Tiểu luận cuối kì - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Phân tích lý luận của phép biện chứng duy vật về cách thức vận động, phát triển củacác sự vật, hiện tượng trong thế giới. Anh (Chị) hãy vận dụng lý luận này vào hoạtđộng nhận thức và thực tiễn của bản thân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

I. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Phân tích lý luận của phép biện chứng duy vật về cách thức vận động, phát triển của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Anh (Chị) hãy vận dụng luận này vào hoạt
động nhận thức và thực tiễn của bản thân.
Biện chứng gốc từ tiếng Hy Lạp cổ với nghĩa nghệ thuật dẫn dắt tranh luận, thảo
luận. Trong lịch sử triết học, thuật ngữ “biện chứng được dùng để chỉ nghệ thuật tranh
luận, tranh biện để tìm ra chân bằng cách phát hiện ra mâu thuẫn trong cách lập luận
của đối phương. Trong triết học Mac – Lênin, khi sử dụng thuật ngữ này là để dùng để chỉ
cái đối lập với “siêu hình”.
Biện chứng khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa vận động,
phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, hội
duy.
Phép biện chứng học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành các
nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận
của các hoặt động nhận thức và thực tiễn
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật (do Mac Angghen sáng tạo ra, sau đó được
Leenin bổ sung, phát triển): sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật phương pháp
luận biện chứng; giữa luận nhận thức logic biện chứng; được chứng minh bằng sự
phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.
Trong triết học trước đây, thế giới quan duy vật phương pháp luận biện chứng tách
rời nhau.
Vai trò của phép biện chứng duy vật: thể hiện ở chức năng phương pháp luận chung nhất,
giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc cơ bản cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
Quy luật lượng chất thể hiện cách thức của sự vận động và phát triển: sự thay đổi về chất
chỉ xảy ra khi sự vật đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Vd: A một sinh viên học kém, A chăm chỉ học hành tích lũy kiến thức.Trải
qua một khoảng thời gian, A trở thành một sinh viên giỏi. Ta thấy rằng:
- Học kém: chất ban đầu
- Học giỏi: chất mới
- Kiến thức tích lũy: lượng
Ta thấy rằng A chăm hỉ học hành, từ từ tích lũy kiến thức đến một lúc nào đó đủ kiến thức
để chuyển hóa A học giỏi hơn. Nghĩa lượng kiến thức đủ thì chất học kém của A đã
chuyển hóa thành chất học giỏi. ràng, lượng kiến thức tích lũy đã thay đổi chất học
kém của A, điều đó khẳng định rằng thay đổi về lượng đến một lúc nào đó sẽ làm thay đổi
chất.
Khái niệm “chất”: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng, làm cho sự
vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
trên đời này vàng sự vật, hiện tượng, mỗi sự vật, hiện tượng chất làm nên
chính chúng, nhờ chất mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng
khác
Vd: Tính chất của đường ngọt; tính chất của muối là mặn. Ta dùng hai tính chất
này để phân biệt giữa đường và muối
Chất của con người lao động, ngôn ngữ, biết duy, giúp ta phân biệt con
người với con vật.
Chất của nền kinh tế VN nền kinh tế đang phát triển có thu nhập trung bình.
Theo định hướng đến năm 2045, VN sẽ trở thành một nước phát triển có thu nhập cao.
Phân tích khái niệm “chất”:
- Đặc điểm bản của chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện
tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại, phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn lại có những biểu hiện về chất khác nhau.
- Một sự vật, hiện tượng không chỉ một chất thể nhiều chất tùy thuộc
vào từng quan hệ của nó
- Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Trong đó thuộc
tính bản thuộc tính không bản, những chỉ những thuộc tính bản mới
tạo thành chất của sự vật. Tuy nhiên sự phân chia thuộc tính thành cơ bản và không
cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối
- Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi những yếu tố tạo
thành còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa bởi kết
cấu của sự vật. dụ: than chì kim cương yếu tố cấu thành giống nhau
cacbon, nhưng phương thức liên kết các yếu tố đó khác nhau nên cho ra 2 chất
khác nhau; trong khi kim cương cứng, đẹp và đắt, còn than chì thì không được như
vậy.
Khái niệm “lượng”: phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, tốc độ nhịp điệu vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Vd: phân tử nước gồm 2 nguyên tử hidro liên kết với 1 nguyên tử oxi. Lượng
nguyên tử hidro và lượng nguyên tử oxi là hai loại lượng tồn tại trong phân tử nước
Lượng trong người là chiều cao, cân nặng, tuổi thọ
Lượng của nền kinh tế VN biểu hiện: tăng trưởng GDP năm 2022 đạt 8,02%
Phân tích khái niệm “lượng”:
- Đặc điểm cơ bản của lượng là tính biến đổi.
- Lượng cũng mang tính quy định khách quan: sự vật, hiện tượng nào cũng
lượng, lượng một dạng củ vật chất chiếm mộ vị trí nhất định trong không gian
và tồn tại trong một thời gian nhất định.
- Sự vật, hiện tượng nhiều loại lượng khác nhau, lượng diễn đạt bằng con số
chính xác, có lượng chỉ nhận thức bằng khả năng trửu tượng hóa…
Lượng được xác định bởi các đơn vị đo lường cụ thể (ví dụ: số lượng sinh viên trong lớp
EE001 là 63 sinh viên)
Nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát và phải dùng đến khả năng trừu tượng
để nhận thức (ví dụ: lượng trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người
Hay lượng được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài (ví dụ: chiều rộng, chiều dài của một
vật)
Hoặc lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong (ví dụ: số lượng nguyên tử của một
nguyên tố hóa học)
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chất lượng chỉ mang tính tương đối. những tính quy
định trong mối quan hệ nàychất của sự vật nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng
và ngược lại
Vd: số lượng sinh viên giỏi của một lớp không chỉ là lượng mà còn nói lên cái chất
học giỏi của lớp đó.
Mối quan hệ giữa chất và lượng: Mỗi sự vật, hiện tượng một thể thống nhất giữa hai
mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lần nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng
đang tồn tại, chất lượng thống nhất với nhau một độ; nhưng cũng trong phạm vi độ
đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau, làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắt đầu từ
lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng
không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay
đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi
về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện
tượng mới ra đời.
Lượng mặt thường xuyên biến đổi còn chất mặt tương đối ổn định, lượng đổi trong
một giới hạn nhất định chưa làm cho chất đổi, khoảng giới hạn đó gọi là độ.
Khái niệm “độ”: khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất quy định lẫn nhau
giữa chất lượng; giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng trong đó sự thay đổi về
lượng chưa dẫn đến s thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn nó, chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khác.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, giới hạn
đó chính là điểm nút.
Khái niệm “điểm nút”: điểm giới hạn tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm
mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
Khái niệm “bước nhảy”: khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự
vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự
biến đổi về lượng.
Quan hệ biện chứng giữa chất lượng: khi chất mới ra đời quy định một lượng mới
tương ứng với nó. Lương mới này là vận động và biến đổi trong một khoảng giới hạn mới
được gọi là độ mới. Khi tích lũy đủ về lượng sẽ đạt tới điểm nút mới, đồng thời thực hiện
bước nhảy mới cho ra đời một chất mới hơn nữa. Quá trình này diễn ra có tính liên tục, vô
cùng, vô tận.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để biến đổi về chất;
không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Khi lượng đã được đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu cầu khách quan
của sự vận động của sự vật, hiện tượng vậy tránh chủ quan nóng vội đốt cháy
giai đoạn hoặc bảo thủ, thụ động.
- Phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; trong lĩnh
vực xã hội phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
- Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Vận dụng vào nhận thức:
- Chất cũ: đất nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh
- Chất mới: đất nước xã hội chủ nghĩa
- Tích lũy về lượng: tích lũy
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách
tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài điều đó. Để tiến lên hội chủ
nghĩa, ta cần tích lũy đủ một lượng “tài nguyên” nhất định. Năm 1975, Việt Nam một
đất nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh; từ năm 1976 - 1986 thời kỳ xây dựng
kinh tế, văn hóa, xã hội, khắc phục hậu quả nặng nề sau chiến tranh, khó khăn chồng chất
khó khăn. Mặt khác, do chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường do tưởng chủ
quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, nên Đại hội IV (năm 1976) của
Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Trong
những năm 1976 - 1980, trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa
trong khi chưa đủ các tiền đề cần thiết. Đến Đại hội V (năm 1981) Đảng ta đã cụ thể
hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đề ra
những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong chỉ đạo
thực hiện đã không quán triệt những kết luận quan trọng nói trên, chưa kiên quyết khắc
phục tưởng nóng vội duy ý chí, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cấu
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa vàchế quản lý, nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế -
hội. Có thể nói đây là một ví dụ cho ý nghĩa phương pháp luận về việc nóng vội khi chưa
tích lũy đủ về lượng nhưng đã muốn thay đổi thành một chất mới.
Trong thực tiễn, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là
“một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng”.
Giai đoạn từ năm 1986–2000 gọi là thời kỳ chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam, từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo , nhưng không phải làcơ chế thị trường
thị trường hoàn toàn tự do "có s quản lý, điều tiết của nhà nước", theo Chính phủ
Việt Nam để nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Một trong những
thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới phát triển sản xuất nông nghiệp, nội
dung bản khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân đơn vị kinh tế tự
chủ nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp nông
thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Như vậy, đất nước ta đã chuyển đổi từ chất cũ là thời kì bao
cấp sang chất mới là thời kì đổi mới.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự phát triển nào chúng đều chứa đựng quy luật lượng
chất này cả, vấn đề là chúng ta có tìm ra được nó hay không thôi. Mình có thể lấy và
phân tích cho bạn một vài dụ như sau. - dụ điển hình nhất đó quá trình học
tập. Việc chuyển từ học phổ thông sang học đại học được coi là một bước chuyển về
chất. Khi chúng ta học phổ thông, chúng ta tích lũy kiến thức dần dần, ngày này qua
ngày khác, sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết toàn bộ chương trình, nắm
vững các kiến thức đó chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi đại học. Đối với những
người đã tích lũy đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ vượt qua kỳ thi trở thành
sinh viên đại học. Đối với những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng,
chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc thì họ sẽ chưa vượt qua được kỳ thi, họ thể sẽ mất
thêm thời gian để tích lũy thêm bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không
thi nữa. Đây một dụ điển hình của quy luật lượng chất. Mình thể lấy một
dụ nữa về tình yêu. Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có mộ
Việc chuyển từ học đại học sang đi làm là một bước chuyển về chất. Để có thể chuyển đổi
như thế ta cần tích lũy đủ lượng. Lượng đây chính những kiến thức giảng viên đã
dạy; ta cần phải tìm tòi, học hỏi những kiến thức hữu ích mà giảng viên chưa đủ thời gian
đề cập trên lớp. Ngoài ra, việc tham gia các hoạt động, cuộc thi ở trường và thực tập trong
môi trường làm việc thực sự cũng cách để tích lũy lượng cho bản thân. Lượng đây
còn có thể hiểu là số lượng tín chỉ của các môn học mà điểm nútcác kỳ thi, việc thi cử
bước nhảy điểm số sẽ xác định được bản thân đã tích lũy đủ lượng hay chưa. Nếu
điểm số quá thấp nghĩa lượng kiến thức của ta chưa đủ phải học lại để tích lũy đủ
lượng góp phần tạo nên chất mới. Mặt khác, sinh viên phải tránh tưởng tả khuynh, khi
chưa tích lũy đủ lượng để đến điểm nút đã thực hiên bước nhảy. Ta nên tránh trường hợp
sát ngày thi mới bắt đầu học hay chưa học kiến thức bản đã nhảy lên học kiến thức
nâng cao, chuyên sâu mà ta phải học đều đặn mỗi ngày, có như vậy chất mớithể từ từ
biến đổi. Một khía cạnh khác việc gian lận trong các thi, hành vi ấy thể giúp ta
thực hiện bước nhảy một cách dễ dàng nhưng đó chỉlượng ảo, việc chất mới được tạo
ra sẽ không hoàn hảo và mang đến những khó khăn trong việc đi làm của sinh viên sau tốt
nghiệp đại học.
Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức
được trong quá trình học tập. Tnh tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập
và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày. Trong quá trình học tập và rèn luyện của
sinh viên cần tránh tư tưởng tả khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm
nút đã thực hiện bước nhảy . Sinh viên khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự
biến đổi về chất mới thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập
nghiên cứu từ dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng
ta đều biết nhưng trong thực tế, không phải ai cũng thể thực hiện được.
Nhiều sinh viên trong quá trình đi học tập do không tập trung, còn mải vui
chơi , dẫn đến sự chậm chễ trong học tập, rồi “ nước tới chân mới nhảy” khi sắp
thi họ mới tập trung cao đ vào việc học. Giai đoạn ôn thi lúc ta củng cố lại
kiến thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời
gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được kỳ thi. Ngược lại có nhiều
sinh viên ý thức học ngay từ đầu , nhưng họ lại nóng vội, muốn học nhanh,
nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng cao, “chưa học bò đã lo
học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều và đạt được kết
quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.
| 1/8

Preview text:

I. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Phân tích lý luận của phép biện chứng duy vật về cách thức vận động, phát triển của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Anh (Chị) hãy vận dụng lý luận này vào hoạt
động nhận thức và thực tiễn của bản thân.
Biện chứng có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ với nghĩa là nghệ thuật dẫn dắt tranh luận, thảo
luận. Trong lịch sử triết học, thuật ngữ “biện chứng được dùng để chỉ nghệ thuật tranh
luận, tranh biện để tìm ra chân lý bằng cách phát hiện ra mâu thuẫn trong cách lập luận
của đối phương. Trong triết học Mac – Lênin, khi sử dụng thuật ngữ này là để dùng để chỉ
cái đối lập với “siêu hình”.
Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động,
phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành các
nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận
của các hoặt động nhận thức và thực tiễn
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật (do Mac và Angghen sáng tạo ra, sau đó được
Leenin bổ sung, phát triển): là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng; được chứng minh bằng sự
phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.
Trong triết học trước đây, thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng là tách rời nhau.
Vai trò của phép biện chứng duy vật: thể hiện ở chức năng phương pháp luận chung nhất,
giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc cơ bản cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
Quy luật lượng chất thể hiện cách thức của sự vận động và phát triển: sự thay đổi về chất
chỉ xảy ra khi sự vật đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Vd: A là một sinh viên học kém, A chăm chỉ học hành và tích lũy kiến thức.Trải
qua một khoảng thời gian, A trở thành một sinh viên giỏi. Ta thấy rằng:
- Học kém: chất ban đầu - Học giỏi: chất mới
- Kiến thức tích lũy: lượng
Ta thấy rằng A chăm hỉ học hành, từ từ tích lũy kiến thức đến một lúc nào đó đủ kiến thức
để chuyển hóa A học giỏi hơn. Nghĩa là lượng kiến thức đủ thì chất học kém của A đã
chuyển hóa thành chất học giỏi. Rõ ràng, lượng kiến thức tích lũy đã thay đổi chất học
kém của A, điều đó khẳng định rằng thay đổi về lượng đến một lúc nào đó sẽ làm thay đổi chất.
Khái niệm “chất”: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng, làm cho sự
vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
Ở trên đời này có vô vàng sự vật, hiện tượng, mỗi sự vật, hiện tượng có chất làm nên
chính chúng, nhờ chất mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác
Vd: Tính chất của đường là ngọt; tính chất của muối là mặn. Ta dùng hai tính chất
này để phân biệt giữa đường và muối
Chất của con người là lao động, có ngôn ngữ, biết tư duy, giúp ta phân biệt con người với con vật.
Chất của nền kinh tế VN là nền kinh tế đang phát triển có thu nhập trung bình.
Theo định hướng đến năm 2045, VN sẽ trở thành một nước phát triển có thu nhập cao.
Phân tích khái niệm “chất”:
- Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại, phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn lại có những biểu hiện về chất khác nhau.
- Một sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất tùy thuộc
vào từng quan hệ của nó
- Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Trong đó có thuộc
tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, những chỉ những thuộc tính cơ bản mới
tạo thành chất của sự vật. Tuy nhiên sự phân chia thuộc tính thành cơ bản và không
cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối
- Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết
cấu của sự vật. Ví dụ: than chì và kim cương có yếu tố cấu thành giống nhau là
cacbon, nhưng phương thức liên kết các yếu tố đó khác nhau nên cho ra 2 chất
khác nhau; trong khi kim cương cứng, đẹp và đắt, còn than chì thì không được như vậy.
Khái niệm “lượng”: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Vd: phân tử nước gồm 2 nguyên tử hidro liên kết với 1 nguyên tử oxi. Lượng
nguyên tử hidro và lượng nguyên tử oxi là hai loại lượng tồn tại trong phân tử nước
Lượng trong người là chiều cao, cân nặng, tuổi thọ
Lượng của nền kinh tế VN biểu hiện: tăng trưởng GDP năm 2022 đạt 8,02%
Phân tích khái niệm “lượng”:
- Đặc điểm cơ bản của lượng là tính biến đổi.
- Lượng cũng mang tính quy định khách quan: sự vật, hiện tượng nào cũng có
lượng, lượng là một dạng củ vật chất chiếm mộ vị trí nhất định trong không gian
và tồn tại trong một thời gian nhất định.
- Sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau, có lượng diễn đạt bằng con số
chính xác, có lượng chỉ nhận thức bằng khả năng trửu tượng hóa…
Lượng được xác định bởi các đơn vị đo lường cụ thể (ví dụ: số lượng sinh viên trong lớp EE001 là 63 sinh viên)
Nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát và phải dùng đến khả năng trừu tượng
để nhận thức (ví dụ: lượng trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người
Hay lượng được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài (ví dụ: chiều rộng, chiều dài của một vật)
Hoặc lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong (ví dụ: số lượng nguyên tử của một nguyên tố hóa học)
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy
định trong mối quan hệ này là chất của sự vật nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng và ngược lại
Vd: số lượng sinh viên giỏi của một lớp không chỉ là lượng mà còn nói lên cái chất học giỏi của lớp đó.
Mối quan hệ giữa chất và lượng: Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai
mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lần nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng
đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm vi độ
đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau, làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắt đầu từ
lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng
không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay
đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi
về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời.
Lượng là mặt thường xuyên biến đổi còn chất là mặt tương đối ổn định, lượng đổi trong
một giới hạn nhất định chưa làm cho chất đổi, khoảng giới hạn đó gọi là độ.
Khái niệm “độ”: là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất và lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự thay đổi về
lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khác.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, giới hạn đó chính là điểm nút.
Khái niệm “điểm nút”: là điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm
mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
Khái niệm “bước nhảy”: là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự
vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng: khi chất mới ra đời quy định một lượng mới
tương ứng với nó. Lương mới này là vận động và biến đổi trong một khoảng giới hạn mới
được gọi là độ mới. Khi tích lũy đủ về lượng sẽ đạt tới điểm nút mới, đồng thời thực hiện
bước nhảy mới cho ra đời một chất mới hơn nữa. Quá trình này diễn ra có tính liên tục, vô cùng, vô tận.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến đổi về chất;
không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Khi lượng đã được đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan
của sự vận động của sự vật, hiện tượng vì vậy tránh chủ quan nóng vội đốt cháy
giai đoạn hoặc bảo thủ, thụ động.
- Phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; trong lĩnh
vực xã hội phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
- Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Vận dụng vào nhận thức:
- Chất cũ: đất nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh
- Chất mới: đất nước xã hội chủ nghĩa
- Tích lũy về lượng: tích lũy
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách
tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất và nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài điều đó. Để tiến lên xã hội chủ
nghĩa, ta cần tích lũy đủ một lượng “tài nguyên” nhất định. Năm 1975, Việt Nam là một
đất nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh; từ năm 1976 - 1986 là thời kỳ xây dựng
kinh tế, văn hóa, xã hội, khắc phục hậu quả nặng nề sau chiến tranh, khó khăn chồng chất
khó khăn. Mặt khác, do chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ
quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, nên Đại hội IV (năm 1976) của
Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Trong
những năm 1976 - 1980, trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Đến Đại hội V (năm 1981) Đảng ta đã cụ thể
hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đề ra
những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong chỉ đạo
thực hiện đã không quán triệt những kết luận quan trọng nói trên, chưa kiên quyết khắc
phục tư tưởng nóng vội và duy ý chí, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý, nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Có thể nói đây là một ví dụ cho ý nghĩa phương pháp luận về việc nóng vội khi chưa
tích lũy đủ về lượng nhưng đã muốn thay đổi thành một chất mới.
Trong thực tiễn, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là
“một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”.
Giai đoạn từ năm 1986–2000 gọi là thời kỳ chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam, từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng không phải là
thị trường hoàn toàn tự do mà "có sự quản lý, điều tiết của nhà nước", theo Chính phủ
Việt Nam là để nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Một trong những
thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp, mà nội
dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông
thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Như vậy, đất nước ta đã chuyển đổi từ chất cũ là thời kì bao
cấp sang chất mới là thời kì đổi mới.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự phát triển nào chúng đều chứa đựng quy luật lượng
chất này cả, vấn đề là chúng ta có tìm ra được nó hay không thôi. Mình có thể lấy và
phân tích cho bạn một vài ví dụ như sau. - Ví dụ điển hình nhất đó là quá trình học
tập. Việc chuyển từ học phổ thông sang học đại học được coi là một bước chuyển về
chất. Khi chúng ta học phổ thông, chúng ta tích lũy kiến thức dần dần, ngày này qua
ngày khác, sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết toàn bộ chương trình, nắm
vững các kiến thức đó và chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi đại học. Đối với những
người đã tích lũy đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ vượt qua kỳ thi và trở thành
sinh viên đại học. Đối với những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng,
chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc thì họ sẽ chưa vượt qua được kỳ thi, họ có thể sẽ mất
thêm thời gian để tích lũy thêm bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không
thi nữa. Đây là một ví dụ điển hình của quy luật lượng chất. Mình có thể lấy một ví
dụ nữa về tình yêu. Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có mộ
Việc chuyển từ học đại học sang đi làm là một bước chuyển về chất. Để có thể chuyển đổi
như thế ta cần tích lũy đủ lượng. Lượng ở đây chính là những kiến thức giảng viên đã
dạy; ta cần phải tìm tòi, học hỏi những kiến thức hữu ích mà giảng viên chưa đủ thời gian
đề cập trên lớp. Ngoài ra, việc tham gia các hoạt động, cuộc thi ở trường và thực tập trong
môi trường làm việc thực sự cũng là cách để tích lũy lượng cho bản thân. Lượng ở đây
còn có thể hiểu là số lượng tín chỉ của các môn học mà điểm nút là các kỳ thi, việc thi cử
là bước nhảy và điểm số sẽ xác định được bản thân đã tích lũy đủ lượng hay chưa. Nếu
điểm số quá thấp nghĩa là lượng kiến thức của ta chưa đủ và phải học lại để tích lũy đủ
lượng góp phần tạo nên chất mới. Mặt khác, sinh viên phải tránh tư tưởng tả khuynh, khi
chưa tích lũy đủ lượng để đến điểm nút đã thực hiên bước nhảy. Ta nên tránh trường hợp
sát ngày thi mới bắt đầu học hay chưa học kiến thức cơ bản đã nhảy lên học kiến thức
nâng cao, chuyên sâu mà ta phải học đều đặn mỗi ngày, có như vậy chất mới có thể từ từ
biến đổi. Một khía cạnh khác là việc gian lận trong các kì thi, hành vi ấy có thể giúp ta
thực hiện bước nhảy một cách dễ dàng nhưng đó chỉ là lượng ảo, việc chất mới được tạo
ra sẽ không hoàn hảo và mang đến những khó khăn trong việc đi làm của sinh viên sau tốt nghiệp đại học.
Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức
được trong quá trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập
và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày. Trong quá trình học tập và rèn luyện của
sinh viên cần tránh tư tưởng tả khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm
nút đã thực hiện bước nhảy . Sinh viên khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự
biến đổi về chất mới có thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập
nghiên cứu từ dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng
ta đều biết nhưng trong thực tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được.
Nhiều sinh viên trong quá trình đi học tập do không tập trung, còn mải mê vui
chơi , dẫn đến sự chậm chễ trong học tập, rồi “ nước tới chân mới nhảy” khi sắp
thi họ mới tập trung cao độ vào việc học. Giai đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại
kiến thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời
gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được kỳ thi. Ngược lại có nhiều
sinh viên có ý thức học ngay từ đầu , nhưng họ lại nóng vội, muốn học nhanh,
nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng cao, “chưa học bò đã lo
học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều và đạt được kết
quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.