Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc | Soạn văn 11 Chân trời sáng tạo
Độc thoại nội tâm: thể hiện sự bất ngờ, choáng váng, thậm chí hoang mang khi nhận ra mưu hèn kế bẩn của Hoạn Thư và tình cảnh oái oăm, ngang trái của mình “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”
Chủ đề: Bài 7: Những điều trông thấy
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Chân trời sáng tạo
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Soạn bài Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh
Câu 1. Liệt kê các sự kiện được kể trong văn bản.
- Thúy Kiều choáng váng, kinh sợ khi biết mình và Thúc Sinh bị mắc mưu, sa
bẫy Hoạn Thư, đành phải nhẫn nhục hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh.
- Thúc Sinh cũng kinh ngạc, choáng váng, đau xót khi biết mình và Kiều mắc
mưu, sa bẫy Hoạn Thư, đành phải giả vờ như không quen biết Thúy Kiều.
Thúy Kiều mời rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh, lại bị Hoạn Thư dùng tư cách chủ
nhân để hạ nhục Thúy Kiều, đe nạt Thúc Sinh.
- Sự hả dạ của Hoạn Thư, nỗi ê chề khiếp nhược của Thúc Sinh.
- Tâm sự chua xót, tủi nhục của Thúy Kiều.
Câu 2. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn
trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều.
- Trước cuộc hầu rượu, hầu đàn:
Độc thoại nội tâm: thể hiện sự bất ngờ, choáng váng, thậm chí hoang mang
khi nhận ra mưu hèn kế bẩn của Hoạn Thư và tình cảnh oái oăm, ngang trái
của mình “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”
Lời miêu tả của người kể chuyện: thể hiện ở việc miêu tả tâm lí Thúy Kiều
của người kể chuyện, chẳng hạn ở các dòng “Bước ra một bước một
dừng/Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa/Càng trông mặt, càng ngẩn
ngơ/Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/Sợ uy chẳng dám vâng lời/Cúi đầu
nép xuống sân mai một chiều.
- Trong cuộc hầu rượu, hầu đàn: cảm thấy ngượng ngùng, đau khổ, ê chề, nhục nhã
Hầu rượu “Vợ chồng chén tạc chén thù/Bắt nàng đứng chực trì hồ hai
nơi/Bắt khoan bắt nhặt đến lời/Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.”:
Hầu đàn: “Bốn dây như khóc như than/Khiến người trên tiệc cũng tan nát
lòng/Cùng trong một tiếng tơ đồng/Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
- Sau cuộc hầu rượu, hầu đàn: “Bây giờ mới rõ tăm hơi… Bể sâu sóng cả có
tuyền được vay”; cuối cuộc hầu rượu, hầu đàn “Một mình âm ỉ đêm chầy/Đĩa
dầu vơi, nước mắt đầy năm canh”.
Câu 3. Kẻ bảng dưới đây vào vở, chỉ ra một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật
sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của
hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau: Tình Nhân
Hành động/ vẻ bề ngoài Nội tâm huống vật Thúy
Hoạn Buộc Kiều hầu đàn, “xem mặt “Nham hiểm giết người Kiều Thư
hỏi tra” Thúc Sinh, “thơn thớt không dao”, mưu toan mời
nói cười” khen ngợi vờ vịt, mỉa “làm ra con ở chúa nhà rượu
mai về lòng hiếu của Thúc Sinh. đôi nơi” Thúc
“Chén tạc chén thù” ngoảnh đi, “Phách lạc hồn xiêu” khi Sinh
chợt nói chợt cười, cạn chén mà biết cả Kiều và bản thân
Thúy Kiều mời như một con rối, “đã mặc vào tay” Hoạn
nhất cử nhất động theo sự sai Thư, tan nát lòng “nát ruột khiến của Hoạn Thư tan hồn”. Thúy
Hoạn “Cười nói tỉnh say, chưa xong “Dường đà tâm can”, Kiều Thư
cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi “khấp khởi mừng thầm” hầu đàn
khen, quát mắng Thúy Kiều Thúc
“Vội vàng gượng nói gượng Càng “thảm thiết bồi hồi”, Sinh cười”
“gan héo ruột đầy”, “nỗng
lòng càng nghĩ càng đắng lòng”
Câu 4. Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều qua hai dòng thơ độc thoại
nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? và
cảnh ngộ, tâm trạng của chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm
gì gần gũi với nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Cùng được ví với con thuyền nhỏ, phiêu bạt giữa bể sâu sóng cả, không rõ có
sống sót, tồn tại được không; lo lắng, bất an trước tương lai mù mịt, dạng câu
nghi vấn có tác dụng diễn tả tâm trạng