Thứ nhất: Thực tiễn sở, mục đích, động lực chủ yếu trực tiếp của
nhận thức
+ Thực tiễn sở của nhận thc:
Điều này nghĩa thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho luận. Mọi tri
thức xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc
lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở như vậy, bởi con người quan h với hế giới không phải bắt đầu bằng luận
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
nhận thức con người được hình thành phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản
chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng
thành các khoa học, lý luận.
+ Thực tiễn mục đích của nhận thức:
Thực tiễn mục đích của nhận thức nhận thức về vấn đ khía cạnh hay
lĩnh vực đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức
không phục vụ thực tiễn t không phải “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. luận, khoa học chỉ
ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức thực tiễn cung cấp năng
lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện
sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu
cầu thực tiễn đòi hỏi phải tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát
luận, thúc đẩy s ra đời phát triển của c ngành khoa học. Khoa học ra đời
chính chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.

Preview text:

Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri
thức xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc
lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận
mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản
chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng
thành các khoa học, lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở
lĩnh vực gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà
không phục vụ thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ
có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng
lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện
và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu
cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý
luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời
chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.