển; đổi mới
căn bản về mặt kinh tế, chính trị, giáo dục; phát triển lực lượng sản xuất bên cạnh việc
hoàn thiện quan hệ sản xuất; độc lập tự chủ - hội nhập quốc tế; kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn liền với phát triển toàn
diện mọi mặt đời sống hội; mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ phải được thực hiện một cách hài hòa, thống nhất. Để thực hiện các mục tiêu
và định hướng nêu trên, toàn Đảng, toàn dân cần tích cực nâng cao nhận thức, bồi dưỡng
thêm phẩm chất, năng lực, ý chí tự lực tự cường, tranh thủ tận dụng các cơ hội, khắc phục
các khó khăn trước mắt, đặc biệt cần phải giữ vững niềm tin quan điểm cách mạng
nhất là trong thời kỳ đổi mới như hiện nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61197966
Nói về việc bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa
ra quan điểm: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên”. Nghĩa là việc các nước bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ bỏ qua tư bản
chủ nghĩa không phải là điều đi ngược lại với tự nhiên mà để phù hợp với điều kiện thực
tế lịch sử của nước đó. Hơn nữa, sau khi dựa trên điều kiện nước Nga Xô viết cũng như
tìm hiểu thực tiễn lúc bấy giờ, quan điểm ấy càng trở nên hợp lý và chính xác. Các dân tộc
sớm hay muộn đều sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội, đây là điều tất yếu và không tránh khỏi,
thế nhưng có một điều chắc chắn rằng từng quốc gia sẽ có những cách thức khác nhau để
thực hiện điều đó. Với lợi thế của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nước lạc hậu
sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có 2 thể tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội. Với các nước đã trải qua hình thái tư bản chủ nghĩa, thời kì quá độ sẽ
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, đủ để cải biến cách mạng từ xã hội này sang
xã hội khác. Nhưng đối với các nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì nhất thiết “cần
phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp” mà V.I. Lênin đã gọi đó là thời kỳ của
“những cơn đau đẻ kéo dài”. Thực chất, thời kỳ quá độ là thời kỳ phôi thai từ các hình thái
xã hội cũ, tiến hành những hoạt động tạo điều kiện xây dựng và cải tiến xã hội mới; có sự
đan xen giữa những nhân tố mới và tàn tích của xã hội cũ. Vì để cải tạo cách mạng sâu sắc,
triệt để và toàn diện trên tất cả lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội;
thời kỳ quá độ theo như C. Mác thì “Từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền
đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản”. Quá độ gián tiếp hay trực tiếp phụ thuộc
phần lớn vào điều kiện cũng như thực tiễn lịch sử của từng dân tộc. Thông thường, quá độ
theo hình thức gián tiếp sẽ xảy ra ở những nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này, nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi quốc gia trở
nên nặng nề và khó khăn hơn, vừa phải dành thời gian để xây dựng, phát triển các quan hệ
sản xuất, lực lượng sản xuất tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội;
vừa phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền sản xuất đại công nghiệp. Đây là quá trình
mới mẻ nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp và trở thành thách thức của hầu hết các quốc
gia lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội theo con đường này, trong đó có Việt Nam. I. Cơ sở
lý thuyết về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Bối cảnh thực hiện thời kỳ
quá độ và những khó khăn, thuận lợi đối với Việt Nam Ngay từ trong Cương lĩnh của Đảng
năm 1930 đã chỉ rõ quan điểm: “Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nghĩa là ngay từ đầu, tiến lên chủ nghĩa xã hội đã luôn là con lOMoAR cPSD| 61197966
đường tất yếu mà nước ta phải đi qua. Thực tiễn tiến trình lịch sử khẳng định rằng đây là
sự lựa chọn đúng đắn, dứt khoát, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát
triển của thời đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng diễn ra vào tháng 9/1960
đã tiếp tục khẳng định con đường cách mạng vô sản và xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây
dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, giải phóng miền Nam, trong khi đó phải đưa
miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Và phải đến năm 1975 khi kết thúc kháng chiến chống Mĩ,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp còn nhiều yếu kém, mang
nặng tính tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta mới nảy sinh yêu cầu khách quan là chuyển
nền kinh tế 3 tự nhiên lên nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử,
chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm
1991, bổ sung phát triển năm 2011, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức kinh tế, xã hội đan xen”. Việt Nam
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thuận lợi và khó khăn đan xen.
Mặc dù đất nước đã hoàn thành thành công nhiệm vụ cách mạng thế nhưng các thế lực thù
địch không lúc nào ngừng tìm cách phá hoại nước ta. Bên cạnh đó, sau khi tiến hành cách
mạng, dù nhận về phần thắng nhưng nước ta lại chịu rất nhiều mất mát, hậu quả chiến tranh
để lại vô cùng nặng nề. Đây là thời kỳ nước ta bị đảo lộn về mọi mặt trong đời sống xã hội,
vẫn còn hạn chế trong kinh nghiệm xây dựng và tổ chức xã hội mới. Hơn nữa, khởi nguồn
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội đã cho thấy điểm xuất
phát của nước ta còn thấp. Bên cạnh những khó khăn, không thể không kể đến những điều
kiện thuận lợi cho thời kỳ quá độ lúc bấy giờ. Điều quan trọng nhất khi ấy là nước ta được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng tiên phong cho hàng hoạt những
chiến lược và đổi mới, giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo. Hơn nữa, Bắc Nam được giải
phóng, những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp, những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu
thương đùm bọc đáng trân trọng vẫn đang được gìn giữ một cách cẩn thận. Với điều kiện
tự nhiên và lịch sử khách quan, Đảng đã chỉ huy thiết lập được chính quyền của nhân dân,
quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản đã tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu cho chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển như vũ bão, mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đã mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn
chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu,... nhờ đó mà ta có thể tận lOMoAR cPSD| 61197966
dụng được thành tựu của nền sản xuất đại công nghiệp để “rút ngắn” tiến trình phát triển
của nước ta, làm dịu bớt “những cơn đau đẻ”. Như vậy, bối cảnh lịch sử đã cho thấy việc
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự
lựa chọn duy nhất đúng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Quá
độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật lịch sử mà còn thống nhất với
nguyện vọng thiết tha của nhân dân vì độc lập dân tộc, vì cuộc sống ấm no, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh – những yêu cầu mà chỉ có xã hội chủ nghĩa mới đáp ứng được.
4 2. Quan điểm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa Trung thành với các lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không
có nghĩa là Đảng ta sẽ vận dụng chúng một cách máy móc và dập khuôn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tiên phong trong việc tìm ra những luận điểm làm phong phú, sáng tạo, phát triển
hơn những tư tưởng, đường lối của V.I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp. Dựa vào việc
nghiên cứu và thực tiễn lịch sử, tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã bổ sung, xác định nội
dung quan trọng mới: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Thế nhưng điều đó không có nghĩa
là nước ta phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản dưới hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ
nghĩa mà là tiếp thu và kế thừa những thành tựu một cách có chọn lọc. Thực tế về thành
công cũng như hạn chế của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đều đã chứng minh lý
luận của Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp này là chính xác. Để không lặp lại những thất
bại của chủ nghĩa tư bản mà vẫn có thể phát triển nhanh, bền vững thì nhất thiết phải trải
qua thời kỳ quá độ. Điểm mới trong nhận thức của Việt Nam là chỉ bỏ qua sự thống trị của
giai cấp tư sản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong xã hội mà vẫn sử dụng và khai
thác kinh tế tư bản chủ nghĩa để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội; đặc biệt và trước hết là
thành tựu về trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lí vận hành để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại dựa trên nền sản xuất đại công
nghiệp. Đồng thời, Việt Nam với vai trò là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, vì Nhân dân, chắc chắn sẽ điều tiết sự phát triển
nhân văn hơn. Càng đi vào phân tích điều kiện khách quan của lịch sử, Đảng ta càng nhận
thức được tính chất phức tạp và lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không phải vấn đề có thể giải quyết và thực hiện trong một
thời gian ngắn. Không chỉ cải tạo, phát triển về mặt cơ sở vật chất kĩ thuật mà còn cải tạo
về mặt tư tưởng, gạt bỏ những nhận thức lạc hậu, cũ kĩ, những thói hư tật xấu, những thiết lOMoAR cPSD| 61197966
chế, thể chế chính trị không phù hợp làm kìm hãm sự phát triển. Trong đường lối thực hiện
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa này nhất định phải đảm bảo
quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản không còn xác
lập vị trí thống trị và chiếm vai trò chủ đạo. Đây là sự nghiệp đi lên mà Đảng ta xác định
là vô cùng cam go, khó khăn, đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới với nhiều
chặng đường phát triển và biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực. Vì lí do đó mà kiên
quyết đòi hỏi Đảng ta phải có quyết tâm chính trị vững chắc, kiên định và sáng 5 tạo trong
lãnh đạo thực hiện mục tiêu; phải có sự phối hợp và đồng lòng, đồng khát vọng của toàn
Đảng, toàn dân trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chính là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và phương hướng xây dựng của Đảng Trong quá trình tổng kết thực tiễn
quá trình cách mạng và thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân ta về thời kỳ quá
độ đã phát triển cao hơn, tầm nhìn sáng rõ hơn. Ở chặng đầu tiên của thời kỳ quá độ, Đại
hội IV đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là “nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức đó
đã tạo điều kiện thuận lợi để đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng xác định nhiệm vụ của
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Đúc kết từ những mục tiêu đề ra trước đó, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) do Đại hội VII đã xác
định 6 đặc trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Tuy nhiên, đến Đại
hội XI của Đảng, các Văn kiện Đại hội X (2006) và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng nhằm tổng kết những thành tựu trong thời kỳ
đổi mới đồng thời định hướng cho chặng đường sau. Trong số đó, đặc trưng quan trọng
nhất làvề “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mô hình nhà nước xã hội
chủ nghĩa và các thể chế kinh tế mà nhân dân tập trung xây dựng trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng liên tục được nhận thức, tập trung xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Cương lĩnh 1991 trong Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra rằng:
“nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Văn kiện Đại hội XII đã thống nhất
nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “nền kinh tế vận hành lOMoAR cPSD| 61197966
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”. Đại hội XIII (2021) tiếp tục
khẳng định “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Đưa ra các quan điểm lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một bước ngoặt đột phá và sáng tạo trong nhận thức của Đảng
ta, là thành quả to lớn sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới. 6 Ngoài ra thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá kết hợp với chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đối ngoại tự chủ, đa phương, đa dạng không ngừng khẳng định và nâng cao vị thế đất
nước cũng là một trong những phương hướng quan trọng được Đảng và Nhà nước ta xây
dựng trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nhập nhưng không “hòa tan”, nhất
thiết phải đảm bảo và giữ gìn nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, có biện pháp
cụ thể và rõ ràng trong vấn đề bảo vệ quốc phòng và an ninh quốc gia. Chủ động ngăn
ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch. Một vấn đề tất yếu khác là cần phải xây dựng
Đảng ngày càng vững mạnh, có tư duy đổi mới, luôn cập nhật những xu hướng phát triển,
nâng cao năng lực lãnh đạo; hiện đại hóa, thống nhất bộ máy tổ chức, đảm bảo lập trường
chính trị nghiêm chỉnh, trong sạch. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoạt
động hiệu quả, vì nhân dân phục vụ, vì sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó Nhà nước
cũng cần tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng tối đa các nguồn lực,
thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh; ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu quan trọng của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là
một số ngành trọng điểm có tiềm năng làm động lực cho sự tăng trưởng với tinh thần bắt
kịp và vượt lên so với các quốc gia khu vực và thế giới. Đồng thời, cần phải nắm vững lý
luận và giải quyết được các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; đổi mới
căn bản về mặt kinh tế, chính trị, giáo dục; phát triển lực lượng sản xuất bên cạnh việc
hoàn thiện quan hệ sản xuất; độc lập tự chủ - hội nhập quốc tế; kinh tế thị trường – định
hướng xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn liền với phát triển toàn
diện mọi mặt đời sống xã hội; mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ phải được thực hiện một cách hài hòa, thống nhất. Để thực hiện các mục tiêu
và định hướng nêu trên, toàn Đảng, toàn dân cần tích cực nâng cao nhận thức, bồi dưỡng
thêm phẩm chất, năng lực, ý chí tự lực tự cường, tranh thủ tận dụng các cơ hội, khắc phục
các khó khăn trước mắt, đặc biệt là cần phải giữ vững niềm tin và quan điểm cách mạng
nhất là trong thời kỳ đổi mới như hiện nay.