Mục lục
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật.................................................................................................1
II. Nguyên tắc thừa kế theo pháp luật....................................................................................................1
III. Các quy định của pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2015.............................................1
1. Hàng thừa kế.......................................................................................................................................1
2. Quy định về thời hiệu thừa kế...........................................................................................................2
3. Quy định về di sản thừa kế................................................................................................................ 2
4. Quyền thừa kế thế vị của cháuchắt..............................................................................................3
5. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt...........................................................................3
5.1 Quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể.......................................3
5.2 Quan hệ thừa kế giữa con riêng bố dượng, mẹ kế................................................................4
5.3 Quan hệ thừa kế giữa con nuôibố mẹ nuôi, bố mẹ đ.........................................................5
IV. Kết luận........................................................................................................................................... 5
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật
Theo điều 649 Bluật Dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống theo hàng thừa kế, điều kiệntrình tự thừa kế do pháp luật quy định.
nhân quyền sở hữu với tài sản của nh, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia
đều cho những người có quyền thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật những người
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhânnuôiỡng.
Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức
độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thực
hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.
II. Nguyên tắc thừa kế theo pháp luật
Căn cứ trên những quy định được đưa ra thnhận thấy việc thừa kế theo pháp luật cần
đảm bảo tuân thủ theo những nguyên tắc về thừa kế cơ bản, cụ thể bao gồm:
Đảm bảo tínhnh đẳng trong thừa kế. Sự bình đẳng đây được thể hiện ở những
nhân khác nhau trong cùng một hàng thừa kế. Mặc mỗi nhân thể
quan hệ khác nhau với người chết, có đặc điểm haynh cảm khác nhau nhưng nếu
thuộc cùng một hàng thừa kế thì họ đều được hưởng phần thừa kế ngang nhau.
Quyền định đoạt i sản của người để lại di sản phải được n trọng. Hình thức
thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người để lại di sản không
di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Nói cách khác, người để lại di sản quyền
quyết định người được ởng di sản do mình để lại, phần ởng di sản hay bị
truất quyền thừa kế, không chịu stác động hay phụ thuộc vào người khác
(trừ trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của một số đối tượng, pháp luật đưa ra quy
định chỉnh sửa về quyền thừa kế di sản ngay cả khi di chúc của nời để lại di
sản).
Theo đó, để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho một số đối tượng đặc biệt như: con
chưa thành niên, bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì
pháp luật quy định những đối tượng này vẫn được quyền ởng một phần di sản nhất địnhbằng
hai phần ba của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật” nếu như
người để lại di sản không chia di sản thừa kế cho những đối tượng này hoặc chia mà ít hơn số
lượng nêu trên.
III. c quy định của pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2015
1. Hàng thừa kế
Tại Điều 613 BLDS 2015 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phảingười còn sốngo
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra còn sống sau thời điểm m thừa kế nhưng đã thành thai
1
trước khi người để lại di sản chết.” Việc thừa kế theo pháp luật được chia theo thứ tưu tiên của
các hàng thừa kế. Theo đó, khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định có ba hàng thừa kế như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mđẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thhai gồm: ông nội, nội, ông ngoại, ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, ngoại;
- Hàng thừa kế th ba gồm: c nội, c ngoại của người chết; bác ruột, c ruột, cậu
ruột, cô ruột, ruột của người chết; cháu ruột của người chết người chết bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, ruột, ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
Như vậy, việc chia thừa kế theo hàng thừa kế sẽ được xác định theo thứ tự ưu tiên từ hàng
thừa kế thứ nhất tới hàng thừa kế thứ ba: những người hàng thừa kế sau chỉ được chia di sản
thừa kế nếu những người thuộc hàng thừa kế trước “không còn do đã chết, không quyền hưởng
di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
dụ: ông H H kết hôn năm 1995 sinh ra một người con N (năm nay 25 tuổi,
đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự). Bà H đã chết năm 2005. Đến năm 2021,
ông H chết và đ lại di chúc nhưng không i việc phân chia tài sản chnói truất quyền
thừa kế của N vì cho rằng anh ta không làm tròn chữ hiếu với bố mẹ. Như vậy, theo quy định của
pháp luật về thừa kế, anh N thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng đã bị truất quyền thừa kế nên số di
sản của ông N đ lại coi n không có di chúc về việc chia thừa kế đồng thời ông H cũng
không còn người nào thuộc hàng thừa kế thnhất (do vợ H đã chết trước ông và con trai
anh N đã btruất quyền thừa kế). vậy, di sản của ông H sđược chia thừa kế cho những người
thuộc ng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật. Trường hợp hàng thừa kế thứ hai không
còn ai thì sẽ được xét đếnng thừa kế thứ ba.
2. Quy định về thời hiệu thừa kế
Điều 623 của BLDS 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản 30 m đối với bất động sản, 10 năm đối
với động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này tdi sản thuộc về người thừa kế
đang quản di sản đó. Trường hợp không người thừa kế đang quản di sản thì di sản
được giải quyết như sau: a) Di sản thuộc quyền shữu của người đang chiếm hữu theo quy
định tại Điều 236 của Bộ luật này; b) Di sản thuộc về Nnước, nếu không người chiếm
hữu quy định tại điểm a khoản này.
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặcc bỏ quyền thừa
kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm
kể từ thời điểm mở thừa kế.
2
Quy định trên nhằm tránh trường hợp bất cập trước đây nhiều tài sản thừa kế đang bị
tranh chấp nhưng do hết thời hiệu khởi kiện nên người thừa kế tài sản không thể đăng ký quyền sở
hữu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạngy nngười thừa kế không nắmc quy định
của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế hoặc do sựng buộc về đạo lý, truyền thống
con cái không dám yêu cầu chia thừa kế khi cha mẹ qua đời trong thời gian ngắn.
3. Quy định về di sản thừa kế
Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phầni sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản vật, tiền, giấy tờ gtrị quyền tài sản; tài sản bao gồm động sản và bất
động sản. Bất động sản động sản có thể tài sản hiện và tài sản sẽ nh thành trong
tương lai. Di sản còn được quy định bao gồm ccác quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường
thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Bên cạnh
đó, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người
tài sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản tphần nghĩa vụ này sđược thanh toán bằng tài
sản của người chết. Phàn còn lại sđược c định di sản thừa kế và được chia theo di chúc
hay quy định của pháp luật. Trong trường hợp di sản chưa được chia t nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại được người quản di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người
thừa kế. Trong trường hợp Nhà nước, quan, tổ chứcởng di sản theo di chúc thì cũng phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
4. Quyền thừa kế thế vị của cháuchắt
Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015: Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được ởng phần di sản mà
bố hoặc mẹ cháu được hưởng khi còn sống; nếu cháu ng chết trước hoặcng một thời điểm
với người đlại di sản t chắt được ởng phần di sản mà bố hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu
còn sống.”
Với quy định mà điều luật đãu, nếu hiểu theo những gì điều luật viết thì khi bố mẹ của
cháu hoặc chắt không được hưởng di sản của ông, hoặc cụ do có một trong các hành vi được
nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì đồng nghĩa với việc quyết làm cam chịu”, cháu
hoặc chắt không một trong nhữngnh vi được nêu trong khoản 1 Điều 621 BLDS thì cũng
không được hưởng thừa kế thế vị.
Nếu như bhoặc mẹ của cháu hoặc chắt có một trong c hành vi vi phạm được nêu tại
khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 t đó nh vi độc lập của bố hoặc mcủa cháu hoặc chắt.
Hai người hai cá thể độc lập theo Bộ luậtnh sự (BLHS) thì trách nhiệmnh sự chỉ được
áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội, tức chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm nh sự”. Cháu hoặc chắt không hề lỗi, không hề
liên quan đến hành vi của bố mẹ mình nên không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập mà
bố mẹ gây ra. Vậy thì việc không cho cháu hoặc chắt quyền hưởng thừa kế thế v hơi bất
công cho cháu hoặc chắt hay không? Nhất đối với cháu hoặc chắt chưa thành niên nhưng không
3
khả năng lao động thì tài sản được thừa kế này sẽ giúp đcho cuộc sống của cháu hoặc chắt
sau này, khi bố hoặc mẹ mình qua đời.
5. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt
5.1 Quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồngcon dâu, bố mẹ vợ và con rể
So với nhữngm trước, khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 chưa có hiệu lực t quyền và
nghĩa vụ của con dâu, con r đối với bố mvợ, b mchồng thuộc phạm trù đạo đức và do c
chuẩn mực đạo đức hội điều chỉnh. Khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 hiệu lực thì nhà làm
luật đã luật hóa các quy chuẩn đạo đức đó và để Luật Hôn nhân gia đình điều chỉnh. Điều đóng
đồng nghĩa với việc con dâu, con rể bắt buộc phải thực hiện c nghĩa vnày. Thậm chí nếu vi
phạm các quy định u trên thì s phải chịu chế tài cụ thể Luật quy định. Trong mối tương
quan giữa quyền nghĩa vụ của tất cả các mối quan hệ, quyền sẽ gắn liền với nghĩa vụ ngược
lại. Vậy một câu hỏi được đặt ra đây: Bên cạnh nghĩa vđược đặt ra cho con dâu, con rể thì
họ quyền gì ngoài các nhóm quyền nhân thân, liệu họ có quyền tài sản không? Chẳng hạn như
quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 651 BLDS 2015 lại không
trường hợp nào nhắc đến con dâu, con rể cả.
Như vậy, con dâu, con rể không quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với phần
di sản của bố mvợ, bmẹ chồng. Đây chính điểm bất cập của định chế này bởi trong thực tế
cuộc sống có rất nhiều trường hợp con dâu, con rể đối xử tốt với bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, thậm chí
khi con trai mất đi, conu vẫn tận tâm chămc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng… Trong trường hợp
bố mẹ chồng, bố mẹ vợ muốn chia tài sản cho con dâu, con rểcông chăm sóc, phụng dưỡng họ.
Hơn thế, nếu nhìn nhận một cách khách quan, các nhà làm luật ch cụ th hóa nghĩa vụ, quyền
nhân thân của con dâu, con rể đối với bố mẹ chồng, bmẹ vợ không quy định quyền tài sản
của họ, điều này khiến mối liên hệ giữa quyền nghĩa vụ mất đi sựi hòa.
5.2 Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bốợng, mẹ kế
Theo quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015: “Con riêng bố dượng, mẹ kế nếu có quan
hệ chămc, nuôiỡng nhau như bố con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 Điều 653 của Bộ luật này”. Theo đó, để hưởng quyền
thừa kế di sản giữa con riêng bố dượng, mẹ kế tpháp luật quy định họ phải quan hệ chăm
sóc nhau như bố con, mẹ con.
Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng quy định này để giải quyết c trường hợp cụ ththì
nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất về nội dung như
thếo được hiểu “chămc như bố con, mẹ con” dựa vào tiêu cnào để đánh giá sự
chăm sóc, nuôi ỡng nhau n bố con, mẹ con tpháp luật cũng chưa đcập đến. Chẳng hạn
như: thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con tiêng bdượng, mkế bao lâu sđược
coi chăm c nbố con, mẹ con; hành vi chămc sẽ được thể hiện từ hain hay chỉ tmột
bên (người được thừa kế); nếu như một n chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng v
tình cảm giữa họ đối với nhau không như bố con, m con t h có được thừa kế theo pháp luật
của nhau hay không? Ngoài ra, việc xác định hàng thừa kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng như bố con, mẹ con thì điều luật lại không quy định trong trường hợpy thì con
4
riêng, bợng, m kế sthuộc hàng thừa kế thứ mấy nếu đối chiếu với quy định tại khoản 1
Điều 651 BLDS năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật.
quan điểm cho rằng nên bquy định vthừa kế thế vị của con riêng và bốợng, m
kế với lý do giữa họ không mối quan hệ huyết thống ng không mối quan hpháp lý
nàong buộc mà nếu ràng buộc đi chăng nữa thì đó cũng chri sự ràng buộc về mặt đạo đức
hội. thể giải cho sở của quan điểm này là xuất phát t s so sánh với trường hợp
người con dâu không được hưởng thừa kế đối với phần di sản của bố mẹ chồng giữa họ không
mối quan hệ huyết thống nhưng do phong tục tập quán của người Việt và trên thực tế phần lớn
conu cũng người trực tiếp chăm sóc, nuôiỡng bố mẹ chồng. Chính vì vậy, quan điểm trên
cho rằng việc quy định con riêng được thừa hưởng thừa kế thế vthay bố dượng, mẹ kế không
thuyết phụccần được xóa bỏ.
Dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, Điều 654 BLDS năm 2015 còn cho thấy việc dẫn chiếu
đến Điều 652 và Điều 653 làm chi người đọc sự hiều nhầm là thiếu Điều 651 về người thừa kế
theo pháp luật, nhưng Điều 653 đã có dẫn chiếu đến Điều 651; đồng thời còn thể hiện sự trùng
lặp khi Điều 653 đã dẫn chiếu đến Điều 652 nhưng Điều 654 loại tiếp tục dẫn chiếu đến Điều
652. L ra, các nhà m luật chỉ cần dẫn chiếu trực tiếp đến Điều 651 Điều 652 sẽ hợp
chính xác hơn.
5.3 Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và bố mẹ nuôi, bố mẹ đẻ
Bên cạnh quan hệ huyết thống và hôn nhân để xác định hàng thừa kế thì pháp luật còn căn
cứ vào quan hệ nuôi dưỡng. Đây một quan hệm phát sinh nhiều hệ qupháp trong đó có
iệc xác định hàng thừa kế đượcởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy định vquan hthừa kế giữa con nuôi bố mnuôi
bố mđẻ: “con nuôi bnuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 651Điều 652 của Bộ luật này.
Theo quy định trên, nột người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy định
của pháp luật sẽ bố, mẹ nuôi của người đó. thế họ là những người thừa kế hàng thnhất
của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kếhàng thứ nhất của bố mẹ nuôi mình.
Quy định y được hiểu là một người vừa được thừa kế di sản của bố mnuôi vừa được
thừa kế đối với gia đình bố mẹ đnhư không làm con nuôi của người khác. Người nhận nuôi con
nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ nmột người không nhận con nuôi.
Cụ thể hơn, đối với bố m vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa quan hthừa kế với con
nuôi.
Tuy nhiên, quy định này vẫn n khá chung chung dẫn đến nhiều ch hiểu khác nhau
như: (1) khi người con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người đ
lại di sản t người con nuôi của người con đẻ của người đlại di sản có được hưởng thừa kế thế
vị hay không? (2) khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người
để lại di sản tcon đẻ của người con nuôi đó được hưởng thừa kế thế vị không? (3) người con
nuôi của người đlại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì con
nuôi của người con nuôi đó đượcởng thừa kế thế vị không? quan điểm cho rằng trường
5
hợp (1) chỉ được thừa kế thế vnếu người để lại di sản coi như cháu ruột, trường hợp (2) được
thừa kế thế vị còn trường hợp (3) sẽ không được thừa kế thế vị.
IV. Kết luận
Các quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung người thừa kế theo pháp luật i
riêng trong thời gian qua đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh trên thực tế. Tuy nhiên,
qua phân tích đã cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế những điểm bất cập nhất định, chưa
phù hợp vmặt luận cũng như xu thế chung của pháp luật hiện đại. Chính vậy, trong tương
lai Bộ luậtn s2015 cần sửa đổi để quy định về người thừa kế theo pháp luật được hoàn thiện
phù hợpn, cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn để tạo ra cách hiểu thống nhất trong
quá trình áp dụng luật, giải quyết những vướng mắc làm ảnhởng đến quyền thừa kế của một số
cá nhân. Về lâu dài khi BLDS được hoàn thiện sẽ là hành lang pháp lý.
6

Preview text:

Mục lục I.
Khái niệm về thừa kế theo pháp luật.................................................................................................1
II. Nguyên tắc thừa kế theo pháp luật....................................................................................................1 III.
Các quy định của pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2015.............................................1 1.
Hàng thừa kế.......................................................................................................................................1 2.
Quy định về thời hiệu thừa kế...........................................................................................................2 3.
Quy định về di sản thừa kế................................................................................................................2 4.
Quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt..............................................................................................3 5.
Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt...........................................................................3 5.1
Quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể.......................................3 5.2
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế................................................................4 5.3
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và bố mẹ nuôi, bố mẹ đẻ.........................................................5 IV.
Kết luận...........................................................................................................................................5 I.
Khái niệm về thừa kế theo pháp luật
Theo điều 649 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia
đều cho những người có quyền thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật là những người có
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức
độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thực
hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận. II.
Nguyên tắc thừa kế theo pháp luật
Căn cứ trên những quy định được đưa ra có thể nhận thấy việc thừa kế theo pháp luật cần
đảm bảo tuân thủ theo những nguyên tắc về thừa kế cơ bản, cụ thể bao gồm: 
Đảm bảo tính bình đẳng trong thừa kế. Sự bình đẳng ở đây được thể hiện ở những
cá nhân khác nhau trong cùng một hàng thừa kế. Mặc dù mỗi cá nhân có thể có
quan hệ khác nhau với người chết, có đặc điểm hay tình cảm khác nhau nhưng nếu
thuộc cùng một hàng thừa kế thì họ đều được hưởng phần thừa kế ngang nhau. 
Quyền định đoạt tài sản của người để lại di sản phải được tôn trọng. Hình thức
thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người để lại di sản không
có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Nói cách khác, người để lại di sản quyền
quyết định người được hưởng di sản do mình để lại, phần hưởng di sản hay bị
truất quyền thừa kế, … mà không chịu sự tác động hay phụ thuộc vào người khác
(trừ trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của một số đối tượng, pháp luật đưa ra quy
định chỉnh sửa về quyền thừa kế di sản ngay cả khi có di chúc của người để lại di sản).
Theo đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho một số đối tượng đặc biệt như: con
chưa thành niên, bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì
pháp luật quy định những đối tượng này vẫn được quyền hưởng một phần di sản nhất định “bằng
hai phần ba của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật” nếu như
người để lại di sản không chia di sản thừa kế cho những đối tượng này hoặc chia mà ít hơn số lượng nêu trên. III.
Các quy định của pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2015 1. Hàng thừa kế
Tại Điều 613 BLDS 2015 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai 1
trước khi người để lại di sản chết.” Việc thừa kế theo pháp luật được chia theo thứ tự ưu tiên của
các hàng thừa kế. Theo đó, khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định có ba hàng thừa kế như sau: -
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
-
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
-
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại
.
Như vậy, việc chia thừa kế theo hàng thừa kế sẽ được xác định theo thứ tự ưu tiên từ hàng
thừa kế thứ nhất tới hàng thừa kế thứ ba: những người ở hàng thừa kế sau chỉ được chia di sản
thừa kế nếu những người thuộc hàng thừa kế trước “không còn do đã chết, không có quyền hưởng
di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”
.
Ví dụ: ông H và bà H kết hôn năm 1995 và sinh ra một người con là N (năm nay 25 tuổi,
có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự). Bà H đã chết năm 2005. Đến năm 2021,
ông H chết và để lại di chúc nhưng không nói rõ việc phân chia tài sản mà chỉ nói truất quyền
thừa kế của N vì cho rằng anh ta không làm tròn chữ hiếu với bố mẹ. Như vậy, theo quy định của
pháp luật về thừa kế, anh N thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng đã bị truất quyền thừa kế nên số di
sản của ông N để lại coi như không có di chúc về việc chia thừa kế và đồng thời ông H cũng
không còn người nào thuộc hàng thừa kế thứ nhất (do vợ là bà H đã chết trước ông và con trai là
anh N đã bị truất quyền thừa kế). Vì vậy, di sản của ông H sẽ được chia thừa kế cho những người
thuộc hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật. Trường hợp hàng thừa kế thứ hai không
còn ai thì sẽ được xét đến hàng thừa kế thứ ba.
2. Quy định về thời hiệu thừa kế
Điều 623 của BLDS 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau: -
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối
với động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản
được giải quyết như sau: a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy
định tại Điều 236 của Bộ luật này; b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm
hữu quy định tại điểm a khoản này. -
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa
kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. -
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm
kể từ thời điểm mở thừa kế. 2
Quy định trên nhằm tránh trường hợp bất cập trước đây là có nhiều tài sản thừa kế đang bị
tranh chấp nhưng do hết thời hiệu khởi kiện nên người thừa kế tài sản không thể đăng ký quyền sở
hữu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như người thừa kế không nắm rõ các quy định
của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế hoặc do sự ràng buộc về đạo lý, truyền thống mà
con cái không dám yêu cầu chia thừa kế khi cha mẹ qua đời trong thời gian ngắn.
3. Quy định về di sản thừa kế
Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản; tài sản bao gồm động sản và bất
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản sẽ hình thành trong
tương lai. Di sản còn được quy định bao gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường
thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Bên cạnh
đó, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người có
tài sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản thì phần nghĩa vụ này sẽ được thanh toán bằng tài
sản của người chết. Phàn còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được chia theo di chúc
hay quy định của pháp luật. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người
thừa kế. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
4. Quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt
Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
bố hoặc mẹ cháu được hưởng khi còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà bố hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Với quy định mà điều luật đã nêu, nếu hiểu theo những gì điều luật viết thì khi bố mẹ của
cháu hoặc chắt không được hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ do có một trong các hành vi được
nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì đồng nghĩa với việc “quyết làm cam chịu”, cháu
hoặc chắt dù không có một trong những hành vi được nêu trong khoản 1 Điều 621 BLDS thì cũng
không được hưởng thừa kế thế vị.
Nếu như bố hoặc mẹ của cháu hoặc chắt có một trong các hành vi vi phạm được nêu tại
khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì đó là hành vi độc lập của bố hoặc mẹ của cháu hoặc chắt.
Hai người là hai cá thể độc lập mà theo Bộ luật Hình sự (BLHS) thì trách nhiệm hình sự chỉ được
áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội, tức là “chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Cháu hoặc chắt không hề có lỗi, không hề
liên quan đến hành vi của bố mẹ mình nên không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập mà
bố mẹ gây ra. Vậy thì việc không cho cháu hoặc chắt có quyền hưởng thừa kế thế vị có hơi bất
công cho cháu hoặc chắt hay không? Nhất là đối với cháu hoặc chắt chưa thành niên nhưng không 3
có khả năng lao động thì tài sản được thừa kế này sẽ giúp đỡ cho cuộc sống của cháu hoặc chắt
sau này, khi bố hoặc mẹ mình qua đời.
5. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt 5.1
Quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể
So với những năm trước, khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 chưa có hiệu lực thì quyền và
nghĩa vụ của con dâu, con rể đối với bố mẹ vợ, bố mẹ chồng thuộc phạm trù đạo đức và do các
chuẩn mực đạo đức xã hội điều chỉnh. Khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 có hiệu lực thì nhà làm
luật đã luật hóa các quy chuẩn đạo đức đó và để Luật Hôn nhân gia đình điều chỉnh. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc con dâu, con rể bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ này. Thậm chí nếu vi
phạm các quy định nêu trên thì sẽ phải chịu chế tài cụ thể mà Luật quy định. Trong mối tương
quan giữa quyền và nghĩa vụ của tất cả các mối quan hệ, quyền sẽ gắn liền với nghĩa vụ và ngược
lại. Vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây: Bên cạnh cá nghĩa vụ được đặt ra cho con dâu, con rể thì
họ có quyền gì ngoài các nhóm quyền nhân thân, liệu họ có quyền tài sản không? Chẳng hạn như
quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 651 BLDS 2015 lại không có
trường hợp nào nhắc đến con dâu, con rể cả.
Như vậy, con dâu, con rể không có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với phần
di sản của bố mẹ vợ, bố mẹ chồng. Đây chính là điểm bất cập của định chế này bởi trong thực tế
cuộc sống có rất nhiều trường hợp con dâu, con rể đối xử tốt với bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, thậm chí
khi con trai mất đi, con dâu vẫn tận tâm chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng… Trong trường hợp
bố mẹ chồng, bố mẹ vợ muốn chia tài sản cho con dâu, con rể có công chăm sóc, phụng dưỡng họ.
Hơn thế, nếu nhìn nhận một cách khách quan, các nhà làm luật chỉ cụ thể hóa nghĩa vụ, quyền
nhân thân của con dâu, con rể đối với bố mẹ chồng, bố mẹ vợ mà không quy định quyền tài sản
của họ, điều này khiến mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ mất đi sự hài hòa. 5.2
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Theo quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như bố con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”. Theo đó, để hưởng quyền
thừa kế di sản giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì pháp luật quy định họ phải có quan hệ chăm
sóc nhau như bố con, mẹ con.
Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng quy định này để giải quyết các trường hợp cụ thể thì
có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất về nội dung như
thế nào được hiểu là “chăm sóc như bố con, mẹ con” và dựa vào tiêu chí nào để đánh giá là có sự
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như bố con, mẹ con thì pháp luật cũng chưa đề cập đến. Chẳng hạn
như: thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con tiêng và bố dượng, mẹ kế là bao lâu sẽ được
coi là chăm sóc như bố con, mẹ con; hành vi chăm sóc sẽ được thể hiện từ hai bên hay chỉ từ một
bên (người được thừa kế); nếu như một bên chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng về
tình cảm giữa họ đối với nhau không như bố con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật
của nhau hay không? Ngoài ra, việc xác định hàng thừa kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng như bố con, mẹ con thì điều luật lại không quy định trong trường hợp này thì con 4
riêng, bố dượng, mẹ kế sẽ thuộc hàng thừa kế thứ mấy nếu đối chiếu với quy định tại khoản 1
Điều 651 BLDS năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật.
Có quan điểm cho rằng nên bỏ quy định về thừa kế thế vị của con riêng và bố dượng, mẹ
kế với lý do là giữa họ không có mối quan hệ huyết thống và cũng không có mối quan hệ pháp lý
nào ràng buộc mà nếu có ràng buộc đi chăng nữa thì đó cũng chri là sự ràng buộc về mặt đạo đức
xã hội. Có thể lý giải cho cơ sở của quan điểm này là xuất phát từ sự so sánh với trường hợp
người con dâu không được hưởng thừa kế đối với phần di sản của bố mẹ chồng vì giữa họ không
có mối quan hệ huyết thống nhưng do phong tục tập quán của người Việt và trên thực tế phần lớn
con dâu cũng là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng. Chính vì vậy, quan điểm trên
cho rằng việc quy định con riêng được thừa hưởng thừa kế thế vị thay bố dượng, mẹ kế là không
thuyết phục và cần được xóa bỏ.
Dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, Điều 654 BLDS năm 2015 còn cho thấy việc dẫn chiếu
đến Điều 652 và Điều 653 làm chi người đọc có sự hiều nhầm là thiếu Điều 651 về người thừa kế
theo pháp luật, nhưng ở Điều 653 đã có dẫn chiếu đến Điều 651; đồng thời còn thể hiện sự trùng
lặp khi Điều 653 đã có dẫn chiếu đến Điều 652 nhưng Điều 654 loại tiếp tục dẫn chiếu đến Điều
652. Lẽ ra, các nhà làm luật chỉ cần dẫn chiếu trực tiếp đến Điều 651 và Điều 652 sẽ hợp lý và chính xác hơn. 5.3
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và bố mẹ nuôi, bố mẹ đẻ
Bên cạnh quan hệ huyết thống và hôn nhân để xác định hàng thừa kế thì pháp luật còn căn
cứ vào quan hệ nuôi dưỡng. Đây là một quan hệ làm phát sinh nhiều hệ quả pháp lý trong đó có
iệc xác định hàng thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và bố mẹ nuôi
và bố mẹ đẻ: “con nuôi và bố nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Theo quy định trên, nột người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy định
của pháp luật sẽ là bố, mẹ nuôi của người đó. Vì thế họ là những người thừa kế ở hàng thứ nhất
của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của bố mẹ nuôi mình.
Quy định này được hiểu là một người vừa được thừa kế di sản của bố mẹ nuôi vừa được
thừa kế đối với gia đình bố mẹ đẻ như không làm con nuôi của người khác. Người nhận nuôi con
nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ như một người không nhận con nuôi.
Cụ thể hơn, đối với bố mẹ vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa có quan hệ thừa kế với con nuôi.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
như: (1) khi người con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để
lại di sản thì người con nuôi của người con đẻ của người để lại di sản có được hưởng thừa kế thế
vị hay không? (2) khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người
để lại di sản thì con đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? (3) người con
nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì con
nuôi của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? Có quan điểm cho rằng trường 5
hợp (1) chỉ được thừa kế thế vị nếu người để lại di sản coi như cháu ruột, trường hợp (2) được
thừa kế thế vị còn trường hợp (3) sẽ không được thừa kế thế vị. IV. Kết luận
Các quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung và người thừa kế theo pháp luật nói
riêng trong thời gian qua đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh trên thực tế. Tuy nhiên,
qua phân tích đã cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế và những điểm bất cập nhất định, chưa
phù hợp về mặt lý luận cũng như xu thế chung của pháp luật hiện đại. Chính vì vậy, trong tương
lai Bộ luật Dân sự 2015 cần sửa đổi để quy định về người thừa kế theo pháp luật được hoàn thiện
và phù hợp hơn, cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn để tạo ra cách hiểu thống nhất trong
quá trình áp dụng luật, giải quyết những vướng mắc làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của một số
cá nhân. Về lâu dài khi BLDS được hoàn thiện sẽ là hành lang pháp lý. 6