









Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59114765       lOMoAR cPSD| 59114765 MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 
NỘI DUNG1. Thiên nhiên có ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển nông 
nghiệp ................................................................................................................. 1 
Việt Nam ......................................................................................................... 1 
1.1.Tài nguyên đất ................................................................................... 1 
1.2. Tài nguyên khí hậu ........................................................................... 2 
1.3. Tài nguyên nước ............................................................................... 3 
1.4 Tài nguyên sinh vật ........................................................................... 3 
2.Hãy đề xuất những giải pháp căn cơ để nước ta có thể trở thành nhà xuất 
khẩu nông sản lớn và theo hướng bền vững ................................................... 3 
2.1.Thực trạng ......................................................................................... 3 
2.2 Giải pháp ........................................................................................... 5 
2.2.1 Cải thiện chất lượng, mở rộng thị trường ........................................... 5 
2.2.2. Hướng tới nông nghiệp công nghệ cao ............................................. 6 
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 7        lOMoAR cPSD| 59114765 MỞ ĐẦU 
Người Việt coi trọng nghề nông, minh triết của người Việt coi nông nghiệp 
là gốc của mọi thứ trong xã hội, ‘canh nông vi bản’. Ngày nay nông nghiệp không 
chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (‘yên dân’), mà còn 
là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện 
thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có 
nền nông nghiệp còn chưa phát triển. Trong năm 2020, tác động tiêu cực của đại 
dịch Covid-19 khiến nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ bị đình đốn thì sản xuất 
nông nghiệp của Việt Nam vẫn phát triển, vẫn đảm bảo ổn định an ninh lương 
thực trong nước và duy trì xuất khẩu nông sản. Những kết quả này rất quan trọng, 
xét trong bối cảnh khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% 
người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13.96% trong GDP (Tổng cục thống 
kê, 2019). Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn tồn tại những thách thức và điểm 
yếu nghiêm trọng cần sớm khắc phục và giải quyết. 
Sau đây em xin trình bày đề tài : “Thiên nhiên có ảnh hưởng như thế 
nào đối với sự phát triển nông nghiệp Việt Nam ? Hãy đề xuất những giải 
pháp căn cơ để nước ta có thể trở thành nhà xuất khẩu nông sản lớn và theo 
hướng bền vững.” 
NỘI DUNG 1. Thiên nhiên có ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển  nông nghiệp  Việt Nam 
1.1.Tài nguyên đất 
 Là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu không thể thay thế được của ngành  nông nghiệp. 
Tài nguyên đất ở nước ta khá đa dạng với 14 nhóm đất khác nhau, trong đó 
có hai nhóm đất chiếm diện tích lớn nhất là đất feralit và đất phù sa.      lOMoAR cPSD| 59114765
+ Đất phù sa: khoảng 3 triệu ha tập trung tại các đồng bằng thích hợp nhất với 
cây lúa nước và các cây ngắn ngày khác. 
+ Đất feralit: chiếm diện tích trên 16 triệu ha chủ yếu ở trung du, miền núi thích 
hợp cho việc trồng cây công nghiệp lâu năm như chè, cà phê, cao su… cây ăn 
quả và một số cây ngắn ngày như sắn, ngô, khoai, đậu. 
Diện tích đất nông nghiệp hiện nay là hơn 9 triệu ha do đó việc sử dụng 
hợp lí các tài nguyên đất là rất quan trọng đối với phát triển nông nghiệp của nước  ta. 
 Khó khăn: còn nhiều diện tích đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, xói mòn, 
bạc màu, cần phải cải tạo. 
1.2. Tài nguyên khí hậu 
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, do đó cây cối xanh tươi quanh 
năm sinh trưởng nhanh,sản xuất nhiều vụ trong năm. Khí hậu thích hợp cho nhiều 
loại cây công nghiệp, cây ăn quả. 
Sự phân hoá đa dạng của khí hậu nước ta theo mùa và theo không gian lãnh 
thổ tạo cho cơ cấu cây trồng đa dạng có thể trồng được các loại cây nhiệt đới, cận 
nhiệt, ôn đới. Ví dụ: miền Bắc có mùa đông lạnh, miền núi và cao nguyên có khí 
hậu mát mẻ nên trồng được rất nhiều loại cây ôn đới, cận nhiệt đới: khoai tây, cải 
bắp, su hào, táo, lê, mận, chè… 
Ngoài ra cơ cấu mùa vụ và cơ cấu cây trồng còn có sự khác nhau giữa các  vùng. 
Những tai biến thiên nhiên thường gây khó khăn lớn cho sản xuất nông 
nghiệp như bão, gió tây khô nóng, sương muối, rét hại…. Khí hậu nóng ẩm còn 
là môi trường thuận lợi cho các loại nấm mốc, sâu bệnh có hại phát triển….Tất 
cả các khó khăn đó làm ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng cây trồng vật  nuôi.      lOMoAR cPSD| 59114765
1.3. Tài nguyên nước 
Nước ta có mạng lưới sông ngòi, hồ ao dày đặc với lượng nước dồi dào, 
phong phú có giá trị lớn cho sản xuất nông nghiệp. 
Nguồn nước ngầm cũng rất dồi dào để giải quyết nước tưới nhất là mùa  khô 
 Khó khăn: lũ lụt vào mùa mưa, hạn hán vào mùa khô do đó thuỷ lợi là biện 
pháp hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp nước ta, vì:Chống lũ lụt vào mùa 
mưa.Cung cấp nước tưới vào mùa khôCải tạo đất mở rộng diện tích đất canh tác; 
Tăng vụ, thay đổi cơ cấu mùa vụ và cây trồng tạo ra năng suất và sản lượng cây  trồng cao 
1.4 Tài nguyên sinh vật 
Nước ta có nguồn tài nguyên thực động vật phong phú, là cơ sở để nhân 
dân ta thuần dưỡng lai tạo nên các giống cây trồng vật nuôi có chất lượng tốt 
thích nghi cao với điều kiện sinh thái của từng địa phương.  Khó khăn 
+ Tài nguyên sinh vật đang dần cạn kiệt  + Ô nhiễm môi trường 
2.Hãy đề xuất những giải pháp căn cơ để nước ta có thể trở thành nhà xuất 
khẩu nông sản lớn và theo hướng bền vững .  2.1.Thực trạng 
Thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến việc xuất khẩu nhiều 
mặt hàng nông sản của Việt Nam gặp khó khăn, đình trệ. Trước tình hình này, 
nhiều biện pháp đã được đưa ra, trong đó có việc vận động các tổ chức, cá nhân 
và xã hội “giải cứu” các mặt hàng nông sản đang bị tồn đọng.      lOMoAR cPSD| 59114765
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhiều mặt hàng nông sản có thế mạnh 
trong xuất khẩu của Việt Nam, như thanh long, dưa hấu, sầu riêng, cam, cho tới 
các mặt hàng thủy sản như tôm, cua… đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc 
xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang Trung Quốc. Tình trạng ùn ứ nông sản do không 
tiêu thụ được diễn ra từ vườn cây, hồ, đầm cho tới các cửa khẩu đã khiến nhiều 
nông dân điêu đứng, thậm chí phá sản, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển của  ngành nông nghiệp. 
Trước tình hình đó, nhiều cá nhân, tổ chức ở các địa phương thực hiện 
chiến dịch kêu gọi “giải cứu” nông sản như là động thái chia sẻ với người nông 
dân trong hoàn cảnh khó khăn này. Điều này là cần thiết và phù hợp trong thời 
điểm khó khăn hiện nay, giúp người nông dân giảm phần nào thiệt hại trong sản 
xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, phương án này chỉ mang tính tình thế và không 
mang lại hiệu quả lâu dài cho sản xuất và xuất khẩu nông sản. 
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc ùn ứ nông sản, 
không tiêu thụ được là do công tác nghiên cứu, dự báo, cung cấp thông tin thị 
trường trong lĩnh vực nông nghiệp của nước ta còn nhiều hạn chế. Người sản xuất 
thiếu thông tin hoặc không được cung cấp thông tin kịp thời, thiếu sự hướng dẫn, 
tư vấn, khuyến cáo của các cơ quan chức năng trong quá trình sản xuất, dẫn đến 
tại nhiều địa phương, nông dân vẫn sản xuất hàng hóa theo kiểu “tù mù”, theo 
phong trào mà không có định hướng, chiến lược cụ thể. 
Bên cạnh đó, công nghệ sản xuất lạc hậu, manh mún cũng là nguyên nhân 
dẫn đến chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm chưa bảo đảm. Chất 
lượng nhiều nông sản sản xuất trong nước không đáp ứng được yêu cầu ngày 
càng cao của không chỉ thị trường quốc tế mà còn cả ngay tại thị trường Việt  Nam. 
Cũng chính từ những hạn chế về công nghệ, nền sản xuất nông nghiệp Việt 
Nam phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng đòi 
hỏi quanh năm nên vào những thời điểm chính vụ, cung tăng mà cầu không tăng,      lOMoAR cPSD| 59114765
trong khi công nghệ bảo quản, chế biến nông sản của Việt Nam vẫn còn nhiều 
hạn chế khiến các sản phẩm nông nghiệp như hoa quả tươi bị dư thừa vào chính 
vụ. Bởi vậy, cần có sự liên kết chặt chẽ, bền vững giữa doanh nghiệp với nông 
dân và đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghệ chế biến nông sản. 
Theo thống kê của Bộ Công thương, hiện nay thị trường xuất khẩu nông 
sản của Việt Nam vẫn tập trung nhiều vào Trung Quốc. Vẫn biết, với thị trường 
có hơn 1,4 tỷ người và là láng giềng của Việt Nam thì chúng ta cần phải tận dụng 
lợi thế này. Tuy nhiên, nếu để tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa quá lớn, nhất là nông 
sản vào một quốc gia thì khi có biến động về kinh tế, chính trị, xã hội dễ gặp rủi 
ro. Do vậy, bên cạnh việc nghiên cứu, tìm kiếm các thị trường mới cho nông sản, 
cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp phù hợp nhu cầu và thị hiếu của thị trường 
trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế trong lĩnh vực nông 
nghiệp, nhất là công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, góp phần nâng cao giá 
trị và chủ động trong khâu tiêu thụ. 
Các chuyên gia về nông nghiệp cho rằng, để nâng cao năng suất, hiệu quả 
lao động và đời sống của nông dân, nhất là tìm giải pháp hữu hiệu trong việc tìm 
đầu ra cho nông sản một cách bền vững, đòi hỏi các bộ, ngành chức năng và các 
cấp chính quyền địa phương phải phối hợp khắc phục những nguyên nhân đang 
kìm hãm sự phát triển của ngành nông nghiệp, trên cơ sở đó xây dựng giải pháp 
căn cơ, có tính khả thi.  2.2 Giải pháp 
2.2.1 Cải thiện chất lượng, mở rộng thị trường 
Trong tháng 5-2017, ngành rau quả nổi bật lên trong các tiểu ngành nông 
sản Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước đạt khoảng 344 triệu 
USD, đưa giá trị xuất khẩu rau quả trong năm tháng đầu năm nay đạt khoảng 1,38 
tỷ USD, tăng 38% so cùng kỳ năm 2016. Tính ra, bình quân mỗi ngày mặt hàng 
rau quả mang về khoảng 8,2 triệu USD.      lOMoAR cPSD| 59114765
Theo TS Nguyễn Hữu Ðạt, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Rau quả Việt 
Nam, với con số tăng trưởng ấn tượng này, trong năm 2017 ngành rau quả hoàn 
toàn có thể cán mốc 3 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu đã đề ra. Mặc dù xuất khẩu 
sang thị trường Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (gần 40%), nhưng con 
số này có giảm so các năm trước đây, cho thấy các doanh nghiệp (DN) trong 
ngành đã có sự đa dạng hóa thị trường để tránh rủi ro khi quá phụ thuộc một vài 
thị trường. Dù kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường khó tính trên chưa lớn, 
nhưng việc đặt chân được vào các quốc gia khó tính giúp tăng uy tín nông sản  Việt Nam. 
Mặt khác, các DN Việt Nam phải chủ động hơn trong liên kết thực hiện các 
chương trình quảng bá phù hợp, tham gia và thâm nhập từng bước vào khâu phân 
phối tại chính thị trường xuất khẩu để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. 
Ngoài ra, DN cần hợp tác với nhà nông, hỗ trợ họ tham gia hợp tác hóa để sản 
xuất cây ăn quả ở quy mô lớn hơn, tiền đề để nguyên liệu sản xuất ra đồng nhất, 
có chất lượng, phục vụ cho xuất khẩu. Hiện mặt hàng rau quả Việt Nam đã có 
mặt ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ tại châu Á, châu Âu, châu Mỹ, trong đó có 
nhiều thị trường đòi hỏi cao về chất lượng như: Mỹ, Nhật Bản,  Australia, Hàn Quốc… 
Theo giới chuyên gia, thách thức, khó khăn và đồng thời là sức ép theo 
chiều hướng phát triển đi lên đối với nông sản Việt Nam là phải có sự cải thiện 
về chất luợng sản phẩm, nghĩa là phải đồng nhất, ổn định, tốt, có quanh năm và 
đạt chuẩn VSATTP. Các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả của Việt Nam cần cố 
gắng tăng lượng xuất khẩu tại thị trường khó tính, chủ động liên kết thực hiện 
các chương trình quảng bá, đồng thời các Doanh ghiệp cũng nên tham gia và thâm 
nhập từng bước khâu phân phối tại chính thị trường xuất khẩu để bảo vệ và tăng 
khả năng cạnh tranh cho hàng hóa của xuất khẩu sang các thị trường này. 
2.2.2. Hướng tới nông nghiệp công nghệ cao 
Trong mười năm qua, chưa khi nào nông nghiệp rơi vào cảnh khó khăn như 
năm 2016. Lần đầu, ngành nông nghiệp rơi vào cảnh tăng trưởng âm trong những      lOMoAR cPSD| 59114765
tháng đầu năm 2016, năng suất lúa thu - đông không đạt như dự kiến. Sản lượng 
lúa cả năm chỉ tăng 200.000 tấn so dự báo trước đó, làm giảm sản lượng lúa cả 
năm 1,5 triệu tấn, giảm 3,3 % so năm 2015. Ðặc biệt, sản lượng lúa năm 2016 
của đồng bằng sông Cửu Long, cũng giảm 1,37 triệu tấn… 
Nhìn lại năm 2016, tăng trưởng kinh tế đạt 6,21%. Chính phủ nhận diện 
một trong hai nguyên nhân dẫn đến con số này là do sự sụt giảm của nông nghiệp. 
Năm 2016, thiên tai gây hậu quả nặng nề, làm thiệt hại lên đến 38,981 tỷ đồng 
(khoảng 1,7 tỷ USD), tương đương gần 1% GDP, con số cao nhất từ trước tới nay. 
"Phi nông bất ổn" là điều mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thẳng thắn 
nêu ra khi đề cập vấn đề nông nghiệp và năm 2017 được khởi động bằng những 
hoạt động nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển trở lại của ngành nông nghiệp, 
với quyết tâm cao nhất từ trước đến nay của Chính phủ. Kết quả là những tháng 
đầu năm 2017, khu vực nông nghiệp tăng mạnh so cùng kỳ năm 2016, quý I tăng 
2,03% (cùng kỳ giảm 1,31%); kim ngạch XK nông sản bốn tháng đạt 10,76 tỷ 
USD, tăng 9,1%. Tình hình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp có chuyển biến tích 
cực, hình thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp ứng 
dụng CNC. Ngày càng có nhiều DN đầu tư thành công và trở thành những đầu 
tàu về ứng dụng khoa học CNC, phát triển thị trường, tạo động lực phát triển cho 
nhiều vùng, địa phương.  KẾT LUẬN 
Là quốc gia nằm trong vành đai nội chí tuyến, Việt Nam có điều kiện thuận 
lợi để phát triển sản phẩm nông nghiệp mang bản sắc riêng của các tiểu vùng sinh 
thái đất thấp, đồi núi, cao nguyên và ven biển. Phát huy lợi thế này, trong hơn 30 
năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam luôn duy trì ở mức tăng trưởng bình quân 
khoảng 3,5%/năm, mức cao ở khu vực châu Á nói chung, khu vực Đông - Nam      lOMoAR cPSD| 59114765
Á nói riêng. Sau thời kỳ thiếu lương thực kéo dài, từ năm 1989, Việt Nam đã dần 
trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản trên thế giới. Giai đoạn 2008 - 2017, 
tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp Việt Nam đạt bình quân 
2,66%/năm. Năm 2018 đạt 3,76% và năm 2019 trong bối cảnh có nhiều khó khăn, 
nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng 2,2%. Thị trường tiêu thụ nông 
sản của Việt Nam ngày càng được mở rộng, cơ cấu sản xuất hiệu quả hơn và gắn 
với nhu cầu thị trường. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, sản xuất 
nông nghiệp hữu cơ… được triển khai đem lại giá trị hàng hóa lớn, thân thiện  môi trường.