Thủ tục giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và giađình | Tiểu luận môn Luật dân sự | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tếbào của xã hội nên trong từng thời kỳ phát triển, Đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lớn tới vấn đề gia đình, đề ra những chủ trương thể chế hóa bằng pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Luật Dân sự - Tố tụng dân sự (HUBT)
Trường: Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47708777
Họ và tên : Nguyêễn Cao Chương Lớp : LK26.01 Mã Sv : 2621225881 Tiểu Luận Luật dân sự
Đề Tài : Thủ tục giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và gia đình Bài Làm * Mở Đầu :
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tế bào
của xã hội nên trong từng thời kỳ phát triển, Đảng và nhà nước ta luôn
dành sự quan tâm lớn tới vấn đề gia đình, đề ra những chủ trương thể
chế hóa bằng pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng. Khi nhà nước
quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn nhân thì việc nam nữ tạo lập gia đình
trở thành sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự kiện này
thể hiện dưới một khái niệm là kết hôn. Kết hôn luôn dựa trên quan điểm
bình đẳng, tự nguyện. Tuy nhiên để làm phát sinh quan hệ hôn nhân thì
phải đáp ứng được điều kiện kết hôn do luật định. Điều kiện kết hôn
được coi là yếu tố quan trọng cần được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp
với biến động xã hội ngày nay. Để hiểu thêm về vấn đề này em xin được
lựa chọn phân tích về " Điều kiện kết hôn và sự cần thiết phải quy định
điều kiện kết hôn". Do hiểu biết còn hạn chế nên trong bài còn thiếu
sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để cho bài làm cũng
như kiến thức của em thêm hoàn thiện. lOMoAR cPSD| 47708777
I. Sự cần thiết phải quy định các điều kiện kết hôn :
1 . Khái niệm điều kiện kết hôn -
Chức năng tái sản xuất ra con người là chức năng quan trọng nhất
của gia đình để duy trì xã hội loài người. Khởi nguồn của gia đình là sự
xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai người khác giới, được nhà nước tôn
trọng và bảo vệ. Xét về mặt lý luận, nếu xem gia đình là nền tảng của xã
hội thì điều kiện kết hôn chính là yếu tố pháp lý cơ sở để xây dựng nền
tảng này. Điều kiện kết hôn được quy định trong luật và cũng bị tác
động bởi nền kinh tế, khi xã hội có những biến đổi mà quy định về điều
kiện kết hôn không còn phù hợp nữa thì phải có sự thay đổi hợp lý. Các
quy định về điều kiện kết hôn về tổng thể cũng góp phần hạn chế các tệ
nạn như tảo hôn, kết hôn không dựa trên tinh thần tự nguyện hay kết
hôn với những người không đủ điều kiện kết hôn; góp phần xây dựng xã
hội vững mạnh, nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng. -
Tóm lại, việc quy định điều kiện kết hôn là hoàn toàn cần thiết,
phù hợp với xu hướng phát triển , nhu cầu cần thiết của xã hội; phù hợp
với chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng.
II. Điều kiện kết hôn :
1 . Điều kiện về độ tuổi kết hôn. -
Độ tuổi là thước đo cho sự phát triển của con người, đảm bảo khả
năng họ có thể thực hiện sứ mạng của mình là xây dựng gia đình và phát
triển xã hội. Tuổi kết hôn được hiểu là tuổi mà một người được phép lấy
chồng/vợ cũng như quyền làm hoặc buộc phải làm cha mẹ hoặc các hình
thức khác đồng thuận khác. Độ tuổi và các yêu cầu khác nhau ở mỗi
nước, nhìn chung thì độ tuổi kết hôn là 18 tuổi ở nhiều quốc gia, tuy
nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn sớm hơn nếu có sự đồng ý
của cha/mẹ hoặcluật pháp, hoặc trong trường hợp mang thai (nữ). lOMoAR cPSD| 47708777 -
Độ tuổi kết hôn không chỉ căn cứ vào khả năng sinh sản của nam,
nữ mà còn đảm bảo cho việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững. Đồng thời đảm bảo cho con cái sinh ra được
khỏe mạnh cả về thể lực lẫn trí tuệ, có thể phát triển tốt để trở thành
công dân có ích cho xã hội. Con người chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định
mới có suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình.
Hơn nữa, khả năng tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập khi
mà con người đạt đến độ tuổi nhất định. Điều đó đảm bảo cho họ có
cuộc sống độc lập về kinh tế, chín muồi về tâm lý, đầy đủ ý thức xã hội
để thực hiện các chức năng của gia đình và duy trì tế bào của xã hội. -
Quan niệm của người xưa cho rằng nữ thập tam, nam thập lục
nghĩa là nữ 13 tuổi, nam 16 tuổi là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên thì quan
niệm ngày nay khi xã hội phát triển đã có sự thay đổi, cụ thể là theo
khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định, tuổi kết hôn của
nam là từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên. Theo quy
định này thì " không bắt buộc nam phải đủ từ hai mươi tuổi trở lên, nữ
phải đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó nam đã bước
sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi
phạm điều kiện về độ tuổi" ( mục 1 điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ
- HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000). -
Các trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn sẽ bị xử lý hành chính
theo như Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng
9 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự,
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; cụ thể là điều 47 Nghị định
110/2013/NĐ-CP quy định Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn "
+ 1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối
với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
+ 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi
cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết lOMoAR cPSD| 47708777
hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan
hệ đó." hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 148 BLHS quy định về tội
tổ chức tảo hôn,tội tảo hôn "Người nào có một trong các hành vi sau
đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm: a)
Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn; b)
Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến
tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó."
2. Điều kiện về sự tự nguyện của nam và nữ trong kết hôn
- Tự nguyện của nam, nữ trong kết hôn được hiểu là mong muốn xuất
phát từ ý chí của cả hai, tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý
chí muốn trở thành vợ chồng. Kết hôn phải dựa trên ý chí của nam, nữ
mà không bị tác động bởi bất cứ người nào khiến họ phải kết hôn trái
với nguyện vọng của họ. Hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ
chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình.
- Sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là
họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện là yếu
tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững.
Sự tự nguyện trong kết hôn thường được thể hiện ở việc cùng nhau đi đăng ký kết hôn.
- Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên
nam nữ là nhằm bảo đảm cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn.
- Cụ thể là điều 16 " Ðiều 16: lOMoAR cPSD| 47708777 1.
Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia
đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo.
Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn. 2.
Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự." -
Sự tự nguyện này phải được thể hiện bởi ý chí của một người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự và đang trong tình trạng hoàn toàn tỉnh
táo. Do đó, đối với những người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh lý
nào đó mà không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình
và bị tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật cũng cấm kết hôn. -
Trong trường hợp người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng
bị chấn động về thần kinh hoặc đang trong tình trạng say rượu, bia thì họ
cũng tạm thời không được đăng ký kết hôn cho đến khi hồi phục khả
năng nhận biết và hoàn toàn tỉnh táo. -
Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện thì pháp luật
cũng có một số quy định như sau: 1.
Những người muốn kết hôn phải cùng có mặt tại cơ quan
đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn. Trong trường hợp
đặc biệt, nếu một người vắng mặt do lý do chính đáng thì có thể
gửi cho UBND nơi đăng ký kết hôn đơn in nộp hồ sơ vắng mặt,
trong đơn nêu rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú.
+ Đến ngày UBND tiến hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng nhận
kết hôn thì đôi nam nữ phải có mặt để một lần nữa, cả hai trả lời trước
cán bộ hộ tịch và đại diện cơ quan đăng ký kết hôn ràng, đến lúc bấy giờ
họ vẫn hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau. lOMoAR cPSD| 47708777 2.
Pháp luật không cho phép cử người đại diện trong việc đăng
ký kết hôn đồng thời cũng không cho phép những người kết hôn
vắng mặt tại lễ đăng ký két hôn và được tiến hành bởi UBND xã. 3.
Đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa mà điều kiện đi
lại quá khó khăn thì lễ đăng ký kết hôn được tổ chức tại thôn, bản,
phum, sóc nơi cư trú của một trong hai người ( điều 8 Nghị định số
32/2002/NĐCP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp
dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với dân tộc thiểu số). 4.
Pháp luật quy định việc kết hôn phải không có hành vi cưỡng
ép kết hôn, lừa dối để kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự nguyện,
tiến bộ. Do đó, những trường hợp kết hôn do cưỡng ép, bị lừa dối
đều coi là kết hôn trái pháp luật.
+ Nhà nước cũng đảm bảo sự tự nguyện bằng cách có chế tài hình sự
đối với những hành vi vi phạm sự tự nguyện tiến bộ của việc kết hôn mà
cụ thể là điều 146 BLHS quy định Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở
hôn nhân tự nguyện."Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự
tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần,
yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm."
3.Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
quy định tại điều 10 Luật hôn nhân và gia đình. -
Người đang có vợ hoặc chồng ( khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000). Hệ thống pháp luật nước ta quy định khi kết hôn
nam nữ phải tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. -
Những người được quyền kết hôn phải là những người chưa có vợ
có chồng hoặc đã có vợ/ chồng nhưng vợ/chồng chết hay vợ chồng đã ly
hôn. Pháp luật cấm những người đang có vợ/ chồng kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ chế độ đa thê dưới thời lOMoAR cPSD| 47708777
đại phong kiến. Hôn nhân một vợ một chồng lấy tình yêu giữa nam và
nữ làm cơ sở xác lập hôn nhân và lấy tình yêu làm cơ sở duy trì quan hệ
hôn nhân. Đối với những trường hợp nam nữ lấy nhau nhưng không
đăng kí kết hôn và chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng trên
thực tế trước khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì vẫn
được Nhà nước thừa nhận. -
Để đảm bảo cho nguyên tắc kết hôn một vợ, một chồng; Nhà nước
ta đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn.
III. Những hạn chế của pháp luật về điều kiện kết hôn và phương
hướng giải quyết. 1 . Độ tuổi kết hôn.
- Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì
chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là đủ tuổi kết hôn.
- Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 18, 19 của Bộ luật dân sự năm 2005
thì “người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên…” và
“người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ…” nên xảy ra
trường hợp mâu thuẫn khi cá nhân đủ tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000 nhưng lại chưa là người thành niên, chưa có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ và bị hạn chế trong việc xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự theo quy định tại Bộ Luật Dân sự năm 2005.
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
thì cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi đã đủ 18
tuổi trở lên. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì nữ bước
sang tuổi 18 mà kết hôn được coi là hợp pháp và họ được quyền tự do
ly hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể thực hiện nếu
sau khi kết hôn và đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ 18 tuổi. lOMoAR cPSD| 47708777
2. Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ : -
Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thông qua hành
vi thể hiện ý chí của người kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận việc kết hôn. Bản thân yếu tố chủ quan bên trong như
tình cảm, mong muốn , nguyện vọng của người kết hôn như thế nào thì
lại khó có thể biết. Bên cạnh đó vấn đề thẩm định sự tự nguyện kết hôn
có yếu tố nước ngoài còn nhiều hạn chế, nhất là trong cách tiến hành phỏng vấn. -
Trong luật Hôn nhân và gia đình cũng như trong nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP cũng đã hướng dẫn về những trường hợp bị coi là
một bên lừa dối nhưng là dưới dạng liệt kê hành vi như: lừa dối là nếu
kết hôn sẽ xin việc cho, nếu kết hôn thì bảo lãnh ra nước ngoài,... chứ
không có những tiêu chí như thế nào là " lừa dối", không khái quát được
hết các trường hợp lừa dối khiến cho việc xác định hành vi lừa dối trong
hôn nhân có nhiều vướng mắc.
3 . Những trường hợp cấm kết hôn. -
Về quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự theo khoản 2
điều 10 Luật HN & GĐ. Người mất năng lực dân sự được hiểu là người
bị mắc căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và có
quyết định của Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. -
Cần có quy định thủ tục rõ ràng xác minh quan hệ nhân thân của
các bên kết hôn. Công tác đăng kí và quản lý hộ tịch cần quy định rõ thủ
tục xác minh quan hệ nhân thân của người kết hôn, kết quả phải được
thể hiện bằng văn bản. Điều này nhằm hạn chế bớt tình trạng người
thuộc trường hợp cấm kết hôn vẫn kết hôn.
IV. Chế độ tài sản của vợ chồng Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về
Hôn Nhân Và Gia Đình : lOMoAR cPSD| 47708777 -
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp những quy định điều
chỉnh các quan hệ về tài sản của vợ chồng (quan hệ tài sản trong hôn
nhân). Chế độ này chi phối quyền sở hữu tài sản của vợ chồng cũng như
việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của họ trong suốt thời kỳ hôn nhân. Cụ
thể hơn, chế độ tài sản của vợ chồng xác định những tài sản nào là tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, tài sản riêng;
quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong việc thực hiện các giao dịch;
thanh toán, phân chia tài sản. Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình -
Theo khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình, thì vợ chồng có
quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản
theo thỏa thuận. Khoản 2 Luật bình đẳng giới quy định: “Vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong
sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình”.
1 . Chế độ tài sản theo luật định
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường
hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận
hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án
tuyên bố vô hiệu. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được quy
định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của
Luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể: a) Tài sản chung của vợ chồng
– Xác định tài sản chung của vợ chồng Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình.
- Dựa vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản, pháp luật quy định tài
sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ
phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của lOMoAR cPSD| 47708777
mỗi bên sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân gồm :
+ Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ khoản
trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về
ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với
nhân thân của vợ, chồng.
+ Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định
của Bộ luật dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật
bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.
+ Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Quyền sử
dụng đất là một loại tài sản mang những nét đặc thù riêng nên pháp luật
quy định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
– Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
+ Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy
chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên
cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Pháp luật
quy định tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký bao gồm quyền sử
dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền
sử dụng, quyền sở hữu.
+ Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên
một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi
tên của cả vợ và chồng. Giao dịch liên quan đến tài sản này được thực
hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật hôn nhân và gia đình; nếu có lOMoAR cPSD| 47708777
tranh chấp về tài sản đó thì tài sản đó được coi là tài sản chung nếu
không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp
là tài sản riêng của mỗi bên.
+ Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân
mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện
vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận
quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản
thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.
2. Chế độ tài sản theo thỏa thuận Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về
Hôn Nhân Và Gia Đình
a) Hình thức, hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Pháp luật quy định, trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ
tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết
hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký
kết hôn; trong trường hợp việc kết hôn không xảy ra, thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng đã được công chứng hoặc chứng thực sẽ mặc nhiên bị vô hiệu.
b) Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Các nội dung của chế độ tài sản do vợ chồng quyết định, vì thế pháp luật
không đưa ra những điều khoản cụ thể về vấn đề này. Luật hôn nhân và
gia đình chỉ quy định thỏa thuận của vợ chồng phải xác định những nội
dung cơ bản để tạo thuận lợi cho việc thực hiện chế độ tài sản và giải
quyết tranh chấp. Những nội dung đó bao gồm:
+ Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. lOMoAR cPSD| 47708777
+ Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng
và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia
đình; Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình.
+ Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. -
Tuy nhiên, đây không phải là quy định về điều kiện có hiệu lực của
thỏa thuận của vợ chồng. Chính vì vậy, khi thực hiện chế độ tài sản theo
thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận
hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30,
31 và 32 của Luật hôn nhân và gia đình và quy định tương ứng của chế
độ tài sản theo luật định. -
Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày
31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể hơn về xác định tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận như sau:
“1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong
các nội dung sau đây: Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình
a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài
sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn
nhân đều thuộc tài sản chung;
c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ,
chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc
sở hữu riêng của người có được tài sản đó; lOMoAR cPSD| 47708777
d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải phù hợp với quy định tại các
Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu vi phạm,
người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa
thuận vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình.”
Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình -
Trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng về chế
độ tài sản, pháp luật quy định vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa
thuận về chế độ tài sản. -
Theo đó, trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận được áp dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài
sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
V. Chấm dứt hôn nhân Đề Tài Tiểu Luận Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình : -
Theo quy định của pháp luật, hôn nhân chấm dứt trong 02 trường
hợp sau: Thứ nhất, chấm dứt hôn nhân khi phán quyết ly hôn của tòa án
có hiệu lực pháp luật; thứ hai, chấm dứt hôn nhân do vợ, chồng chết
hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết. Ly hôn -
Theo khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình thì ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn -
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật của Tòa án. -
Nếu kết hôn là nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn được đặt
ra khi hạnh phúc gia đình không còn tồn tại, đời sống chung không thể lOMoAR cPSD| 47708777
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Thực hiện nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm
quyền tự do kết hôn của nam nữ và tự do ly hôn của vợ chồng. Do quyền
ly hôn là quyền nhân thân không thể chuyển giao, vợ, chồng hoặc cả hai
người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. -
Cha, mẹ, người thân thích khác chỉ có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. -
Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang
có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định này
nhằm bảo vệ bà mẹ, trẻ em, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ
và con chưa thành niên, phụ nữ có thai, thai nhi, cũng như bảo vệ lợi ích
của xã hội. Đây là trường hợp hạn chế quyền ly hôn chỉ của người chồng
mà không áp dụng đối với người vợ. Do đó, nếu người vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thấy hạnh phúc gia đình
không còn tồn tại, mục đích của việc kết hôn không đạt được, cuộc sống
chung nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân, thai nhi hoặc con nhỏ thì người
vợ có quyền yêu cầu ly hôn.
Hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn Đề Tài Tiểu Luận
Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình -
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên
đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh
chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở. Theo
quy định tại Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở, điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị
định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp bảo đảm thi hành Luật hòa giải ở cơ sở,
hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các tranh chấp phát sinh từ quan
hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ,
chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà lOMoAR cPSD| 47708777
ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia
đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn. -
Luật hôn nhân và gia đình quy định Nhà nước và xã hội khuyến
khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn.
Đường lối giải quyết ly hôn theo luật định
a) Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn -
Khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, nếu xét
thấy hợp lý, Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự. -
Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì
Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có
yêu cầu về con thì giải quyết theo quy định về quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ với con trong trường hợp cha mẹ ly hôn, yêu cầu về tài sản thì
giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa
thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định
khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và
công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
b) Hòa giải tại Tòa án -
Xuất phát từ lợi ích gia đình, quyền lợi của vợ chồng, các con cũng
như các thành viên khác, với phương trâm kiên trì “còn nước, còn tát”,
pháp luật quy định, sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến
hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. -
Như vậy có thể thấy, đây là thủ tục pháp lý bắt buộc phải thực hiện
sau khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn. lOMoAR cPSD| 47708777
c) Giải quyết cho ly hôn
Có 02 trường hợp ly hôn theo luật định: –
Trường hợp thuận tình ly hôn. Đây là trường hợp cả hai vợ chồng
đều yêu cầu tòa án cho phép họ được ly hôn. Tại Điều 91 Luật hôn nhân
và gia đình quy định, trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc
chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ
sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận
thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng
không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn. –
Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên. Bên cạnh trường hợp
vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát
từ ý chí của một bên vợ hoặc chồng. Theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia
đình, khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không
thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
d) Hậu quả pháp lý của ly hôn
– Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Theo nguyên tắc chung, kể từ
khi bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan
hệ vợ chồng chấm dứt, người vợ, người chồng đã lý hôn có thể kết hôn
với người khác. Điều này có nghĩa rằng quan hệ nhân thân giữa vợ
chồng cũng đương nhiên chấm dứt.
– Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
+ Nguyên tắc chia tài sản: Tài sản chung của vợ chồng được chia
bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; lOMoAR cPSD| 47708777
bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình
được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền
sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản
chung theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn
lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia
tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào
khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. -
Để Tòa án có cơ sở giải quyết những vụ việc liên quan đến việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt hôn nhân,
pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người
thứ ba xác lập, phát sinh trong thời kỳ hôn nhân vẫn có hiệu lực sau khi
ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng
quy định tại các Điều 27 – Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng; Điều 37
– Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng và Điều 45 – Nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ, chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và
quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
+ Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình: -
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn,
nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không
xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản
chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc
tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống
chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ lOMoAR cPSD| 47708777
chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. -
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của
vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được
theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối
tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân và gia đình. VI. Kết Luận
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội đã đưa môn học Luật Dân Sự vào trương trình giảng
dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn –
Cô Linh Nguyễn đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em
trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học
Luật Dân Sự của cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích,
tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến
thức quý báu, là hành trang để em có thể vững bước sau này.
Bộ môn Luật Dân Sự là môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính thực
tế cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn
của sinh viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả
năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức
nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và
nhiều chỗ còn chưa chính xác, kính mong cô xem xét và góp ý để bài
tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!” Tham Khảo : + Luatvn.com + Thegioiluat + Luatminhkhue lOMoAR cPSD| 47708777 HẾT lOMoAR cPSD| 47708777