Tiểu luận CTXH với người LGBT | Xã hội học | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Khóa học "Xã Hội Học" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, thường bao gồm các đề tài nghiên cứu đa dạng, trong đó có cả tiểu luận về Cộng Đồng Xã Hội và Người LGBT. Trong tiểu luận này, sinh viên sẽ tìm hiểu về vấn đề nhận thức, đối xử và quyền lợi của người LGBT trong xã hội. Bằng cách nghiên cứu các nghiên cứu trước đây và dữ liệu thực tế, sinh viên sẽ phân tích những thách thức mà cộng đồng LGBT phải đối mặt và các biện pháp để tạo ra một môi trường xã hội bao dung và công bằng hơn đối với họ. Tiểu luận này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của xã hội trong việc thúc đẩy sự đa dạng và tôn trọng nhân quyền cho mọi người, bao gồm cả cộng đồng LGBT
Môn: Xã hội học
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên toàn thế giới, trường học là môi trường mà phần lớn người dưới 18 tuổi dành
nhiều thời gian nhất để phát triển bản thân, hình thành nhân cách và thiết lập các mối
quan hệ. Về lý thuyết, trường học là nơi lý tưởng để con người ta có thể học hỏi những
điều hay, lẽ phải, học hỏi từ những tấm gương tốt của thầy cô... Tuy nhiên trên thực tế
hiện nay, môi trường học đường không còn an toàn nữa, thậm chí còn thù địch hơn, đặc
biệt là đối với học sinh là người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT). Kỳ thị, bắt
nạt hoặc phân biệt đối xử với người đồng tính, thường được gọi là kỳ thị đồng tính, đang
lan tràn ở hầu hết các quốc gia, và đặc biệt là ở các trường học, nơi mà quyền lợi của các
học sinh LGBT bị ảnh hưởng một cách tiêu cực (Payne và Smith, 2011). Ở trường, nhiều
học sinh LGBT từng bị bạn bè bắt nạt, ngừng kết bạn khi bị phát hiện là người LGBT, bị
bàn tán về ngoại hình, bị tẩy chay trong lớp học… nghiêm trọng hơn, một số còn bị giáo
viên, cán bộ nhà trường quấy rầy, bắt nạt bởi vì họ được xem như là một căn bệnh
(HRW, 2015). Phân biệt đối xử từ phía nhà trường và gia đình ảnh hưởng tới chất lượng
học tập cũng như tâm lý của trẻ em LGBT. Khiến cho học sinh LGBT bị chấn động tâm
lý quá mức và bị sang chấn nghiêm trọng dẫn đến nhiều hệ lụy như các em trốn học, suy
giảm khả năng học tâp, suy giảm hệ thống thần kinh, thậm chí muốn bỏ học, tự tử ….
Mặc dù trong những năm gần đây, xã hội đã có cái nhìn thoáng hơn về cộng
đồng người LGBT, nhưng dường như vấn đề giáo dục nhận thức về người LGBT
vẫn chưa được các nhà trường quan tâm đúng mức. Thậm chí ở một số trường
học giáo viên còn cho rằng đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần, là biểu hiện của
tâm lý lệch lạc, lối sống tha hóa (Phạm Thu Hoa, 2015). Một số trường cũng đã có
những người làm công tác xã hội tuy nhiên vấn đề về phân biệt đối xử với đối
tượng học sinh này vẫn chưa được các nhà quản lý giáo dục quan tâm đúng mức.
Vai trò của nhân viên công tác xã hội còn mờ nhạt.
Do thanh thiếu niên LGBT có khả năng bị kỳ thị và bắt nạt cao thậm chí bị bạo
hành và dễ để lại nhiều di chứng tâm lý xã hội từ những tổn thương đó, vai trò của nhân
viên xã hội là rất quan trọng trong việc hỗ trợ những đối tượng này, đánh giá xem họ có
phải là nạn nhân của bắt nạt hay không, từ đó đưa ra những kế hoạch phù hợp để hỗ trợ
và làm thay đổi nhận thức của những người làm công tác quản lý giáo dục. lOMoAR cPSD| 39651089 2
Từ những lý do trên và qua tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề đã nêu, tôi chọn đề tài
“Vai trò của nhân viên công tác xã hội với học sinh LGBT bị bắt nạt, kỳ thị trong trường học”
cho bài tiểu luận cuối khóa môn Công tác xã hội với người LGBT của mình. Qua đây tôi cũng
xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Quốc Minh, người thầy đã rất tận tâm
và nhiệt tình trong việc truyền đạt những kiến thức chuyên sâu về người LGBT
đến cho học viên, giúp chúng tôi nhận ra đây không phải là một môn học nhàm
chán như những gì chúng tôi đã cảm nhận khi còn là sinh viên Đại học.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu quốc tế
Vào năm 2015, Trung tâm Quốc gia về Bình đẳng cho người chuyển giới (NCTE) đã
thực hiện một Cuộc khảo sát Người chuyển giới Hoa Kỳ (USTS) trên đối tượng là người
chuyển giới từ 18 tuổi trở lên ở Hoa Kỳ. Đây là cuộc khảo sát trực tuyến ẩn danh lớn nhất
kiểm tra trải nghiệm của những người chuyển giới với 27.715 người trả lời. USTS đóng vai
trò là cơ quan theo dõi Cuộc khảo sát Quốc gia về Phân biệt Người Chuyển giới (NTDS) giai
đoạn 2008–09, đã giúp thay đổi cách nhìn của công chúng và các nhà hoạch định chính sách
về cuộc sống của những người chuyển giới và những thách thức mà họ phải đối mặt. Báo cáo
của USTS năm 2015 cung cấp một cái nhìn chi tiết về trải nghiệm của người chuyển giới trên
nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như giáo dục, việc làm, cuộc sống gia đình, sức khỏe, nhà ở và
tương tác với hệ thống tư pháp hình sự. Các kết quả cho thấy các mô hình ngược đãi và phân
biệt đối xử đáng lo ngại và sự chênh lệch đáng kinh ngạc giữa người chuyển giới trong cuộc
khảo sát và dân số Hoa Kỳ khi nói đến các yếu tố cơ bản nhất của cuộc sống, chẳng hạn như
tìm việc làm, nơi ở, tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế, và được sự ủng hộ của gia đình và cộng
đồng. Những người trả lời khảo sát cũng từng bị quấy rối và bạo lực với tỷ lệ cao đáng báo
động. Họ là nạn nhân của bạo hành gia đình, tại trường học, công sở. Các hình thức bạo
hành bao gồm: bạo hành bằng lời nói, bị ngược đãi, quấy rối tình dục, tấn công thể xác, bị từ
chối nâng lương hoặc thăng cấp, thậm chí bị đuổi ra khỏi nhà, bị sa thải chỉ vì biểu hiện hoặc
bản dạng giới của họ.
Theo báo cáo kết quả của Cuộc khảo sát do Tổ chức Mạng lưới giáo dục về người
đồng tính và dị tính của Hoa Kỳ (GLSEN) về không khí học đường tổ chức tại Trường
Quốc gia vào năm 2015 đối với học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông là người
LGBTQ ở West Virginia cho thấy, vào năm trước cuộc khảo sát, đa số người được hỏi
cho biết họ đã từng bị quấy rối bằng lời nói và thể chất ở trường do khuynh hướng tình
dục và biểu hiện giới tính của họ. Đặc biệt là khi các trường học không bảo vệ học sinh
chuyển giới khỏi bị phân biệt đối xử và bắt nạt - hoặc khi họ từ chối học sinh chuyển giới
được vào nhà vệ sinh phù hợp với giới tính mà chúng sống hàng ngày - thì học sinh lOMoAR cPSD| 39651089 3
chuyển giới sẽ trở nên vô cùng khó khăn trong việc đi học và chuẩn bị cho tương
lai của mình. Theo nhiều cách, việc cấm học sinh chuyển giới sử dụng nhà vệ sinh
có chức năng tương đương với việc cấm các em đến trường. Điều này đồng nghĩa
với việc trường học trở thành môi trường thù địch đối với học sinh chuyển giới.
Grzegorz Piekarski, Đại học Pomeranian Slupsk trong bài viết Thực trạng xã
hội của người LGBT trong các trường học và hệ thống giáo dụcđăng trong tạp chí
Gender and Education from Different Angles năm 2014 cũng đã nêu chủ đề về sự hình
thành bản dạng giới, thu hút sự chú ý đến hoạt động của những người chuyển giới
trong trường học và hệ thống giáo dục Ba Lan. Bằng cách phân tích mối quan hệ giữa
giới văn hóa xã hội và các quá trình dẫn đến phân biệt đối xử và bạo lực do bản sắc và
sự không phù hợp về giới, tác giả chỉ ra rằng trường học công bình thường hàng ngày,
có thể là nơi bạo lực kỳ thị đồng tính là một vấn đề thực sự và nghiêm trọng. Do đó,
bài viết dưới dạng một lời kêu gọi thực hiện các hành động khác nhau, thực hiện
chính sách chống phân biệt đối xử người đồng tính rộng rãi và đáng tin cậy cho cả đội
ngũ giảng viên, sinh viên trung học và đại học.
2.2. Nghiên cứu trong nước:
Năm 2012, theo một nghiên cứu trực tuyến của Trung tâm Sáng kiến Sức khoẻ và
Dân số (CCIHP) về kỳ thị và phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính, chuyển giới
và giao giới tính tại trường học ở Việt Nam, trong số hơn 500 người trả lời, có đến 44%
đã từng bị bạo lực (về thể chất, tinh thần, tình dục và kinh tế) và phân biệt đối xử tại
trường học. Đa số các trường hợp học sinh LGBT là nạn nhân của việc bạo hành tại lớp
học và trong sân trường. Thậm chí bản thân giáo viên và cán bộ trường học cũng gây ra
những hình thức bạo lực như vậy (17%). Hậu quả là ½ trong số các em cảm thấy luôn
căng thẳng lo sợ khi ở trường học và có đến 33,59% có ý định tự tử.
Năm 2015, Bài báo Định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người đồng tính
và chuyển giới ở Việt Nam của 2 tác giả Phạm Thu Hoa và Đồng Thị Yến đã nêu kết
quả nghiên cứu về sự kỳ thị, định kiến và phân biệt đối xử đối với người đồng tính và
chuyển giới ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau. Từ bị dèm pha, xa lánh, sợ hãi đến
đánh đập. Định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người đồng tính và chuyển giới
không chỉ xảy ra từ các mối quan hệ xã hội mà tình trạng này còn xảy ra trong chính gia
đình của họ. Điều này đã dẫn đến những tổn thương tâm lý vô cùng nghiêm trọng đối
với người đồng tính và chuyển giới như lo âu, trầm cảm thậm chí một số người đồng
tính, chuyển giới khi rơi vào bế tắc đã có ý định tự tử hoặc hành vi tự tử.
Cũng trong năm 2015, Bài viết Công tác xã hội với người đồng tính, song tính và
chuyển giới: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam của tác giả Lê Thị Mai Trang lOMoAR cPSD| 39651089 4
đăng trên kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Công tác xã hội Việt Nam: Thách thức tính
chuyên nghiệp trước nhu cầu hội nhập và phát triển đã nêu lên những thực trạng trong
công tác xã hội hỗ trợ cho người LGBT tại Việt Nam, phân tích những kinh nghiệm quốc
tế về lĩnh vực CTXH với người LGBT tại các quốc gia có nền CTXH phát triển như Hoa
Kỳ và Ireland từ đó đề xuất và kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
của lĩnh vực CTXH với người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mai Hồng và Vũ Hồng Nhung trong bài Vai trò của
nhân viên công tác xã hội trường học trong mối quan hệ với gia đình, cộng đồng
và hệ thống nhà trường Việt Nam hiện nay đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục
ĐHSPHN, Tập 62, số 4 năm 2017 đã trình bày thực trạng những vấn đề xã hội của
học sinh, phân tích nguyên nhân, hậu quả của nó; đồng thời, phân tích vai trò và các
hoạt động của nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) trường học trong mối quan hệ
với gia đình, cộng đồng xã hội và hệ thống nhà trường. Từ đó, bài báo khẳng định
vai trò quan trọng và những thế mạnh đặc thù của NVCTXH trường học trong việc
nâng cao hiệu quả giải quyết vấn đề xã hội của học sinh, góp phần thúc đẩy giáo dục –
đào tạo những thế hệ tương lai của đất nước theo mục tiêu phát triển bền vững.
Năm 2019, đề tài luận án “Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới
và liên giới tính tại Việt Nam hiện nay” của tác giả Trương Hồng Quang đã đưa ra
nghiên cứu chi tiết về cộng đồng LGBT bao gồm người song tính, đồng tính, chuyển
giới cùng với đó là những vấn đề về quyền LGBT, những khó khăn họ gặp phải trong
cuộc sống và trong luật pháp. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một số quan điểm của các
quốc gia trên thế giới về LGBT, đặc biệt là tại Việt Nam. Trong đề tài nghiên cứu, tác
giả cũng đưa ra cái nhìn cụ thể, thực tế về cộng đồng LGBT thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Qua đó, tác giả gửi gắm những suy nghĩ tích cực, mong muốn xã hội
có cái nhìn thiện cảm về LGBT, luôn tôn trọng và đối xử bình đẳng với họ.
Năm 2020, Bản phúc trình dài 68 trang, “Giáo viên nói tôi bị bệnh”: Những rào cản
đối với quyền giáo dục của thanh thiếu niên LGBT ở Việt Nam của Tổ chức Theo dõi nhân
quyền (HRW) ghi nhận tình trạng các thanh thiếu niên LGBT ở Việt Nam phải đối mặt
với định kiến và sự phân biệt đối xử ở nhà cũng như ở trường do các huyền thoại hoang
đường, ví dụ như niềm tin sai lầm rằng cảm giác thích người cùng giới là một chứng bệnh
tâm thần có thể chẩn đoán, điều trị và chữa khỏi được. Nhiều người trong số đó từng bị
sách nhiễu bằng lời nói và bị bắt nạt, có một số vụ dẫn tới hành hung cơ thể. HRW nhận
thấy rằng các giáo viên thường không được tập huấn và trang bị đủ để giải quyết các vụ
kỳ thị đối với người LGBT, và các bài giảng ở trường thường bảo lưu các huyền thoại
hoang đường phổ biến ở Việt Nam rằng thích người cùng giới là một chứng lOMoAR cPSD| 39651089 5
bệnh. Chính quyền Việt Nam cần hoàn thành các cam kết về bảo vệ quyền của
những người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu thực trạng trẻ em LGBT bị bắt nạt, kỳ
thị trong trường học, nguyên nhân và hậu quả của sự phân biệt đối xử và nêu lên
vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ trẻ em LGBT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu cở sở lý luận của đề tài, hệ thống các khái niệm liên quan đến công
tác xã hội và người LGBT
- Nêu thực trạng trẻ em LGBT bị bắt nạt trong trường học trên thế giới và tại Việt Nam
- Nêu lên những nguyên nhân của sự kỳ thị và hậu quả để lại trên trẻ em LGBT
- Nêu lên vai trò của nhân viên CTXH trong trường học trong việc giúp đỡ
trẻ em LGBT bị bắt nạt, kỳ thị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ
em LGBT bị kỳ thị, bắt nạt trong trường học.
4.2. Khách thể nghiên cứu: các học sinh LGBT trong trường học, nhân viên CTXH.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: trong các trường trung học
- Phạm vi thời gian: thời điểm hiện tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin tài liệu: Đọc, tìm hiểu, phân tích
tài liệu có liên quan tới CTXH đại cương, CTXH với người LGBT ở một số quốc
gia trên thế giới. Phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề kỳ
thị và bạo hành đối với người LGBT cũng như các phương pháp trợ giúp người
LGBT, người chuyển giới trên những tài liệu đã công bố trên mạng internet,
những ấn phẩm trong nước và quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan đến
vấn đề nghiên cứu như: Người đồng tính, song tính, chuyển giới là ai, học sinh
LGBT bị bắt nạt, kỳ thị trong trường học như thế nào, nguyên nhân của những
hành vi phân biệt đối xử đó và hậu quả mà học sinh LGBT phải gánh chịu là gì?
Các vai trò của nhân viên CTXH đối với học sinh LGBT trong trường học là gì? lOMoAR cPSD| 39651089 6
- Ý nghĩa thực tiễn: cập nhật thực trạng của trẻ em là người LGBT bị bắt
nạt, kỳ thị trong trường học, phân tích các nguyên nhân gây ra sự kỳ thị và hậu quả
từ những hành vi đó đối với học sinh LGBT đồng thời đề xuất vai trò của nhân
viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ học sinh LGBT.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của tiểu luận có cấu trúc gồm 3 phần như sau:
- Phần I. Cơ sở lý luận về vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em
LGBT bị kỳ thị, bắt nạt trong trường học
- Phần II. Thực trạng trẻ em LGBT bị kỳ thị, bắt nạt trên thế giới và tại Việt
Nam, nguyên nhân của sự kỳ thị, bắt nạt, hậu quả để lại trên trẻ em LGBT.
- Phần III. Vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ trẻ em LGBT bị
bắt nạt, kỳ thị trong trường học. lOMoAR cPSD| 39651089 7 NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM LGBT BỊ KỲ THỊ, BẮT NẠT TRONG TRƯỜNG HỌC
1. Khái niệm về “LGBT”
Là các chữ cái tiếng Anh viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender.
- Lesbian (đồng tính nữ) là những người nữ nhưng lại bị hấp dẫn bởi chính những
người cùng giới với mình nó có thể xét trên nhiều phương diện như tình yêu, tình dục,
nhiều khi nhìn vào chúng ta sẽ thấy không hề có bất kỳ một đặc điểm nào có thể nhận biết
được người đồng tính nữ so với những người nữ giới khác. Họ có đặc điểm là
không thích nam giới.
- Gay (đồng tính nam): là những người nam bị hấp dẫn bởi người đồng tính với mình,
cũng như nữ giới sẽ được xét trên nhiều phương diện như tình yêu hay tình dục….
giữa những người nam giới với nhau họ cũng xuất hiện, nảy sinh tình cảm, tình yêu
hay những rung động khác nhau về cảm xúc. Họ có đặc điểm chung là không thích nữ giới.
- Bisexual (song tính): là một xu hướng tính dục bên cạnh dị tính, đồng tính. Một
người song tính có thể thấy người nam hay nữ đều cuốn hút mình, tức là có tình cảm
yêu đương với nam hay nữ đều được. Song tính không liên quan tới ham muốn tình
dục cao hay thấp, người song tính cũng không nhất thiết phải có trải nghiệm quá khứ
về tình dục, tình cảm với hai giới hay tỷ lệ phải bằng nhau.
- Transgender (chuyển giới): Là những người có bản dạng giới khác với những đặc
điểm giới tính sinh học của người đó lúc sinh ra, bao gồm người chuyển giới đã
phẫu thuật và người chuyển giới chưa (hoặc không qua) qua phẫu thuật.
- Intersex (liên giới tính): Người liên giới tính là người có tình trạng phát triển không
điển hình của các đặc điểm giới tính và sinh lý trên cơ thể. Những trạng thái này có
thể liên quan đến những đặc điểm bất thường của các bộ phận sinh dục bên ngoài, các
cơ quan sinh sản bên trong, nhiễm sắc thể giới tính, hoặc các hoóc-môn giới tính.
2. Một số khái niệm liên quan đến giới
- Biological sex/sex (Giới tính sinh học): Chỉ cơ thể của một người cùng với
những đặc điểm sinh học về giới tính của người đó như bộ phận sinh dục, nhiễm
sắc thể giới tính quy định và cơ quan sinh sản bên trong. lOMoAR cPSD| 39651089 8
- Sexual orientation (Xu hướng tính dục): Một yếu tố trong tính dục, thể hiện ở
sự hấp dẫn có tính bền vững về cảm xúc, tình dục hoặc tình cảm hướng tới người
cùng giới, khác giới hay cả hai. Từ đó có các xu hướng như đồng tính, dị tính hoặc
song tính... Xu hướng tính dục của một người không nhất thiết trùng với hành vi
tình dục của người đó.
- Gender identity (Bản dạng giới): còn được gọi là nhân dạng giới tính, giới tính
tự xác định của một người sau khi người đó trưởng thành và có đủ hiểu biết về
bản thân. Bản dạng giới có thể giống hoặc khác với giới tính sẵn có lúc sinh ra.
- Homophobia (Chứng sợ đồng tính) hay ám chỉ sự sợ hãi, hoặc định kiến sâu sắc,
và việc phân biệt đối xử với người đồng tính. Đây cũng là thuật ngữ nhằm nói đến
cách nhìn nhận tiêu cực (không thích, hận thù hoặc ám ảnh) về xu hướng đồng giới.
- Come out: Chỉ hành vi công khai khuynh hướng tính dục hoặc bản dạng giới
của bản thân đối với bạn bè, gia đình, xã hội… Đây là một thuật ngữ được sử
dụng bởi những người LGBT, để mô tả quá trình từ khám phá, chấp nhận, cởi mở
hơn đến việc thành thực công khai giới tính thật của họ. Nhìn chung, đây là hành
động thổ lộ, sống thật, hay công khai giới tính của mình.
3. Khái niệm kỳ thị, bắt nạt
- Khái niệm kỳ thị: Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỳ thị. Theo Goffman (1963) kỳ
thị là một thuộc tính hết sức cá nhân và dẫn đến việc loại bỏ một người hoặc một nhóm
người vô dụng và phế phẩm. Kỳ thị được xem như là một quan điểm, một cách nhìn
nhận đối với sự khác biệt nào đó cho một nhóm người và thường mang ý nghĩa tiêu cực.
Theo định nghĩa của UNAIDS về kỳ thị, kỳ thị là một quá trình làm giảm giá trị của
một cá nhân hay một nhóm người dưới mắt của những người khác. Trong một nền văn
hóa hoặc một bối cảnh cụ thể, một số đặc tính nhất định bị coi là lệch khỏi chuẩn mực
chung, do đó đáng xấu hổ hoặc đáng bị coi thường. Kỳ thị có thể dẫn tới phân biệt
đối xử khi nó thể hiện thành hành động và đó có thể là bất kỳ một hành vi phân
tách, loại bỏ hay hạn chế những cá nhân bị kỳ thị. Như vậy, kỳ thị là một quá trình
liên tục và thể hiện ở các dạng, hình thức khác nhau, từ quan điểm đánh giá, thái
độ cho đến hành vi, hành động.
Sự kỳ thị là thái độ làm mất thể diện hoặc không tôn trọng đối với một cá nhân hoặc một
nhóm người nào đó một cách thiếu căn cứ hoặc đưa ra những chuẩn mực một cách chủ
quan. Kỳ thị sẽ dẫn đến có những thái độ hoặc hành vi làm tổn thương người khác. lOMoAR cPSD| 39651089 9
- Khái niệm bắt nạt: là hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng ép, trêu chọc hoặc đe dọa
gây tổn thương ngược đãi, dọa dẫm hoặc chi phối gây hấn đối phương. Hành vi
thường có tính chất lặp lại và theo thói quen. Điều kiện cốt lõi là sự nhận thức
(của người bắt nạt hoặc của những người khác) về sự mất cân bằng sức mạnh thể
chất hoặc quyền lực. Sự mất cân bằng này phân biệt bắt nạt với xung đột. Bắt nạt
là một phạm trù con của hành động gây hấn, đặc trưng bởi ba tiêu chí sau: (1) ý
định thù địch, (2) mất cân bằng quyền lực và (3) lặp lại trong một khoảng thời
gian. Bắt nạt là hành động gây hấn có tính lặp đi lặp lại nhằm gây tổn thương cho
các cá nhân khác về mặt thể chất, tinh thần hoặc cảm xúc.
Hành vi bắt nạt bao gồm bốn dạng cơ bản: ngược đãi bằng lời nói, ngược đãi
bằng tâm lý, ngược đãi về thể chất và ngược đãi trên phương tiện truyền thông.
- Phân biệt đối xử: là hành vi tạo ra sự phân biệt một cách sai trái giữa những con
người với nhau dựa trên đặc điểm của nhóm, tầng lớp xã hội hay các đặc điểm xã hội
khác mà cá nhân được cho là thuộc về. Phân biệt đối xử có thể dựa trên các cơ sở
như giới tính, độ tuổi, xu hướng tính dục và bản dạng giới, quốc tịch, màu da, tôn
giáo, sắc tộc, địa vị kinh tế, địa vị xã hội, ngôn ngữ, tầng lớp, nguồn gốc sinh thành, và
những cơ sở khác. Việc phân biệt đối xử đặc biệt rõ ràng khi một cá nhân hay một
nhóm bị đối xử kém các cá nhân hay nhóm khác một cách không công bằng. Phân
biệt đối xử chủ yếu liên quan đến việc hạn chế, ngăn cản hoặc loại bỏ một cách
vô lý một cá nhân hay một nhóm với những cơ hội và đặc quyền mà những nhóm khác có được.
4. Khái niệm “Công tác xã hội”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về CTXH:
- Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ (NASW-1970):
“Công tác xã hội (Social Work) là một hoạt động mang tính chuyên môn đJược sử
dụng để giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng
lực thực hiện những chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm
đạt được các mục tiêu ấy”.
- Định nghĩa của Liên đoàn Quốc tế các nhân viên CTXH (IFSW) được chấp
thuận trong buổi họp vào tháng 7 năm 2000 tại Montréal, Canada: “Công tác xã hội
chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan
hệ con người, sự tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của
họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống
xã hội, công tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi lOMoAR cPSD| 39651089 10
trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của
nghề công tác xã hội”.
Khái niệm “Nhân viên công tác xã hội”
Nhân viên công tác xã hội (Social Workers) là những người được đào tạo một
cách chuyên nghiệp về công tác xã hội mà hành động của họ nhằm mục đích tối ưu
hóa sự thực hiện vai trò của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần tích cực vào cải thiện, tăng cường chất lượng cuộc sống của cá nhân, nhóm
và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn (IFSW).
Khái niệm “Vai trò”
Vai trò (Role) theo từ điển tiếng Việt nó có nghĩa là tác dụng, chức năng của ai
hoặc cái gì trong sự hoạt động, phát triển chung của một tập thể, một tổ chức. Vai
trò được hiểu đơn giản là một phân vai được đóng vai bởi một người nào đó
trong một hoàn cảnh cụ thể. Và mỗi cá nhân trên toàn thế giới này đóng vai trò
khác nhau trong cuộc sống của họ.
Mặt khác, vai trò cũng có thể đề cập đến vị trí chuyên nghiệp của một người
hoặc bộ phận được chơi bởi một người trong môi trường chuyên nghiệp. Ví dụ:
Vai trò của giáo viên có thể bao gồm kỷ luật, người hòa giải học tập, người tổ chức
các bài học, tâm sự với học sinh, … Các chức năng và nhiệm vụ của nghề nghiệp
cũng được liên kết với từ “vai trò” cụ thể này, nghĩa là làm gì trong khả năng
chuyên nghiệp của mình ở vị trí đó.
Khái niệm “Công tác xã hội với người LGBT”: Từ khái niệm công tác xã
hội và khái niệm người LGBT, ta có thể đưa ra cách hiểu về công tác xã hội đối
với LGBT như sau:
“Công tác xã hội đối với người LGBT là một hoạt động chuyên nghiệp nhằm
trợ giúp cho người LGBT nâng cao năng lực và chức năng xã hội để có thể giải
quyết, phòng ngừa những vấn đề gặp phải do chưa được đáp ứng nhu cầu về
Quyền và các yếu tố pháp lý, y tế…; đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về
chính sách, pháp luật, nguồn lực và dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu của người
LGBT cũng như tôn trọng sự khác biệt giới tính và bản dạng giới.” lOMoAR cPSD| 39651089 11
II. THỰC TRẠNG TRẺ EM LGBT BỊ BẮT NẠT, KỲ THỊ TRONG TRƯỜNG HỌC
1. Thực trạng trẻ em LGBT bị bắt nạt trong các trường học trên thế giới
Trong một cuộc Khảo sát Không Khí Trường học Quốc gia vào năm 2015 tại
các trường phổ thông trung học ở tiểu bang Tây Virgina, Hoa Kỳ của Mạng lưới giáo
dục người đồng tính và dị tính Hoa Kỳ (GLSEN) cho thấy ba phần tư (75%) học sinh
chuyển giới cảm thấy không an toàn ở trường do biểu hiện giới tính của họ và các em
có nhiều khả năng bị quấy rối bằng lời nói, quấy rối thể xác và hành hung hơn các
bạn cùng lứa tuổi. 86% học sinh đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, chuyển giới
và đồng tính luyến ái (LGBTQ) trong cùng một cuộc khảo sát cho biết đã nghe những
lời bình luận chống chuyển giới ở trường, trong đó hơn 40% nghe chúng thường xuyên.
Đa số học sinh chuyển giới phải đối mặt với các chính sách phân biệt đối xử của
nhà trường hạn chế khả năng tiếp cận cơ sở vật chất của các em thực hiện, 60% học sinh
chuyển giới buộc phải sử dụng phòng tắm hoặc phòng thay đồ không phù hợp với giới
tính mà họ sống hàng ngày. Khi học sinh chuyển giới bị buộc phải sử dụng phòng tắm
không phù hợp với giới tính của họ hoặc khi họ bị cấm hoàn toàn khỏi các cơ sở chung và
được yêu cầu sử dụng một cơ sở riêng biệt, họ sẽ bị loại ra vì phân biệt đối xử và quấy
rối. Bảy trong số mười (70%) học sinh chuyển giới được khảo sát cho biết họ tránh phòng
tắm vì cảm thấy không an toàn hoặc không thoải mái.
Kết quả nghiên cứu về người chuyển giới ở Hoa Kỳ thực hiện năm 2015 do
Trung tâm quốc gia về quyền người chuyển giới đã cho thấy một con số đáng quan
ngại. Riêng những con số liên quan đến vấn đề bị kỳ thị, phân biệt đối xử thậm chí
là nạn nhân của sự bắt nạt, bạo hành.
Hơn 77% những người bị coi là chuyển giới ở một thời điểm nào đó từ Mẫu giáo
đến Lớp 12 đã trải qua một số hình thức ngược đãi, chẳng hạn như bị quấy rối bằng lời
nói, bị cấm mặc quần áo theo giới tính của họ danh tính, bị kỷ luật hà khắc hơn, hoặc bị
tấn công về thể chất hoặc tình dục vì mọi người nghĩ rằng họ là người chuyển giới.
• 54% trong số những người ở ngoài hoặc được coi là người chuyển giới bị
quấy rối bằng lời nói, gần một phần tư (24%) bị tấn công thể xác và 13% bị tấn
công tình dục vì là người chuyển giới.
• 17% phải đối mặt với sự ngược đãi nghiêm trọng với tư cách là một người
chuyển giới đến nỗi họ rời trường. lOMoAR cPSD| 39651089 12
• Gần một phần tư (24%) những người không được coi là chuyển giới trong
trường đại học hoặc trường dạy nghề đã bị quấy rối bằng lời nói, thể chất hoặc tình dục.
Tại nước Anh, trong năm 2016, tổ chức Stonewall (1) đã ủy quyền cho Trung tâm
nghiên cứu Gia đình của Đại học Cambridge làm một cuộc khảo sát trên hơn 3.700 học sinh
trong độ tuổi từ 11 đến 19 là người đồng tính, song tính và chuyển giới những trải nghiệm cụ
thể của họ về vấn đề bắt nạt, bạo hành thân xác, lời nói vì xu hướng tính dục tại các trường
trung học và cao đẳng. Theo kết quả Báo cáo phát hành năm 2017 thì gần một nửa số học sinh
LGBT (45%) bị bắt nạt vì là LGBT ở trường học. Đặc biệt là có đến 64% người chuyển giới
thuộc nhóm này đã bị kỳ thị và là nạn nhân của bạo lực học đường.
Đối với việc kỳ thị bằng ngôn ngữ thì có đến 86% thường xuyên nghe thấy
những cụm từ như "thật đồng tính" hoặc "bạn thật đồng tính" ở trường. Một
phần ba học sinh chuyển giới (33%) không được biết đến bằng cái tên ưa thích của
mình ở trường, trong khi 3/5 số học sinh LGBT (58%) không được phép sử dụng
nhà vệ sinh mà họ cảm thấy thoải mái.
Thậm chí vấn đề giáo dục giới tính trong các trường học cũng bị xem nhẹ. Hơn
75% học sinh cho biết chúng không được dạy về bản dạng giới và "chuyển giới" và
40% chưa từng được trang bị kiến thức về LGBT trong trường học. Chỉ có 1/5 số học
sinh được dạy về tình dục an toàn liên quan đến mối quan hệ đồng giới.
Tuy nhiên, không có nhiều trường phản ứng lại với những định kiến về LGBT.
Chỉ có gần 1/3 (29%) số học sinh LGBT báo cáo lại là giáo viên đã can thiệp khi họ có
mặt tại chỗ vụ bắt nạt. Khoảng 4/10 học sinh được hỏi báo cáo rằng trường học có
cho rằng việc bắt nạt những người đồng tính hoặc song tính là sai.
Đối với học sinh chuyển giới nói riêng, những mối liên hệ đáng báo động:
gần 2/3 học sinh chuyển giới bị bắt nạt vì là LGBT ở trường, 1/10 đã nhận được lời
đe dọa giết người và hơn hai em đã cố gắng tự kết liễu mạng sống của mình.
2. Thực trạng trẻ em LGBT bị bắt nạt trong các trường học tại Việt Nam
Báo cáo nghiên cứu bạo lực học đường trên cơ sở giới có liên quan đến xu
hướng tính dục, bản dạng và thể hiện giới tại Việt Nam. Báo cáo này được Văn
phòng UNESCO tại Hà Nội thực hiện vào năm 2016 như là một phần trong các nỗ
lực nhằm đảm bảo môi trường học tập an toàn cho mọi học sinh Việt Nam.
Các kết quả có được thông qua phân tích những thông tin thực tế thu thập từ 3.698
người tham gia khảo sát, 280 người tham gia các cuộc Thảo luận nhóm (TLN) và 85 cuộc
Phỏng vấn sâu (PVS) với HS (bao gồm HS LGBT), GV, CBQL và CMHS cho thấy nhiều
người tham gia có quan niệm mặc định về người LGBT như là ‘bệnh hoạn’ hay không lOMoAR cPSD| 39651089 13
bình thường. HS LGBT thể hiện nhận thức về bạo lực liên quan đến SOGIE đầy đủ hơn
so với các nhóm tham gia khác, nhất là bạo lực lời nói và những ảnh hưởng tiêu cực lâu
dài của nó. Bạo lực liên quan đến SOGIE xảy ra phổ biến trong nhà trường: 71% HS
LGBT báo cáo là đã từng bị xâm hại thể chất và 72.2% từng bị bạo lực lời nói. Một số
HS LGBT tiết lộ rằng các em đã trải qua những tình huống trong đó người gây bạo lực
là cán bộ nhân viên nhà trường. HS LGBT đã phải gánh chịu những hậu quả tiêu cực rõ
ràng về học tập và sức khỏe thể chất, tinh thần, từ việc bị điểm kém và bỏ học đến trầm
cảm và có ý định tự tử. Gần một phần tư HS LGBT từng bị bạo lực trước đó đã có ý
định tự tử và 14.9% đã tự gây thương tích cho mình hoặc tự tử.
Các HS đồng tính nam, nam song tính, nam không tuân theo chuẩn mực giới, và
chuyển giới từ nam sang nữ (GBT) có nguy cơ bị bạo lực cao hơn đáng kể ở tất ở tất
cả các dạng so với các HS đồng tính nữ, nữ song tính, nữ không tuân theo chuẩn mực
giới, và chuyển giới từ nữ sang nam (LBT). Hiện tượng này có thể do nhiều nguyên
nhân, trong đó có cả những động cơ từ người gây bạo lực nhằm trừng phạt những thể
hiện “nữ tính” ở người nam, và sự coi trọng những biểu hiện “nam tính” ở người nữ
-– do ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo vốn dành đặc quyền hơn cho tính nam.
Các HS LGBT tỏ ra ít tin tưởng hơn vào nỗ lực ngăn chặn bạo lực của nhà trường
so với các HS khác tham gia TLN và PVS. Những HS LGBT tham gia nghiên cứu đã
trải qua bạo lực trả lời rằng các em đã tìm kiếm sự trợ giúp từ bạn bè (và ít tìm kiếm
sự giúp đỡ từ cán bộ nhân viên nhà trường).
Trong số những người từng đi học trước năm 18 tuổi, cứ ba người thì có hai
người từng nghe, nhìn thấy những nhận xét, hành động tiêu cực từ bạn bè, và cứ
ba người thì có một người từng nghe, nhìn thấy những nhận xét, hành động tiêu
cực từ giáo viên, cán bộ nhà trường về LGBT. Gần một phần ba cảm thấy bị đối
xử không công bằng bởi giáo viên vì có quan điểm ủng hộ LGBT trong các buổi
thuyết trình, làm bài tập tự chọn chủ đề.
Một nghiên cứu gần đây về bạo lực học đường trên cơ sở giới với học sinh
LGBT (UNESCO, 2015) tại 20 nước ở Châu Á, trong đó có Việt Nam, cho thấy
70% học sinh LGBT từng bị bắt nạt bằng lời nói (gọi tên và các kiểu chọc ghẹo),
cao nhất so với các nước cùng bảng khảo sát là Úc, Trung Quốc, Hong Kong,
Nhật, Hàn, Thái Lan. Con số 70% này khá phù hợp với phát hiện 67.5% người
LGBT từng nghe, nhìn thấy những nhận xét, hành động tiêu cực từ bạn bè.
Các hành vi phân biệt đối xử khác mà người tham gia khảo sát báo cáo còn có:
bạn bè ngừng kết bạn khi phát hiện ra là LGBT, bị bàn tán về ngoại hình, bị tẩy chay lOMoAR cPSD| 39651089 14
trong lớp học… dẫn đến các hậu quả như phải trốn học (9.8%) hoặc thậm chí bỏ
học (5.0%) vì sự phân biệt đối xử này.
Cũng trong năm 2015, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE)
thực hiện khảo sát trực tuyến về những trải nghiệm phân biệt đối xử với người LGBT với
sự tham gia của 2363 người trả lời hoàn thiện bảng hỏi trực tuyến đang sinh sống ở 63
tỉnh thành của Việt Nam về những trải nghiệm phân biệt đối xử, quấy rối và bạo lực bởi
vì xu hướng tính dục và bản dạng giới của họ. Đối với kết quả trong môi trường học
đường cứ ba người thì có hai (67.5%) người từng nghe, nhìn thấy những nhận xét, hành
động tiêu cực từ bạn bè, và cứ ba người thì có một (38.2%) người từng nghe, nhìn thấy
những nhận xét, hành động tiêu cực từ giáo viên, cán bộ nhà trường về LGBT. Các hành
vi bị phân biệt đối xử mà người tham gia khảo sát trải qua vì mình là người LGBT nhiều
nhất là bị bắt nạt, quấy rầy bởi bạn bè (53.8%), bị ép buộc thay đổi kiểu tóc, cử chỉ, điệu
bộ (39.3%) và bị đối xử không công bằng vì có quan điểm ủng hộ LGBT (30.8%).
3. Nguyên nhân của việc kỳ thị, bắt nạt học sinh LGBT trong
trường học 3.1. Định kiến xã hội
Ở Việt Nam, định kiến và phân biệt đối xử đối với người đồng tính, song
tính và chuyển giới được thể hiện ở nhiều khía cạnh, từ việc thiếu những kiến thức
chính thống về LGBT dẫn đến cách mô tả sai lệch của truyền thông, báo chí từ thái
độ thiếu thân thiện của các những người thân, bạn bè thậm chí cả những người có
cùng cảnh ngộ dẫn đến thái độ phân biệt đối xử với họ trong nhiều môi trường xã
hội. Có thể kể ra một số quan niệm sai lầm sau đây.
Đồng tính là bệnh: đa số mọi người vẫn cho rằng đồng tính do bẩm sinh, tuy nhiên,
họ quan niệm bẩm sinh này không phản ánh sự đa dạng sinh học về xu hướng tình dục
giống như đa dạng màu da, màu mắt hay vóc dáng, mà bẩm sinh đồng tính là bệnh, là
những kiếm khuyết và bất thường sinh học. Một số người lại khẳng định đồng tính có
nguyên do từ việc rối loạn hóoc-môn. Đây cũng là quan điểm phổ biến của những người
được coi là chuyên gia tình dục ở Việt Nam vào thập kỷ trước và tạo thành một nền tảng
kiến thức phổ thông. Những khiếm khuyết hay rối loạn sinh học và nội tiết này thường
được cho là những thay đổi bên trong, từ khi bào thai được hình thành và không thể xác
định nguyên nhân của những thay đổi đó. Cũng có một vài ý kiến cho rằng đó là các tác
nhân môi trường bên ngoài, thông qua người mẹ gây tác động tới quá trình phát triển
bào thai. Cũng vì cho là bệnh nên họ cho rằng có thể chữa trị được.
Mặc dù đồng tính luyến ái đã được Hoa Kỳ loại khỏi danh sách bệnh tâm thần từ
năm 1973, và được Tổ chức Y tế Thế giới WHO chính thức loại khỏi danh sách bệnh vào lOMoAR cPSD| 39651089 15
năm 1990, nhưng vẫn có người khẳng định chắc chắn rằng “khoa học xem đồng
tính là bệnh tâm lý”, “đồng tính chẳng chừa một ai, đó là nhận định của các
chuyên gia y học”, và rằng nó “đang lây nhiễm khá nhanh”.
Đồng tính là hậu quả của những thay đổi xã hội: Nhiều người được hỏi cho
rằng đồng tính là “hiện tượng lạ” và “mới” do những thay đổi xã hội gây ra. Trên
thực tế, hiện tượng này bị xem là mới vì mặc dù người đồng tính là một bộ phận
dân số suốt trong chiều dài lịch sử phát triển xã hội, nhưng họ không dám công
khai - “ngày xưa phải giấu vì sợ”. Và chỉ từ khi có những cởi mở của xã hội với các
giá trị nói chung thì hiện tượng này mới được biết đến. Một vài người khác lại cho
rằng đồng tính thực sự là hiện tượng xã hội, là sự lựa chọn của con người, nảy sinh
do lối sống đua đòi của giới trẻ với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Đồng tính trái với chuẩn mực tự nhiên: Những người thân trong gia đình đặc biệt
là cha mẹ người đồng tính đã thấm nhuần những giá trị chuẩn mực của xã hội truyền
thống. Chuẩn mực giá trị truyền thống dạy cho nam giới phải mạnh mẽ, quyết đoán phải
làm những công việc nặng, việc to lớn; nữ giới phải nhỏ nhẹ, tỏ ra yếu đuối, dễ thương,
làm những công việc nhẹ nhàng. Sau này lớn lên, theo quy luật tự nhiên, con trai phải yêu
và lấy con gái làm vợ và ngược lại. Những khuôn mẫu chuẩn mực đó đã được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, những người nào có những biểu hiện “lệch chuẩn”
so với những khuôn mẫu, chuẩn mực đó sẽ bị xem là sai lệch, là khác người, và có thể làm
mọi người phải sợ hãi và tránh xa. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử từ gia đình và những
người thân thường mạnh mẽ hơn cả. Bằng tình thương và trách nhiệm của mình, các
thành viên trong gia đình thường dùng mọi cách để ngăn cấm khi biết con mình có quan
hệ đồng giới. Từ khuyên bảo, ngọt ngào tình cảm đến những biện pháp mạnh mẽ như
cấm ra ngoài, đánh đập, đến bệnh viện chữa bệnh, thậm chí sử dụng đông tây y kết hợp
với cúng chỉ với mong muốn thay đổi giới tính cho con.
3.2. Định kiến trên báo chí
Một trong những nguyên do của định kiến xã hội về người đồng tính và chuyển
giới nằm ở thông điệp truyền thông, bởi hầu như mọi cá nhân trong xã hội đều tiếp nhận
thông tin qua các phương tiện truyền thông và chịu ảnh hưởng của các thông điệp truyền
thông đến việc hình thành thế giới quan. Những thông điệp mang định kiến hoặc thiếu
tính khoa học về người đồng tính có thể tạo ra hay củng cố những nhận thức sai lệch và
thái độ kỳ thị. Nhìn chung, phân tích nội dung các bài viết liên quan đến đồng tính trên
một số báo mạng và báo in cho thấy một tỷ lệ lớn các nhà truyền thông đã sử dụng ngôn
ngữ làm tăng định kiến, nhấn mạnh khuôn mẫu giới và đánh đồng các khái niệm trong
khi khắc hoạ chân dung người đồng tính, từ đó vẽ lên hình ảnh nhóm người đồng tính là lOMoAR cPSD| 39651089 16
những người có bản năng tình dục mạnh khác thường, hành vi tình dục không được
chấp nhận, đời sống tình dục ẩn chứa nhiều hiểm hoạ, không có khả năng duy trì
quan hệ đôi lứa lâu dài, tư cách đạo đức không tốt, và không có những biểu hiện rõ
ràng về nhu cầu ngoài nhu cầu tình dục hay về quan hệ gia đình, xã hội ngoài quan hệ
với bạn tình. Cách khắc họa chân dung người đồng tính như vậy hoàn toàn không
phù hợp với hiểu biết chính thống và các nghiên cứu khoa học về người đồng tính.
3.3. Thiếu kiến thức về LGBT trong trường học
Giáo viên không được tập huấn hay tìm hiểu hiểu về thế giới LGBT, với
khuôn mẫu đạo đức định kiến nên họ mới có những cái nhìn không mấy thiện cảm
với học sinh là LGBT, có những thái độ, ánh mặt khiến các em LGBT tổn thương.
Đối với học sinh thì hoàn toàn không hiểu biết về LGBT, lo sợ khi kết bạn với các
bạn LGBT, sợ bị lây, cảm giác ghê tởm khi tiếp xúc với bạn LGBT, mới có những hành
động kỳ thị, xa lánh, mỉa mai, cấu véo, và bạo lực. Từ đó nảy ra phân biệt đối xử.
Ngay cả khi các bài giảng về tình dục được đưa vào, thì nội dung đó cũng
thường được đặt ở phần cuối cùng của sách giáo khoa và bị các nhà giáo bỏ qua.
Do vậy, học sinh không được giảng dạy về SOGI hay tôn trọng sự đa dạng. Các
học sinh LGBT ở hầu hết các trường đều không được trang bị các kiến thức cơ
bản hay được trợ giúp về vấn đề SOGI từ các giáo viên hoặc các dịch vụ ở trường
như các chuyên gia tư vấn, nhân viên y tế, hay từ các nguồn lực khác
4. Hậu quả mà học sinh LGBT phải gánh chịu khi bị bắt nạt, kỳ thị
Thực tế, hậu quả để lại của những sự phân biệt đối xử, kỳ thị, bắt nạt liên quan
đến xu hướng tính dục, bản dạng và thể hiện giới kéo dài tới cả cuộc đời và ảnh hưởng
tiêu cực lên nhân cách và khả năng hòa nhập của học sinh. Bắt nạt thường có đặc tính
kéo dài, liên tục với mức độ tăng dần và quá trình “bình thường hóa” hành vi bắt nạt.
Bên cạnh đó, học sinh LGBT dễ bị bạo lực dưới mọi hình thức hơn các học sinh không
phải LGBT. Chúng trở nên trầm cảm, ngại tiếp xúc bạn bè, suy giảm khả năng học tập,
dẫn tới áp lực từ gia đình rồi lại tiếp tục che giấu, học hành sa sút như một vòng lẩn
quẩn. Học sinh (LGBT) thể hiện nhận thức về bạo lực đầy đủ, sâu sắc hơn các nhóm
khác, nhất là đối với bạo lực về lời nói và những hệ lụy tiêu cực lâu dài của nó.
Ngay cả khi không phải đối mặt với sự xâm hại cơ thể hay bằng lời nói, nhiều em cho
biết đã bị gia đình, bạn bè và giáo viên cô lập và kỳ thị một cách công khai hay ngấm ngầm.
Điều đó diễn ra trong các lớp học, khi giáo viên nói rằng bất cứ dạng quan hệ nào ngoài quan
hệ dị tính luyến ái với mục đích sinh sản đều là “phi tự nhiên,” hay ở gia đình, khi cha mẹ
dọa đánh, đuổi đi hoặc đưa đi chữa trị nếu con cái là người đồng tính nam hay đồng tính nữ.
Khi bị bạo lực, lực chọn phổ biến nhất là tìm kiếm sự hỗ trợ của người lớn. lOMoAR cPSD| 39651089 17
Lựa chọn phổ biến thứ hai là ‘Không làm gì cả/im lặng chịu đựng. Nhiều học sinh
LGBT bị bạo hành phản ứng lại bằng cách bỏ học hoặc sử dụng chất có cồn. Nhiều
em bị ảnh hưởng tâm lý khiến kết quả học tập dưới trung bình, trầm cảm, hoảng
loạn thậm chí có ý nghĩ tự tử hoặc làm mình bị thương. Điều này càng nghiêm
trọng hơn đối với nhóm học sinh trung học phổ thông vì các em đang trong độ tuổi
có nhiều thay đổi về tâm sinh lý, thích tự mình giải quyết mâu thuẫn trong khi
chưa đủ chín chắn để nhận thức đúng mọi vấn đề.
III. VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LGBT
BỊ BẮT NẠT, KỲ THỊ TRONG TRƯỜNG HỌC
Công tác xã hội trong trường học là một dịch vụ đặc biệt nhằm hỗ trợ những ai
tham gia vào môi trường học đường (học sinh, sinh viên, giáo viên, phụ huynh, cán bộ
nhà trường và những nhà quản lí giáo dục ở tất cả các bậc học). NVCTXH trường học là
người thực hiện vai trò nhiệm vụ của mình tại trường học là trợ giúp giải quyết những vấn
đề xã hội nảy sinh trong nhà trường; là cầu nối giữa học sinh – gia đình – nhà trường
– cộng đồng để giúp học sinh có điều kiện phát huy hết khả năng cho việc học tập đạt kết
quả tốt nhất. Như vậy, NVCTXH trường học là những người được huấn luyện đặc biệt
để làm việc với học sinh, trong trường học.
Đối với đối tượng mà NVCTXH làm việc là trẻ em LGBT, thì vai trò của nhân
viên này lại càng chuyên biệt hơn khi mà chúng là những người dễ bị tổn thương vì
bị phân biệt đối xử, kỳ thị, bắt nạt bởi bạn bè, những người quản lý giáo dục, thậm chí
thầy cô. Sau đây là một số vai trò của NVCTXH học đường với trẻ em LGBT:
+ Vai trò là người vận động nguồn lực trợ giúp trẻ em LGBT (cá nhân, gia đình, cộng
đồng...) tìm kiếm nguồn lực (nội lực, ngoại lực) cho giải quyết vấn đề.
+ Vai trò là người kết nối - khai thác, giới thiệu trẻ em LGBT tiếp cận tới các dịch vụ,
chính sách nguồn tài nguyên đang sẵn có trong cộng đồng.
+ Vai trò là người biện hộ/vận động chính sách giúp bảo vệ quyền lợi cho học sinh
LGBT để các em được hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền lợi của họ đặc biệt
trong những trường hợp họ bị từ chối những dịch vụ, chính sách mà họ là đối
tượng được hưởng.
+ Vai trò là người giáo dục cung cấp kiến thức về người đồng tính, song tính và
chuyển giới cũng như kỹ năng nâng cao năng lực cho trẻ em LGBT, gia đình,
nhà trường hay cộng đồng qua tập huấn, giáo dục cộng đồng để họ có hiểu biết, tự
tin và tự mình nhìn nhận vấn đề đánh giá vấn đề phân tích và tìm kiếm nguồn lực
cho vấn đề cần giải quyết. lOMoAR cPSD| 39651089 18
+ Vai trò là người tham vấn giúp cho những trẻ em LGBT bị tổn thương về tâm lý,
tình cảm và xã hội vượt qua được sự căng thẳng, khủng hoảng duy trì hành vi tích
cực đảm bảo chất lượng cuộc sống.
+ Vai trò là người trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch công tác xã hội trong trường
học: trên cơ sở nhu cầu của cộng đồng đã cộng đồng được xác định, nhân viên công
tác xã hội làm việc với nhân viên, giáo viên và cán bộ quản lý trong nhà trường giúp
nhà trường xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, tiềm
năng của họ để giải quyết vấn đề phân biệt đối xử với học sinh LGBT.
+ Vai trò là người nhà đào tạo, nghiên cứu và quản lý hành chính giúp đào tạo thế
hệ nhân viên CTXH, đưa ra những nghiên cứu lý luận và xây dựng mô hình giúp
đỡ các học sinh LGBT và quản lý các hoạt động, các chương trình, lên kế hoạch
và triển khai kế hoạch các chương trình trợ giúp để hiệu quả đạt được là tối ưu.
Trong tiến trình thực hiện CTXH trợ giúp những người LGBT nói chung và trẻ em
LGBT nói riêng, hành động của nhân viên xã hội đang tạo động lực trực tiếp tới quyền
của con người. Vì vậy, những nguyên tắc hành động của nhân viên xã hội cần được tôn
trọng và tuân thủ. Nếu không có các nguyên tắc đạo đức mà chỉ làm việc theo cảm tính,
hoạt động hỗ trợ sẽ không đạt được mục tiêu hỗ trợ mà có thể sẽ gây ra những tác động
ngược. Một số quy điều đạo đức mà nhân viên CTXH cần tuân thủ bao gồm:
- Hướng tới mục tiêu công bằng xã hội: Cùng với vai trò và sự hiểu biết của
mình, nhân viên CTXH nỗ lực tác động đến nhận thức của cộng đồng để xây dựng
một xã hội tôn trọng sự đa dạng tính dục và không còn sự bất công, kì thị đối với
người LGBT. Nhân viên CTXH cũng ý thức về việc tạo ra các cơ hội cho những
người LGBT được tiếp cận các dịch vụ xã hội trong nhà trường, bệnh viện, nơi làm
việc... thông qua vai trò biện hộ và tham gia xây dựng, điều chỉnh chính sách. -
Tôn trọng phẩm giá và giá trị của thân chủ: Tôn trọng phẩm giá và giá trị của tất
cả mọi người có lẽ là giá trị cơ bản nhất của công tác xã hội. Dựa trên sự tôn trọng phẩm giá
và giá trị của mỗi con người, nhân viên CTXH đối xử với mỗi người theo cách quan tâm
đến sự khác biệt của cá nhân và tính đa dạng về văn hóa. Sự tôn trọng và chấp
nhận của nhân viên CTXH với thân chủ LGBT không chỉ thể hiện việc đảm bảo quyền của họ
mà còn là cơ sở quan trọng để tạo dựng lòng tin và cảm giác an toàn từ thân chủ, thiết lập nền
tảng vững chắc cho mối quan hệ tương tác trong quá trình giúp đỡ. Sự tôn trọng của nhân
viên CTXH được thể hiện qua những kĩ năng như lắng nghe tích cực, thấu cảm ở mức độ
cao đối với những cảm xúc, sự kiện, vấn đề và nhu cầu của thân chủ LGBT là yếu tố quan
trọng để thân chủ LGBT cảm thấy được chấp nhận, được có giá trị, tăng cường lòng tự
trọng, từ đó phát huy được những điểm mạnh của bản thân trong quá trình lOMoAR cPSD| 39651089 19
giải quyết những vấn đề của mình.
- Bảo mật thông tin của thân chủ: Giữ bí mật thông tin là một trong những nguyên
tắc quan trọng mà nhân viên CTXH khi làm việc với những người LGBT cần tuân thủ.
Bảo vệ thông tin của thân chủ thể hiện sự tôn trọng của nhân viên CTXH đối với quyền
riêng tư cá nhân của thân chủ và đảm bảo tính an toàn và hiệu quả trong quá trình hỗ trợ.
Hầu hết mọi thân chủ đều quan tâm đến sự riêng tư cá nhân và sự bảo mật những thông
tin của bản thân, nhưng đối với những thân chủ LGBT thì dường như nguyên tắc này là
yếu tố cam kết hàng đầu giúp họ xây dựng niềm tin với nhân viên CTXH và mạnh dạn
chia sẻ về xu hướng tình dục của mình. Trong quá trình trợ giúp, nhân viên Công tác xã
hội phải luôn luôn phải thận trọng và cân nhắc kĩ những hậu quả và phải chịu trách nhiệm
về việc chia sẻ những thông tin cũng như nội dung thông tin mà mình chia sẻ. Sự chia sẻ
và những giới hạn thông tin sẽ được chia sẻ cần được sự đồng thuận của thân chủ. Trong
những buổi đầu làm việc, nhân viên CTXH có trách nhiệm cung cấp thông tin về nguyên
tắc này cho thân chủ và cần chắc chắn rằng họ đã hiểu và cùng phối hợp tuân thủ. -
Trong trường hợp thân chủ có ý định “come out” để công khai bí mật về xu hướng
tình dục của mình với gia đình hay bạn bè, nhân viên CTXH cần trao đổi chi tiết với thân
chủ những hệ quả có thể xảy ra. Những cảnh báo về phản ứng tiêu cực của bố mẹ, người
thân hay bạn bè khi tiếp nhận thông tin công khai là rất cần thiết để giúp thân chủ có
sự chuẩn bị tâm lí và có phương án ứng phó phù hợp.
- Đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp: Công cụ chính trong các hoạt động công tác
xã hội là mối quan hệ giữa nhân viên CTXH và thân chủ. Nhân viên CTXH khi làm việc
với thân chủ LGBT cần thể hiện hành vi đúng mực, có trách nhiệm trong việc duy trì mối
quan hệ nghề nghiệp của mình. Mối quan hệ giữa nhân viên CTXH với LGBT, phụ huynh
hay những người khác liên quan tới vấn đề của LGBT cần đảm bảo tính thân thiện, tương
tác hai chiều, song khách quan và đảm bảo yêu cầu của chuyên môn. Nhân viên CTXH
không lợi dụng cương vị công tác của mình để đòi hỏi sự hàm ơn của thân chủ hay lợi
dụng vị thế của mình để trục lợi cho bản thân cả về khía cạnh vật chất hay tình cảm.
Nguyên tắc này giúp cho nhân viên công tác xã hội đảm bảo tính khách quan trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo sự công bằng trong giúp đỡ mọi thân chủ. lOMoAR cPSD| 39651089 20 KẾT LUẬN
Kỳ thị, bắt nạt và phân biệt đối xử là hiện tượng khá phổ biến trong học sinh nhất
là đối với những học sinh LGBT tại các trường học. Sự kỳ thị này hiện tiềm ẩn những yếu
tố nguy cơ tác động trực tiếp đến tâm lý và sức khỏe về mặt tinh thần của các em và có
thể dẫn tới những hành vi tiêu cực. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nâng cao nhận
thức cho học sinh và kể cả những người có mối quan hệ, liên hệ trực tiếp với các em như
thầy cô, các nhà quản lý giáo dục và cha mẹ học sinh về những kiến thức về người LGBT,
những tác động tiêu cực từ những hành vi đó và những vi phạm về quyền con người cũng
như bình đẳng giới đồng thời nhấn mạnh vai trò của nhà trường trong việc ngăn chặn kỳ
thị, bắt nạt, xúc phạm nhân phẩm đối với học sinh LGBT. Và người làm công việc đó
không ai khác chính là đội ngũ nhân viên công tác xã hội trong nhà trường. Nhân viên xã
hội về sức khỏe tâm thần nên xem xét đánh giá những trải nghiệm tiêu cực này có thể ảnh
hưởng như thế nào đến lòng tự trọng, khuôn mẫu xã hội và nhận thức của thân chủ về
việc tin tưởng trở nên thân thiết với người khác. Nghiên cứu trong tương lai trong lĩnh
vực này nên bao gồm việc xác định các chương trình chống bắt nạt hiệu quả, và các cách
thức mà trường học, cộng đồng và đặc biệt là gia đình có thể hỗ trợ đối phó, thích nghi và
khả năng phục hồi cho thanh thiếu niên LGBT đặc biệt là trong môi trường học đường.
Với sứ mệnh chống lại bất công xã hội và tranh đấu cho quyền bình đẳng của mọi
người, nhân viên CTXH giúp những người LGBT phục hồi, tăng cường sự tự tin, mạnh
dạn chống lại các hình thức kì thị của xã hội, của bản thân, từ đó phát triển những khả
năng cá nhân và vui sống. Đảm nhiệm vai trò của mình, nhân viên CTXH nỗ lực trong
việc cung cấp các dịch vụ ở các tầng bậc khác nhau bao gồm tầng cá nhân, tầng trung
gian và tầng vĩ mô nhằm hướng tới sự công bằng cho những người LGBT. Vì xu hướng
tính dục khác biệt so với với đa số, những người LGBT gặp rất nhiều khó khăn trong việc
thực hiện những quyền cơ bản của mình. Sự kì thị, phân biệt đối xử là những bất công
mà họ phải gánh chịu vì xu hướng tình dục bẩm sinh của mình. Những trải nghiệm và
vấn đề của họ mang tính riêng biệt mà không phải nhân viên CTXH nào cũng có thể hiểu
và vận dụng sự hiểu biết này trong quá trình can thiệp một cách thấu đáo. Chính vì vậy,
trong rất nhiều tài liệu về CTXH với người LGBT, các tác giả đã đề cập đến việc nhân
viên CTXH và tổ chức của họ cần phải có những cách thức phù hợp để hiểu những trải
nghiệm và văn hóa cá nhân của nhóm đối tượng mà họ cung cấp dịch vụ. lOMoAR cPSD| 39651089 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bùi Thị Xuân Mai (2014), “Giáo trình Nhập môn Công tác xã hội”, Nhà xuất bản
Lao động Xã hội, T.19.
2. Lê Thị Mai Trang (2015) Công tác xã hội với người đồng tính, song tính, chuyển
giới: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế:
3. Lương Thế Huy và Phạm Quỳnh Phương (2015) Có phải bởi vì tôi là LGBT?:
Phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới tại Việt Nam,
Viện nghiên cứu Xã hội Kinh tế và Môi trường iSEE
4. Natalie Newton, “Homosexuality and Transgenderism in Vietnam,” (Đồng
tính và Chuyển giới ở Việt Nam) trong Routledge Handbook of Sexuality
Studies in East Asia, do Mark McLelland và Vera Mackie biên soạn (Abingdon,
UK: Routledge, 2015), tr. 255-267.
5. Nguyễn Thị Mai Hồng (2015). Đào tạo và thực hành công tác xã hội trường học
– tính cấp thiết và tính đặc thù. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Công tác xã
hội trường học: Kinh nghiệm quốc tế và định hướng phát triển ở Việt Nam”,
Nxb Đại học Sư phạm, tr. 204 – 208.
6. Nguyễn Thị Mai Hồng, Vũ Hồng Nhung (2017). Vai trò của nhân viên công tác
xã hội trường học trong mối quan hệ với gia đình, cộng đồng và hệ thống nhà
trường việt nam hiện nay, Tạp chí Khoa học giáo dục ĐHSPHN, Tập 62, số 4, 174-183
7. Phạm Quỳnh Phương (2013). Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở
Việt nam, Tổng luận các nghiên cứu, Hà Nội.
8. Phạm Thu Hoa, Đ.T.Y., Định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người
đồng tính và chuyển giới ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 2015. 31(5): p. 70-79
9. Tổ chức Theo dõi nhân quyền (2020), Báo cáo “Giáo viên nói tôi bị bệnh”:
Những rào cản đối với quyền giáo dục của thanh thiếu niên LGBT ở Việt
Nam, Human Rights Watch, ISDN: 978-1-6231-38127, 9-68
10. Trương Hồng Quang (2019), Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển
giới và liên giới tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ lOMoAR cPSD| 39651089 22
Tài liệu nước ngoài
11. Beckerman N.L. (2017), LGBT Teens and Bullying: What every Social Worker
Should Know, Mental Health in Family Medicine, 13: 486-494
12. GLSEN, ASCA, ACSSW, & SSWAA. (2019). Supporting safe and healthy
schools for lesbian, gay, bisexual, transgender, and queer students: A national
survey of school counselors, social workers, and psychologists. New York: GLSEN.
13. Grzegorz Piekarski (2014). The social situation of LGBT people in polish
schools and the educational system. Gender and Education from Different
Angles Publisher: LIT Verlag, Zurich-Berlin, pp.204-212
14. National Center for Transgender Equality, The Report of the US Transgender
Survey 2015, update 2017, pp.2-297
15. Stonewall (2017). School Report: The experience of lesbian, gay, bi and trans
young people in Britain’s schools in 2017, University of Cambridge
Tài liệu trên Internet
1. Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), “Khái niệm vai trò”.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vai_tr%C3%B2_x%C3%A3_h%E1%BB%99i
2. Học sinh đồng tính bị kỳ thị ở trường học. https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-
nghiep/hoc-sinh-dong-tinh-bi-ky-thi-o-truong-hoc-20160829102428533.htm
3. https://vietnammoi.vn/hoc-sinh-lgbtq-chiu-hau-qua-nang-ne-ve-tam-ly-
trong-moi-truong-hoc-duong-74903.htm
4. Những Rào Cản Đối Với Quyền Giáo Dục Của Thanh Thiếu Niên LGBT Ở
Việt Nam. https://doisonggiaitri.com/topic/khai-niem-thanh-thieu-nien/#141727
5. Bạo lực lời nói gây nhiều hậu quả với học sinh LGBT.
http://tiengchuong.vn/Nghien-cuu-Chuyen-de/Bao-luc-loi-noi-gay-nhieu-hau-
qua-voi-hoc-sinh-LGBT/21360.vgp