Tiếp cận bệnh nhân bí trung đại tiện

Mục tiêu học tập: 1. Có khả năng tiếp cận chẩn đoán một bệnh nhân có triệu chứng bí trung đại tiện 2. Hiểu được chỉ định của một số cận lâm sàng cơ bản cần thiết cho chẩn đoán liên quan đến bí trung đại tiện Mục lục: I. Giới thiệu II. Hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới: a. Định nghĩa b. Nguyên nhân c. Triệu chứng lâm sàng d. Một số cận lâm sàng liên quan e. Tiếp cận chẩn đoán III. Kết luận. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!   

Môn:

Bệnh án 67 tài liệu

Trường:

Y tế - Sức khỏe 79 tài liệu

Thông tin:
7 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiếp cận bệnh nhân bí trung đại tiện

Mục tiêu học tập: 1. Có khả năng tiếp cận chẩn đoán một bệnh nhân có triệu chứng bí trung đại tiện 2. Hiểu được chỉ định của một số cận lâm sàng cơ bản cần thiết cho chẩn đoán liên quan đến bí trung đại tiện Mục lục: I. Giới thiệu II. Hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới: a. Định nghĩa b. Nguyên nhân c. Triệu chứng lâm sàng d. Một số cận lâm sàng liên quan e. Tiếp cận chẩn đoán III. Kết luận. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!   

6 3 lượt tải Tải xuống
TIP CN BỆNH NHÂN BÍ TRUNG ĐẠI TIN
BS.NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
Mục tiêu học tp:
1. Có khả năng tiếp cn chẩn đoán một bệnh nhân có triệu chứng bí trung đại tin
2. Hiểu được ch định ca mt s cận lâm sàng cơ bản cn thiết cho chẩn đoán liên quan
đến bí trung đại tin
Mc lc:
I. Gii thiu
II. Hi chng tc nghẽn đường tiêu hóa dưới:
a. Định nghĩa
b. Nguyên nhân
c. Triu chứng lâm sàng
d. Mt s cận lâm sàng liên quan
e. Tiếp cn chẩn đoán
III. Kết lun
I. Gii thiu:
Tc nghẽn đường tiêu hóa là một tình trạng cp cứu thường gp trong ngoi khoa.
Tùy vào vị trí tắc nghẽn và nguyên nhân gây tắc mà triệu chứng lâm sàng có thể biu
hiện khác nhau.
S phân chia đường tiêu hóa trên và dưới thc s không rõ ràng và có nhiều cách.
Theo phôi thai học, dựa vào ngun gc ruột trước, rut giữa và ruột sau, người ta chia
đường tiêu hóa ra thành tiêu hóa trên (t miệng đến nhú tá lớn của tá tràng), giữa (t
nhú tá lớn đến giữa đại tràng (ĐT) ngang), và dưới (giữa ĐT ngang đến hậu môn). Theo
quan điểm c điển, đường tiêu hóa được chia thành tiêu hóa trên (từ miệng đến van hi
manh tràng), và dưới (t manh tràng đến hậu môn). Theo quan điểm v xut huyết tiêu
hóa, đường tiêu hóa lại được chia thành tiêu hóa trên và dưới ti ranh giới góc tá-hng
tràng (góc Treitz). Tác gi bài viết cũng tạm chia theo ranh giới này, vì tắc nghẽn phía
trên và phía dưới góc tá-hỗng tràng có biểu hiện lâm sàng cũng như cách điều tr hoàn
toàn khác nhau.
Tc nghẽn đường tiêu hóa trên bao gồm hai nhóm bệnh chính là tắc thc quản và tắc
đưng thoát dạ dày (gastric outlet obstruction). Tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới, bao
gm ruột non và đại trực tràng, gọi chung là tắc rut. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ
tìm hiểu v nhng triu chng ca tc nghẽn đường tiêu hóa dưới, cách tiếp cận lâm
sàng, và một s cận lâm sàng cần thiết cho chẩn đoán.
II. Hi chng tc nghn đường tiêu hóa dưi:
a. Định nghĩa:
Hi chng tc nghẽn đường tiêu hoá dưới là tình trạng bế tc hoc tr lưu thông
trong ống tiêu hóa t hỗng tràng trở xung. Đây là triệu chứng thường gp trong cp cu
bụng và thường được chia thành 2 nhóm: tắc rut cơ học (hay gi tắt là tắc rut) tc ruột cơ
năng (hay lit rut). Tc rut xảy ra khi có sự bế tắc đường lưu thông, còn liệt rut xy ra khi
có tình trạng mất nhu động ca ruột mà không có ngun nhân tắc nghn c th nào.
Tình trạng lâm sàng thay đổi tùy theo vị trí thương tổn, tốc độ khởi phát, nguyên nhân
gây hi chng tc nghẽn đường tiêu hoá dưới. Thông thường, hi chng tc nghẽn đường tiêu
hoá dưới, vi biu hin quan trng nhất là bí trung đại tin, s đi kèm với các triệu chứng: đau
bng quặn cơn, nôn ói và chướng bng. Mt s trường hp, bệnh nhân chỉ có triệu chứng bí
trung đại tin, nhng triu chứng còn lại rất ít, hoặc không rõ ràng, khiến cho quá trình chẩn
đoán và xử lý gặp nhiều khó khăn.
b. Nguyên nhân:
- Tc rut:
Nguyên nhân của tc rut được chia thành ba nhóm:
+ Trong lòng ruột:
Các loại thức ăn khó tiêu hóa có thể gây ra tắc ruột, đặc bit tr em và những bnh
nhân gặp khó khăn trong việc tiêu hóa thức ăn như đã mổ ct d dày hoặc nhng bệnh nhân bị
ri loạn tâm thần…Bã phân cũng có thễ gây táo bón nặng. Mt s hiếm trường hp, trên
nhng bệnh nhân bị suy nhược hoc ln tuổi, bã phân này có thể gây ra tắc ruột và thủng rut
ti v trí khối phân gây tắc.
Si mật trong lòng ruột là những khi si lớn trong túi mật, xuyên qua thành túi mật
vào lòng ruột qua đường rò túi mật tá tràng. Khối si mật này có thể gây ra tắc ruột, thường
gp ti v trí van hồi manh tràng. Thông thường, nếu khi si mật này kẹt lại tá tràng, sẽ gây
ra hi chng tc nghẽn đường ra ca d dày (hội chng Bouveret).
+ Trên thành ruột:
Các tổn thương trên thành ruột gây ra chít hẹp lòng ruột, s gây tắc nghẽn lưu thông
trong lòng ruột. Các tổn thương ác tính là nguyên nhân thường gp nht người ln. Vi
bệnh nhân có triệu bí trung đại tiện là chủ yếu, nguyên nhân thường gp nhất là ung thư đại
trực tràng, thưởng ít nhất trên 50% số trường hp. V trí thường gp nhất là đại tràng chậu
hông, kế đến là đại tràng góc lách. Tuy nhiên, chít hẹp lòng ruột còn có thể do các tổn thương
lành tính như các bệnh viêm đường rut (Bệnh Crohn’s là thường gp nht), bệnh túi tha đại
tràng, chít hẹp do viêm mạn tính, sau s dng thuốc (các thuốc NSAIDS), sau x tr hoc
phu thuật…
+ Ngoài thành ruột:
Nguyên nhân thường gp nht ca tc ruột là dính ruột. T l tc ruột do dính đang
ngày càng giảm dần, do xu hướng s dụng găng không bột rộng rãi và cải tiến v k thut
phu thut, bao gm c thành công của phu thut ni soi.
Thoát vị cũng là nguyên nhân thường gp ca tc ruột, nguyên nhân là do tắc ngẽn lưu
thông ống tiêu hóa tại c túi thoát vị. Thoát vị bẹn là nguyên nhân của đa số các trường hp
tc ruột do thoát vị. Tuy nhiên, bệnh nhân bị thoát vị đùi thường b tc rut, do ống đùi nằm
sâu và chắc. Thoát vị đùi thường gp nhng bệnh nhân vừa mi giảm cân đáng kể, gây ra
giảm mô mỡ trong ống đùi. Một s ít trường hp hiếm gặp trên những bệnh nhân nữ ln tui,
kèm với th trng gầy, có thể gp tc ruột do thoát vị qua l bt.
Xon rut xy ra khi một đoạn rut t xoay quanh trc mc treo, t đó gây ra tắc rut
quai kín. Tắc ruột quai kín nghĩa xảy ra khi 1 đoạn rut b tc c đầu gần và đầu xa, do đó
không có hướng giải áp đoạn ruột này. Xoắn ruột thường gp nhất là ở đại tràng chậu hông, ở
nhng bệnh nhân có đại tràng chậu hông dài mà chân mạc treo, nơi bán vào thành bụng sau
ngắn, đại tràng chậu hông là đoạn chứa phân đã đóng khuân. Tuy nhiên có thể xy ra bt c
điểm nào dọc theo chiều dài ống tiêu hóa, như xoắn d dày, xoắn rut non, xoắn manh tràng.
Thoát vị, dây dính, thoát vị ni, xon ruột là những nguyên nhân chủ yếu ca tc rut
do tht. Chuẩn đoán lâm sàng để phân biệt tc ruột đơn thuần và tắc rut do thắt thường gp
nhiều khó khăn, tuy nhiên cần lưu ý đến tc rut do tht nếu bệnh nhân có biểu hin st, mch
nhanh, bng ấn đau, khối thoát vị đau, hoặc tăng bạch cu.
- Lit rut (Paralytic ileus / adynamic obstruction):
Lit ruột gây ra do sự thiếu vắng nhu động rut do ri loạn đường dn truyn thn
kinh. Lit rut xy ra đại tràng thường được gọi là hội chng gi tc rut hi chng
Ogilvie. S thiếu vắng nhu động rut s gây ra ứ tr dịch và hơi trong lòng ruột. Lit rut
thường gp nhất trên những bệnh nhân sau phẫu thut bụng, và thường kéo dài không quá
48 72 gi. Lit rut sau m kéo dài nên nghi ngờ có nguyên nhân như nhiễm trùng ổ bng,
chảy máu trong ổ bng, ri lon chuyển hóa hoặc thoát vị l troca trên những bệnh nhân được
phu thut ni soi. Những nguyên nhân khác của lit rut bao gồm viêm phổi, ri loạn điện
gii, tổn thương cột sng, chấn thương hoặc chảy máu vùng sau phúc mạc, thiếu máu mạc
treo, viêm tụy cấp và các thuốc như thuốc c chế ba vòng…
c. Triu chứng lâm sàng:
- Triu chứng cơ năng:
V trí tắc nghn quan trng quyết định bnh cảnh lâm sàng. Tc rut non đoạn gn
thường triu chng rm r, vi triu chứng nôn ói là chủ yếu, trong khi tc rut thấp thì triệu
chng chậm hơn, tắc rut v trí nửa đại tràng trái hoặc trực tràng thì triệu chng khởi phát
âm thầm, khởi đầu với bí trung đại tin là chủ yếu. Trường hợp điển hình, bệnh nhân bí trung
đại tiện thông thường s đi kèm với đau bụng quặn cơn, nôn ói, và chướng bng. Bệnh nhân
tc rut cao trong 24 gi đầu vẫn có thể còn trung tiện hoặc đại tiện được do hơi và phân còn
sót lại bên dưới ch tc. Do vy, triu chứng bí trung đại tiện thường được xét từ thời điểm 24
gi sau khởi phát cơn đau bụng.
Mức độ chướng bng ph thuộc vào vị trí tắc nghẽn. Bí trung đại tiện và chướng bng
thường đi kèm với nhau. Nếu tc rut đại tràng hoặc phn thp ca ruột non, chướng bng
thường d nhn thấy. Ngược li, tc rut cao hoc tc ruột quai kín thường chướng bng rất ít
hoc bệnh nhân không cảm nhận được.
Triu chứng đau của tc ruột là đau bụng quặn cơn (colicky visceral pain). Cơn đau
thường không kiểm soát được, và không có tư thế giảm đau. Đau khiến bệnh nhân không dám
c động có thể là do tắc rut biến chng của viêm phúc mạc. Mỗi cơn đau kéo dài khoảng 30
giây, các cơn đau kéo dài khoảng vài ba phút trong tắc rut non, 15 20 phút trong tắc đại
tràng. Càng về sau, khoảng cách giữa các cơn đau ngày càng ngắn lại và thời gian cơn đau
ngày càng dài ra. Tc rut giữa phôi thai (midgut) (từ đoạn tá tràng thứ 2 đến 2/3 phi của đại
tràng ngang) thường gây triệu chứng đau quanh rốn. Tc rut cuối phôi thai (hindgut) gây
triu chứng đau bụng quặn cơn vùng hạ v. Tc tut rất cao thường gây đau vùng thượng v
liên tục, kèm theo với nôn ói nhiều.
Một đấu hiu rt quan trng cần quan tâm là sự thay đổi tính chất đau. Nếu bệnh nhân
chuyn t đau bụng quặn cơn sang đau bụng liên tục hoặc đau dữ dội hơn có thể là dấu hiu
ca tc rut do tht hoc thiếu máu ruột, phát hiện tr có thể din tiến đến thng rut.
Nôn ói là dấu hiu sm ca tc ruột cao, và nôn ói giúp giảm triu chứng đau bụng
nên sau nôn thường bnh nhân sẽ d chịu hơn. Nói chung, vị trí bế tắc càng thấp thì triệu
chứng nôn ói càng trễ. Mt s trường hp khi v trí tắc phn thp của đại tràng hoặc lit
rut, triu chứng nôn ói có thể không có. Thời gian tắc càng dài thì chất nôn càng đục ln
cợn, và có thể có tính chất ging dịch như phân.
Khi khai thác bệnh s ca bệnh nhân có hội chng tc rut, cn hi ngay v tin s
phu thut bụng trước đây, về khi phồng trên thành bng hoặc vùng bẹn bìu, hoặc tin s
thoát vị đã biết. Cn cn thận khai thác các triệu chng sụt cân thời gian gần đây, các triệu
chng thiếu máu, thay đổi thói quen đi cầu, các triệu chng v hô hấp, tiền căn phẫu thut
chấn thương và các thuốc đang dùng gần đây.
Khai thác bệnh s chi tiết rt quan trọng, giúp ích rất nhiu trong chẩn đoán nguyên
nhân cũng như thái độ x lý khi điều tr.
- Triu chng thc th:
Bệnh nhân bí trung đại tin nếu vào viện sớm có thể tng trng vẫn còn rất tốt và các
du hiu sinh tn trong gii hạn bình thường. Theo thi gian, triu chứng lâm sàng dần xu
đi. Bệnh nhân có thể có dấu hiu mất nước, vi dấu véo da mất nhanh, khô niêm mạc, nhp
tim nhanh, gim huyết áp. Nên nghĩ đến các biến chứng như thiếu máu hoặc thng nếu bnh
nhân có sốt. Tuy nhiên, một s bệnh lý gây bnh cnh tc rut cũng có hiện ợng viêm gây
sốt, như viêm túi thừa cấp, áp xe quanh đại tràng, các bệnh viêm ruột. St nh 37,5
0
C
38,5
0
C cũng có thể do tình trạng mất nước gây ra.
Khám bụng cần xem xét xem có sẹo m cũ hay không, có khối thoát vị trên thành
bng hoc bẹn bìu hay không, vì tắc ruột do dính và do thoát vị là hai nguyên nhân thường
gp nht ca tc rut.
Chướng bụng là triệu chứng thường gp, nhất là khi vị trí tắc nghẽn đại tràng hoặc lit
rut. V trí bế tắc càng thấp thì dấu hiệu chướng bụng càng rõ. Nếu tc do xon ruột thì chỉ
thấy chướng bụng khu trú ở 1 vùng trong giai đoạn sớm. Trên những bệnh nhân gầy ốm có
th thấy được du hiu quai rut ni hoc du rắn bò. Mun thấy rõ dấu hiu rắn bò phải nhìn
tiếp tuyến với thành bụng trước. Có thể phát hiện du rắn bò bằng cách đặt tay lên thành
bụng, khi cơn đau xuất hin, cảm giác nổi gò ở lòng bàn tay.
Ấn đau bụng nh là triệu chứng thường gặp. Tuy nhiên, ấn đau khu trú hoặc phn ng
thành bụng khu trú có thể là dấu hiu ca thiếu máu ruột hoc thng ruột. Khám bụng có thể
thy khối u trên thành bụng trên những bệnh nhân tắc rut do u hoc lng rut. Cn phi
khám cẩn thận vùng bẹn đùi. Phải nghĩ tới biến chứng thoát vị nght nếu có dấu hiệu đỏ da
hay ấn đau trên khối thoát vị.
Khi nghe, tiếng ruột (bowel sounds) thường mạnh, âm sắc cao và nhiều trong trường
hp tc ruột, và không nghe được tiếng ruột trong trường hp lit rut.
Gõ vang, vì các quai ruột giãn, trướng đầy hơi.
Thăm hậu môn trực tràng có thể phát hiện bóng trực tràng rỗng trong đa số các trường
hp tc rut. Có thể phát hiện khi u trực tràng gây tắc, phân cứng, hoặc bóng trực tràng giãn,
trống trong trường hp lit rut.
d. Cận lâm sàng:
- Xquang:
Xquang bụng đứng không sửa son là phương tiện chẩn đoán lựa chọn đầu tiên.
Dựa vào Xquang bụng đứng không sửa soạn có thể chẩn đoán được có tắc ruột hay không và
v trí tắc ruột non hay đại tràng. Hình ảnh Xquang xut hin rt sm, ch sau 2 gi đã thấy
có hình ảnh mức nước hơi. Nếu kết hp tt vi triu chứng lâm sàng, có thể chẩn đoán được
tc ruột cơ học t 50-60%. Các dấu hiệu trên Xquang bụng không sửa son có thể gp bao
gm: ruột non giãn >3cm, đại tràng xẹp, hình ảnh mực nước hơi, thành ruột dày, và chuỗi
ngc hay chuỗi tràng hạt.
Hình ảnh Xquang bụng đứng không sửa son trong tc rut
Du hiệu Xquang đặc bit ca tc ruột là mực nước hơi. Khi nhiều bòng khí bị nht li
dưới các nếp van rut k nhau và lòng ruột chứa đầy dch s tạo nên hình ảnh chuỗi tràng hạt.
Các quai ruột non thường nm gia bụng, các nếp van rut chy hết chiều ngang thành ruột và
nếp niêm mạc rut non nằm san sát nhau. Ngược lại, đại tràng có khuynh hướng nm phía
ngoài rìa ổ bụng, các nếp van ruột không chiếm hết chiu ngang của thành ruột, và các nếp
van này nằm thưa thớt dc theo chiu quai rut. Trong xoắn đại tràng chậu hông, sẽ thy 1
quai ruột giãn lớn t h chậu lên đến vùng bụng trên. Xquang bụng đứng có thể thy mức khí
dịch, tuy nhiên dấu hiệu này cũng có thể gp trong mt s bệnh lý không có bế tắc đường tiêu
hóa như viêm tụy cấp, áp xe trong ổ bng hoặc sau phúc mạc. Trong tc rut do si mật, có
th thấy hơi trong đường mật do rò mật rut (enterobiliary fistula), du hiu tắc đoạn cui
ruột non và (khoảng 10%) si mt cn quang nm h chu phi tam chứng Rigler’s.
Trong các trường hợp hình ảnh Xquang bụng không sửa soạn không điển hình, có thể
chp nhiu phim, mỗi phim cách nhau vài giờ s giúp ích cho chẩn đoán. Trong trường hp
tc ruột không quá trễ, các hình ảnh di chuyn v trí, mức nước hơi tăng lên, hơi và phân trong
đại tràng giảm đi, thành ruột dày hơn, các quai ruột giãn hơn, dịch trong khoang phúc mạc
nhiều hơn. Nếu bệnh nhân không đứng được, có thể cho bệnh nhân nằm nghiêng hoặc nm
ngửa đầu cao 45
0
để chp.
Xquang ngc thẳng có thể ghi nhận hơi tự do vùng dưới hoành nếu có thủng rut.
Trước đây, chp Xquang vi thuc cản quang tan trong nước được dùng để chẩn đoán
v trí tắc đại tràng hoặc phn thp ca rut non nếu có nghi ngờ.
- Siêu âm :
Siêu âm cũng là phương tiện rất có giá trị trong chẩn đoán các trường hợp bí trung đại
tiện. Siêu âm có thể thy quai ruột giãn ≥ 2,5cm, chứa dch rut nm cnh quai rut xp. Du
hiệu máy giặt do dch rut dch chuyn tới lui trong lòng ruột b giãn. Trong bnh cnh tắc đại
tràng, siêu âm có thể thy nhiều đốm echo trong lòng ruột giãn và ít sóng nhu động trong các
quai ruột giãn này. Siêu âm doppler giúp đánh giá tình trạng tưới máu của quai rut.
- Xquang điện toán cắt lp
Phương tiện hình ảnh học thông thường được s dụng để chẩn đoán tc rut
Xquang điện toán cắt lớp. Đây là phương tiện đặc bit hữu ích trong chẩn đoán các bệnh lý
bng cấp tính. Nó giúp chẩn đoán tắc rut hay lit rut, chẩn đoán vị trí tắc, ngun nhân gây
tc ruột và nhận din du hiệu nguy cơ biến chứng nhưng thủng rut hay thiếu máu ruột.
Trong trường hp bệnh lý ác tính, Xquang điện toán cắt lớp giúp chẩn đoán giai đoạn ung thư,
như mức độ xâm lấn ti ch, hạch di căn và các dấu hiệu di căn trong ổ bng. Du hiu
chuyn tiếp giữa đoạn ruột giãn phía trên và đoạn rut xẹp phía dưới là dấu hiu ch điểm ca
tc ruột, cũng là dấu hiu cn phi can thip phu thuật để x lý nguyên nhân. Dấu hiu thiếu
máu nuôi của ruột là thành ruột dày, dấu hiệu hình bia, dịch bng, quai ruột không bt thuc
cản quang, hơi trong thành ruột, hình ảnh xon ca mạch máu mạc treo rut.
- Xét nghiệm:
Tăng số ng bch cu, hoc Protein phn ứng C (CRP) có thể là dấu hiu ca
nguyên nhân viêm gây tắc rut, hoc biến chng ca tc ruột như thiếu máu hay thng rut.
Du hiu mất nước thường gp trong tc ruột non và suy thận cấp trước thận có thể
xy ra vi biu hiện tăng Urea máu và Creatinin máu. Có thể gp ri loạn điện giải như hạ
Clo máu, hạ Kali máu. Phải nghĩ đến kh năng thiếu máu ruột nếu có dấu hiu toan chuyn
hóa hoặc tăng amylase máu.
e. Tiếp cn chẩn đoán:
Khi gp mt bệnh nhân đến bnh viện vì không đi cầu được, ta phải phân biệt với tình
trạng táo bón. Táo bón là tình trạng không đi cầu trong nhiều ngày, tuy nhiên vẫn có thể trung
tiện được, thường không đau bụng quặn cơn, chướng bụng hay nôn ói. Thăm trực tràng là
cách đơn giản nhất giúp phân biệt táo bón (đầy phân cứng trong bóng trực tràng) hay hội
chng tc ruột (bóng trực tràng rỗng).
Khi đã xác định bệnh nhân có bí trung đại tin (đơn thun hoc kèm theo nhng triu
chng ca hi chng tc rut), ta phi hi bnh s, tiền căn và thăm khám kỹ ỡng để tr li
những câu hỏi sau:
1. Bệnh nhân này là tắc ruột cơ học hay lit rut? (nếu là liệt rut tìm nguyên nhân
lit ruột và xử trí tùy nguyên nhân)
2. Nếu là tắc ruột cơ học, có dấu hiệu nào trên lâm sàng nghi ngờ có thiếu máu ruột hoc
viêm phúc mạc không ? Thiếu máu ruột hay viêm phúc mạc gp trong tc rut do tht
nght, hoc mt s trường hp tc ruột do bít giai đoạn tr . Nếu có cân nhắc ch
định phu thut sớm, có thể không cần xác định nguyên nhân hay vị trí tắc.
3. Nếu ch là tắc ruột do bít (tắc ruột đơn thuần) chưa có biến chng thiếu máu hay viêm
phúc mạc, tình trạng tc nghẽn là hoàn toàn hay chỉ bán tắc rut?
4. V trí nghi ngờ tc đâu, ruột non hay ruột già?
5. Nguyên nhân nghi ngờ gây tắc là gì?
6. Biến chứng toàn thân có hay chưa?
Lưu đồ tiếp cn chẩn đoán hi chng tc nghẽn đường tiêu hoá dưới
Tài liệu tham kho:
1. P.G. Jackson, and M. Raiji, “Evaluation and Management of Intestinal Obstruction”,
Advanced research in Gastroenterology and Hepatology, Vol 4, issue 2, 2017
2. A.J. Hayanga, K. Bass-Wilkins, G.B. Bulkley, “Current Management of Small-Bowel
Obstruction”, in Advances in surgery, Vol 39, 2005
3. E.P.Weledji, “Perspectives on Large Bowel Obstruction”, International Journal of Surgery,
2017
4. E.P.Weledji, “Perspectives on Mechanical Small Bowel Obstruction in Adults”, Advanced
research in Gastroenterology and Hepatology, Vol 4, issue 2, 2017
5. Vincenzo Neri, “Management of Intestinal Obstruction”, in Actual Problems of Emergency
Abdominal Surgery, Chapter 2, 2016
6. Kevin McCallion, “Intestinal obstruction”, in Gastrointestinal emergencies, Third Edition,
chapter 30, 2016
7. Đỗ Đình Công, “Tắc ruột cơ học”, trong Bệnh hc ngoại khoa tiêu hóa, NXB Y Học, năm
2011, trang 195.
| 1/7

Preview text:

TIẾP CẬN BỆNH NHÂN BÍ TRUNG ĐẠI TIỆN BS.NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
Mục tiêu học tập:
1. Có khả năng tiếp cận chẩn đoán một bệnh nhân có triệu chứng bí trung đại tiện
2. Hiểu được chỉ định của một số cận lâm sàng cơ bản cần thiết cho chẩn đoán liên quan
đến bí trung đại tiện Mục lục: I. Giới thiệu
II. Hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới: a. Định nghĩa b. Nguyên nhân c. Triệu chứng lâm sàng
d. Một số cận lâm sàng liên quan e. Tiếp cận chẩn đoán III. Kết luận I. Giới thiệu:
Tắc nghẽn đường tiêu hóa là một tình trạng cấp cứu thường gặp trong ngoại khoa.
Tùy vào vị trí tắc nghẽn và nguyên nhân gây tắc mà triệu chứng lâm sàng có thể biểu hiện khác nhau.
Sự phân chia đường tiêu hóa trên và dưới thực sự không rõ ràng và có nhiều cách.
Theo phôi thai học, dựa vào nguồn gốc ruột trước, ruột giữa và ruột sau, người ta chia
đường tiêu hóa ra thành tiêu hóa trên (từ miệng đến nhú tá lớn của tá tràng), giữa (từ
nhú tá lớn đến giữa đại tràng (ĐT) ngang), và dưới (giữa ĐT ngang đến hậu môn). Theo
quan điểm cổ điển, đường tiêu hóa được chia thành tiêu hóa trên (từ miệng đến van hồi
manh tràng), và dưới (từ manh tràng đến hậu môn). Theo quan điểm về xuất huyết tiêu
hóa, đường tiêu hóa lại được chia thành tiêu hóa trên và dưới tại ranh giới góc tá-hỗng
tràng (góc Treitz). Tác giả bài viết cũng tạm chia theo ranh giới này, vì tắc nghẽn phía
trên và phía dưới góc tá-hỗng tràng có biểu hiện lâm sàng cũng như cách điều trị hoàn toàn khác nhau.
Tắc nghẽn đường tiêu hóa trên bao gồm hai nhóm bệnh chính là tắc thực quản và tắc
đường thoát dạ dày (gastric outlet obstruction). Tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới, bao
gồm ruột non và đại trực tràng, gọi chung là tắc ruột. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ
tìm hiểu về những triệu chứng của tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới, cách tiếp cận lâm
sàng, và một số cận lâm sàng cần thiết cho chẩn đoán.
II. Hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hóa dưới: a. Định nghĩa:
Hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hoá dưới là tình trạng bế tắc hoặc ứ trệ lưu thông
trong ống tiêu hóa từ hỗng tràng trở xuống. Đây là triệu chứng thường gặp trong cấp cứu
bụng và thường được chia thành 2 nhóm: tắc ruột cơ học (hay gọi tắt là tắc ruột) và tắc ruột cơ
năng (hay liệt ruột). Tắc ruột xảy ra khi có sự bế tắc đường lưu thông, còn liệt ruột xảy ra khi
có tình trạng mất nhu động của ruột mà không có nguyên nhân tắc nghẽn cụ thể nào.
Tình trạng lâm sàng thay đổi tùy theo vị trí thương tổn, tốc độ khởi phát, nguyên nhân
gây hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hoá dưới. Thông thường, hội chứng tắc nghẽn đường tiêu
hoá dưới, với biểu hiện quan trọng nhất là bí trung đại tiện, sẽ đi kèm với các triệu chứng: đau
bụng quặn cơn, nôn ói và chướng bụng. Một số trường hợp, bệnh nhân chỉ có triệu chứng bí
trung đại tiện, những triệu chứng còn lại rất ít, hoặc không rõ ràng, khiến cho quá trình chẩn
đoán và xử lý gặp nhiều khó khăn. b. Nguyên nhân: - Tắc ruột:
Nguyên nhân của tắc ruột được chia thành ba nhóm: + Trong lòng ruột:
Các loại thức ăn khó tiêu hóa có thể gây ra tắc ruột, đặc biệt ở trẻ em và những bệnh
nhân gặp khó khăn trong việc tiêu hóa thức ăn như đã mổ cắt dạ dày hoặc những bệnh nhân bị
rối loạn tâm thần…Bã phân cũng có thễ gây táo bón nặng. Một số hiếm trường hợp, trên
những bệnh nhân bị suy nhược hoặc lớn tuổi, bã phân này có thể gây ra tắc ruột và thủng ruột
tại vị trí khối phân gây tắc.
Sỏi mật trong lòng ruột là những khối sỏi lớn trong túi mật, xuyên qua thành túi mật
vào lòng ruột qua đường rò túi mật – tá tràng. Khối sỏi mật này có thể gây ra tắc ruột, thường
gặp tại vị trí van hồi manh tràng. Thông thường, nếu khối sỏi mật này kẹt lại tá tràng, sẽ gây
ra hội chứng tắc nghẽn đường ra của dạ dày (hội chứng Bouveret). + Trên thành ruột:
Các tổn thương trên thành ruột gây ra chít hẹp lòng ruột, sẽ gây tắc nghẽn lưu thông
trong lòng ruột. Các tổn thương ác tính là nguyên nhân thường gặp nhất ở người lớn. Với
bệnh nhân có triệu bí trung đại tiện là chủ yếu, nguyên nhân thường gặp nhất là ung thư đại
trực tràng, thưởng ít nhất trên 50% số trường hợp. Vị trí thường gặp nhất là đại tràng chậu
hông, kế đến là đại tràng góc lách. Tuy nhiên, chít hẹp lòng ruột còn có thể do các tổn thương
lành tính như các bệnh viêm đường ruột (Bệnh Crohn’s là thường gặp nhất), bệnh túi thừa đại
tràng, chít hẹp do viêm mạn tính, sau sử dụng thuốc (các thuốc NSAIDS), sau xạ trị hoặc phẫu thuật… + Ngoài thành ruột:
Nguyên nhân thường gặp nhất của tắc ruột là dính ruột. Tỉ lệ tắc ruột do dính đang
ngày càng giảm dần, do xu hướng sử dụng găng không bột rộng rãi và cải tiến về kỹ thuật
phẫu thuật, bao gồm cả thành công của phẫu thuật nội soi.
Thoát vị cũng là nguyên nhân thường gặp của tắc ruột, nguyên nhân là do tắc ngẽn lưu
thông ống tiêu hóa tại cổ túi thoát vị. Thoát vị bẹn là nguyên nhân của đa số các trường hợp
tắc ruột do thoát vị. Tuy nhiên, bệnh nhân bị thoát vị đùi thường bị tắc ruột, do ống đùi nằm
sâu và chắc. Thoát vị đùi thường gặp ở những bệnh nhân vừa mới giảm cân đáng kể, gây ra
giảm mô mỡ trong ống đùi. Một số ít trường hợp hiếm gặp trên những bệnh nhân nữ lớn tuổi,
kèm với thể trạng gầy, có thể gặp tắc ruột do thoát vị qua lỗ bịt.
Xoắn ruột xảy ra khi một đoạn ruột tự xoay quanh trục mạc treo, từ đó gây ra tắc ruột
quai kín. Tắc ruột quai kín nghĩa xảy ra khi 1 đoạn ruột bị tắc cả đầu gần và đầu xa, do đó
không có hướng giải áp đoạn ruột này. Xoắn ruột thường gặp nhất là ở đại tràng chậu hông, ở
những bệnh nhân có đại tràng chậu hông dài mà chân mạc treo, nơi bán vào thành bụng sau
ngắn, đại tràng chậu hông là đoạn chứa phân đã đóng khuân. Tuy nhiên có thể xảy ra ở bất cứ
điểm nào dọc theo chiều dài ống tiêu hóa, như xoắn dạ dày, xoắn ruột non, xoắn manh tràng.
Thoát vị, dây dính, thoát vị nội, xoắn ruột là những nguyên nhân chủ yếu của tắc ruột
do thắt. Chuẩn đoán lâm sàng để phân biệt tắc ruột đơn thuần và tắc ruột do thắt thường gặp
nhiều khó khăn, tuy nhiên cần lưu ý đến tắc ruột do thắt nếu bệnh nhân có biểu hiện sốt, mạch
nhanh, bụng ấn đau, khối thoát vị đau, hoặc tăng bạch cầu.
- Liệt ruột (Paralytic ileus / adynamic obstruction):
Liệt ruột gây ra do sự thiếu vắng nhu động ruột do rối loạn đường dẫn truyền thần
kinh. Liệt ruột xảy ra ở đại tràng thường được gọi là hội chứng giả tắc ruột – hội chứng
Ogilvie. Sự thiếu vắng nhu động ruột sẽ gây ra ứ trệ dịch và hơi trong lòng ruột. Liệt ruột
thường gặp nhất trên những bệnh nhân sau phẫu thuật ổ bụng, và thường kéo dài không quá
48 – 72 giờ. Liệt ruột sau mổ kéo dài nên nghi ngờ có nguyên nhân như nhiễm trùng ổ bụng,
chảy máu trong ổ bụng, rối loạn chuyển hóa hoặc thoát vị lỗ troca trên những bệnh nhân được
phẫu thuật nội soi. Những nguyên nhân khác của liệt ruột bao gồm viêm phổi, rối loạn điện
giải, tổn thương cột sống, chấn thương hoặc chảy máu vùng sau phúc mạc, thiếu máu mạc
treo, viêm tụy cấp và các thuốc như thuốc ức chế ba vòng…
c. Triệu chứng lâm sàng:
- Triệu chứng cơ năng:
Vị trí tắc nghẽn quan trọng quyết định bệnh cảnh lâm sàng. Tắc ruột non ở đoạn gần
thường triệu chứng rầm rộ, với triệu chứng nôn ói là chủ yếu, trong khi tắc ruột thấp thì triệu
chứng chậm hơn, tắc ruột ở vị trí nửa đại tràng trái hoặc trực tràng thì triệu chứng khởi phát
âm thầm, khởi đầu với bí trung đại tiện là chủ yếu. Trường hợp điển hình, bệnh nhân bí trung
đại tiện thông thường sẽ đi kèm với đau bụng quặn cơn, nôn ói, và chướng bụng. Bệnh nhân
tắc ruột cao trong 24 giờ đầu vẫn có thể còn trung tiện hoặc đại tiện được do hơi và phân còn
sót lại bên dưới chỗ tắc. Do vậy, triệu chứng bí trung đại tiện thường được xét từ thời điểm 24
giờ sau khởi phát cơn đau bụng.
Mức độ chướng bụng phụ thuộc vào vị trí tắc nghẽn. Bí trung đại tiện và chướng bụng
thường đi kèm với nhau. Nếu tắc ruột ở đại tràng hoặc phần thấp của ruột non, chướng bụng
thường dễ nhận thấy. Ngược lại, tắc ruột cao hoặc tắc ruột quai kín thường chướng bụng rất ít
hoặc bệnh nhân không cảm nhận được.
Triệu chứng đau của tắc ruột là đau bụng quặn cơn (colicky visceral pain). Cơn đau
thường không kiểm soát được, và không có tư thế giảm đau. Đau khiến bệnh nhân không dám
cử động có thể là do tắc ruột biến chứng của viêm phúc mạc. Mỗi cơn đau kéo dài khoảng 30
giây, các cơn đau kéo dài khoảng vài ba phút trong tắc ruột non, 15 – 20 phút trong tắc đại
tràng. Càng về sau, khoảng cách giữa các cơn đau ngày càng ngắn lại và thời gian cơn đau
ngày càng dài ra. Tắc ruột giữa phôi thai (midgut) (từ đoạn tá tràng thứ 2 đến 2/3 phải của đại
tràng ngang) thường gây triệu chứng đau quanh rốn. Tắc ruột cuối phôi thai (hindgut) gây
triệu chứng đau bụng quặn cơn vùng hạ vị. Tắc tuột rất cao thường gây đau vùng thượng vị
liên tục, kèm theo với nôn ói nhiều.
Một đấu hiệu rất quan trọng cần quan tâm là sự thay đổi tính chất đau. Nếu bệnh nhân
chuyển từ đau bụng quặn cơn sang đau bụng liên tục hoặc đau dữ dội hơn có thể là dấu hiệu
của tắc ruột do thắt hoặc thiếu máu ruột, phát hiện trễ có thể diễn tiến đến thủng ruột.
Nôn ói là dấu hiệu sớm của tắc ruột cao, và nôn ói giúp giảm triệu chứng đau bụng
nên sau nôn thường bệnh nhân sẽ dễ chịu hơn. Nói chung, vị trí bế tắc càng thấp thì triệu
chứng nôn ói càng trễ. Một số trường hợp khi vị trí tắc ở phần thấp của đại tràng hoặc liệt
ruột, triệu chứng nôn ói có thể không có. Thời gian tắc càng dài thì chất nôn càng đục lợn
cợn, và có thể có tính chất giống dịch như phân.
Khi khai thác bệnh sử của bệnh nhân có hội chứng tắc ruột, cần hỏi ngay về tiền sử
phẫu thuật bụng trước đây, về khối phồng trên thành bụng hoặc vùng bẹn bìu, hoặc tiền sử
thoát vị đã biết. Cần cẩn thận khai thác các triệu chứng sụt cân thời gian gần đây, các triệu
chứng thiếu máu, thay đổi thói quen đi cầu, các triệu chứng về hô hấp, tiền căn phẫu thuật
chấn thương và các thuốc đang dùng gần đây.
Khai thác bệnh sử chi tiết rất quan trọng, giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán nguyên
nhân cũng như thái độ xử lý khi điều trị.
- Triệu chứng thực thể:

Bệnh nhân bí trung đại tiện nếu vào viện sớm có thể tổng trạng vẫn còn rất tốt và các
dấu hiệu sinh tồn trong giới hạn bình thường. Theo thời gian, triệu chứng lâm sàng dần xấu
đi. Bệnh nhân có thể có dấu hiệu mất nước, với dấu véo da mất nhanh, khô niêm mạc, nhịp
tim nhanh, giảm huyết áp. Nên nghĩ đến các biến chứng như thiếu máu hoặc thủng nếu bệnh
nhân có sốt. Tuy nhiên, một số bệnh lý gây bệnh cảnh tắc ruột cũng có hiện tượng viêm gây
sốt, như viêm túi thừa cấp, áp xe quanh đại tràng, các bệnh viêm ruột. Sốt nhẹ 37,50C –
38,50C cũng có thể do tình trạng mất nước gây ra.
Khám bụng cần xem xét xem có sẹo mổ cũ hay không, có khối thoát vị trên thành
bụng hoặc bẹn bìu hay không, vì tắc ruột do dính và do thoát vị là hai nguyên nhân thường
gặp nhất của tắc ruột.
Chướng bụng là triệu chứng thường gặp, nhất là khi vị trí tắc nghẽn đại tràng hoặc liệt
ruột. Vị trí bế tắc càng thấp thì dấu hiệu chướng bụng càng rõ. Nếu tắc do xoắn ruột thì chỉ
thấy chướng bụng khu trú ở 1 vùng trong giai đoạn sớm. Trên những bệnh nhân gầy ốm có
thể thấy được dấu hiệu quai ruột nổi hoặc dấu rắn bò. Muốn thấy rõ dấu hiệu rắn bò phải nhìn
tiếp tuyến với thành bụng trước. Có thể phát hiện dấu rắn bò bằng cách đặt tay lên thành
bụng, khi cơn đau xuất hiện, cảm giác nổi gò ở lòng bàn tay.
Ấn đau bụng nhẹ là triệu chứng thường gặp. Tuy nhiên, ấn đau khu trú hoặc phản ứng
thành bụng khu trú có thể là dấu hiệu của thiếu máu ruột hoặc thủng ruột. Khám bụng có thể
thấy khối u trên thành bụng trên những bệnh nhân tắc ruột do u hoặc lồng ruột. Cần phải
khám cẩn thận vùng bẹn đùi. Phải nghĩ tới biến chứng thoát vị nghẹt nếu có dấu hiệu đỏ da
hay ấn đau trên khối thoát vị.
Khi nghe, tiếng ruột (bowel sounds) thường mạnh, âm sắc cao và nhiều trong trường
hợp tắc ruột, và không nghe được tiếng ruột trong trường hợp liệt ruột.
Gõ vang, vì các quai ruột giãn, trướng đầy hơi.
Thăm hậu môn trực tràng có thể phát hiện bóng trực tràng rỗng trong đa số các trường
hợp tắc ruột. Có thể phát hiện khối u trực tràng gây tắc, phân cứng, hoặc bóng trực tràng giãn,
trống trong trường hợp liệt ruột. d. Cận lâm sàng: - Xquang:
Xquang bụng đứng không sửa soạn
là phương tiện chẩn đoán lựa chọn đầu tiên.
Dựa vào Xquang bụng đứng không sửa soạn có thể chẩn đoán được có tắc ruột hay không và
vị trí tắc ở ruột non hay đại tràng. Hình ảnh Xquang xuất hiện rất sớm, chỉ sau 2 giờ đã thấy
có hình ảnh mức nước hơi. Nếu kết hợp tốt với triệu chứng lâm sàng, có thể chẩn đoán được
tắc ruột cơ học từ 50-60%. Các dấu hiệu trên Xquang bụng không sửa soạn có thể gặp bao
gồm: ruột non giãn >3cm, đại tràng xẹp, hình ảnh mực nước hơi, thành ruột dày, và chuỗi
ngọc hay chuỗi tràng hạt.
Hình ảnh Xquang bụng đứng không sửa soạn trong tắc ruột
Dấu hiệu Xquang đặc biệt của tắc ruột là mực nước hơi. Khi nhiều bòng khí bị nhốt lại
dưới các nếp van ruột kề nhau và lòng ruột chứa đầy dịch sẽ tạo nên hình ảnh chuỗi tràng hạt.
Các quai ruột non thường nằm giữa bụng, các nếp van ruột chạy hết chiều ngang thành ruột và
nếp niêm mạc ruột non nằm san sát nhau. Ngược lại, đại tràng có khuynh hướng nằm ở phía
ngoài rìa ổ bụng, các nếp van ruột không chiếm hết chiều ngang của thành ruột, và các nếp
van này nằm thưa thớt dọc theo chiều quai ruột. Trong xoắn đại tràng chậu hông, sẽ thấy 1
quai ruột giãn lớn từ hố chậu lên đến vùng bụng trên. Xquang bụng đứng có thể thấy mức khí
dịch, tuy nhiên dấu hiệu này cũng có thể gặp trong một số bệnh lý không có bế tắc đường tiêu
hóa như viêm tụy cấp, áp xe trong ổ bụng hoặc sau phúc mạc. Trong tắc ruột do sỏi mật, có
thể thấy hơi trong đường mật do rò mật – ruột (enterobiliary fistula), dấu hiệu tắc đoạn cuối
ruột non và (khoảng 10%) sỏi mật cản quang nằm ở hố chậu phải – tam chứng Rigler’s.
Trong các trường hợp hình ảnh Xquang bụng không sửa soạn không điển hình, có thể
chụp nhiều phim, mỗi phim cách nhau vài giờ sẽ giúp ích cho chẩn đoán. Trong trường hợp
tắc ruột không quá trễ, các hình ảnh di chuyển vị trí, mức nước hơi tăng lên, hơi và phân trong
đại tràng giảm đi, thành ruột dày hơn, các quai ruột giãn hơn, dịch trong khoang phúc mạc
nhiều hơn. Nếu bệnh nhân không đứng được, có thể cho bệnh nhân nằm nghiêng hoặc nằm
ngửa đầu cao 450 để chụp.
Xquang ngực thẳng có thể ghi nhận hơi tự do vùng dưới hoành nếu có thủng ruột.
Trước đây, chụp Xquang với thuốc cản quang tan trong nước được dùng để chẩn đoán
vị trí tắc đại tràng hoặc phần thấp của ruột non nếu có nghi ngờ. - Siêu âm :
Siêu âm cũng là phương tiện rất có giá trị trong chẩn đoán các trường hợp bí trung đại
tiện. Siêu âm có thể thấy quai ruột giãn ≥ 2,5cm, chứa dịch ruột nằm cạnh quai ruột xẹp. Dấu
hiệu máy giặt do dịch ruột dịch chuyển tới lui trong lòng ruột bị giãn. Trong bệnh cảnh tắc đại
tràng, siêu âm có thể thấy nhiều đốm echo trong lòng ruột giãn và ít sóng nhu động trong các
quai ruột giãn này. Siêu âm doppler giúp đánh giá tình trạng tưới máu của quai ruột.
- Xquang điện toán cắt lớp

Phương tiện hình ảnh học thông thường được sử dụng để chẩn đoán tắc ruột là
Xquang điện toán cắt lớp. Đây là phương tiện đặc biệt hữu ích trong chẩn đoán các bệnh lý
bụng cấp tính. Nó giúp chẩn đoán tắc ruột hay liệt ruột, chẩn đoán vị trí tắc, nguyên nhân gây
tắc ruột và nhận diện dấu hiệu nguy cơ biến chứng nhưng thủng ruột hay thiếu máu ruột.
Trong trường hợp bệnh lý ác tính, Xquang điện toán cắt lớp giúp chẩn đoán giai đoạn ung thư,
như mức độ xâm lấn tại chỗ, hạch di căn và các dấu hiệu di căn trong ổ bụng. Dấu hiệu
chuyển tiếp giữa đoạn ruột giãn phía trên và đoạn ruột xẹp phía dưới là dấu hiệu chỉ điểm của
tắc ruột, cũng là dấu hiệu cần phải can thiệp phẫu thuật để xử lý nguyên nhân. Dấu hiệu thiếu
máu nuôi của ruột là thành ruột dày, dấu hiệu hình bia, dịch bụng, quai ruột không bắt thuốc
cản quang, hơi trong thành ruột, hình ảnh xoắn của mạch máu mạc treo ruột. - Xét nghiệm:
Tăng số lượng bạch cầu, hoặc Protein phản ứng C (CRP) có thể là dấu hiệu của
nguyên nhân viêm gây tắc ruột, hoặc biến chứng của tắc ruột như thiếu máu hay thủng ruột.
Dấu hiệu mất nước thường gặp trong tắc ruột non và suy thận cấp trước thận có thể
xảy ra với biểu hiện tăng Urea máu và Creatinin máu. Có thể gặp rối loạn điện giải như hạ
Clo máu, hạ Kali máu. Phải nghĩ đến khả năng thiếu máu ruột nếu có dấu hiệu toan chuyển
hóa hoặc tăng amylase máu.
e. Tiếp cận chẩn đoán:
Khi gặp một bệnh nhân đến bệnh viện vì không đi cầu được, ta phải phân biệt với tình
trạng táo bón. Táo bón là tình trạng không đi cầu trong nhiều ngày, tuy nhiên vẫn có thể trung
tiện được, thường không đau bụng quặn cơn, chướng bụng hay nôn ói. Thăm trực tràng là
cách đơn giản nhất giúp phân biệt táo bón (đầy phân cứng trong bóng trực tràng) hay hội
chứng tắc ruột (bóng trực tràng rỗng).
Khi đã xác định bệnh nhân có bí trung đại tiện (đơn thuần hoặc kèm theo những triệu
chứng của hội chứng tắc ruột), ta phải hỏi bệnh sử, tiền căn và thăm khám kỹ lưỡng để trả lời những câu hỏi sau:
1. Bệnh nhân này là tắc ruột cơ học hay liệt ruột? (nếu là liệt ruột  tìm nguyên nhân
liệt ruột và xử trí tùy nguyên nhân)
2. Nếu là tắc ruột cơ học, có dấu hiệu nào trên lâm sàng nghi ngờ có thiếu máu ruột hoặc
viêm phúc mạc không ? Thiếu máu ruột hay viêm phúc mạc gặp trong tắc ruột do thắt
nghẹt, hoặc một số trường hợp tắc ruột do bít giai đoạn trễ . Nếu có  cân nhắc chỉ
định phẫu thuật sớm, có thể không cần xác định nguyên nhân hay vị trí tắc.
3. Nếu chỉ là tắc ruột do bít (tắc ruột đơn thuần) chưa có biến chứng thiếu máu hay viêm
phúc mạc, tình trạng tắc nghẽn là hoàn toàn hay chỉ bán tắc ruột?
4. Vị trí nghi ngờ tắc ở đâu, ruột non hay ruột già?
5. Nguyên nhân nghi ngờ gây tắc là gì?
6. Biến chứng toàn thân có hay chưa?
Lưu đồ tiếp cận chẩn đoán hội chứng tắc nghẽn đường tiêu hoá dưới
Tài liệu tham khảo:
1. P.G. Jackson, and M. Raiji, “Evaluation and Management of Intestinal Obstruction”,
Advanced research in Gastroenterology and Hepatology, Vol 4, issue 2, 2017
2. A.J. Hayanga, K. Bass-Wilkins, G.B. Bulkley, “Current Management of Small-Bowel
Obstruction”, in Advances in surgery, Vol 39, 2005
3. E.P.Weledji, “Perspectives on Large Bowel Obstruction”, International Journal of Surgery, 2017
4. E.P.Weledji, “Perspectives on Mechanical Small Bowel Obstruction in Adults”, Advanced
research in Gastroenterology and Hepatology, Vol 4, issue 2, 2017
5. Vincenzo Neri, “Management of Intestinal Obstruction”, in Actual Problems of Emergency
Abdominal Surgery, Chapter 2, 2016
6. Kevin McCallion, “Intestinal obstruction”, in Gastrointestinal emergencies, Third Edition, chapter 30, 2016
7. Đỗ Đình Công, “Tắc ruột cơ học”, trong Bệnh học ngoại khoa tiêu hóa, NXB Y Học, năm 2011, trang 195.