Thực chất của bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. | Tiểu luận chín trị học
Giải thích một số khái niệm. Khái niệm xã hội chủ nghĩa. Khái niệm tư bản chủ nghĩa. Khái niệm cơ bản về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực chất của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
Đề tài 12: Thực chất của bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Học viên: Đoàn Thếế Phúc Ngày sinh: 04/05/1996
Mã sinh viên: 2045310110 L p: ớ K40B2 Ngành: Chính tr h ị c ọ
Chuyên ngành: Chính tr phát ị tri n ể
Hà Nội, ngày 14 tháng 2 năm 2022 Table of Contents A. L I NÓI Đ Ờ
ẦẦU...............................................................................................................2 B. N I DUNG Ộ
......................................................................................................................2
I. LÝ LU N CHUNG VỀẦ QU Ậ Á Đ ĐI LỀN CH Ộ NGHĨA XÃ H Ủ I
Ộ ..................................................2 1. Gi i thích m ả t sốế khái ni ộ m
ệ ............................................................................................2 1.1. Khái ni m xã h ệ ội ch nghĩa ủ
..........................................................................................2 1.2. Khái ni m t ệ b ư n ch ả nghĩa ủ
.........................................................................................3 1.3. Khái ni m c ệ
ơ bản vếề quá đ đi lến ch ộ nghĩa xã h ủ i
ộ .....................................................3 2. Đ c đi ặ m c ể a th ủ
ời kì quá đ lến ch ộ nghĩa x ủ ã h i
ộ ...........................................................4
2.1. Lĩnh v c kinh tếế ự
...........................................................................................................4 2.2. Lĩnh v c xã h ự
ội............................................................................................................4
2.3. Trến lĩnh v c chính tr ự
ị..................................................................................................4 2.4. Trến lĩnh v c t ự t ư ng và v ưở
ăn hoá...............................................................................5 3. Th c chấết c ự a s ủ quá đ ự lến ch ộ nghĩa xã h ủ i b ộ qua chếế đ ỏ t ộ b ư n ch ả nghĩa ủ ...............5
4. Tính tấết yếếu quá đ đi lến ch ộ nghĩa xã h ủ i
ộ .....................................................................6
4.1. Tính tấết yếếu khách quan c a th ủ i kỳ quá đ ờ
ộ................................................................6
4.2. Tính tấết yếếu khách quan c a th ủ i kỳ quá đ ờ đi lến ch ộ nghĩa xã ủ h i ộ Vi ở t Nam ệ ..........7
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHI M V Ệ C Ụ B Ơ ẢN C A TH Ủ I KỲ QU Ờ Á Đ LỀN CH Ộ NGHĨA XÃ H Ủ I Ộ
DO ĐẢNG CỘNG SẢN VI T NAM XÁ Ệ C Đ NH. Ị
........................................................................8
1. Phương hướng c b
ơ ản...................................................................................................8
2. Mụ c tếu t ng quát ổ
.......................................................................................................11 3. Nhi m v ệ
ụ......................................................................................................................12 3.1. Phát tri n l ể c l ự ng s ượ
n xuấết, cống nghi ả p hoá, hi ệ n đ ệ i hoá đấết n ạ c
ướ ....................12 3.2. Xấy d ng quan h ự s ệ n xuấết m ả i theo đ ớ ịnh h ng xã h ướ ội ch nghĩa ủ
...........................13 3.3 M rở ng và ộ nấng cao hi u qu ệ
kinh tếế đốếi ng ả o i
ạ .........................................................13 C. KỀẾT LU N
Ậ .....................................................................................................................14 Tài li u tham kh ệ o
ả ............................................................................................................15 1 A. LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ những ngày đầu sáng lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định con
đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đó luôn là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán được chủ
tịch Hồ Chí Minh vạch ra từ năm 1930 và ngày càng được hoàn thiện hơn trong
các kì Đại hội Đảng gần đây. Do vậy, bài tiểu luận này sẽ tập chung nghiên cứu
những vấn đề xoay quanh đề tài “thực chất của bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, bao gồm các khái niệm, đặc điểm, tính
chất, tính tất yếu khách quan, phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam xác định.
Lý luận của tiểu luận này xuất phát từ lý thuyết đến thực tiễn nhận thức bao
gồm những lý luận dựa trên cơ sở các quan điểm luận nguyên lý của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và các chính sách của
Nhà nước Việt Nam. Đi kèm theo đó, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
cũng sẽ được tiếp thu và sử dụng trong bài tiểu luận này. B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Giải thích một số khái niệm
1.1. Khái niệm xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế -
xã hội mà trong dó các sở hữu và các tài sản đều thuộc quyền sở hữu của toàn
thể cổng đồng. Điều này nhằm mục đích đưa xã hội tiến đến sự công bằng về
kinh tế cũng như đẩy mạnh sự hợp tác tốt hơn. Quyền điều khiển có thể là trực
tiếp qua một tập thể như hình thức công đoàn hoặc gián tiếp qua hình thức nhà
nước. Đánh giá theo khía cạnh kinh tế, đặc tính của chủ nghĩa xã hội là sự sở
hữu của các phương tiện sản xuất đã được “cộng đồng hoá”. 2
1.2. Khái niệm tư bản chủ nghĩa
Chủ nghĩa tư bản được đánh giá là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao
của loài người, xuất hiện đầu tiên tại Châu Âu, được hình thành và phát triển từ
trong lòng xã hội phong kiến Châu Âu và chính thức được xác lập như một hình
thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỉ XVIII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỉ
XVIII, hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế
hoàn toàn tại Châu Âu và dần dần loại bỏ hình thái nhà nước của chế độ phong
kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị, kinh tế, xã hội tư bản chủ nghĩa lan
rộng ra khắp Châu Âu và toàn thế giới.
Chủ nghĩa xã hội được tiếp nhận theo bốn nghĩa. Đầu tiên, chủ nghĩa xã hội là
phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân tầng lớp lao động
chống các giai cấp thống trị. Tiếp theo, chủ nghĩa xã hội là trào lưu tư tưởng, lý
luận phản ảnh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất
công. Thứ ba, chủ nghĩa xã hội còn mang tính khoa học về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, khoa học về những quy luật và tính quy luật chính trị - xã
hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Và
cuối cùng, chủ nghĩa xã hội được đánh giá là một chế độ xã hội hiện thực mang
nhiều tính tích cực, xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.3. Khái niệm cơ bản về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
toàn diện và lâu dài trên toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm gây dựng
những tiền đề vật chất cho xã hội mới. Bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền nhà nước, bắt tay cải tổ và xây dựng
xã hội mới, đến khi những nguyên tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa được thực hiện.
Ngay cả những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bất cứ quốc gia nào tiến
lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua thời kỳ quá độ. Để giải thích, tuy lực
lượng sản xuất ở các nước này đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo
và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, về
khách quan, những nước phát triển có nhiều thuận lợi hơn dẫn đến thời kỳ quá 3
độ ngắn hơn. Đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa
xã hội nhưng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
2. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm khái quát chung nhất của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là
những nhân tố mới và tàn dư của xã hội cũ đều tồn tại, đan xen lẫn nhau trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá, tập quán xã hội.
2.1. Lĩnh vực kinh tế
Bên cạnh những thành phần kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, nhiều thành
phần kinh tế, thành phần đối lập vẫn còn tồn tại. Những mảng, những phần,
những bộ phận của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xen kẽ, tác động với
nhau, lồng vào nhau. Để giải thích rõ hơn, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
tồn tại nhiều thành phần kinh tế của cả xã hội chủ nghĩa lẫn tư bản chủ nghĩa,
thành phần kinh tế, cả thành phần kinh tế hàng hoá nhỏ cùng tồn tại và phát
triển, vừa hợp tác thống nhất vừa mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau gay gắt. Sự
tồn tại của nhiều hình thức cơ bản khác nhau về tư liệu sản xuất như sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,… kéo theo nhiều hình thức phân phối lao động trong xã hội.
2.2. Lĩnh vực xã hội
Kết cấu kinh tế nêu trên đã quy định cơ cấu xã hội – giai cấp chưa thuần nhất,
vẫn còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau, do vậy không thể tránh khỏi
sự đối lập – đối kháng nhất định giữa: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
tầng lớp chi thức, giai cấp tư sản…
2.3. Trên lĩnh vực chính trị
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn chưa đến hồi kết mà còn diễn ra gay go, quyết liệt
và lâu dài giữa hai giai cấp vô sản và tư sản, giữa con đường phát triển đất nước 4
lên chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, với những hình thức và nội dung mới.
Nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao được gây dựng, củng cố và
không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những quyền cơ
bản của nhân dân, thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.4. Trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá
Chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trò hệ tư tưởng chủ đạo. Bên cạnh hệ tư tưởng
chủ đạo của giai cấp công nhân, nhiều loại tư tưởng, văn hoá tinh thần khác
nhau vẫn còn tồn tại, bao gồm cả những tư tưởng, văn hoá mang tính đối lập.
Song song với những bước tiến trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các
thành phần, các nhân tốt mang tính chất xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng phát
triển và vươn lên chiếm vị trí chi phối trên mọi lĩnh vực.
3. Thực chất của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ kéo dài hơn so với những
nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản chủ nghĩa tư bản phát triển.
Điều này có thể được giải thích bằng điều kiện lạc hậu của đất nước sau khi
giành được chính quyền từ tay thực dân, việc tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật vô
cùng khó khăn, chưa đủ tiền đề kinh tế cho chủ nghĩa xã hội phát triển.
Thực chất của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa có thể
được giải thích qua việc nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động đảm
bảo lịch sử phát triển lực lượng sản xuất, tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật và các
quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, tạo cơ sở thực hiện cho chủ
nghĩa xã hội. Đây thực chất là nhiệm vụ đáng lẽ giai cấp tư sản đảm nhận nếu
đất nước trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Do vậy, nói nước Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ
nghĩa có thể được lý giải bằng việc nước ta sẽ bỏ qua giai đoạn trong đó giai 5
cấp tư sản nắm chính quyền. Cũng như vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
không nắm giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
Nhưng để tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật chủ nghĩa xã hội, những vấn đề có
tính quy luật của quá trình phát triển kinh tế mà giai cấp tư sản đã từng làm ở
các nước đã trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng phải được tuân thủ. Cùng với
đó, những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
cũng phải được kế thừa, đặc biệt là khoa học và công nghệ. Như vậy, những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế
quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả
thế giới để có thể rút ngắn quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định rằng: “con đừng đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, những tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loạt đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Do vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng cơ bản nhất là phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại có mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Tính tất yếu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
4.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
Sau khi giai cấp công nhân, nhân dân lao động giành được chính quyền, điểm
xuất phát về kinh tế, xã hội của xã hội tiền tư bản và tư bản còn thấp, còn thiếu
những tiền đề vật chất, văn hoá và tinh thần để thực hiện những chuẩn mực,
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Kèm với đó, trong lòng xã hội mới còn tồn tại
nhiều tàn dư của các xã hội tiền tư bản, cần có thời gian cải tạo, xây dựng. Các
giai cấp, phe phái phản động chỉ bị đánh đổ về chính trị, chúng còn có những cơ 6
sở vật chất nhất định, nên sẽ ra sức đòi lại quyền lợi đã mất, vì vậy cần có thời
kỳ đấu tranh, cải tạo chúng.
Công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn, phức
tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử nên cần phải có thời gian để trải nghiệm, xây
dựng, củng cố vững chắc. Do đó, sự tồn tại của thời kỳ quá độ là tất yếu khách
quan, nhưng tuỳ theo điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia khác nhau
mà thực hiện quá độ gián tiếp hay trực tiếp, với quá trình dài, ngắn khác nhau.
Mọi biểu hiện nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, chủ quan duy ý chí, máy móc, siêu
hình cần được khắc phục khi thực thi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội… của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tại Việt Nam, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền
Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã được thống nhất và hoàn toàn độc lập,
cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả
nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
một thời kỳ lịch sử mà: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch
sử đối với Việt Nam trong thời thời điểm toàn thế giới đã bước vào thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng chủ
nghĩa tư bản đã trở lên lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được
thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai
đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặc dù hiện nay, với những lỗ lực để thích nghi
với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát
triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những 7
mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng trở lên gay gắt và sâu sắc hơn. Do
vậy, chủ nghĩa tư bản không được coi là tương lai của nhân loại. Đặc điểm của
thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn cầu. Quá trình cải tổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình
sôi động cách mạng trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, phù hợp với
quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà
người dân Việt Nam và loài người tiến bộ đang tiến tới luôn dại diện cho những
giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái
kinh tế - xã hội tiên tiến hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự
nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của
con người, vì tiến bộ chung của nhân loại. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng
tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
Cách mạng Việt Nam phát triển theo đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy đã được hình thành từ những năm 20 của
thế kỷ XX. Nhờ đi theo đường lối ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên một Cách
mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngày nay, nếu muốn giữ vững được độc lập, tư do cho dân tộc, thực hiện được
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì chỉ có
cách là đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đường lối độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của nước ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại
vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế tộ tư bản ở Việt Nam ta là một tất yếu lịch sử.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DO ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC ĐỊNH.
1. Phương hướng cơ bản
Cương lĩnh 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bả phương
hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước. 8
Một là, “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”. Phương hướng này chỉ
rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước Việt Nam. Thông qua Nhà
nước, nhân dân ta có công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của
mình, đưa đất nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực thi đầy đủ và đúng đắn, cần
phải đấu tranh phê phán quan điểm và hành vi quan liêu, xa rời quần chúng,
quan điểm dân chủ phi giai cấp, dân chủ quá trớn, thiếu kỷ cương… không phù
hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân”. Trong tình hình và điều kiện kinh tế Việt Nam còn kém phát triển, nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất. Cùng với đó, do sự
phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá ở
nước ta hiện nay phải theo hướng hiện đại.
Ba là, “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hứu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”. Phương hướng này thể hiện sâu sắc
hơn, sáng tỏ hơn quan niệm về xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt: sở hữu,
quản lý và phân phối, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay, bảo
đảm sự gắn bó hữu cơ ngay trong từng bước phát triển của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất; khắc phục quan điểm duy ý chí, muốn nhanh chóng xác lập
ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu chiếm ưu thế, trong
khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp. Quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần dựa trên nhận thức đầy đủ hơn về những ưu thế và 9
hạn chế của sản xuất hàng hoá; sản xuất không phải là sản phẩm riêng của chủ
nghĩa tư bản; khắc phục tư tưởng phủ nhận sản xuất hàng hoá và kinh tế nhiều
thành phần; duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, phân phối bình quân.
Chúng ta chủ trương tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế
để chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của chúng, phục vụ
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể cần được tăng cường
để từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó là kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân. Chỉ như vậy, mục tiêu xoá áp bức bóc lột, xoá sự phân hoá xã hội thành các
giai cấp đối kháng mới có thể được thực hiện. Đây được coi là một trong những
vấn đề cơ bản để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát
triển các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế có nhiều hình thức phân phối
khác nhau: phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi, nhưng hình thức phân
phối chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Bốn là, “tiến hành các mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá
làm cho thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa
văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người , với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những gía trị cao quý của loài người, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Cách mạng tư tưởng – văn hoá là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa
và càng cần thiết hơn khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Kinh tế phải phát
triển song song với xây dựng nền văn hoá mới và con người mới để sự phát
triển bền vững được bảo đảm.
Năm là, “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với 10
tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn
kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Phương hướng này nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động mọi lực
lượng của cộng đồng dân tộc, mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ tối đa sức mạnh bên
ngoài để kết hợp có hiệu quả sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm
bảo phát triển nhanh và bền vững; góp phần của nước ta vào sự nghiệp đấu
tranh vì hoà bình và tiến bộ của nhân dân thế giới.
Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của các mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống nhất với
nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một mặt, tập
trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước; mặt khác, có đủ khả năng đập
tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không có nghĩa là coi nhẹ nhiệm
vụ bảo vệ Tổ Quốc, bởi vì, làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây
dựng cơ sở vật chất và tinh thần bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần
kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng.
Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Phương hướng này quán triệt sâu sắc luận điểm Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp cách mạng; cùng với đó, chỉ rõ cần thường
xuyên nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà Lênin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cảnh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, sự thoái hoá về
tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do đó, Đảng phải 11
thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
2. Mục tiêu tổng quát
Theo các phương hướng cơ bản đã được nêu ở trên, mục tiêu tổng quát phải đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “… xây dựng xong về cơ bản những cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, phải trải
qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là thông qua đổi mới
toàn diện, xã hội được vững chắc, ổn định để tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những định
hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
phương hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng. 3. Nhiệm vụ
3.1. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước được
coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời ký quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển. Mặc dù vậy, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ,
biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã 12
hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối
cảnh quốc tê trong từng thời kỳ. Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình
trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến, nhờ đó mới thực hiện được các mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
3.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới sao cho phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng
quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà
phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải
biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo
nên những lực lượng sản xuất mới. Do đó, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới
ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia như Việt Nam, chế
độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần:
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.
Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên lẫn bên ngoài,
lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Quan
hệ sở hữu hiện nay chỉ có thể được cải tạo một cách dần dần, bởi không thể làm
cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây
dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và
nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ
của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước,
dưới nhiều hình thức và đi đến từ thấp đến cao. 13
3.3 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, nền kinh tế Việt Nam không thể là một nền kinh tế khép kín,
mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của
thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta mở
cửa nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế,
nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế
trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm…
mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là
cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt
kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải được thực hiện trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Để được như vậy, sức mạnh
cạnh tranh của nền kinh tế phải được từng bước nâng cao; tích cực khai thác thị
trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác
kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh
sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. Nhắc đến tầm quan trọng của nhiệm vụ
này, Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối
ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. B. KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến
hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng
Tháng Tán, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hoà bình để xây dựng
đất nước, song thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta một lần nữa. Vì
độc lập, tự do của Tổ Quốc, nhân dân ta buộc phải tiến hành 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt vào
mùa Xuân năm 1975, cả nước được độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây
dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ năm 1975 đến 1985, sự nghiệp
xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Song cũng trong thời gian này, Đảng ta
đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân do
thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật 14
khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Tại Đại hội VI,
Đảng ta đã tự phê ình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra
đường lối đổi mới. Đại hội VI được coi là mốc lịch sử quan trọng trên con
đường dựng nước và phát triển của Đảng và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi
mới, Đại hội Đảng lần thứ X, năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành
“những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”. Tổng kết 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991),
10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, năm năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Đại hội XI của Đảng ta đã đánh giá:
“Nhìn tổng quát, 5 năm qua (2010 – 2015)…toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực
phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng… Mười năm thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010… đã đạt được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng… Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện
Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. Nhờ có đường lối cách mạng đúng
đắn, được xây dựng trên cơ sở khoa học là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, với sự nỗ lực
vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, “đất nước bước đầu thực hiện
thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất
nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được
tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới”.
Cương lĩnh năm 1991 cũng đã khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự
lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích
hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của
lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực
tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách
quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử - cụ thể
của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta. 15 Tài liệu tham khảo
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Và một số tài liệu, sách báo khác. 16