Tiểu luận chương 1 - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân

Theo khái niệm hẹp: Thị trường được hiểu là nơi diễn ra hoạt động trao đổi, mua bánhàng hóa giữa các chủ thể kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

CHƯƠNG 1: Quan điểm của Chủ Nghĩa Mác về kinh tế thị trường.
T r a n g | 7
I. Kinh tế thị trường:
1. Khái niệm về thị trường:
- Theo khái niệm hẹp: Thị trường được hiểu là nơi diễn ra hoạt động trao đổi, mua bán
hàng hóa giữa các chủ thể kinh tế.
- Theo khái niệm rộng: Thị trường là một hệ thống tổng hợp các mối quan hệ liên
quan đến trao đổi mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành dựa trên các điều
kiện lịch sử và kinh tế xã hội cụ thể.
2. Kinh tế thị trường:
- Kinh tế thị trường đề cập đến một hình thái kinh tế trong đó nền kinh tế hàng hóa đã
đạt đến một mức độ phát triển cao. Trong hình thái này, mọi hoạt động kinh tế đều
nằm trong quá trình tái sản xuất xã hội, và tất cả đều được giá trị hóa. Các yếu tố sản
xuất như vốn vật chất, vốn tiền tệ, tài nguyên và đất đai, công nghệ và quản lý, sức lao
động, cũng như các sản phẩm và dịch vụ, đều được coi là đối tượng của hoạt động
mua bán và định giá.
- Nền kinh tế thị trường không ngừng phát triển và mở rộng. Các hoạt động trao đổi
và mua bán trong nền kinh tế này luôn tuần hoàn và đảm bảo sự cân bằng giữa cung
và cầu. Tuy nhiên, như bất kỳ hình thái kinh tế nào khác, nền kinh tế thị trường cũng
tồn tại hai mặt song song. Ngoài những ưu điểm và lợi ích tích cực, nó cũng có những
hạn chế và khó khăn. Chúng ta cần tìm hiểu cả hai mặt này của nền kinh tế thị trường.
3. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
- Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế, có đặc điểm tự động điều chỉnh
cân đối kinh tế phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế, biểu tượng nổi bật của
cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả tự do. Người bán và người mua sử dụng
thị trường để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đây là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, mọi quan hệ sản xuất, trao đổi đều được thực hiện thông qua
thị trường và chịu sự tác động, điều tiết của quy luật thị trường.
- Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường:
* Thứ nhất: kinh tế thị trường đòi hỏi phải đa dạng hóa thành phần kinh tế và hình
thức sở hữu. Mọi chủ thể kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
* Thứ hai: thị trường có vai trò quyết định trong việc phân bổ nguồn lực xã hội thông
qua hoạt động của các thị trường địa phương như thị trường hàng hóa, thị trường dịch
vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính, Khoa học và công nghệ.
* Thứ ba: giá cả được hình thành theo nguyên tắc cạnh tranh thị trường, nó không
chỉ là môi trường cho sự phát triển của kinh tế thị trường mà còn là động lực cho sự
phát triển của kinh tế thị trường.
* Thứ 4: Động lực trực tiếp của đơn vị sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế xã hội.
* Thứ năm: nhà nước là cơ quan chủ yếu thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trong quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện nhiệm vụ khắc phục khuyết
điểm thị trường, phát huy các yếu tố tích cực, bảo đảm công bằng xã hội sự ổn
định của toàn bộ nền kinh tế.
* Thứ sáu: kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với
thị trường quốc tế.
- Ưu điểm của kinh tế thị trường:
* Tạo động lực cho các chủ thể kinh tế hình tnh ý tưởng mới: Trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, con người có thể thoải mái phát huy khả năng sáng tạo, mong
muốn tìm cách cải tiến phương pháp m việc, học hỏi thêm kinh nghiệm cho bản
thân.
* Thúc đẩy đổi mới và phát triển doanh nghiệp: Áp lực cạnh tranh của nền kinh tế
thị trường buộc các doanh nghiệp phải giảm thiểu chi phí sản xuất riêng lẻ, đồng
thời đáp ứng nhu cầu thị trường và thu được lợi nhuận cao, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quản lý, sản phẩm và dịch vụ. Và sự đổi
mới là vô tận.
* Nâng cao tiềm năng, lợi thế của các thực thể kinh tế, vùng, quốc gia: chế thị
trường tối ưu hóa việc phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong nền kinh tế thị tờng,
sự luân chuyển, lưu thông và phân bổ các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên
tắc thị trường và sẽ chảy đến những nơi được sử dụng hiệu quả nhất, từ đó cho phép
các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu.
* Kinh tế thị trường còn là điều kiện tiên quyết để xã hội có năng suất lao động
mạnh, tạo ra sản phẩm, hàng hóa dư thừa đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng: Nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế cạnh tranh tự do, dù trong cùng một ngành hay trong
các ngành khác nhau. Một công ty muốn có được chỗ đứng thì phải tiếp tục đổi mới
về sản phẩm và tổ chức quản lý. Vì vậy, nó tạo ra năng suất rất lớn và tạo ra tình
trạng dư thừa hàng hóa giúp đáp ứng nhu cầu tu dùng ở mức tối đa có thể.
* Là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng con người, nâng cao quy trình
quản lý kinh doanh. Cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả
cao.
* Kinh tế thị trường làm ra một môi trường kinh doanh dân chủ, tự do, công bằng:
Nhờ sự hỗ trợ của các chính sách kinh tế của mỗi quốc gia trong hoàn cảnh cạnh
tranh gay gắt đã tạo động lực để các chủ thể kinh tế phát triển. Đó là, doanh nghiệp
được tự do lựa chọn các lĩnh vực kinh doanh, các hình thức kinh doanh, mô hình kinh
doanh. Ngoài ra kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu
kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ
sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế ở nước mình.
- Hạn chế
• Tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng
• Cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, xã hội
• Phân hóa giàu nghèo
4. Tiền tệ.
4.1. Nguồn gốc của tiền tệ
- Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất
hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác
dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh
tế xã hội.
- Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loại người, lúc đầu con người sống thành
bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và
trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã
xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và
được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được
biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá.
-Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục tách khỏi
toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai
đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ
không phải là hai loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là
một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó
còn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá.
-Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa
trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với
nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi, muốn trùng khớp. Như
vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và
làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do
đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung
tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với
nó, ví dụ như súc vật.
- Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung.
Nhưngtrong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một
thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau
có tác dụng làm vật ngang giá chung.
- Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở rộng. Tình trạng
nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu
ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá
đơn nhất.
- Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi
đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa
đó trở thành vật ngang giá chung.
- Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của
các hình thài giá trị.
- Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế
hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm
của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản
xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
4.2. Bốn hình thái biểu hiện của giá trị:
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị
- Hình thái chung của giá trị
- Hình thái tiền
* Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung
cho tất cả các hàng hóa.
* Tiền là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời cũng biểu hiện quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa.
4.3. Các chức năng của tiền tệ
a) Thước đo giá trị
- Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
- Khi tiền thực hiện chức năng thước đo giá trị, thì giá trị của hàng hóa được biểu hiện
bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
- Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
b) Phương tiện lưu thông
- Chức năng phương tiện lưu thông của tiền thể hiện ở chỗ tiền làm trung gian trong
trao đổi hàng hóa. Khi tiền làm phương tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt trên
thực tế, tức tiền thật (vàng thoi, bạc nén, tiền đúc, tiền giấy, tiền tín dụng…) và khi đó
trao đổi hàng hóa vận động theo công thức: H – T – H. Đây chính là công thức lưu
thông hàng hóa giản đơn.
c) Phương tiện cất trữ
- Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu của của cải xã hội nên nó có thể thực hiện được
chức năng phương tiện cất trữ.
Chức năng phương tiện cất trữ của tiền có nghĩa là tiền được rút khỏi lưu thông và
được cất trữ lại. Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
- Tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt, đó là khi tiền được cất trữ tạm
thời trước khi mua hàng. Chỉ có tiền đủ giá trị như tiền vàng mới làm được chức năng
cất trữ.
d) Phương tiện thanh toán
- Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc mua bán
chịu và do đó, xuất hiện chức năng phương tiện thanh toán của tiền. Thực hiện chức
năng này tiền được dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn
thành,
- ví dụ:
trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…Ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hình
thức thanh toán mới không cần tiền mặt (tiền vàng, bạc, đồng, tiền giấy…) như: ký sổ,
séc, chuyển khoản, thẻ điện tử (card)…
e) Tiền thế giới
- Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan
hệ buôn bán giữa các nước thì xuất hiện tiền thế giới. Tiền thế giới cũng thực hiện các
chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán…
II. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường.
2.1. Quy luật giá trị.
* Nội dung của quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá.
- Nội dung của quy luật việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải thực hiện hao phí
lao động xã hội cần thiết . Người sản xuất và trao đổi phải tuân theo mệnh lệnh của
giá cả thị trường.
+ Đối với người sản xuất: hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá
phải nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Đối với lưu thông: Quy luật giá trị đòi hỏi việc trao đổi hàng hoá cũng dựa trên
hao phí lao động xã hội cần thiết theo nguyên tắt ngang giá.
- Cơ chế tác động của quy luật giá trị là thông qua sự vận động của giá cả trên thị
trường, giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng
trên thị trường thông qua cạnh tranh và sức mua của đồng tiền.
* Tác dụng của quy luật giá trị.
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Thông qua sự vận động của giá
cả trên thị trường. Quy luật giá trị có tác dụng phân bố lại tư liệu sản xuất và sức lao
động giữa các ngành theo xu hướng phù hợp với nhu cầu của xã hội.
+ Đối với những ngành có cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm do đó những
người sản xuất sẽ giảm mức sản xuất.
+ Đối với những ngành có lượng cung nhỏ hơn cầu thì giá cả tăng nên người
sản xuất tăng mức sản xuất.
+ Đối với lưu thông, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết lượng hàng hoá
vận động từ nơi có giá cả thấp sang nơi có giá cả cao, từ nơi có cung lớn hơn
cầu sang nơi có cung nhỏ hơn cầu.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao
động.
+ Trong kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá
trị xã hội thì càng có lợi. Muốn vậy họ phải tăng năng xuất lao động trên cơ
sở áp dụng kỹ thuật mới và hợp lý hoá sản xuất.
+ Dưới sự tác động của cạnh tranh cũng thúc đẩy người sản xuất phải
quan tâm đến cải tiến kỹ thuật và kết quả chung là nó thúc đẩy LLSX phát
triển.
- Thứ ba, thực hiện lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu nghèo giữa những
người sản xuất hàng hoá .
+ Trong sản xuất hàng hoá tất yếu có một bộ phận người sản xuất do tài
năng, do may mắn, họ sẽ phát tài và trở thành giàu có. Ngược lại một số người
khác do yếu kém, do rủi ro sẽ bị phá sản, ngèo khổ.
Như vậy, một mặt quy luật giá trị đã thực hiện sự lựa chọn tự nhiên, bình
tuyển người sản xuất, mặt khác tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, làm phát
sinh quan hệ chủ thợ.
2.2. Quy luật lưu thông tiền tệ.
* Nội dung của quy luật tiền tệ.
- Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ trên yêu
cầu của lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
- Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng hóa. Việc không
ăn khớp giữa lưu thông tiền tệ với lưu thông hàng hóa có thể dẫn tới trì trệ hoặc
lạm phát.
- Về nguyên lý, số lượng tiền càn thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ
nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau:
M=P.Q/V
• Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian
nhất định; p là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông;
V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
- Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá
cả hàng hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền
tệ.
- Quy luật này có ý nghĩa chung cho các nền sản xuất hàng hóa.
- Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở
nên phồ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
M=1- ( 2+3) + 4/5
• Trong đó: M: Số lượng tiền cần cho lưu thông; 1: Tổng giá trị hàng hoá dịch
vụ lưu thông; 2: Tổng giá cả hàng hoá bán chịu; 3: Tổng giá cả hàng hoá khấu
trừ; 4: Tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán; 5: số vòng luôn chuyển trung
bình của 1 đơn vị tiền tệ.
- Nội dung nêu trên mang tính nguyên lý, trong điều kiện nền kinh tế thị trường
ngày nay việc xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trở nên phức tạp hơn
song không vượt ra ngoài khuôn khổ nguyên lý trên.
- Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị
mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, nhà nước không thể
in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lý của quy
luật lưu thông tiền tệ.
* Tác dụng của quy luật tiền tệ.
- Thực hiện các giao dịch mua bán và trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
- Liên kết các thị trường khác nhau và ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống
tài chính và kinh tế toàn cầu.
2.3. Quy luật cạnh tranh.
* Nội dung của quy luật cạnh tranh.
- Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều chỉnh một cách khách quan mối
quan hệ cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình sản xuất, trao đổi
hàng hóa. Quy luật cạnh tranh yêu cầu các chủ thể sản xuất, kinh doanh khi
tham gia thị trường, ngoài việc hợp tác, phải luôn chấp nhận cạnh tranh.
- Cạnh tranh là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành được lợi thế
trong sản xuất, tiêu dùng và từ đó thu được lợi ích tối đa. Kinh tế thị trường
càng phát triển thì sự cạnh tranh tn thị trường càng gay gắt, thị trường diễn ra
thường xuyên và khốc liệt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể xảy ra giữa các đơn vị trong
một ngành hoặc giữa các đơn vị thuộc các ngành khác nhau.
+ Cạnh tranh nội ngành
Cạnh tranh nội ngành là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong
cùng một ngành hàng. Đây là một trong những cách để cùng một doanh nghiệp
sản xuất đạt được lợi ích, biện pháp cạnh tranh là để doanh nghiệp nỗ lực cải
tiến công nghệ, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, năng suất lao động làm giảm g trị riêng của hàng hóa và làm tăng g
trị hàng hóa. Doanh nghiệp sản xuất hàng hóa có giá trị thấp hơn giá trị xã hội
của hàng hóa đó.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
• Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất, kinh
doanh thuộc các ngành khác nhau, do đó, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở
thành phương tiện để hiện thực hóa lợi ích giữa các chủ thể thuộc các ngành
sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường.
• Cách thức để các chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc các ngành sản xuất khác
nhau tìm kiếm lợi ích cho mình.
• Mục đích của sự cạnh tranh giữa các ngành là tìm ra những nơi có lợi nhất để
đầu tư.
* Tác dụng của quy luật cạnh tranh.
- Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy phát triển năng suất, trong điều kiện kinh tế thị
trường, các đơn vị sản xuất, vận hành kng ngừng tìm kiếm, ứng dụng tiến bộ
công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa cácng nghệ mới vào sản
xuất, từ đó thúc đẩyng cao tay nghề, trình độ hiểu biết của người lao động.
vậy, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn của năng suất xã hội.
- Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong nền
kinh tế thị trường, hoạt động của mọi doanh nhân đều hoạt động trong môi trường
cạnh tranh. Ngoài ra, mọi hoạt động của các tổ chức tài chính hoạt động trong điều
kiện kinh tế thị trường đều nhằm mục đích tối đa a lợi nhuận, do đó, ngoài s
hợpc, các tổ chức này còn cạnh tranh với nhau để có được những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất, kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Nhờ đó nền kinh
tế thị trường không ngừng phát triển.
- Thứ ba, cạnh tranhchế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực Kinh tế
thị trường cho rằng việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc cạnh tranh
để phân bổ cho những đối tượng khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả. Hệ
quảc bộ phận sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh đểcơ hội sử dụng các
nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
2.4. Quy luật Cung cầu.
* Nội dung của quy luật cung cầu.
- Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều chỉnh mối quan hệ giữa cung (người
bán) và cầu (người mua) của hàng hóa trên thị trường. Luật này yêu cầu cung và
cầu phải thống nhất. Trên thị trường, cung và cầu có mối quan hệ hữu cơ,
thường xuyên tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Khi cung lớn
hơn cầu thì giá thấp hơn giá trị; Ngược lại, khi cung ít hơn cầu thì giá lớn hơn
giá trị; Nếu cung bằng cầu thì giá bằng giá trị.
* Tác dụng của quy luật cung cầu.
- Quy luật cung cầu điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng
hóa; làm thay đổi cơ cấu, quy mô thị trường và ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.
- Dựa trên mối quan hệ giữa cung và cầu, có thể dự đoán được xu hướng biến
động giá cả. Ở đâu có thị trường thì quy luật cung cầu tồn tại và vận hành một
cách khách quan.
-> Tất cả những quy luật này cùng nhau tạo nên sở cho hoạt động của thị
trường và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
III. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường
- Nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường dưới góc độ chủ nghĩa Mác - Lênin
có ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu, phân tích các quy luật kinh tế xã hội, đặc
biệt là các quy luật kinh tế của quá trình hình thành, phát triển và suy tàn của
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và sự phát triển của xã hội. sự xuất
hiện và phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng
sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin tạo cơ sở khoa học cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động xóa bỏ bất công, áp bức giai cấp, giai cấp và dân tộc, xây
dựng thành công xã hội mới - hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa, thế
giới quan về bản chất con người và niềm tin vững chắc.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin còn có vai trò quan trọng trong việc phân tích, hiểu sâu
hơn các quy luật sản xuất tác động qua lại với lực lượng sản xuất trong xã hội.
- Ngoài ra, việc nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường dưới góc độ chủ
nghĩa Mác - Lênin còn giúp chúng ta phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, cũng như tầm quan trọng của sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế, kinh tế thị trường. Nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của lực
lượng sản xuất, lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của lực lượng
xã hội trong việc xác định hình thức phân phối kinh tế và xã hội.
- Tóm lại, nghiên cứu quan điểm Mác-Lênin về quy luật kinh tế thị trường sẽ
giúp chúng ta hiểu một cách toàn diện, sâu sắc sự vận hành của kinh tế thị
trường và tầm quan trọng của nó đối với xã hội.
| 1/9

Preview text:

CHƯƠNG 1: Quan điểm của Chủ Nghĩa Mác về kinh tế thị trường. T r a n g | 7 I. Kinh tế thị trường:
1. Khái niệm về thị trường:
- Theo khái niệm hẹp: Thị trường được hiểu là nơi diễn ra hoạt động trao đổi, mua bán
hàng hóa giữa các chủ thể kinh tế.
- Theo khái niệm rộng: Thị trường là một hệ thống tổng hợp các mối quan hệ liên
quan đến trao đổi mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành dựa trên các điều
kiện lịch sử và kinh tế xã hội cụ thể. 2. Kinh tế thị trường:
- Kinh tế thị trường đề cập đến một hình thái kinh tế trong đó nền kinh tế hàng hóa đã
đạt đến một mức độ phát triển cao. Trong hình thái này, mọi hoạt động kinh tế đều
nằm trong quá trình tái sản xuất xã hội, và tất cả đều được giá trị hóa. Các yếu tố sản
xuất như vốn vật chất, vốn tiền tệ, tài nguyên và đất đai, công nghệ và quản lý, sức lao
động, cũng như các sản phẩm và dịch vụ, đều được coi là đối tượng của hoạt động mua bán và định giá.
- Nền kinh tế thị trường không ngừng phát triển và mở rộng. Các hoạt động trao đổi
và mua bán trong nền kinh tế này luôn tuần hoàn và đảm bảo sự cân bằng giữa cung
và cầu. Tuy nhiên, như bất kỳ hình thái kinh tế nào khác, nền kinh tế thị trường cũng
tồn tại hai mặt song song. Ngoài những ưu điểm và lợi ích tích cực, nó cũng có những
hạn chế và khó khăn. Chúng ta cần tìm hiểu cả hai mặt này của nền kinh tế thị trường.
3. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
- Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế, có đặc điểm tự động điều chỉnh
cân đối kinh tế phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế, biểu tượng nổi bật của
cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả tự do. Người bán và người mua sử dụng
thị trường để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đây là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, mọi quan hệ sản xuất, trao đổi đều được thực hiện thông qua
thị trường và chịu sự tác động, điều tiết của quy luật thị trường.
- Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường:
* Thứ nhất: kinh tế thị trường đòi hỏi phải đa dạng hóa thành phần kinh tế và hình
thức sở hữu. Mọi chủ thể kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
* Thứ hai: thị trường có vai trò quyết định trong việc phân bổ nguồn lực xã hội thông
qua hoạt động của các thị trường địa phương như thị trường hàng hóa, thị trường dịch
vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính, Khoa học và công nghệ.
* Thứ ba: giá cả được hình thành theo nguyên tắc cạnh tranh thị trường, nó không
chỉ là môi trường cho sự phát triển của kinh tế thị trường mà còn là động lực cho sự
phát triển của kinh tế thị trường.
* Thứ 4: Động lực trực tiếp của đơn vị sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế xã hội.
* Thứ năm: nhà nước là cơ quan chủ yếu thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trong quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện nhiệm vụ khắc phục khuyết
điểm thị trường, phát huy các yếu tố tích cực, bảo đảm công bằng xã hội và sự ổn
định của toàn bộ nền kinh tế.
* Thứ sáu: kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế.
- Ưu điểm của kinh tế thị trường:
* Tạo động lực cho các chủ thể kinh tế hình thành ý tưởng mới: Trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, con người có thể thoải mái phát huy khả năng sáng tạo, mong
muốn tìm cách cải tiến phương pháp làm việc, học hỏi thêm kinh nghiệm cho bản thân.
* Thúc đẩy đổi mới và phát triển doanh nghiệp: Áp lực cạnh tranh của nền kinh tế
thị trường buộc các doanh nghiệp phải giảm thiểu chi phí sản xuất riêng lẻ, đồng
thời đáp ứng nhu cầu thị trường và thu được lợi nhuận cao, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quản lý, sản phẩm và dịch vụ. Và sự đổi mới là vô tận.
* Nâng cao tiềm năng, lợi thế của các thực thể kinh tế, vùng, quốc gia: Cơ chế thị
trường tối ưu hóa việc phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường,
sự luân chuyển, lưu thông và phân bổ các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên
tắc thị trường và sẽ chảy đến những nơi được sử dụng hiệu quả nhất, từ đó cho phép
các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu.
* Kinh tế thị trường còn là điều kiện tiên quyết để xã hội có năng suất lao động
mạnh, tạo ra sản phẩm, hàng hóa dư thừa đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng: Nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế cạnh tranh tự do, dù trong cùng một ngành hay trong
các ngành khác nhau. Một công ty muốn có được chỗ đứng thì phải tiếp tục đổi mới
về sản phẩm và tổ chức quản lý. Vì vậy, nó tạo ra năng suất rất lớn và tạo ra tình
trạng dư thừa hàng hóa giúp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở mức tối đa có thể.
* Là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng con người, nâng cao quy trình
quản lý kinh doanh. Cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
* Kinh tế thị trường làm ra một môi trường kinh doanh dân chủ, tự do, công bằng:
Nhờ sự hỗ trợ của các chính sách kinh tế của mỗi quốc gia trong hoàn cảnh cạnh
tranh gay gắt đã tạo động lực để các chủ thể kinh tế phát triển. Đó là, doanh nghiệp
được tự do lựa chọn các lĩnh vực kinh doanh, các hình thức kinh doanh, mô hình kinh
doanh. Ngoài ra kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu
kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ
sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế ở nước mình. - Hạn chế
• Tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng
• Cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, xã hội • Phân hóa giàu nghèo 4. Tiền tệ.
4.1. Nguồn gốc của tiền tệ
- Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất
hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác
dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
- Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loại người, lúc đầu con người sống thành
bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và
trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã
xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và
được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được
biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá.
-Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục tách khỏi
toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai
đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ
không phải là hai loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là
một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó
còn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá.
-Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa
trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với
nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi, muốn trùng khớp. Như
vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và
làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do
đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung
tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như súc vật.
- Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung.
Nhưngtrong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một
thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau
có tác dụng làm vật ngang giá chung.
- Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở rộng. Tình trạng
nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu
ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất.
- Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi
đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa
đó trở thành vật ngang giá chung.
- Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thài giá trị.
- Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế
hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm
của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản
xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
4.2. Bốn hình thái biểu hiện của giá trị:
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị
- Hình thái chung của giá trị - Hình thái tiền
* Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung
cho tất cả các hàng hóa.
* Tiền là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời cũng biểu hiện quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa.
4.3. Các chức năng của tiền tệ a) Thước đo giá trị
- Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
- Khi tiền thực hiện chức năng thước đo giá trị, thì giá trị của hàng hóa được biểu hiện
bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
- Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
b) Phương tiện lưu thông
- Chức năng phương tiện lưu thông của tiền thể hiện ở chỗ tiền làm trung gian trong
trao đổi hàng hóa. Khi tiền làm phương tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt trên
thực tế, tức tiền thật (vàng thoi, bạc nén, tiền đúc, tiền giấy, tiền tín dụng…) và khi đó
trao đổi hàng hóa vận động theo công thức: H – T – H. Đây chính là công thức lưu
thông hàng hóa giản đơn.
c) Phương tiện cất trữ
- Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu của của cải xã hội nên nó có thể thực hiện được
chức năng phương tiện cất trữ.
Chức năng phương tiện cất trữ của tiền có nghĩa là tiền được rút khỏi lưu thông và
được cất trữ lại. Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
- Tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt, đó là khi tiền được cất trữ tạm
thời trước khi mua hàng. Chỉ có tiền đủ giá trị như tiền vàng mới làm được chức năng cất trữ.
d) Phương tiện thanh toán
- Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc mua bán
chịu và do đó, xuất hiện chức năng phương tiện thanh toán của tiền. Thực hiện chức
năng này tiền được dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, - ví dụ:
trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…Ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hình
thức thanh toán mới không cần tiền mặt (tiền vàng, bạc, đồng, tiền giấy…) như: ký sổ,
séc, chuyển khoản, thẻ điện tử (card)… e) Tiền thế giới
- Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan
hệ buôn bán giữa các nước thì xuất hiện tiền thế giới. Tiền thế giới cũng thực hiện các
chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán…
II. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường. 2.1. Quy luật giá trị.
* Nội dung của quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá.
- Nội dung của quy luật việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải thực hiện hao phí
lao động xã hội cần thiết . Người sản xuất và trao đổi phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường.
+ Đối với người sản xuất: hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá
phải nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Đối với lưu thông: Quy luật giá trị đòi hỏi việc trao đổi hàng hoá cũng dựa trên
hao phí lao động xã hội cần thiết theo nguyên tắt ngang giá.
- Cơ chế tác động của quy luật giá trị là thông qua sự vận động của giá cả trên thị
trường, giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng
trên thị trường thông qua cạnh tranh và sức mua của đồng tiền.
* Tác dụng của quy luật giá trị.
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Thông qua sự vận động của giá
cả trên thị trường. Quy luật giá trị có tác dụng phân bố lại tư liệu sản xuất và sức lao
động giữa các ngành theo xu hướng phù hợp với nhu cầu của xã hội.
+ Đối với những ngành có cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm do đó những
người sản xuất sẽ giảm mức sản xuất.
+ Đối với những ngành có lượng cung nhỏ hơn cầu thì giá cả tăng nên người
sản xuất tăng mức sản xuất.
+ Đối với lưu thông, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết lượng hàng hoá
vận động từ nơi có giá cả thấp sang nơi có giá cả cao, từ nơi có cung lớn hơn
cầu sang nơi có cung nhỏ hơn cầu.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động.
+ Trong kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá
trị xã hội thì càng có lợi. Muốn vậy họ phải tăng năng xuất lao động trên cơ
sở áp dụng kỹ thuật mới và hợp lý hoá sản xuất.
+ Dưới sự tác động của cạnh tranh cũng thúc đẩy người sản xuất phải
quan tâm đến cải tiến kỹ thuật và kết quả chung là nó thúc đẩy LLSX phát triển.
- Thứ ba, thực hiện lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu nghèo giữa những
người sản xuất hàng hoá .
+ Trong sản xuất hàng hoá tất yếu có một bộ phận người sản xuất do tài
năng, do may mắn, họ sẽ phát tài và trở thành giàu có. Ngược lại một số người
khác do yếu kém, do rủi ro sẽ bị phá sản, ngèo khổ.
Như vậy, một mặt quy luật giá trị đã thực hiện sự lựa chọn tự nhiên, bình
tuyển người sản xuất, mặt khác tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, làm phát sinh quan hệ chủ thợ.
2.2. Quy luật lưu thông tiền tệ.
* Nội dung của quy luật tiền tệ.
- Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ trên yêu
cầu của lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
- Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng hóa. Việc không
ăn khớp giữa lưu thông tiền tệ với lưu thông hàng hóa có thể dẫn tới trì trệ hoặc lạm phát.
- Về nguyên lý, số lượng tiền càn thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ
nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau: M=P.Q/V
• Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian
nhất định; p là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông;
V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
- Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá
cả hàng hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ.
- Quy luật này có ý nghĩa chung cho các nền sản xuất hàng hóa.
- Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở
nên phồ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau: M=1- ( 2+3) + 4/5
• Trong đó: M: Số lượng tiền cần cho lưu thông; 1: Tổng giá trị hàng hoá dịch
vụ lưu thông; 2: Tổng giá cả hàng hoá bán chịu; 3: Tổng giá cả hàng hoá khấu
trừ; 4: Tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán; 5: số vòng luôn chuyển trung
bình của 1 đơn vị tiền tệ.
- Nội dung nêu trên mang tính nguyên lý, trong điều kiện nền kinh tế thị trường
ngày nay việc xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trở nên phức tạp hơn
song không vượt ra ngoài khuôn khổ nguyên lý trên.
- Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị
mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, nhà nước không thể
in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lý của quy
luật lưu thông tiền tệ.
* Tác dụng của quy luật tiền tệ.
- Thực hiện các giao dịch mua bán và trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
- Liên kết các thị trường khác nhau và ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống
tài chính và kinh tế toàn cầu. 2.3. Quy luật cạnh tranh.
* Nội dung của quy luật cạnh tranh.
- Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều chỉnh một cách khách quan mối
quan hệ cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình sản xuất, trao đổi
hàng hóa. Quy luật cạnh tranh yêu cầu các chủ thể sản xuất, kinh doanh khi
tham gia thị trường, ngoài việc hợp tác, phải luôn chấp nhận cạnh tranh.
- Cạnh tranh là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành được lợi thế
trong sản xuất, tiêu dùng và từ đó thu được lợi ích tối đa. Kinh tế thị trường
càng phát triển thì sự cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt, thị trường diễn ra
thường xuyên và khốc liệt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể xảy ra giữa các đơn vị trong
một ngành hoặc giữa các đơn vị thuộc các ngành khác nhau. + Cạnh tranh nội ngành
• Cạnh tranh nội ngành là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong
cùng một ngành hàng. Đây là một trong những cách để cùng một doanh nghiệp
sản xuất đạt được lợi ích, biện pháp cạnh tranh là để doanh nghiệp nỗ lực cải
tiến công nghệ, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, năng suất lao động làm giảm giá trị riêng của hàng hóa và làm tăng giá
trị hàng hóa. Doanh nghiệp sản xuất hàng hóa có giá trị thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
• Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất, kinh
doanh thuộc các ngành khác nhau, do đó, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở
thành phương tiện để hiện thực hóa lợi ích giữa các chủ thể thuộc các ngành
sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường.
• Cách thức để các chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc các ngành sản xuất khác
nhau tìm kiếm lợi ích cho mình.
• Mục đích của sự cạnh tranh giữa các ngành là tìm ra những nơi có lợi nhất để đầu tư.
* Tác dụng của quy luật cạnh tranh.
- Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy phát triển năng suất, trong điều kiện kinh tế thị
trường, các đơn vị sản xuất, vận hành không ngừng tìm kiếm, ứng dụng tiến bộ
công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa các công nghệ mới vào sản
xuất, từ đó thúc đẩy nâng cao tay nghề, trình độ hiểu biết của người lao động. Vì
vậy, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn của năng suất xã hội.
- Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong nền
kinh tế thị trường, hoạt động của mọi doanh nhân đều hoạt động trong môi trường
cạnh tranh. Ngoài ra, mọi hoạt động của các tổ chức tài chính hoạt động trong điều
kiện kinh tế thị trường đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, do đó, ngoài sự
hợp tác, các tổ chức này còn cạnh tranh với nhau để có được những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất, kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Nhờ đó nền kinh
tế thị trường không ngừng phát triển.
- Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực Kinh tế
thị trường cho rằng việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc cạnh tranh
để phân bổ cho những đối tượng có khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả. Hệ
quả là các bộ phận sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh để có cơ hội sử dụng các
nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội. 2.4. Quy luật Cung cầu.
* Nội dung của quy luật cung cầu.
- Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều chỉnh mối quan hệ giữa cung (người
bán) và cầu (người mua) của hàng hóa trên thị trường. Luật này yêu cầu cung và
cầu phải thống nhất. Trên thị trường, cung và cầu có mối quan hệ hữu cơ,
thường xuyên tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Khi cung lớn
hơn cầu thì giá thấp hơn giá trị; Ngược lại, khi cung ít hơn cầu thì giá lớn hơn
giá trị; Nếu cung bằng cầu thì giá bằng giá trị.
* Tác dụng của quy luật cung cầu.
- Quy luật cung cầu điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng
hóa; làm thay đổi cơ cấu, quy mô thị trường và ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.
- Dựa trên mối quan hệ giữa cung và cầu, có thể dự đoán được xu hướng biến
động giá cả. Ở đâu có thị trường thì quy luật cung cầu tồn tại và vận hành một cách khách quan.
-> Tất cả những quy luật này cùng nhau tạo nên cơ sở cho hoạt động của thị
trường và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
III. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường
- Nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường dưới góc độ chủ nghĩa Mác - Lênin
có ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu, phân tích các quy luật kinh tế xã hội, đặc
biệt là các quy luật kinh tế của quá trình hình thành, phát triển và suy tàn của
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và sự phát triển của xã hội. sự xuất
hiện và phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng
sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin tạo cơ sở khoa học cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động xóa bỏ bất công, áp bức giai cấp, giai cấp và dân tộc, xây
dựng thành công xã hội mới - hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa, thế
giới quan về bản chất con người và niềm tin vững chắc.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin còn có vai trò quan trọng trong việc phân tích, hiểu sâu
hơn các quy luật sản xuất tác động qua lại với lực lượng sản xuất trong xã hội.
- Ngoài ra, việc nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường dưới góc độ chủ
nghĩa Mác - Lênin còn giúp chúng ta phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, cũng như tầm quan trọng của sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế, kinh tế thị trường. Nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của lực
lượng sản xuất, lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của lực lượng
xã hội trong việc xác định hình thức phân phối kinh tế và xã hội.
- Tóm lại, nghiên cứu quan điểm Mác-Lênin về quy luật kinh tế thị trường sẽ
giúp chúng ta hiểu một cách toàn diện, sâu sắc sự vận hành của kinh tế thị
trường và tầm quan trọng của nó đối với xã hội.