-
Thông tin
-
Quiz
Thực Trạng Đời Sống Nhân Dân Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Hồ Chí Minh quan niệm: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dânđủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (HVNN) 16 tài liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu
Thực Trạng Đời Sống Nhân Dân Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Hồ Chí Minh quan niệm: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dânđủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (HVNN) 16 tài liệu
Trường: Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:








Tài liệu khác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Preview text:
lOMoAR cPSD| 32573545
THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh quan niệm: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao
động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ…
Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội". Đây là một định nghĩa đơn giản, dễ hiểu, mọi người đều
chấp nhận. Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn diện hiện nay, chúng ta cần
quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng CNXH và động
viên toàn thể nhân dân hăng say xây dựng một đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. I)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”(2).
Cả cuộc đời Bác là cuộc “Hành trình khát vọng”. Đó là khát vọng độc lập tự do cho
dân tộc và suốt đời phấn đấu hy sinh vì hạnh phúc, ấm no của Nhân dân. 30 năm bôn
ba khắp năm châu bốn biển tìm đường giải phóng cho dân tộc, 36 năm trên cương vị
lãnh đạo Đảng, 24 năm liền là người đứng đầu Nhà nước (1945 1969), cuộc “Hành
trình khát vọng” ấy không phải chỉ thể hiện rõ trên bình diện lý luận mà nó đã trở
thành thực tiễn trong suốt cuộc đời của Bác. Người khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên
không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là
vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh
lệnh của quốc dân ra trước mặt trận….”[1]. Ngày 14/7/1969, khi trả lời phỏng vấn
nhà báo Macta Rohat của báo Granma (Cuba), Hồ Chí Minh bộc bạch hết tâm can lOMoAR cPSD| 32573545
của mình: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi... Mỗi người, mỗi gia đình đều có một
nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình
lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”[2]. Đây phải chăng là lời tổng kết cả một cuộc đời
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư của Bác, cả cuộc đời vì dân, vì nước của
Bác, và cũng là nỗi niềm trăn trở của Bác trước lúc vĩnh biệt chúng ta.
Trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng chăm lo, nâng cao đời sống
của Nhân dân là mục đích của cách mạng phải đạt được, là tâm niệm, ước muốn của
Bác: “… Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
Bác nhắc nhở: “Một Đảng cầm quyền mà để cho người dân nghèo hết còn chỗ để
nghèo thì đó là lỗi của Đảng với Nhân dân…”, “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”[3]. Bác mới căn dặn chúng ta là phải
luôn thương dân, chăm lo đời sống cho Nhân dân mà cả cuộc đời của Người luôn
bằng những hành động thiết thực chăm lo cho đời sống Nhân dân.
Tư tưởng đó của Người đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa đầy sáng tạo thành
đường lối, chủ trương, chính sách và từng bước được hiện thực hóa thành công, thể
hiện sinh động trong thành tựu đạt được ở từng chặng đường lịch sử cách mạng của
Đảng ta, dân tộc ta trong suốt chặng đường lịch sử từ năm 1930 đến nay.
1.1) Mục tiêu cốt lõi theo tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập dân tộc và đem lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho Nhân dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt Nam; lOMoAR cPSD| 32573545
đồng thời là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm, có quan hệ khăng khít và biện chứng
với nhau. Người đã chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, hạnh phúc, tự do theo Hồ Chí Minh là
đem lại cơm no, áo ấm, đời sống của Nhân dân phải đầy đủ về cả vật chất và tinh
thần, người dân phải được sống trong một xã hội tiến bộ, công bằng, được hưởng
đầy đủ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.. Trong chăm lo đời sống Nhân
dân, Bác khuyên đồng bào phải trên tinh thần “giúp đỡ lẫn nhau” và đã trở thành bài
học sâu sắc của dân tộc ta, lớn hơn là trách nhiệm của Chính phủ đối với Nhân dân.
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Bác đã chỉ rõ mục tiêu của Nhà nước: “Một
là, làm cho dân có ăn. Hai là, làm cho dân có mặc. Ba là, làm cho dân có chỗ ở. Bốn
là, làm cho dân được học hành”. Người khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân
chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[4].
Bởi vậy, ngay sau khi cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ tập trung
vào những công việc cụ thể là: chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ
thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đoàn kết... Đó
là những nội dung, biện pháp và bước đi quan trọng để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
1.2) Quan điểm của Hồ Chí Minh trong việc chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh bao hàm các nội dung lớn như: đời sống của người dân phải đẩy đủ cả về vật lOMoAR cPSD| 32573545
chất lẫn tinh thần; nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công bằng,
với hành lang pháp lý bảo đảm quyền con người của người dân một cách đầy đủ và
người dân thực sự là chủ trong xã hội mới.
Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, kể cả tình thế cách mạng khó khăn, thách thức như
“ngàn cân treo sợi tóc”, việc bảo đảm cuộc sống nhân dân vẫn luôn là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa,Chủ tịch Hồ Chí Minhđã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp
ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân, trong đó có chống nạn đói. Người chỉ rõ,
đói nghèo là một trong ba thứ giặc cần phải diệt và Người đã tập trung mọi nỗ lực
lãnh đạo toàn dân “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Giặc ngoại xâm cướp nước có thể làm ta mất nước, mất độc lập, nhưng giặc đói, giặc
dốt làm cho dân ta chìm đắm trong lầm than, đói khổ, đen tối và ấm no, hạnh phúc
chỉ là ước vọng, mong mỏi. Nghèo đói thì sức lực nhân dân yếu ớt, thực lực đất nước
giảm sút, giống nòi suy vong, thế nước đi xuống và khi đó khó có thể bảo vệ được
nền độc lập tự chủ, do vậy mà nguy cơ mất cả tự do, độc lập.
Với quan điểm đó, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc
biệt chú trọng nhiệm vụ diệt giặc dốt và giáo dục nhân dân. Thực hiện lời kêu gọi
diệt giặc dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân học vụ được triển khai
sâu rộng trong toàn quốc: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa
biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng bảo,... cha mẹ không biết thì con bảo”. Học chữ
trở thành phong trào rộng lớn chưa từng có, lôi cuốn đông đảo nhân dân thuộc các
giới, lứa tuổi khắp nơi trên cả nước tích cực tham gia. lOMoAR cPSD| 32573545
Kết quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước có hơn hai triệu người biết đọc,
biết viết. Bên cạnh đó, công tác văn hóa, giáo dục cũng được chính quyền mới đặc
biệt quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Phong trào đời sống mới
đã xóa bỏ những tệ nạn, hủ tục lạc hâu, tàn dư chế độ cũ, nâng cao dân trí, chấn hưng
dân khí, bồi dưỡng tinh thần, ý thức công dân của người dân một nước độc lập. Lòng
dân quy tụ về một mối, đoàn kết toàn dân tộc trở thành sức mạnh vô biên, đánh đuổi
kẻ thù xâm lược. Người hướng dẫn, động viên nhân dân đoàn kết cùng nhau xây
dựng “đời sống mới” toàn diện
Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn được thể hiện rõ nét trong quan điểm xây dựng CNXH của Người: “Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục
tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (ví dụ: lấy vợ, lấy chồng sớm quá, cúng bái,
liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH hay độc lập dân tộc với tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta
thể hiện quan điểm đó ở mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đây là thước đo sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH trong thực tế.
II) Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân
2.1) Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng, cụ thể hóa thành đường lối, chủ lOMoAR cPSD| 32573545
trương, chính sách. Trở thành một trong những mục tiêu then chốt trong suốt quá
trình cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng CNXH. Quan điểm của Người
được cụ thể hóa trong Cương lĩnh chính trị của Đảng, trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm, trong từng cơ chế, chính sách
phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội.
Trong những năm qua, đặc biệt là trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ trương chính
sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới đem lại
hạnh phúc cho con người, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững. Điển hình là
công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tỷ
lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 59% năm 1993 (theo chuẩn nghèo cũ) xuống còn 3
,0% năm 2016 (theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011-2015). GDP trên đầu người
đã vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (2.215 USD/ người/ năm) vào năm 2016.
Hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện cả
kinh tế, xã hội và môi trường đang từng bước đặt nền móng cho sự phát triển bền
vững của Việt Nam trong tương lai. Những thành quả phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao dân trí, nhân dân ngày càng ấm
no, hạnh phúc đã góp phần xây dựng xã hội bình an, hạnh phúc, tươi đẹp.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân.
2.2) Thực trạng đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh ngày nay.
Trong hơn 30 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó khăn, song, Đảng
và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chăm lo
đời sống nhân dân. Nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng về thực hiện chính
sách an sinh xã hội đã được hoàn thiện qua từng kỳ đại hội; từng chủ trương, chính lOMoAR cPSD| 32573545
sách phát triển, Đảng luôn gắn chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội với phát
triển kinh tế, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động của nhân dân. Nhờ đó, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm
sáng về giảm nghèo: Tỷ lệ nghèo trên đầu người (tính theo chi tiêu thu nhập) giảm
mạnh từ trên 70% (năm 1990) xuống còn 58,1% (năm 1993), 28,9% (năm 2002) ,
14,5% (năm 2008) và 13,5% (năm 2014). Giai đoạn 2016-2020, Việt Nam là một
trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng
chuẩn nghèo đa chiều. Tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm một cách ấn tượng, từ 9 ,2% (năm
2016) xuống 6,8% (năm 2018) và xuống còn 2,75% (năm 2020)[7]. Mặc dù còn
nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước đã dành 21% ngân sách cho phúc lợi xã hội, là
mức cao nhất trong số các nước ASEAN; nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh
xã hội được tăng cường và đạt nhiều kết quả lạc quan khác. Đặc biệt, chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã và đang trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh
xã hội, khi tỷ lệ bao phủ tăng nhanh; chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng…
Theo khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy, niềm tin của nhân dân về
chính sách xã hội, đảm bảo an sinh, chính sách người có công có tỷ lệ đánh giá “Tốt”
chiếm 72%; về xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm có tỷ lệ đánh giá “Tốt” chiếm 68%,
tăng 13 bậc. Bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội trở thành lưới an sinh xã hội quan
trọng, hỗ trợ người dân vượt qua các rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động... Bảo hiểm y tế giúp giảm chi trực
tiếp từ tiền túi hộ gia đình cho dịch vụ y tế, góp phần tạo nên sự công bằng trong
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối với nhóm người yếu thế trong xã hội. Khoảng
2,2% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính
thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, vượt mục tiêu của Nghị quyết số 28-
NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII Về cải cách chính lOMoAR cPSD| 32573545
sách bảo hiểm xã hội, là đến năm 2021 đạt 1% cho khu vực này và cũng tăng gần
gấp năm lần so với năm 2015; tỷ lệ tham gia BHYT đạt 90,7% vượt mục tiêu đề ra
trong giai đoạn 2016 - 2020[8].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, tất cả vì con người được kết tinh từ giá trị
truyền thống dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị văn hóa nhân loại và từ cốt cách,
đạo đức, phong cách của Người, tất cả được cộng hưởng, góp phần hình thành một
nhân cách văn hóa của thời đại, của tương lai; thật vĩ đại, cao thượng nhưng cũng
thật khiêm tốn, giải dị, thanh cao; thật sáng tạo, quyết đoán nhưng kiện định, bền bỉ;
trọng trách lớn, địa vị cao nhưng vô cùng gần gũi, bao dung. Tất cả được hòa quyện
trong con người Hồ Chí Minh, một nhân cách văn hóa lớn của thế giới. Thấu hiểu
cuộc đời của Bác, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người đối
với con người, tất cả vì con người phải trở thành tinh thần tự giác, một nhiệm vụ
thường xuyên của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành hiện
nay trong việc thực hiện quyền con người, tất cả vì con người, chăm lo đến nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân để không ai bị bỏ lại phía sau. Và cũng
là phương thức đấu tranh hiệu quả nhất để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; xây
dựng, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.