Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học trong cuộc sống đề tài "Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” trong xã hội Nho Giáo"

Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học trong cuộc sống đề tài "Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” trong xã hội Nho Giáo" của Đại học Hoa Sen với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|10435767
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................2
Phần 1: Mở đầu................................................................................................................3
1.1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................3
1.2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................4
Phần 2: Nội dung..............................................................................................................5
2.1. Vai trò của nam nữ trong xã hội Nho giáo...........................................................5
2.2. Vấn đề “Trọng nam khinh nữ”.............................................................................8
2.2.1 Tư duy “Nội tắc” của phụ nữ và quan niệm ảnh hưởng trong Nho giáo..........8
2.2.2 Những trường hợp bị phân biệt điển hình......................................................11
2.2.3 Một số ngoại lệ trong lịch sử..........................................................................15
2.2.4 Đối với các nước lân cận (VN, Triều Tiên xưa).............................................16
2.3. Vài điểm tích cực hạn chế trong việc giới hạn vai trò người phụ nữ dẫn đến
tưởng “Nam quý nữ tiện”.........................................................................................18
2.3.1. Tích cực.........................................................................................................18
2.3.2. Hạn chế..........................................................................................................20
Phần 3: Kết luận.............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................23
lOMoARcPSD|10435767
2
Phần 1: Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
“Nho Giáo” là một học thuyết có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc và được truyền bá lan
rộng sang các nước lân cận như Việt Nam, Hàn Quốc thông qua các cuộc chiến tranh đô
hộ hàng ngàn năm cũng như giao thương buôn bán, bản thân Nho giáo luôn đề cao trật
tự hội, “nam tôn nữ ti”, cho rằng nam nữ giống như trời đất, đều những vai trò
khác nhau không thể thiếu nhau. Nhưng, khi xã hội nam quyền lên ngôi, đàn ông dần sở
hữu hóa phụ nữ, từ đó tưởng “Nam quý nữ tiện” được nêu ra, việc hạn chế vai trò
của phụ nữ từ xa xưa đã làm ảnh hưởng đến hội ngày nay theo ớng tích cực lẫn tiêu
cực. Trong thời Nho Giáo thịnh trị thì xã hội quân chủ nam quyền được nâng cao dẫn đến
thân phận người phụ nữ trong xã hội bị hạ thấp, họ dần bị xem vật thuộc về những người
đàn ông, tiêu biểu người chồng của mình. Bên cạnh đó, duy “Nội Tắc” từ thời
phong kiến đã kìm kẹp người phụ nữ trong một chuẩn mực nhất định và tư duy ấy vẫn còn
bị ảnh hưởng đến thời đại ngày nay. Chính những duy này một phần khiến cho Nho giáo
bị coi nền tư tưởng coi thường phụ nữ, trong khi thực chất không hẳn vậy, qua bài viết
này, chúng tôi muốn nêu ra cho người xem thấy được những do dẫn đến việc “nam tôn
nữ ti” dần bị biến ớng, y bất lợi của phụ nữ, n cạnh đó những mặt tích cực của
Nho giáo đối với vai trò người phụ nữ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, đưa ra các quan niệm, tư tưởng về vai trò của nam nữ trong hội phong
kiến Nho giáo ở các nước khác nhau, giúp mọi người có thể có cái nhìn khác và tương đối
hơn về xã hội và tư tưởng của Nho giáo. Bên cạnh với việc nghiên cứu, nhận xét về những
vấn đề thực tiễn trong xã hội Nho Giáo, chúng tôi còn muốn cho mọi người phần nào thấy
được hội Nho giáo đương thời, nơi mọi người đều phải đặt l nghĩa lên hàng đầu.
lOMoARcPSD|10435767
3
Từ đó cho thấy được một số mặt tích cực, cũng như tiêu cực của tư tưởng “Nam qnữ
tiện” và việc giới hạn vai trò người phụ nữ trong xã hội phong kiến Nho giáo, cụ thể là
hội ở Trung Nguyên, Nam triều và Triều Tiên Lý thị xưa.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối ợng được nghiên cứu trong bài o cáo y c quan điểm, các câu châm
ngôn, các giáo lý Nho Giáo được truyền bá đến ngày nay về vấn đề tư tưởng “Nam quý nữ
tiện”, cùng với đó những câu chuyện được ghi chép lại, phần nào phản ánh được một
phần của xã hội khi ấy, một xã hội mà nam quyền thống trị và chi phối tất cả.
Về phạm vi nghiên cứu trong bài báo cáo, nó được giới hạn trong xã hội phong kiến
Trung Quốc, nơi cội nguồn của Nho Giáo và một số nước chịu ảnh hưởng của Nho Giáo
như Việt Nam, Hàn Quốc,... Tuy đều tiếp nhận Nho giáo, nhưng mức độ tiếp thu của cả
hai đều rất khác biệt, và khác hẳn với Trung Quốc.
Phần 2: Nội dung
2.1. Vai trò của nam nữ trong xã hội Nho giáo
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì Khổng Tử một trong những triết gia đương thời,
người đã chủ trương, lấy “Tam cương ngũ thường” dạy nam giới thế nào là trị quốc tề gia,
lấy “Tam tòng tứ đức” dạy nữ giới thế nào là làm nội trợ.
“Tam cương” có nghĩa là ba mối quan hệ tồn tại, là nền tảng chính trong chế độ ở xã
hội phong kiến:
“Quân thần cương” là mối quan hệ “vua - tôi” là bổn phận của bầy tôi hay còn gọi là
cấp dưới với vua, vua chính hình mẫu cho thần dân phải noi theo.
“Phụ tử cương” mối quan hệ giữa “cha - con” nghĩa vụ của bậc con cái đối với
các bậc phụ huynh, người cha đóng vai trò dạy bảo cho con cái.
“Phu phụ cương” mối quan hệ của chồng - vợ” mối quan hệ mật thiết giữa vợ
đối với người chồng, tức là chồng nói gì thì vợ bắt buộc phải nghe theo.
lOMoARcPSD|10435767
4
Theo nguyên tắc của “tam cương”, người bề trên tức là người làm vua, cha, chồng
nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc thương yêu người bề ới chính cấp dưới, con vợ.
Người ở bề dưới thì chỉ cần làm tròn bổn phận nghe lời vâng theo, tôn trọng kính nhường,
hiếu thuận biết điều với người trên là được. Những mối quan hệ này đều phụ thuộc, hỗ trợ
lẫn nhau nếu mỗi người đều làm tốt nghĩa vụ vai trò của mình thì gia đình sẽ yên vui,
hoà thuận còn đất nước sẽ trở nên thái bình, thịnh vượng.
“Ngũ thường” năm điều thường gặp trong lẽ thường của cuộc sống, m nguyên
tác này giúp rèn luyện hình thành nên đạo đức của con người “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Đây
là những phẩm chất đàn ông cần phải có và phải rèn luyện để đạt được.
Còn cách khác để thể hiểu, “ngũ thường” chính là “Cha nhân nghĩa, mẹ hiền từ,
anh hữu ái, em cung kính, con hiếu thuận”.
Tuy nhiên, ở trong chế độ xã hội phong kiến thì “quân thần cương" tức là “vua - tôi"
là mối quan hệ được đề cao, có tầm ảnh hưởng nhất trong thời kỳ đó. Các bậc quân chủ
chế độ này lấy nguyên tắc “Tam cương ngũ thường" và khiến nó trở thành một nguyên tắc
vô cùng khắc. Ngoài ra, Nho giáo còn cho rằng thiên chức, nhiệm vụ, chức năng của nữ
giới chính phục vụ điều kiện cho nam giới. Điều y được chỉ qua thuyết “Tam
tòng tứ đức”. Một xã hội như vậy được cho là bình an và hạnh phúc.
“Tam tòngba điều kiện tiên quyết để người phụ nữ buộc phải tuân thủ làm theo,
xem đó nghĩa vụ buộc phải làm trong suốt cuộc đời của họ từ khi sinh ra cho đến khi qua
đời.
“Tại gia tòng phụ” câu này có nghĩa nữ giới khi còn nhà chưa xuất giá cưới chồng
thì người con gái phải phụng dưỡng phải nghe theo lời của người làm cha đặc biệt
trong việc sắp đặt hôn sự.
“Xuất giá tòng phu” sau khi xuất giá lấy chồng, người phụ nữ phải nhất định một
lòng một dạ chăm sóc chăm lo cho chồng, ưu tiên chồng lên hàng đầu, không được cãi
lại chồng hay nói cách khác không chuyện gọi bất bình đẳng trong mối quan hệ
giữa vợ chồng.
lOMoARcPSD|10435767
5
“Phu tử tòng tử” là nếu như chồng không may mất thì người phụ nữ không còn sự lựa
chọn nào khác ngoài việc phải sống dựa vào người con trai, con đi đâu thì người mẹ phải
theo đó.
Theo Nho giáo, đối với người phụ nữ, “tứ đức” chính bốn chữ “công, dung, ngôn
và hạnh”. Đó chính những phẩm chất bắt buộc phải đối với người phụ nữ ngày xưa.
“Công” có nghĩa là nữ công, gia chánh phải khéo tay, giỏi đảm đương việc nhà. Tuy nhiên
các nghề với phụ nữ thời kngày xưa thì chủ yếu chỉ các công việc như may, vá,
thêu, thùa, bếp núc, buôn bán. Còn với những người phụ nữ giỏi thì có thêm tài cầm kỳ thi
hoạ.
“Dung” thì nghĩa dáng của một người phnữ phải đoan trang hòa nhã, ăn mặc
gọn gàng chỉnh tề, biết cẩn trọng và xem trọng hình thức bản thân, không được xuề xoà.
“Ngôn” là lời ăn tiếng nói nghe phải nhẹ nhàng khoan thai, dịu dàng mềm mỏng.
Lựa lời để mà nói, phải biết nên nói khi o, khi nào không nên nói đều phụ thuộc vào
chồng và gia đình nhà chồng, không được nói leo và ngồi lê mách lẻo.
“Hạnh” chỉ tính cách của người con gái phải nết na, hiền thảo, khi trong nhà thì phải
kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn đối xử tốt với người trong nhà của
chồng. khi ra bên ngoài thì phải nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, không cay nghiệt với
người ngoài. Ngoài ra, phải giữ gìn tiết hạnh cho chồng, không được tỏ thái độ không hài
lòng, không ngay thẳng “đầu mắt cuối mắt".
Như vậy, có thể thấy được cuộc đời của người phụ nữ bị lệ thuộc vào người đàn ông,
bị chi phối hoàn toàn không hề có được sự tdo, không quyền được tự chủ. Nói theo
cách dễ hiểu, việc của nam giới chỉ cần m chính học hành thành tài đem sở học phục
vụ cống hiến cho đất nước. Còn nữ giới chỉ được chăm lo quản việc nhà cửa bếp núc:
“Gái trong khung cửi, trai ngòi bút nghiên”. Đàn ông nói không với việc trong nhà, đàn bà
nói không việc ngoài đường “Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại”. Theo sự phân chia
công việc đó, đàn ông có vai trò người làm chủ công việc bên ngoài, còn đàn vai
trò làm chủ các công việc bên trong nhà nhưng đàn vẫn phải phục tùng cho đàn ông.
lOMoARcPSD|10435767
6
Bằng cách đó, thể thấy được người phụ nhoàn toàn bị hạn chế, không được quyền
tham gia các công việc xã hội.
2.2. Vấn đề “Trọng nam khinh nữ”
2.2.1 Tư duy “Nội tắc” của phụ nữ và quan niệm ảnh hưởng trong Nho giáo
Thời nay, người hiện đại luôn thắc mắc tại sao nhóm phụ nữ thời a lại duy
coi người chồng, người cha là chủ nhân đích thực của họ, đó là do trong xã hội xưa tồn tại
một cái gọi “Nội tắc” trong lễ nghi. Tại đây, những người phụ nữ từ thê tử, thiếp thất
đến con cái, dâu cháu đều những thước đo chuẩn mực nhất định về ngôn nh, cử chỉ
đến thái độ, hành động, điều này được ghi lại trong “Lễ ký”, nằm trong bộ Ngũ Kinh của
Khổng Tử.
Về “Lễ ký”, đây một cuốn sách được Khổng Tử biên ra nhằm mục đích duy trì
cũng như ổn định trật tlễ nghi trong hội, Lễ ký, Chu Lễ Nghi Lễ hợp xưng thành
“Tam lễ”. Nội dung ch ghi về các lễ nghi, phong tục liệt vào kinh điển của thời Tiên
Tần, không ít điều quan trọng được chép trong đây trở nên ảnh hưởng lớn về sau.
Trong “Lễ ký” mục được gọi Nội tắc”, chép lại những quy tắc về việc xử sự
một người phụ nữ nên noi theo, bao gồm cả nghĩa vụ người vợ (Thê tử) cần tuân
theo đối với người phu quân của mình:
“Gọi là “Lễ”, chính thận trọng xử lý mối quan hệ giữa vợ chồng. Việc y dựng
cung thất là nhằm phân biệt trong ngoài, tức nam nhân ở ngoài, nữ nhân ở trong. Cung thất
chốn thâm sâu, đầy cửa nẻo, phía ngoài binh lính trông coi, phía trong lại yêm
nhân, đàn ông không được vào trong, mà đàn bà cũng không được ra ngoài.
Nam nữ tách biệt, không được cùng giá áo, người vợ không được phép treo quần áo
của mình lên giá áo của chồng, cũng không được đem áo của mình o cùng một cái rương
của trượng phu mình, cũng không m cùng tắm rửa trong một gian phòng. Khi người
chồng đi vắng, người vphải thu dọn chăn gối, đồ dùng đi cất mới phải lẽ. Ti ấu phục vụ
bậc tôn trưởng, kẻ hèn hầu người sang, cũng đều nghe theo lễ nghĩa như vậy. Án theo lễ
vợ chồng, trừ khi ngoại thất tuần thì cả hai mới thể chung gian phòng, còn trước đó,
thê đều phải cùng bọn thiếp tthay nhau hầu. Thiếp lớn tuổi, miễn chưa đến ngũ
lOMoARcPSD|10435767
7
tuần, thì nhất định cứ cách 5 ngày là thị tẩm 1 lần. Đến phiên ai hầu đêm, thì cũng như tôi
thần hầu quân chủ, đều tâm ngay thẳng, trong ngoài sạch sẽ, mặc y phục theo đúng phận,
tóc chải chuốt gọn gàng, đeo vào túi thơm, mang đôi giày tốt mà cung kính đến trước mặt
trượng phu đợi lệnh.
tthiếp được sủng, nhưng quần áo y phục không được ỷ sủng mà lấn lướt, vượt
qua những ai vốn trước. Bất luận vua chúa hay sĩ phu, chính thất không tại gia hay
chưa lập, gặp đến ngày quy định do chính thất vào hầu ngủ, thì thiếp thất cũng không
được vượt phận tiến vào, để tỏ khác biệt giữa thê và thiếp.”
Mặc dù không phải giai cấp hay đất nước nào cũng triệt để áp dụng những điều y,
nhưng “Ngũ Kinh” “Tứ thư” vẫn là nền tảng truyền thống ảnhởng sâu rộng đến các
quốc gia y, đặc biệt là giai tầng nắm giữ quyền cai trị như vua chúa, quý tộc. Quan hệ vợ
chồng, trong hội nam quyền tối thượng, cho xảy ra bất đồng, nhưng người vợ
cũng không thể làm gì hơn ngoài việc thuận ý tuân theo, người xưa đã dùng những câu như
“Tương nh như tân” hay “Cử án tmi” để thể hiện mối quan hphu thê tiêu chuẩn
ngày xưa: Vợ chồng đối đãi nhau qua lại như người khách đến thăm nhà, một điều cực
khác biệt so với quan hệ vợ chồng hiện đại.
Về nhóm gia quyến nữ trong nhà, bao gồm người vợ cả, tuy đối với kẻ ới chủ
phận, nhưng kỳ thực với người chồng thì họ vẫn ở vế dưới, không thể caon. Điển hình
cho việc này là trong hoàng thất, người chính thê của một hoàng đế, tức hoàng hậu, là chủ
nhân của đám thiếp thất, tần phi vốn được coi là nô bộc, địa vị cực khác biệt, dù vậy, thân
phận nữ chủ nhân y của hoàng hậu được vẫn nhờ việc cùng tác phối với thiên tử,
vị chủ của đất nước được. Bên cạnh đó, vai trò của hoàng hậu chung quy vẫn
nằm trong phạm vi nhân sự trong cung cùng vai trò thể hiện nữ đức với nữ giới trong thiên
hạ, lấy hình ảnh “gia đình kiểu mẫu” cho quan viên lẫn nhân dân noi theo làm gương, điều
này thể hiện càng rõ các triều đại về sau như Minh, Thanh, hoàng hậu chỉ nhiệm vụ
dùng thân phận nữ chủ nhân suất lĩnh mệnh phụ tham gia vào các lễ tế tự, cung phụng
các ngài Thái hậu, thể hiện lòng hiếu kính, còn các vấn đề như ăn mặc haytrú, toàn bộ
đều các quan chuyên trách đảm nhiệm lấy hoàng đế làm trung m, các ngài hậu cũng
lOMoARcPSD|10435767
8
chỉ thể chút tiếng nói trong việc quản y thôi. Vấn đề “Nội trị” thường hay
nói, bất quá cũng là tích cực tiến cử cơ thiếp hiền đức lên cho hoàng đế, cùng giữ hòa khí,
quan hệ giữa các tần phi, tránh xảy ra cự cãi xích mích cùng nhau chuyên cẩn hầu hạ
các ngài Phật gia, vì vậy, dù trong cung không có hoàng hậu, thì kỳ thực cũng không có gì
nghiêm trọng cả.
Một do khác, xã hội Nho giáo vốn coi trọng tôn ti trật tự, , giai cấp cầm quyền nhân
vào kẽ hở đó khống chế người thấp hơn, như những người phụ nữ bị nam nhân chi
phối. Cụ thể, trong gia đình phân ra bậc “Tôn trưởng” là những người được kính trọng, tôn
quý và được bậc “Ti ấu” luôn kính nể, vâng lời, Trong đó, giữa chồng và vợ thì do tư duy
“Nam tôn nữ ti” nên người chồng chính là bậc tôn trưởng đối với thê tử. trong Nho giáo
kị nhất loạn: tôn ti bất phân, kẻ dưới không vâng theo người trên, hội tắc loạn, vậy
nên hội dần có khuynh hướng bảo vệ những tôn trưởng này để tránh loạn, từ đó mới xảy
ra những việc chồng đày đọa vợ, khi người vợ kiện cáo thì tuy người chồng vẫn bị trừng
phạt, nhưng vẫn nhẹ hơn so với người vợ vốn là người bị hại, thương thay, cho người
vợ vì yên thân mà thay đổi lời khai thì người chịu thiệt nhất vẫn là chính họ, mà nếu chống
trả, lỡ tay đoạt mạng chồng thì càng cay đắng hơn. Người họ trông cậy được chỉ
thân thuộc trong nhà, nhưng trong trường hợp người thân không quản, nhắc nhở an phận
hoặc nơi xa thì hchỉ thể nhẫn nhịn bị hành hạ cả một kiếp người, thậm chí vong
mạng, điều này vẫn còn tồn tại đến ngày nay trong xã hội hiện đại như một hệ lụy tiêu cực
của Nho giáo.
2.2.2 Những trường hợp bị phân biệt điển hình
Không thiếu những trường hợp thân phận người phụ nữ bị coi thường trong hội
phong kiến, thậm chí là bị chà đạp, khinh rẻ, nhưng vì lối duy “Ti bất phạm tôn” và “Nội
tắc” nên họ vẫn chấp nhận dù là tự nguyện hay ép buộc.
Một trong các ví dụ điển hình là các thị t trong phủ quý tộc. Xã hội nam quyền đem
phụ nữ làm vật sở hữu, nâng cao sự vẻ vang cho nam giới, và những thị tỳ này chính là bộ
lOMoARcPSD|10435767
9
phận có chức năng làm vật sở hữu đó. Thị tỳ, hay còn gọi thiếp, tỳ thiếp, bộ phận
không được công nhận trong xã hội, cụ thể hơn là không được đàn ông công nhận.
Nói cách khác, tỳ thiếp thậm chí bị coi đê tiện, thấp hèn hơn các vị thiếp thất, bởi
các thiếp dù thấp hay bị xem nhẹ cỡ nào thì cũng vẫn được pháp luật bảo hộ và có những
thủ tục pháp nhất định, họ con cái vẫn được coi một phần hợp pháp của gia đình,
vẫn được tính hậu duệ trong nhà, trong khi các thị tỳ thì không được như vậy. Con cái
của họ được coi con ngoài giá thú, trừ phi được người cha ng nhận làm thứ xuất
(thường chỉ xảy ra với những người con trai), nhưng người mẹ thì mãi không thoát khỏi
phận tỳ, thậm chí việc thê thiếp đoạt con của nữ tỳ làm con của mình, như Chân Tông
muốn lập u mỹ nhân được thánh sủng m hoàng hậu nên dùng kế “Tá phúc sinh tử”,
sai ntỳ hầu hạ Lưu mỹ nhân là Lý thị vào hầu ngủ, sau thị có mang rồi sinh hoàng tử thì
tuyên bố là con Lưu mỹ nhân, nhân vào đó lập bà ấy làm hậu.
Điều quan trọng khiến thị tỳ bị khinh rẻ như vậy là họ bị coi công cụ tình dục
cho chủ nam, họ không bng buộc thân phận như thiếp, nên khi người đàn ông đã chán
họ thì đều có thể đem bán đi, hoặc thường xuyên hơn là đem tặng cho người khác. Đặc biệt
thời Đường, giới sĩ phu khi ấy thường sai nữ tỳ của mình hầu giường cho khách đến chơi,
thậm chí gửi cho bạn bè khi hiếm muộn con cái, cũng có trường hợp nữ tỳ dù được gả cho
cho kẻ ới nhưng vẫn giữ quan hệ ngoài luồng với chủ nam. Những tỳ thiếp này đlên
thiếp thất cực khó, bởi ợng thiếp của các quý tộc đều được quy định số lượng
ràng, một vài vương triều thậm chí còn cấm kchuyện nâng thiếp làm thê hoặc thiếp,
nếu phạm phải thì sẽ bị bắt đi lao dịch.
Thị tba dạng xuất thân, gồm: “Khách nữ” là con gái của các lệ, binh lính trong
nhà sĩ phu, hai “Nô thầu hạ cho giai tầngtrên, bị xếp vào hàng không nhân phẩm,
hoàn toàn bị định đoạt, và hèn mọn nhất là “Gia kỹ”, tức các kỹ nữ trong gia đình quý tộc
thời cổ. Kỹ nữ thời này căn bản có nhiều dạng như chỉ lấy tài nghệ kiếm sống, hoặc hoàn
toàn bán thân cho khách sử dụng lấy làm vui y thích, chứ không hẳn thiên về phục vụ
nhu cầu tình dục như người hiện đại lầm tưởng, nhưng vì tính chất của công việc phải tiếp
xúc giáp mặt với nhiều nam nhân cùng quan niệm người đời về trinh tiết nên dù là bán thân
lOMoARcPSD|10435767
10
hay không n thân, hoặc chỉ bán nghệ thôi thì cũng đều quy vào hạng đáng khinh, vì chỉ
việc họ lấy tài nghệ của mình ra để mua vui tcũng đủ để cho phường hỏng, mất
nhân phẩm. Những knữ này không hộ tịch đàng hoàng, phải chịu quản thúc, sở
hữu từ những nguồn khác nhau như cung đình, nhà quan hay thậm cnhà chứa, đồng
thời hộ tịch của họ gọi “Nhạc hộ”, xếp vào hàng Tiện tịch, đối nghịch với Lương tịch
được tự do. Thời xưa quan niệm Trinh tiết gắt gao, nên dù những người này Lương
tịch hay là xử nữ chưa quan hệ tình dục đi chăng nữa, thì cũng tự động bị xem là rẻ mạt do
việc mua vui cho đàn ông của họ. Về số phận, vì họ là vật sở hữu của nam chủ, nên khi chủ
mất thì họ phải tuẫn táng theo, hoặc bị đem ra mua bán, qua tay hết người y người kia
như nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hay có thể may mắn hơn là
đủ tiền chuộc thân đối với các kỹ nữ bị bán trả nợ hay thuộc nhà tội nhân, nhưng khi hoàn
lương rồi thì họ rất khó để làm chính thê cho nhà nào và chỉ có thể làm thiếp vì quan niệm
người đời. Tuy vậy vẫn có trường hợp những kỹ nữ này có thể đổi đời, điển hình hậu
Vệ Tử Phu, Lý phu nhân của Hán Vũ đế cùng Triệu Phi Yến của Thành đế, họ đều là ca kỹ
trong phủ của các chúa chị em của hoàng đế, nhưng hiếm hoi được ý niệm của nhà
vua mà được đảm bảo thân phận về sau.
Riêng về Nữ nhạc, tức những người chỉ dùng tài nghệ như đàn ca múa hát với mục
đích thỏa mãn việc thưởng thức ca múa cùng khoe mẽ của giới quý tộc trong cung đình thì
có phần thăng trầm hơn. Ban đầu, họ bị coi là vật sở hữu của quân chủ để thỏa sức mua vui
hay bán đi, thậm chí là thấp hèn hơn cả gia súc, nhưng dần theo thời thế, các triều đại như
Hán Đường lại ưa chuộng ca múa, xây các giáo phường đào tạo cùng sủng hạnh một vài
người vào nội cung vua chúa làm phi tần, như Dương Thái Chân của Đường Huyền Tông
có tài năng nhảy múa, được bái làm Quý Phi, họ Dương hiển quý một thời, y đều là ph
thuộc quân quyền và nam quyền mỗi thời, bên cạnh đó, nữ nhân quý tộc cũng dần rành ca
múa dù việc giỏi văn thơ vẫn được coi là “chính đạo”, chung quy vẫn là tùy vào mỗi thời.
Dần dần, Tống triều coi trọng sự ổn định, loại bỏ xa xỉ nên hậu phi mệnh phụ đa phần theo
tác phong tránh xa ca vũ, thừa tướng Quang trứ danh đã nhận định: “Những việc
thêu thùa bắt mắt, thơ văn ca phú, tất đều không phải thứ mà nữ nhân cần phải học”. Thời
lOMoARcPSD|10435767
11
Minh tôn sùng học, nữ nhạc dần thoái trào, đội ca cung đình tấu nhạc cũng bị thay
thế bởi các thái giám, cũng loại bỏ ca múa chỉ dùng đàn nhạc. May thay, nhà Thanh thời
Ung Chính gia tiến hành tân chính, ông đã bãi bỏ thân phận tiện dân của các nhạc hộ, thói
coi phụ nữ là vật dùng cũng dần được loại bỏ.
duy coi chồng chủ nhân của họ những người đàn ông cung coi phụ nữ
vật sở hữu trong xã hội nam quyền, giai tầng cai trị là nam giới nên có nhiều khái niệm mà
người hiện đại luôn lầm tưởng, trong đó quan hệ nam nữ thời xưa. Về mặt gặp gỡ, các
phim cổ trang thường các cảnh nam nhân y ý ra vào hậu cung hay quan viên thể
gặp gỡ hậu phi, nhưng thực chất đây đều không đúng lễ nghĩa. Thời cổ đại, quan niệm hậu
phi cùng quý phụ thân phận cao quý, thuộc về người chồng nên trừ chồng con ra thì không
thể tùy tiện đưa dung nhan để người khác ngắm nhìn, khi gặp khách đều phải có một bức
rèm mờ che lại rồi mới đối đáp, không gặp trực diện, như việc vương hậu của Vệ Linh
công Nam Tử cũng y như thế khi gặp Khổng Tử. Điều y cũng chính sở cho
các bà Thái hậu buông rèm nhiếp chính khi gặp điều kiện chính trị nhất định, các bà có thể
ngang hàng với quân chủ chứ không hẳn ngồi sau, nhưng phải ngồi ở phía tay phải của đức
vua, ý nghĩa phtrợ. Điều thứ hai về chuyện chăn gối, thời nay cho rằng quan hệ chăn
gối phải có tình cảm xúc tác từ hai bên, nhưng thật sự nó chỉ là yếu tố phụ.
Nho giáo coi trọng việc nối dõi, trách nhiệm dòng dõi thờ phụng cực lớn lao, nên
người phụ nữ cũng tự động bị xem là công cụ sinh nở cho nam giới, tàn nhẫn hơn là có cái
bụng đẻ mới giá trị, phàm khi giao hợp thì đều thuộc về bản năng dục vọng tự phát với mục
đích sinh con nối dõi hơn là vì tình yêu. Từ đó cũng chứng minh rằng, phụ nữ hậu cung có
được nhiều con chưa chắc là được nhận sủng ái, đó là lý do giải thích cho việc tại sao chúa
Trịnh Sâm dù ghét cung tần Dương Thị Ngọc Hoan nhưng cũng miễn cưỡng lâm hạnh
ta, sinh ra Trịnh Tông.
2.2.3 Một số ngoại lệ trong lịch sử
Trong xã hội thời Nho giáo, nữ giới thường bị phân biệt đối xử, bị phụ thuộc về kinh
tế địa vị thậm chí danh ng cũng phải theo chồng nam giới trong thời bấy giờ
lOMoARcPSD|10435767
12
luôn được coi trọng. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ người phụ nữ không chỉ
được đối đãi tử tế mà còn có sự tôn trọng đối với họ. Bởi lẽ nhóm người phụ nữ này có địa
vị đặc thù mà gần như không thể áp dụng phu quyền là quyền của chồng.
Điển hình các hoàng nữ hoặc tông thất nữ, hay còn gọi hoàng thất tông nương,
là con gái, nữ quyến của các vị hoàng đế. Chính vì địa vị xã hội có được nhờ quân chủ nên
nhóm người phụ nữ cao quý y đã được những đãi ngộ đặc thù thể hiện qua các tước vị
độc lập. Chẳng hạn như công chúa hay quận chúa không chỉ danh xưng mà còn tước
vị cố định. Nếu nói về cách gọi chính xác nhất, thì con gái của hoàng đế gọi hoàng nữ,
con gái tước vương là vương nữ hay gọi chung là tông thất nữ. Ngoài ra, sự đãi ngộ đó còn
biểu hiện qua quan hệ vợ chồng, nhóm hoàng thất tôn nương y đều trung tâm khi
trong phủ của công chúa không phải người chồng, vì trên thực tế, người chồng
người nhà đều tôi thần, hơn nữa, khi về nhà chồng thì cha mẹ chồng của các bà chúa sẽ
bị giảm xuống một bậc vai vế, trthành vai anh chị chồng. Việc nhà chồng nghênh ới
con gái vua sẽ gọi là Thượng, ý xác định nhà chồng ở vai dưới. Điều này không giống như
trong phim hay truyện công chúa được gả cho một vương tước và bị gọi thành vương
phi. Thực tế cho thấy rằng, theo vai vế vào cung hầu khi có đại lễ thì đứng đầu là các ngài
chúa, sau đó mới vợ các hoàng tử tước vương, rồi cuối cùng mệnh phụ quan quyến,
chứng tỏ địa vị của họ vốn vượt qua các vị vương phi, mệnh phụ sẵn.
Bên cạnh đó, từ thời Hán, như các hoàng tử khác, nhóm tông nương ng được phong
đất riêng, những đãi ngộ ngang với các quý tộc mang tước hầu. Cụ thể là, trên mảnh đất
của chính các công chúa này, họ được tùy ý thu thuế và có quan được giao nhiệm vụ quản
riêng, nếu con trai sẽ được thừa kế thphong ớc hầu, nếu không tcủa cải sẽ
được trả lại về triều đình người chồng không quyền sở hữu, điển hình cho trường hợp
này là Lỗ Nguyên công chúa thời Hán được dâng vùng Thành Dương quận làm thực ấp.
Ngoài ra, cũng phải kể đến các ngài nữ chủ, ý chỉ những vị quốc mẫu thùy liêm thính
chính, thay hoàng đế xchính sự. Trong hội nam quyền nghiêm cấm phụ nữ can
chính thì họ một trường hợp đặc biệt, biệt lệ hiếm hoi, từ Hán đến Thanh, trừ nhà
Minh ra thì triều nào cũng có nữ chủ, khởi đầu Hán Cao hậu Lữ Trĩ đến cuối cùng có Từ
lOMoARcPSD|10435767
13
Hi thái hậu . Nhưng, việc nữ chủ xuất hiện cũng dấy lên một mối lo khác: Ngoại thích, ý
nói dòng họ các vị nữ chủ lẫn hoàng hậu nắm quyền triều chính, y họa cho triều đại, như
việc dòng hLữ suýt làm sụp đổ đồ Hán triều thời đầu cũng từ Lữ hậu mà ra,
cũng vì tính tạm thời, nên sau một thời gian họ phải trao trả lại triều chính, quyền lực cho
quân chủ.
2.2.4 Đối với các nước lân cận
Việt Nam là một trong những nước tiếp nhận Nho giáo của Trung Quốc, nhưng ở một
số mặt nhất định, các triều đại nước ta vẫn khá thoáng. Một nhận định mà ta có thể nói
các nữớng của Nam triều xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử rất nhiều, thể kể đến
như Bà Trưng, Bà Triệu hay Bùi Thị Xuân cùng Tây Sơn ngũ phụng thư,...
Điểm đặc biệt đầu tiên, cung tần ở góa của vua chúa, nếu chưa sinh con hoặc con chết
yểu, hay tuổi tác còn trẻ thì được chuẩn cho về với người thân và được tái giá, điển hình là
việc vua Gia Long vào cuối đời đã ban chỉ dụ:
"Cho những cung nhân triều trước, người nào không con thì về với thân nhân. Đầu là
vua sai làm dãy nhà dài ở sau điện Hoằng Nhân cho cung nhân ở để đợi mãn tang. Lê Văn
Duyệt xin theo di mệnh của Tiên đế, ai muốn về thì cho về. Vua (Thánh tổ) cho lời y
phải, ra lệnh cấp cho mỗi người 2 năm lương."
(Đại Nam thực lục chính biên, quyển 2)
Bên cạnh đó, Nam triều không quá thắt chặt triệt để đối với cung tần, khi khám bệnh,
các ngự y vẫn thể khám trực tiếp cho họ, miễn là vẫn người như cung nữ hoặc yêm
nhân trông coi. Quan trọng nhất là, họ vẫn thể được gặp thân quyến của mình, chứ không
bị bó buộc bởi đạo nhà Nho “Hậu phi chỉ thuộc về hoàng đế” như Trung Nguyên
hay Triều Tiên, ntiệp thị, sinh mẫu của Tuy vương Miên Trinh nhà Nguyễn,
được ghi lại đã đưa chị ruột vào cung, sai cung nữ săn sóc, bên cạnh đó còn lấy bổng lộc
của bản thân gửi cho nhà mẹ đẻ để đỡ đần. Mặc từ thời vua Thánh Tông nhà đã
những điều luật hạn chế hậu cung tiếp xúc với bên ngoài, nhưng vẫn chấp nhận trao đổi
lOMoARcPSD|10435767
14
thư từ, qua đó thể hiện một phần thông cảm với nữ nhân của Nam triều tưởng vẫn
được thắt chặt chứ không buông hẳn.
Nhưng, do tư duy Minh Nho thâm nhập vào nước ta từ thời Lê-Nguyễn, nên các triều
đại này bắt đầu coi trọng trinh tiết của phụ nữ, một mặt vẫn khá cay nghiệt chưa thoải
mái với trường hợp tái giá vẫn có xảy ra. Trường hợp thể hiện suy nghĩ không nhất quán
này là hai câu thơ của Nguyễn Du trong bài “Dao vọng Càn Hải từ”, viết cảm nghĩ khi đi
ngang qua đền Càn Hải Nghệ An, nơi xác của Dương Thục phi triều Tống cùng nữ quyến
Tống triều dạt vào sau khi tự sát để giữ tròn tiết tháo lúc nhà Tống vong Quốc:
“Mặt nước mênh mông bể lẫn trời,
Ngôi đền thấp thoáng bãi ngoài khơi.
Bến phù chiều tới y man mác, Cửa
bể thu dồn khói tả tơi.
Khanh tướng uổng bao lòng tiết nghĩa, Quỳnh
Nhai vùi khối thịt mồ côi.
Nực cười cho ả Minh Phi nhé,
Rượu chuốc đàn ngân nịnh chúa Hồ.”
(Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang)
đây, Nguyễn Du tuy được coi người được xem lòng thương cảm với nữ
nhân thông qua Truyện Kiều, nhưng cuối cùng khen ngợi Dương phi vì giữ trọn lòng trinh
với Tống đế nên tự sát, ngược lại khinh miệt nàng Minh Phi Chiêu Quân cung tần Nguyên
đế, vì hòa bình của Hán triều mà nhẫn nhục gả theo Thiền vu Hồ tộc, làm mất tiết tháo với
vua Hán. Hay như nhận định của Ngô Thì thời về Chiêu Hoàng trong “Việt Sử
Tiêu Án”:
”Hiện nay tỉnh Bắc Giang, đầm Minh Châu, giữa đầm phiến đá to, người ta
truyền lại rằng: Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm chết, trên bờ đầm có miếu
Chiêu hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho Chiêu hoàng đặt ra thuyết
lOMoARcPSD|10435767
15
ấy. Chiêu hoàng nhất sinh ra người dâm, cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu
còn trinh tiết như lời người ta truyền lại”.
Ý của Ngô Thì chính phản bác lại thuyết Chiêu Hoàng giữ tiết tự sát trong dân
gian, ông cho rằng khi trước Chiêu hoàng sau khi bị phế thì chấp nhận tái giá với bề tôi
Lê Phụ Trần, còn đâu là tiết hạnh của hậu phi chứ nào như lời đồn.
Trái ngược hẳn với Nam triều tuy theo học nhưng vẫn điểm thoáng, hội
Triều Tiên lại tôn sùng học cực đoan, dẫn đến những sự phân biệt rất khắc nghiệt, thông
qua bộ phận Y nữ ta thể nhận thấy được. Y nữ, tức những người đàn được khám bệnh
cho quan lại lẫn vương thất Triều Tiên, họ vốn thuộc tầng lớp tiện dân trong xã hội, thường
con nhà nhiều đời hầu hạ cho quý tộc. do họ bị xem thường đó do Triều
Tiên coi trọng học, hạn chế tối đa việc tiếp xúc nam nữ, vậy các y quan không
thể bắt mạch chữa bệnh ngọn ngành cho các vị quý nhân, và nhiệm vụ của họ chính là tiếp
xúc khám bệnh cho quý nhân trong chốn nội trạch, làm cầu nối trung gian cho y quan
người bệnh, họ tiếp xúc cả nam lẫn nữ nên bị mặc định mất phẩm giá. Tuy thể học
được các kiến thức cao thâm, nhưng vì thân phận tiện dân lẫn bị xem nhẹ nên các y nữ này
không thể tự bốc thuốc như các ngự y nam, trừ những vấn đề về phụ khoa, và vì họ là con
gái của các gia nô, không đủ điều kiện học hành nên dù đào tạo từ nhỏ nhưng rất ít y nữ có
trình độ cao, tuy rằng họ đã đóng góp, cống hiến rất lớn cho đời sống, y nữ vẫn bị so
sánh với hạng đĩ điếm dẫn tới hậu vận bạc phước, con đường tốt nhất cho họ làm thiếp
cho quý tộc lưỡng ban, nhưng vì thân phận tiện dân nên con cái bị quy vào hàng Nghiệt tử
ngoài giá thú, hoàn toàn không tính là hậu duệ trong gia đình.
2.3. Vài điểm tích cực và hạn chế trong việc giới hạn vai trò người phụ nữ dẫn đến
tư tưởng “Nam quý nữ tiện”
2.3.1. ch cực
Mặc bị đánh giá hạn chế tự do của nữ giới, nhưng kthực, bản thân việc y
cũng có một số mặt tích cực nhất định.
lOMoARcPSD|10435767
16
Thứ nhất, việc giới hạn người phụ nữ chchuyên tâm trong chốn nội trạch giúp h
toàn tâm toàn ý săn sóc cho trên dưới cả gia tộc về mặt nội trị, giúp gia đình được yên ấm,
con cái được chăm lo chu đáo đầy đủ, căn cơ gia đình được vững thì cả xã hội mới theo lề
lối được. Thực chất, vai trò của nữ giới không kém phần quan trọng so với nam giới. Sự
đức độ, hiền huệ của phụ nữ có thtạo ra thế hệ hậu duệ tài trí và lễ nghĩa, giúp cho nước
nhà thêm vững mạnh. “Liệt nữ truyện” phần Hiền minh, chép về các nhân vật tài trí có lời
bàn: “Duy bậc Hiền minh, liêm chính đúng cách, hành động mực, nói thành văn
cương, hiểu sự lý, biết giềng mối trên đời, xử theo pháp độ, trọn đời không gặp tai
họa. Bậc hậu phi mà học theo ắt sẽ được tên tuổi rõ ràng".
Điều tiếp theo, duy “Nội tắc” giúp người phụ nữ biết giữ chuẩn mực, bổn phận,
không vì tư tâm tư lợi mà bỏ qua đại cục. Điều này thể hiện qua các lần Thái hậu lâm triều
xuyên suốt những triều đại Trung Nguyên, n, Đường, Tống các triều đại hơn hai
ngài nữ hậu thùy liêm, phò tá hoàng đế, chăm lo triều đường, dẫu vậy, tại sao duy các ngài
nữ chủ nhà Tống lại được tiếng hiền, được sử gia tán dương. Ấy là vì họ biết giữ tròn bổn
phận, khi hoàng đế đủ năng lực thì biết tự động hoàn chính, giao lại triều đường cho tự
quân, như các bà Từ Thánh Tào hậu cùng Tuyên Nhân Cao hậu không đề bạt gia tộc mình
lên cao, Chương Hiến Lưu hậu tuy án theo Tắc Thiên Võ hậu truy n vương hiệu cho tiên
tổ nhưng cũng ít đề cao con cháu nhà mình, vậy số m nhiếp chính của họ tuy ít
nhưng họ vẫn được tiếng hiền. Trái ngược lại, thời Hán có nhiều vị nữ chủ nhất, nhưng đa
phần không ai được tiếng hiền, thậm chí còn bị chỉ trích, tiêu biểu như Hiếu Cao hoàng hậu
Lữ thị trứ danh của Cao tổ Lưu Bang, độc bá triều chính suốt tám năm, mặc dù Sử ký nhận
định: “Thời kỳ Hiếu Huệ hoàng đế cùng Cao hậu, bá tánh thoát khỏi cái khổ binh đao loạn
lạc của thời trước, vua tôi đều cùng dân chúng nghỉ ngơi. Huệ đế rũ áo để trị, Cao hậu thân
nữ chủ ng chế, chính sự không lan ra khỏi cung đình, thiên hđược yên vui. Lại ít
dùng hình phạt, giặc giã khan hiếm, vụ mùa tốt tươi, ăn mặc no đủ”. Dù vậy, bà vẫn bị chỉ
trích n bạo nhẫn tâm, với kẻ thù thì áp dụng thủ đoạn độc ác hèn hạ, về già lại
trọng dụng đám con cháu họ Lữ, phong vương phạm vào tối kỵ Hán triều, suýt chút khiến
cơ đồ nhà Hán bại vong, mà dòng họ Lữ sau khi hậu mất cũng gặp họa diệt tộc.
lOMoARcPSD|10435767
17
lOMoARcPSD|10435767
18
Nhà Đường Tắc Thiên hậu, cùng Lữ hậu ng thành “Lữ Võ”, tuy bản thân
xưng đế, làm gián đoạn nhà Đường, vẫn hậu đãi trọng dụng người trong gia tộc mình,
nhưng bên cạnh đó vẫn ưu ái nhiều nhân tài khác, điển hình như Địch Nhân Kiệt, hơn
nữa lại biết thu phục nhân tài, kẻ nào không có năng lực thì tự động bãi chức, vì vậy người
tài trong thiên hạ đều có cơ hội được cất nhắc.
2.3.2. Hạn chế
việc hạn chế vai trò nữ giới hướng phụ nữ noi theo những chuẩn mực đích
thực có vài mặt tích cực, nhưng cũng có nhiều vấn đề hạn chế vẫn tồn tại từ xã hội cổ cho
đến hiện nay.
Đầu tiên một vài hạn chế về các chuẩn mực giới, đưa ra vai trò tiêu cực để áp đặt
rằng người phụ nữ luôn thấp hơn đàn ông, bị coi thường, giới hạn vai trò ở trong chốn nội
trạch, ngược lại với người đàn ông thường vỗ ngực tự hào và được coi trọng hơn, điển hình
là sự việc của Tư thải Trần Thụy Trinh thời nhà Minh Thái tổ. Trần thị năm 20 tuổi nhập
cung, nhờ vào tài năng được tiến đến chức thải thuộc Thượng Cung cục, được hoàng
gia khen ngợi, nhà họ Trần nhờ thị mà được liên hôn với danh gia vọng tộc, có được bổng
lộc lớn miễn trừ các thuế dịch, bản thân thị cũng được cúng bái, dựng Từ đường
riêng như tổ tiên của dòng tộc. Nhưng đến thời Minh Thế tông, con cháu xét thấy Trần thị
là nữ nhân không cần phải quá đề cao nên đem bài vị ra Từ đường của cha thờ phụ, t
một người đem lại vinh quang cho gia tộc, cuối cùng vì là phận nữ mà bị đối đãi thiệt thòi.
Tiếp theo là sự hạn chế về mặt phát triển sự trưởng thành là khi người phụ nữ tin
vào những áp đặt trên thì họ trở nên cảm thấy tự ti, luôn nghĩ rằng nhiệm vụ của bản thân
cùng hành vi chỉ được giới hạn mức độ nào đó chỉ nên nhà nuôi con cái. Bên cạnh
đó họ nghĩ rằng những việc lớn lao chỉ người đàn ông mới làm được, thậm chí coi
thường ng lực bản thân. Như những nữ nhạc, nhạc kỹ, mặc họ tài ca nhạc, bản thân
họ cũng vẫn người “bán nghệ chứ không bán thân”, nhưng định kiến áp đặt n nên
họ cũng dần chấp nhận sự hèn mọn mà người khác quan niệm, gán ghép cho.
Chưa kể đến những trường hợp những chuẩn mực về hành vi, trinh tiết y
người phụ nữ phải chịu khổ sở thậm chí là vong mạng. Như nàng Cơ, con gái của
lOMoARcPSD|10435767
19
Lỗ Tuyên công, vợ góa của Tống Cung công, đến đời Cảnh công, cung thất của bà bị cháy
nhưng nhất quyết không chạy ra do lễ giáo quy định, phụ nữ khi ra ngoài phải bảo
mẫu, phó mẫu đi cùng, giờ nếu họ chưa tới thì thà giữ lễ mà chết còn hơn thất lễ mà sống,
cuối cùng chết trong biển lửa. Hay như Trinh Khương, vợ SChiêu ơng, khi Chiêu
vương đi du ngoạn, n để Trinh Khương lại cái đài trên sông, nhưng không may nước
sông dâng cao, vương liền sai người rước bà nhưng họ quên mang tín vật làm tin,không
thấy tín vật của vương nên kiên quyết giữ tiết, sống chết cũng không đi, đến khi sứ giả
mang tín vật tới thì phu nhân đã bị nước sông dìm chết đuối.
cuối cùng hạn chế về mặt tiếng nói trong gia đình. Phụ nữ chỉ được nói khi được
cho phép. Trong tất cả các vấn đề gia đình, quyền quyết định chung quy vẫn do cha, chồng
hoặc con trai trong nhà đưa ra, vợ con gái chỉ thể nghe không thể bàn bạc hoặc
đóng góp ý kiến. như trong hoàng gia, vai trò của hoàng hậu đến thời MinhThanh chỉ
còn là ở hình thức lễ nghi tế tự, căn bản chuyện quyết định nhân số,... đều thuộc về các cơ
quan chuyên trách dưới sự điều hành của quân chủ, khi có sự vụ về nhân sự, nhiệm vụ của
các bà chỉ ở việc báo cáo cho hoàng đế định đoạt.
Phần 3: Kết luận
Mặc Nho giáo là một triết học duy tâm, nhưng đặc biệt nhấn mạnh các giá trị
đạo đức. những nội dung y, chúng vẫn ý nghĩa nhân văn nhất định, vượt lên trên
những ràng buộc của đẳng cấp, giai cấp. Tuy nhiên việc thấu hiểu khác biệt ở mỗi thời đại
về các giáo lý của Nho giáo trong việc tề gia đã duy trì một nhận thức sai lầm về Nho giáo
là “trọng nam khinh nữ”, coi thường thân phận phụ nữ. Bằng những cách đánh giá lại cụm
từ trên lẫn các lý giải trong bối cảnh văn hóa và lịch sử hàng ngàn năm về trước thì rõ ràng
là mục đích của Nho giáo chung quy vẫn là tìm cách thiết lập sự hài hòa và cân bằng giữa
các giới tính giai tầng khác nhau, nhưng nhiều người lại dựa vào các kẽ hở trong
tưởng làm điều trái quấy, coi thường kẻ dưới, đặc biệt coi phụ nữ làm vật sở hữu,
làm xấu đi hình ảnh trật tự Nho giáo muốn đề ra. vậy chung quy lại, Nho giáo chỉ
lOMoARcPSD|10435767
20
nêu ra các đức tính trách nhiệm cần có của nam nữ trong thời đại ấy, việc tiếp thu,
chọn lọc những đức tính tốt và kế thừa nó là nhiệm vụ của các thế hệ khác nhau. Khi chúng
ta tiếp tục phát triển với tư cách là một xã hội, điều cần thiết là thúc đẩy sự hiểu biết nhiều
sắc thái, góc cạnh hơn về Nho giáo chọn lọc có suy ngẫm, không dung nạp những thói
xấu, hạn chế, n đúc kết lựa chọn chứ không nên hoàn toàn phán xét đúng hay sai dựa
trên bối cảnh văn hóa hoàn toàn khác nhau ở mỗi thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trọng nam khinh nữ - nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình. (2020, September 28).
From http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/104326/trong-nam-khinh-nunguyen-
nhan-sau-xa-cua-bao-luc-gia-dinh
Trọng nam khinh nữ - Một tư tưởng lạc hậu cần được thay đổi. (2015, December 24).
From
https://hoanhap.vn/chi-tiet/trong_nam_khinh_nu___mot_tu_tuong_lac_hau_can_duoc_th
ay_doi.html
Vũ, H. (2021, December 1). Tư tưởng trọng nam khinh nữ là một tư tưởng lạc hậu cần bị
xóa bỏ. From https://benhvienvuquang.vn/tu-tuong-trong-namkhinh-
nu/#Tu_tuong_“trong_nam_khinh_nu”_la_gi
Ngăn chặn và xóa bỏ bất bình đẳng giới trong gia đình. (2013, March 13). From
https://nhandan.vn/ngan-chan-va-xoa-bo-bat-binh-dang-gioi-trong-gia-
dinhpost570824.html
Tại sao tư tưởng trọng nam khinh nữ gây hậu quả xấu cho xã hội hiện nay? (2022,
October 24). From https://voh.com.vn/song-dep/trong-nam-khinh-nu-452995.html
Lễ ký, phần Nội tắc
Liệt Nữ truyện, Quyển 5: Tiết nghĩa truyện, Lưu Hướng
Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ
lOMoARcPSD|10435767
21
Nguyễn Thánh tổ Tiệp dư Lê Thị Ái bia ký hành trạng
Trịnh gia chính phả
Tư trị thông giám, Tư Mã Quang
Hậu Hán thư, Phạm Diệp
| 1/21

Preview text:

lOMoARcPSD| 10435767 MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................2
Phần 1: Mở đầu................................................................................................................3 1.1.
Lý do chọn đề tài.................................................................................................3 1.2.
Mục đích nghiên cứu...........................................................................................4
Phần 2: Nội dung..............................................................................................................5 2.1.
Vai trò của nam nữ trong xã hội Nho giáo...........................................................5 2.2.
Vấn đề “Trọng nam khinh nữ”.............................................................................8
2.2.1 Tư duy “Nội tắc” của phụ nữ và quan niệm ảnh hưởng trong Nho giáo..........8 2.2.2
Những trường hợp bị phân biệt điển hình......................................................11
2.2.3 Một số ngoại lệ trong lịch sử..........................................................................15
2.2.4 Đối với các nước lân cận (VN, Triều Tiên xưa).............................................16
2.3. Vài điểm tích cực và hạn chế trong việc giới hạn vai trò người phụ nữ dẫn đến tư
tưởng “Nam quý nữ tiện”.........................................................................................18
2.3.1. Tích cực.........................................................................................................18
2.3.2. Hạn chế..........................................................................................................20
Phần 3: Kết luận.............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................23 1 lOMoARcPSD| 10435767 Phần 1: Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
“Nho Giáo” là một học thuyết có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc và được truyền bá lan
rộng sang các nước lân cận như Việt Nam, Hàn Quốc thông qua các cuộc chiến tranh đô
hộ hàng ngàn năm cũng như là giao thương buôn bán, bản thân Nho giáo luôn đề cao trật
tự xã hội, “nam tôn nữ ti”, cho rằng nam nữ giống như trời và đất, đều có những vai trò
khác nhau và không thể thiếu nhau. Nhưng, khi xã hội nam quyền lên ngôi, đàn ông dần sở
hữu hóa phụ nữ, từ đó mà tư tưởng “Nam quý nữ tiện” được nêu ra, việc hạn chế vai trò
của phụ nữ từ xa xưa đã làm ảnh hưởng đến xã hội ngày nay theo hướng tích cực lẫn tiêu
cực. Trong thời Nho Giáo thịnh trị thì xã hội quân chủ nam quyền được nâng cao dẫn đến
thân phận người phụ nữ trong xã hội bị hạ thấp, họ dần bị xem là vật thuộc về những người
đàn ông, tiêu biểu là người chồng của mình. Bên cạnh đó, tư duy “Nội Tắc” có từ thời
phong kiến đã kìm kẹp người phụ nữ trong một chuẩn mực nhất định và tư duy ấy vẫn còn
bị ảnh hưởng đến thời đại ngày nay. Chính những tư duy này một phần khiến cho Nho giáo
bị coi là nền tư tưởng coi thường phụ nữ, trong khi thực chất không hẳn là vậy, qua bài viết
này, chúng tôi muốn nêu ra cho người xem thấy được những lý do dẫn đến việc “nam tôn
nữ ti” dần bị biến tướng, gây bất lợi của phụ nữ, bên cạnh đó là những mặt tích cực của
Nho giáo đối với vai trò người phụ nữ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, đưa ra các quan niệm, tư tưởng về vai trò của nam và nữ trong xã hội phong
kiến Nho giáo ở các nước khác nhau, giúp mọi người có thể có cái nhìn khác và tương đối
hơn về xã hội và tư tưởng của Nho giáo. Bên cạnh với việc nghiên cứu, nhận xét về những
vấn đề thực tiễn trong xã hội Nho Giáo, chúng tôi còn muốn cho mọi người phần nào thấy
được xã hội Nho giáo đương thời, nơi mà mọi người đều phải đặt lễ nghĩa lên hàng đầu. 2 lOMoARcPSD| 10435767
Từ đó cho thấy được một số mặt tích cực, cũng như tiêu cực của tư tưởng “Nam quý nữ
tiện” và việc giới hạn vai trò người phụ nữ trong xã hội phong kiến Nho giáo, cụ thể là xã
hội ở Trung Nguyên, Nam triều và Triều Tiên Lý thị xưa. 1.3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu trong bài báo cáo này là các quan điểm, các câu châm
ngôn, các giáo lý Nho Giáo được truyền bá đến ngày nay về vấn đề tư tưởng “Nam quý nữ
tiện”, cùng với đó là những câu chuyện được ghi chép lại, phần nào phản ánh được một
phần của xã hội khi ấy, một xã hội mà nam quyền thống trị và chi phối tất cả.
Về phạm vi nghiên cứu trong bài báo cáo, nó được giới hạn trong xã hội phong kiến
Trung Quốc, nơi cội nguồn của Nho Giáo và một số nước chịu ảnh hưởng của Nho Giáo
như Việt Nam, Hàn Quốc,... Tuy đều tiếp nhận Nho giáo, nhưng mức độ tiếp thu của cả
hai đều rất khác biệt, và khác hẳn với Trung Quốc. Phần 2: Nội dung
2.1. Vai trò của nam nữ trong xã hội Nho giáo
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì Khổng Tử một trong những triết gia đương thời,
người đã chủ trương, lấy “Tam cương ngũ thường” dạy nam giới thế nào là trị quốc tề gia,
lấy “Tam tòng tứ đức” dạy nữ giới thế nào là làm nội trợ.
“Tam cương” có nghĩa là ba mối quan hệ tồn tại, là nền tảng chính trong chế độ ở xã hội phong kiến:
“Quân thần cương” là mối quan hệ “vua - tôi” là bổn phận của bầy tôi hay còn gọi là
cấp dưới với vua, vua chính hình mẫu cho thần dân phải noi theo.
“Phụ tử cương” là mối quan hệ giữa “cha - con” là nghĩa vụ của bậc con cái đối với
các bậc phụ huynh, người cha đóng vai trò dạy bảo cho con cái.
“Phu phụ cương” là mối quan hệ của “chồng - vợ” là mối quan hệ mật thiết giữa vợ
đối với người chồng, tức là chồng nói gì thì vợ bắt buộc phải nghe theo. 3 lOMoARcPSD| 10435767
Theo nguyên tắc của “tam cương”, người bề trên tức là người làm vua, cha, chồng có
nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc và thương yêu người bề dưới chính là cấp dưới, con và vợ.
Người ở bề dưới thì chỉ cần làm tròn bổn phận nghe lời vâng theo, tôn trọng kính nhường,
hiếu thuận biết điều với người trên là được. Những mối quan hệ này đều phụ thuộc, hỗ trợ
lẫn nhau và nếu mỗi người đều làm tốt nghĩa vụ vai trò của mình thì gia đình sẽ yên vui,
hoà thuận còn đất nước sẽ trở nên thái bình, thịnh vượng.
“Ngũ thường” là năm điều thường gặp trong lẽ thường của cuộc sống, năm nguyên
tác này giúp rèn luyện hình thành nên đạo đức của con người “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Đây
là những phẩm chất đàn ông cần phải có và phải rèn luyện để đạt được.
Còn có cách khác để có thể hiểu, “ngũ thường” chính là “Cha nhân nghĩa, mẹ hiền từ,
anh hữu ái, em cung kính, con hiếu thuận”.
Tuy nhiên, ở trong chế độ xã hội phong kiến thì “quân thần cương" tức là “vua - tôi"
là mối quan hệ được đề cao, có tầm ảnh hưởng nhất trong thời kỳ đó. Các bậc quân chủ ở
chế độ này lấy nguyên tắc “Tam cương ngũ thường" và khiến nó trở thành một nguyên tắc
vô cùng hà khắc. Ngoài ra, Nho giáo còn cho rằng thiên chức, nhiệm vụ, chức năng của nữ
giới chính là phục vụ vô điều kiện cho nam giới. Điều này được chỉ rõ qua thuyết “Tam
tòng tứ đức”. Một xã hội như vậy được cho là bình an và hạnh phúc.
“Tam tòng” là ba điều kiện tiên quyết để người phụ nữ buộc phải tuân thủ làm theo,
xem đó là nghĩa vụ buộc phải làm trong suốt cuộc đời của họ từ khi sinh ra cho đến khi qua đời.
“Tại gia tòng phụ” câu này có nghĩa là nữ giới khi còn ở nhà chưa xuất giá cưới chồng
thì người con gái phải phụng dưỡng và phải nghe theo lời của người làm cha đặc biệt là
trong việc sắp đặt hôn sự.
“Xuất giá tòng phu” là sau khi xuất giá lấy chồng, người phụ nữ phải nhất định một
lòng một dạ chăm sóc và chăm lo cho chồng, ưu tiên chồng lên hàng đầu, không được cãi
lại chồng hay nói cách khác là không có chuyện gọi là bất bình đẳng trong mối quan hệ giữa vợ chồng. 4 lOMoARcPSD| 10435767
“Phu tử tòng tử” là nếu như chồng không may mất thì người phụ nữ không còn sự lựa
chọn nào khác ngoài việc phải sống dựa vào người con trai, con đi đâu thì người mẹ phải theo đó.
Theo Nho giáo, đối với người phụ nữ, “tứ đức” chính là bốn chữ “công, dung, ngôn
và hạnh”. Đó chính là những phẩm chất bắt buộc phải có đối với người phụ nữ ngày xưa.
“Công” có nghĩa là nữ công, gia chánh phải khéo tay, giỏi đảm đương việc nhà. Tuy nhiên
các nghề với phụ nữ ở thời kỳ ngày xưa thì chủ yếu chỉ có các công việc như là may, vá,
thêu, thùa, bếp núc, buôn bán. Còn với những người phụ nữ giỏi thì có thêm tài cầm kỳ thi hoạ.
“Dung” thì có nghĩa là dáng của một người phụ nữ phải đoan trang hòa nhã, ăn mặc
gọn gàng chỉnh tề, biết cẩn trọng và xem trọng hình thức bản thân, không được xuề xoà.
“Ngôn” là lời ăn tiếng nói nghe phải nhẹ nhàng khoan thai, dịu dàng và mềm mỏng.
Lựa lời để mà nói, phải biết nên nói khi nào, khi nào không nên nói đều phụ thuộc vào
chồng và gia đình nhà chồng, không được nói leo và ngồi lê mách lẻo.
“Hạnh” chỉ tính cách của người con gái phải nết na, hiền thảo, khi ở trong nhà thì phải
kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở đối xử tốt với người trong nhà của
chồng. khi ra bên ngoài thì phải nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, không cay nghiệt với
người ngoài. Ngoài ra, phải giữ gìn tiết hạnh cho chồng, không được tỏ thái độ không hài
lòng, không ngay thẳng “đầu mắt cuối mắt".
Như vậy, có thể thấy được cuộc đời của người phụ nữ bị lệ thuộc vào người đàn ông,
bị chi phối hoàn toàn mà không hề có được sự tự do, không có quyền được tự chủ. Nói theo
cách dễ hiểu, việc của nam giới chỉ cần làm chính là học hành thành tài và đem sở học phục
vụ cống hiến cho đất nước. Còn nữ giới chỉ được chăm lo quản việc nhà cửa và bếp núc:
“Gái trong khung cửi, trai ngòi bút nghiên”. Đàn ông nói không với việc trong nhà, đàn bà
nói không việc ngoài đường “Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại”. Theo sự phân chia
công việc đó, đàn ông có vai trò là người làm chủ công việc bên ngoài, còn đàn bà có vai
trò làm chủ các công việc bên trong nhà nhưng đàn bà vẫn phải phục tùng cho đàn ông. 5 lOMoARcPSD| 10435767
Bằng cách đó, có thể thấy được người phụ nữ hoàn toàn bị hạn chế, không được quyền
tham gia các công việc xã hội.
2.2. Vấn đề “Trọng nam khinh nữ” 2.2.1
Tư duy “Nội tắc” của phụ nữ và quan niệm ảnh hưởng trong Nho giáo
Thời nay, người hiện đại luôn thắc mắc tại sao nhóm phụ nữ thời xưa lại có tư duy
coi người chồng, người cha là chủ nhân đích thực của họ, đó là do trong xã hội xưa tồn tại
một cái gọi là “Nội tắc” trong lễ nghi. Tại đây, những người phụ nữ từ thê tử, thiếp thất
đến con cái, dâu cháu đều có những thước đo chuẩn mực nhất định về ngôn hành, cử chỉ
đến thái độ, hành động, điều này được ghi lại trong “Lễ ký”, nằm trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử.
Về “Lễ ký”, đây là một cuốn sách được Khổng Tử biên ra nhằm mục đích duy trì
cũng như ổn định trật tự lễ nghi trong xã hội, Lễ ký, Chu Lễ và Nghi Lễ hợp xưng thành
“Tam lễ”. Nội dung sách ghi về các lễ nghi, phong tục liệt vào kinh điển của thời kì Tiên
Tần, không ít điều quan trọng được chép trong đây trở nên ảnh hưởng lớn về sau.
Trong “Lễ ký” có mục được gọi là “Nội tắc”, chép lại những quy tắc về việc xử sự
mà một người phụ nữ nên noi theo, bao gồm cả nghĩa vụ mà người vợ (Thê tử) cần tuân
theo đối với người phu quân của mình:
“Gọi là “Lễ”, chính là thận trọng xử lý mối quan hệ giữa vợ và chồng. Việc xây dựng
cung thất là nhằm phân biệt trong ngoài, tức nam nhân ở ngoài, nữ nhân ở trong. Cung thất
là chốn thâm sâu, đầy cửa nẻo, phía ngoài có binh lính trông coi, phía trong lại có yêm
nhân, đàn ông không được vào trong, mà đàn bà cũng không được ra ngoài.
Nam nữ tách biệt, không được cùng giá áo, người vợ không được phép treo quần áo
của mình lên giá áo của chồng, cũng không được đem áo của mình vào cùng một cái rương
của trượng phu mình, cũng không dám cùng tắm rửa trong một gian phòng. Khi người
chồng đi vắng, người vợ phải thu dọn chăn gối, đồ dùng đi cất mới phải lẽ. Ti ấu phục vụ
bậc tôn trưởng, kẻ hèn hầu người sang, cũng đều nghe theo lễ nghĩa như vậy. Án theo lễ
vợ chồng, trừ khi ngoại thất tuần thì cả hai mới có thể ở chung gian phòng, còn trước đó,
thê đều phải cùng bọn thiếp tỳ thay nhau hầu. Thiếp dù có lớn tuổi, miễn chưa đến ngũ 6 lOMoARcPSD| 10435767
tuần, thì nhất định cứ cách 5 ngày là thị tẩm 1 lần. Đến phiên ai hầu đêm, thì cũng như tôi
thần hầu quân chủ, đều tâm tư ngay thẳng, trong ngoài sạch sẽ, mặc y phục theo đúng phận,
tóc chải chuốt gọn gàng, đeo vào túi thơm, mang đôi giày tốt mà cung kính đến trước mặt trượng phu đợi lệnh.
Dù là tỳ thiếp được sủng, nhưng quần áo y phục không được ỷ sủng mà lấn lướt, vượt
qua những ai vốn ở trước. Bất luận là vua chúa hay sĩ phu, chính thất không tại gia hay
chưa lập, mà gặp đến ngày quy định do chính thất vào hầu ngủ, thì thiếp thất cũng không
được vượt phận tiến vào, để tỏ khác biệt giữa thê và thiếp.”
Mặc dù không phải giai cấp hay đất nước nào cũng triệt để áp dụng những điều này,
nhưng “Ngũ Kinh” và “Tứ thư” vẫn là nền tảng truyền thống ảnh hưởng sâu rộng đến các
quốc gia này, đặc biệt là giai tầng nắm giữ quyền cai trị như vua chúa, quý tộc. Quan hệ vợ
chồng, vì ở trong xã hội nam quyền tối thượng, dù cho xảy ra bất đồng, nhưng người vợ
cũng không thể làm gì hơn ngoài việc thuận ý tuân theo, người xưa đã dùng những câu như
“Tương kính như tân” hay “Cử án tề mi” để thể hiện rõ mối quan hệ phu thê tiêu chuẩn
ngày xưa: Vợ chồng đối đãi nhau qua lại như người khách đến thăm nhà, một điều cực
khác biệt so với quan hệ vợ chồng hiện đại.
Về nhóm gia quyến nữ trong nhà, bao gồm người vợ cả, tuy đối với kẻ dưới là chủ
phận, nhưng kỳ thực với người chồng thì họ vẫn ở vế dưới, không thể cao hơn. Điển hình
cho việc này là trong hoàng thất, người chính thê của một hoàng đế, tức hoàng hậu, là chủ
nhân của đám thiếp thất, tần phi vốn được coi là nô bộc, địa vị cực khác biệt, dù vậy, thân
phận nữ chủ nhân này của hoàng hậu có được vẫn là nhờ việc cùng tác phối với thiên tử,
vị chủ của đất nước mà có được. Bên cạnh đó, vai trò của hoàng hậu chung quy vẫn là
nằm trong phạm vi nhân sự trong cung cùng vai trò thể hiện nữ đức với nữ giới trong thiên
hạ, lấy hình ảnh “gia đình kiểu mẫu” cho quan viên lẫn nhân dân noi theo làm gương, điều
này thể hiện càng rõ ở các triều đại về sau như Minh, Thanh, hoàng hậu chỉ có nhiệm vụ
dùng thân phận nữ chủ nhân suất lĩnh mệnh phụ tham gia vào các lễ tế tự, và cung phụng
các ngài Thái hậu, thể hiện lòng hiếu kính, còn các vấn đề như ăn mặc hay cư trú, toàn bộ
đều có các cơ quan chuyên trách đảm nhiệm lấy hoàng đế làm trung tâm, các ngài hậu cũng 7 lOMoARcPSD| 10435767
chỉ có thể có chút tiếng nói trong việc quản lý này thôi. Vấn đề “Nội trị” mà thường hay
nói, bất quá cũng là tích cực tiến cử cơ thiếp hiền đức lên cho hoàng đế, cùng giữ hòa khí,
quan hệ giữa các tần phi, tránh xảy ra cự cãi xích mích mà cùng nhau chuyên cẩn hầu hạ
các ngài Phật gia, vì vậy, dù trong cung không có hoàng hậu, thì kỳ thực cũng không có gì nghiêm trọng cả.
Một lý do khác, xã hội Nho giáo vốn coi trọng tôn ti trật tự, , giai cấp cầm quyền nhân
vào kẽ hở đó mà khống chế người thấp hơn, ví như những người phụ nữ bị nam nhân chi
phối. Cụ thể, trong gia đình phân ra bậc “Tôn trưởng” là những người được kính trọng, tôn
quý và được bậc “Ti ấu” luôn kính nể, vâng lời, Trong đó, giữa chồng và vợ thì do tư duy
“Nam tôn nữ ti” nên người chồng chính là bậc tôn trưởng đối với thê tử. Và trong Nho giáo
kị nhất là loạn: tôn ti bất phân, kẻ dưới không vâng theo người trên, xã hội tắc loạn, vậy
nên xã hội dần có khuynh hướng bảo vệ những tôn trưởng này để tránh loạn, từ đó mới xảy
ra những việc chồng đày đọa vợ, khi người vợ kiện cáo thì tuy người chồng vẫn bị trừng
phạt, nhưng vẫn nhẹ hơn so với người vợ vốn là người bị hại, và thương thay, cho dù người
vợ vì yên thân mà thay đổi lời khai thì người chịu thiệt nhất vẫn là chính họ, mà nếu chống
trả, lỡ tay đoạt mạng chồng thì càng cay đắng hơn. Người mà họ trông cậy được chỉ có
thân thuộc trong nhà, nhưng trong trường hợp người thân không quản, nhắc nhở an phận
hoặc ở nơi xa thì họ chỉ có thể nhẫn nhịn bị hành hạ cả một kiếp người, thậm chí là vong
mạng, điều này vẫn còn tồn tại đến ngày nay trong xã hội hiện đại như một hệ lụy tiêu cực của Nho giáo. 2.2.2
Những trường hợp bị phân biệt điển hình
Không thiếu những trường hợp thân phận người phụ nữ bị coi thường trong xã hội
phong kiến, thậm chí là bị chà đạp, khinh rẻ, nhưng vì lối tư duy “Ti bất phạm tôn” và “Nội
tắc” nên họ vẫn chấp nhận dù là tự nguyện hay ép buộc.
Một trong các ví dụ điển hình là các thị tỳ trong phủ quý tộc. Xã hội nam quyền đem
phụ nữ làm vật sở hữu, nâng cao sự vẻ vang cho nam giới, và những thị tỳ này chính là bộ 8 lOMoARcPSD| 10435767
phận có chức năng làm vật sở hữu đó. Thị tỳ, hay còn gọi là cơ thiếp, tỳ thiếp, là bộ phận
không được công nhận trong xã hội, cụ thể hơn là không được đàn ông công nhận.
Nói cách khác, tỳ thiếp thậm chí bị coi là đê tiện, thấp hèn hơn các vị thiếp thất, bởi
các thiếp dù thấp hay bị xem nhẹ cỡ nào thì cũng vẫn được pháp luật bảo hộ và có những
thủ tục pháp lý nhất định, họ và con cái vẫn được coi là một phần hợp pháp của gia đình,
vẫn được tính là hậu duệ trong nhà, trong khi các thị tỳ thì không được như vậy. Con cái
của họ được coi là con ngoài giá thú, trừ phi được người cha công nhận làm thứ xuất
(thường chỉ xảy ra với những người con trai), nhưng người mẹ thì mãi không thoát khỏi
phận tỳ, thậm chí có việc thê thiếp đoạt con của nữ tỳ làm con của mình, như Chân Tông
muốn lập Lưu mỹ nhân được thánh sủng làm hoàng hậu nên dùng kế “Tá phúc sinh tử”,
sai nữ tỳ hầu hạ Lưu mỹ nhân là Lý thị vào hầu ngủ, sau thị có mang rồi sinh hoàng tử thì
tuyên bố là con Lưu mỹ nhân, nhân vào đó lập bà ấy làm hậu.
Điều quan trọng khiến thị tỳ bị khinh rẻ như vậy là vì họ bị coi là công cụ tình dục
cho chủ nam, vì họ không bị ràng buộc thân phận như thiếp, nên khi người đàn ông đã chán
họ thì đều có thể đem bán đi, hoặc thường xuyên hơn là đem tặng cho người khác. Đặc biệt
thời Đường, giới sĩ phu khi ấy thường sai nữ tỳ của mình hầu giường cho khách đến chơi,
thậm chí gửi cho bạn bè khi hiếm muộn con cái, cũng có trường hợp nữ tỳ dù được gả cho
cho kẻ dưới nhưng vẫn giữ quan hệ ngoài luồng với chủ nam. Những tỳ thiếp này để lên
thiếp thất là cực kì khó, bởi lượng thiếp của các quý tộc đều được quy định số lượng rõ
ràng, và một vài vương triều thậm chí còn cấm kỵ chuyện nâng thiếp làm thê hoặc thiếp,
nếu phạm phải thì sẽ bị bắt đi lao dịch.
Thị tỳ có ba dạng xuất thân, gồm: “Khách nữ” là con gái của các nô lệ, binh lính trong
nhà sĩ phu, hai là “Nô tỳ” hầu hạ cho giai tầng ở trên, bị xếp vào hàng không nhân phẩm,
hoàn toàn bị định đoạt, và hèn mọn nhất là “Gia kỹ”, tức các kỹ nữ trong gia đình quý tộc
thời cổ. Kỹ nữ thời này căn bản có nhiều dạng như chỉ lấy tài nghệ kiếm sống, hoặc hoàn
toàn bán thân cho khách sử dụng lấy làm vui tùy thích, chứ không hẳn thiên về phục vụ
nhu cầu tình dục như người hiện đại lầm tưởng, nhưng vì tính chất của công việc phải tiếp
xúc giáp mặt với nhiều nam nhân cùng quan niệm người đời về trinh tiết nên dù là bán thân 9 lOMoARcPSD| 10435767
hay không bán thân, hoặc chỉ bán nghệ thôi thì cũng đều quy vào hạng đáng khinh, vì chỉ
việc họ lấy tài nghệ của mình ra để mua vui thì cũng đủ để cho là phường hư hỏng, mất
nhân phẩm. Những kỹ nữ này không có hộ tịch đàng hoàng, mà phải chịu quản thúc, sở
hữu từ những nguồn khác nhau như cung đình, nhà quan hay thậm chí nhà chứa, và đồng
thời hộ tịch của họ gọi là “Nhạc hộ”, xếp vào hàng Tiện tịch, đối nghịch với Lương tịch
được tự do. Thời xưa quan niệm Trinh tiết gắt gao, nên dù những người này có là Lương
tịch hay là xử nữ chưa quan hệ tình dục đi chăng nữa, thì cũng tự động bị xem là rẻ mạt do
việc mua vui cho đàn ông của họ. Về số phận, vì họ là vật sở hữu của nam chủ, nên khi chủ
mất thì họ phải tuẫn táng theo, hoặc bị đem ra mua bán, qua tay hết người này người kia
như nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hay có thể may mắn hơn là
đủ tiền chuộc thân đối với các kỹ nữ bị bán trả nợ hay thuộc nhà tội nhân, nhưng khi hoàn
lương rồi thì họ rất khó để làm chính thê cho nhà nào và chỉ có thể làm thiếp vì quan niệm
người đời. Tuy vậy vẫn có trường hợp những kỹ nữ này có thể đổi đời, điển hình là Tư hậu
Vệ Tử Phu, Lý phu nhân của Hán Vũ đế cùng Triệu Phi Yến của Thành đế, họ đều là ca kỹ
trong phủ của các bà chúa chị em của hoàng đế, nhưng hiếm hoi có được ý niệm của nhà
vua mà được đảm bảo thân phận về sau.
Riêng về Nữ nhạc, tức những người chỉ dùng tài nghệ như đàn ca múa hát với mục
đích thỏa mãn việc thưởng thức ca múa cùng khoe mẽ của giới quý tộc trong cung đình thì
có phần thăng trầm hơn. Ban đầu, họ bị coi là vật sở hữu của quân chủ để thỏa sức mua vui
hay bán đi, thậm chí là thấp hèn hơn cả gia súc, nhưng dần theo thời thế, các triều đại như
Hán Đường lại ưa chuộng ca múa, xây các giáo phường đào tạo cùng sủng hạnh một vài
người vào nội cung vua chúa làm phi tần, như Dương Thái Chân của Đường Huyền Tông
có tài năng nhảy múa, được bái làm Quý Phi, họ Dương hiển quý một thời, ấy đều là phụ
thuộc quân quyền và nam quyền mỗi thời, bên cạnh đó, nữ nhân quý tộc cũng dần rành ca
múa dù việc giỏi văn thơ vẫn được coi là “chính đạo”, chung quy vẫn là tùy vào mỗi thời.
Dần dần, Tống triều coi trọng sự ổn định, loại bỏ xa xỉ nên hậu phi mệnh phụ đa phần theo
tác phong tránh xa ca vũ, thừa tướng Tư Mã Quang trứ danh đã nhận định: “Những việc
thêu thùa bắt mắt, thơ văn ca phú, tất đều không phải thứ mà nữ nhân cần phải học”. Thời 10 lOMoARcPSD| 10435767
Minh tôn sùng Lý học, nữ nhạc dần thoái trào, đội ca vũ cung đình tấu nhạc cũng bị thay
thế bởi các thái giám, cũng loại bỏ ca múa chỉ dùng đàn nhạc. May thay, nhà Thanh thời
Ung Chính gia tiến hành tân chính, ông đã bãi bỏ thân phận tiện dân của các nhạc hộ, thói
coi phụ nữ là vật dùng cũng dần được loại bỏ.
Vì tư duy coi chồng là chủ nhân của họ và những người đàn ông cung coi phụ nữ là
vật sở hữu trong xã hội nam quyền, giai tầng cai trị là nam giới nên có nhiều khái niệm mà
người hiện đại luôn lầm tưởng, trong đó có quan hệ nam nữ thời xưa. Về mặt gặp gỡ, các
phim cổ trang thường có các cảnh nam nhân tùy ý ra vào hậu cung hay quan viên có thể
gặp gỡ hậu phi, nhưng thực chất đây đều không đúng lễ nghĩa. Thời cổ đại, quan niệm hậu
phi cùng quý phụ thân phận cao quý, thuộc về người chồng nên trừ chồng con ra thì không
thể tùy tiện đưa dung nhan để người khác ngắm nhìn, khi gặp khách đều phải có một bức
rèm mờ che lại rồi mới đối đáp, không gặp trực diện, như việc vương hậu của Vệ Linh
công là bà Nam Tử cũng y như thế khi gặp Khổng Tử. Điều này cũng chính là cơ sở cho
các bà Thái hậu buông rèm nhiếp chính khi gặp điều kiện chính trị nhất định, các bà có thể
ngang hàng với quân chủ chứ không hẳn ngồi sau, nhưng phải ngồi ở phía tay phải của đức
vua, ý nghĩa phụ trợ. Điều thứ hai là về chuyện chăn gối, thời nay cho rằng quan hệ chăn
gối phải có tình cảm xúc tác từ hai bên, nhưng thật sự nó chỉ là yếu tố phụ.
Nho giáo coi trọng việc nối dõi, trách nhiệm dòng dõi thờ phụng cực lớn lao, nên
người phụ nữ cũng tự động bị xem là công cụ sinh nở cho nam giới, tàn nhẫn hơn là có cái
bụng đẻ mới giá trị, phàm khi giao hợp thì đều thuộc về bản năng dục vọng tự phát với mục
đích sinh con nối dõi hơn là vì tình yêu. Từ đó cũng chứng minh rằng, phụ nữ hậu cung có
được nhiều con chưa chắc là được nhận sủng ái, đó là lý do giải thích cho việc tại sao chúa
Trịnh Sâm dù ghét cung tần Dương Thị Ngọc Hoan nhưng cũng miễn cưỡng lâm hạnh bà ta, sinh ra Trịnh Tông. 2.2.3
Một số ngoại lệ trong lịch sử
Trong xã hội thời Nho giáo, nữ giới thường bị phân biệt đối xử, bị phụ thuộc về kinh
tế và địa vị thậm chí là danh xưng cũng phải theo chồng vì nam giới trong thời bấy giờ 11 lOMoARcPSD| 10435767
luôn được coi trọng. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ là người phụ nữ không chỉ
được đối đãi tử tế mà còn có sự tôn trọng đối với họ. Bởi lẽ nhóm người phụ nữ này có địa
vị đặc thù mà gần như không thể áp dụng phu quyền là quyền của chồng.
Điển hình là các hoàng nữ hoặc tông thất nữ, hay còn gọi là hoàng thất tông nương,
là con gái, nữ quyến của các vị hoàng đế. Chính vì địa vị xã hội có được nhờ quân chủ nên
nhóm người phụ nữ cao quý này đã được những đãi ngộ đặc thù thể hiện qua các tước vị
độc lập. Chẳng hạn như công chúa hay quận chúa không chỉ là danh xưng mà còn là tước
vị cố định. Nếu nói về cách gọi chính xác nhất, thì con gái của hoàng đế gọi là hoàng nữ,
con gái tước vương là vương nữ hay gọi chung là tông thất nữ. Ngoài ra, sự đãi ngộ đó còn
biểu hiện qua quan hệ vợ chồng, nhóm hoàng thất tôn nương này đều là trung tâm khi ở
trong phủ của công chúa mà không phải là người chồng, vì trên thực tế, người chồng và
người nhà đều là tôi thần, hơn nữa, khi về nhà chồng thì cha mẹ chồng của các bà chúa sẽ
bị giảm xuống một bậc vai vế, trở thành vai anh chị chồng. Việc nhà chồng nghênh cưới
con gái vua sẽ gọi là Thượng, ý xác định nhà chồng ở vai dưới. Điều này không giống như
trong phim hay truyện là công chúa được gả cho một vương tước và bị gọi thành vương
phi. Thực tế cho thấy rằng, theo vai vế vào cung hầu khi có đại lễ thì đứng đầu là các ngài
chúa, sau đó mới là vợ các hoàng tử tước vương, rồi cuối cùng là mệnh phụ quan quyến,
chứng tỏ địa vị của họ vốn vượt qua các vị vương phi, mệnh phụ sẵn.
Bên cạnh đó, từ thời Hán, như các hoàng tử khác, nhóm tông nương cũng được phong
đất riêng, có những đãi ngộ ngang với các quý tộc mang tước hầu. Cụ thể là, trên mảnh đất
của chính các công chúa này, họ được tùy ý thu thuế và có quan được giao nhiệm vụ quản
lý riêng, nếu có con trai sẽ được thừa kế và thụ phong tước hầu, nếu không thì của cải sẽ
được trả lại về triều đình và người chồng không có quyền sở hữu, điển hình cho trường hợp
này là Lỗ Nguyên công chúa thời Hán được dâng vùng Thành Dương quận làm thực ấp.
Ngoài ra, cũng phải kể đến các ngài nữ chủ, ý chỉ những vị quốc mẫu thùy liêm thính
chính, thay hoàng đế xử lý chính sự. Trong xã hội nam quyền nghiêm cấm phụ nữ can
chính thì họ là một trường hợp đặc biệt, là biệt lệ hiếm hoi, từ Hán đến Thanh, trừ nhà
Minh ra thì triều nào cũng có nữ chủ, khởi đầu là Hán Cao hậu Lữ Trĩ đến cuối cùng có Từ 12 lOMoARcPSD| 10435767
Hi thái hậu . Nhưng, việc nữ chủ xuất hiện cũng dấy lên một mối lo khác: Ngoại thích, ý
nói dòng họ các vị nữ chủ lẫn hoàng hậu nắm quyền triều chính, gây họa cho triều đại, như
việc dòng họ Lữ suýt làm sụp đổ cơ đồ Hán triều thời kì đầu cũng là từ Lữ hậu mà ra, và
cũng vì tính tạm thời, nên sau một thời gian họ phải trao trả lại triều chính, quyền lực cho quân chủ. 2.2.4
Đối với các nước lân cận
Việt Nam là một trong những nước tiếp nhận Nho giáo của Trung Quốc, nhưng ở một
số mặt nhất định, các triều đại nước ta vẫn khá thoáng. Một nhận định mà ta có thể nói là
các nữ tướng của Nam triều xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử rất nhiều, có thể kể đến
như Bà Trưng, Bà Triệu hay Bùi Thị Xuân cùng Tây Sơn ngũ phụng thư,...
Điểm đặc biệt đầu tiên, cung tần ở góa của vua chúa, nếu chưa sinh con hoặc con chết
yểu, hay tuổi tác còn trẻ thì được chuẩn cho về với người thân và được tái giá, điển hình là
việc vua Gia Long vào cuối đời đã ban chỉ dụ:
"Cho những cung nhân triều trước, người nào không con thì về với thân nhân. Đầu là
vua sai làm dãy nhà dài ở sau điện Hoằng Nhân cho cung nhân ở để đợi mãn tang. Lê Văn
Duyệt xin theo di mệnh của Tiên đế, ai muốn về thì cho về. Vua (Thánh tổ) cho lời ấy là
phải, ra lệnh cấp cho mỗi người 2 năm lương."
(Đại Nam thực lục chính biên, quyển 2)
Bên cạnh đó, Nam triều không quá thắt chặt triệt để đối với cung tần, khi khám bệnh,
các ngự y vẫn có thể khám trực tiếp cho họ, miễn là vẫn có người như cung nữ hoặc yêm
nhân trông coi. Quan trọng nhất là, họ vẫn có thể được gặp thân quyến của mình, chứ không
bị bó buộc bởi đạo lý nhà Nho là “Hậu phi chỉ có thuộc về hoàng đế” như Trung Nguyên
hay Triều Tiên, như bà tiệp dư Lê thị, sinh mẫu của Tuy Lý vương Miên Trinh nhà Nguyễn,
được ghi lại đã đưa chị ruột vào cung, sai cung nữ săn sóc, bên cạnh đó còn lấy bổng lộc
của bản thân gửi cho nhà mẹ đẻ để đỡ đần. Mặc dù từ thời vua Thánh Tông nhà Lê đã có
những điều luật hạn chế hậu cung tiếp xúc với bên ngoài, nhưng vẫn chấp nhận trao đổi 13 lOMoARcPSD| 10435767
thư từ, qua đó thể hiện một phần thông cảm với nữ nhân của Nam triều dù tư tưởng vẫn
được thắt chặt chứ không buông hẳn.
Nhưng, do tư duy Minh Nho thâm nhập vào nước ta từ thời Lê-Nguyễn, nên các triều
đại này bắt đầu coi trọng trinh tiết của phụ nữ, và một mặt vẫn khá cay nghiệt và chưa thoải
mái với trường hợp tái giá dù vẫn có xảy ra. Trường hợp thể hiện suy nghĩ không nhất quán
này là hai câu thơ của Nguyễn Du trong bài “Dao vọng Càn Hải từ”, viết cảm nghĩ khi đi
ngang qua đền Càn Hải ở Nghệ An, nơi xác của Dương Thục phi triều Tống cùng nữ quyến
Tống triều dạt vào sau khi tự sát để giữ tròn tiết tháo lúc nhà Tống vong Quốc:
“Mặt nước mênh mông bể lẫn trời,
Ngôi đền thấp thoáng bãi ngoài khơi.
Bến phù chiều tới cây man mác, Cửa
bể thu dồn khói tả tơi.
Khanh tướng uổng bao lòng tiết nghĩa, Quỳnh
Nhai vùi khối thịt mồ côi.
Nực cười cho ả Minh Phi nhé,
Rượu chuốc đàn ngân nịnh chúa Hồ.”
(Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang)
Ở đây, Nguyễn Du tuy được coi là người được xem là có lòng thương cảm với nữ
nhân thông qua Truyện Kiều, nhưng cuối cùng khen ngợi Dương phi vì giữ trọn lòng trinh
với Tống đế nên tự sát, ngược lại khinh miệt nàng Minh Phi Chiêu Quân là cung tần Nguyên
đế, vì hòa bình của Hán triều mà nhẫn nhục gả theo Thiền vu Hồ tộc, làm mất tiết tháo với
vua Hán. Hay như nhận định của Ngô Thì Sĩ thời Lê về Lý Chiêu Hoàng trong “Việt Sử Tiêu Án”:
”Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta
truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu
Chiêu hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu hoàng mà đặt ra thuyết 14 lOMoARcPSD| 10435767
ấy. Bà Chiêu hoàng nhất sinh ra là người dâm, cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu
còn trinh tiết như lời người ta truyền lại”.
Ý của Ngô Thì Sĩ chính là phản bác lại thuyết Chiêu Hoàng giữ tiết tự sát trong dân
gian, ông cho rằng khi trước Chiêu hoàng sau khi bị phế thì chấp nhận tái giá với bề tôi là
Lê Phụ Trần, còn đâu là tiết hạnh của hậu phi chứ nào như lời đồn.
Trái ngược hẳn với Nam triều tuy theo Lý học nhưng vẫn có điểm thoáng, xã hội
Triều Tiên lại tôn sùng Lý học cực đoan, dẫn đến những sự phân biệt rất khắc nghiệt, thông
qua bộ phận Y nữ ta có thể nhận thấy được. Y nữ, tức những người đàn bà được khám bệnh
cho quan lại lẫn vương thất Triều Tiên, họ vốn thuộc tầng lớp tiện dân trong xã hội, thường
là con nhà nô nhiều đời hầu hạ cho quý tộc. Lý do mà họ bị xem thường đó là do Triều
Tiên coi trọng Lý học, hạn chế tối đa việc tiếp xúc nam nữ, vì vậy mà các y quan không
thể bắt mạch chữa bệnh ngọn ngành cho các vị quý nhân, và nhiệm vụ của họ chính là tiếp
xúc khám bệnh cho quý nhân trong chốn nội trạch, làm cầu nối trung gian cho y quan và
người bệnh, họ tiếp xúc cả nam lẫn nữ nên bị mặc định là mất phẩm giá. Tuy có thể học
được các kiến thức cao thâm, nhưng vì thân phận tiện dân lẫn bị xem nhẹ nên các y nữ này
không thể tự bốc thuốc như các ngự y nam, trừ những vấn đề về phụ khoa, và vì họ là con
gái của các gia nô, không đủ điều kiện học hành nên dù đào tạo từ nhỏ nhưng rất ít y nữ có
trình độ cao, và tuy rằng họ đã đóng góp, cống hiến rất lớn cho đời sống, y nữ vẫn bị so
sánh với hạng đĩ điếm dẫn tới hậu vận bạc phước, con đường tốt nhất cho họ là làm thiếp
cho quý tộc lưỡng ban, nhưng vì thân phận tiện dân nên con cái bị quy vào hàng Nghiệt tử
ngoài giá thú, hoàn toàn không tính là hậu duệ trong gia đình.
2.3. Vài điểm tích cực và hạn chế trong việc giới hạn vai trò người phụ nữ dẫn đến
tư tưởng “Nam quý nữ tiện” 2.3.1. Tích cực
Mặc dù bị đánh giá là hạn chế tự do của nữ giới, nhưng kỳ thực, bản thân việc này
cũng có một số mặt tích cực nhất định. 15 lOMoARcPSD| 10435767
Thứ nhất, việc giới hạn người phụ nữ chỉ chuyên tâm trong chốn nội trạch giúp họ
toàn tâm toàn ý săn sóc cho trên dưới cả gia tộc về mặt nội trị, giúp gia đình được yên ấm,
con cái được chăm lo chu đáo đầy đủ, căn cơ gia đình được vững thì cả xã hội mới theo lề
lối được. Thực chất, vai trò của nữ giới không kém phần quan trọng so với nam giới. Sự
đức độ, hiền huệ của phụ nữ có thể tạo ra thế hệ hậu duệ tài trí và lễ nghĩa, giúp cho nước
nhà thêm vững mạnh. “Liệt nữ truyện” phần Hiền minh, chép về các nhân vật tài trí có lời
bàn: “Duy bậc Hiền minh, liêm chính đúng cách, hành động có mực, nói là thành văn
cương, hiểu rõ sự lý, biết giềng mối trên đời, cư xử theo pháp độ, trọn đời không gặp tai
họa. Bậc hậu phi mà học theo ắt sẽ được tên tuổi rõ ràng".
Điều tiếp theo, tư duy “Nội tắc” giúp người phụ nữ biết giữ chuẩn mực, bổn phận,
không vì tư tâm tư lợi mà bỏ qua đại cục. Điều này thể hiện qua các lần Thái hậu lâm triều
xuyên suốt những triều đại Trung Nguyên, Hán, Đường, Tống là các triều đại có hơn hai
ngài nữ hậu thùy liêm, phò tá hoàng đế, chăm lo triều đường, dẫu vậy, tại sao duy các ngài
nữ chủ nhà Tống lại được tiếng hiền, được sử gia tán dương. Ấy là vì họ biết giữ tròn bổn
phận, khi hoàng đế đủ năng lực thì biết tự động hoàn chính, giao lại triều đường cho tự
quân, như các bà Từ Thánh Tào hậu cùng Tuyên Nhân Cao hậu không đề bạt gia tộc mình
lên cao, Chương Hiến Lưu hậu tuy án theo Tắc Thiên Võ hậu truy tôn vương hiệu cho tiên
tổ nhưng cũng ít đề cao con cháu nhà mình, vì vậy mà số năm nhiếp chính của họ tuy ít
nhưng họ vẫn được tiếng hiền. Trái ngược lại, thời Hán có nhiều vị nữ chủ nhất, nhưng đa
phần không ai được tiếng hiền, thậm chí còn bị chỉ trích, tiêu biểu như Hiếu Cao hoàng hậu
Lữ thị trứ danh của Cao tổ Lưu Bang, độc bá triều chính suốt tám năm, mặc dù Sử ký nhận
định: “Thời kỳ Hiếu Huệ hoàng đế cùng Cao hậu, bá tánh thoát khỏi cái khổ binh đao loạn
lạc của thời trước, vua tôi đều cùng dân chúng nghỉ ngơi. Huệ đế rũ áo để trị, Cao hậu thân
là nữ chủ xưng chế, chính sự không lan ra khỏi cung đình, thiên hạ được yên vui. Lại ít
dùng hình phạt, giặc giã khan hiếm, vụ mùa tốt tươi, ăn mặc no đủ”. Dù vậy, bà vẫn bị chỉ
trích vì tàn bạo nhẫn tâm, với kẻ thù thì áp dụng thủ đoạn độc ác hèn hạ, mà về già lại
trọng dụng đám con cháu họ Lữ, phong vương phạm vào tối kỵ Hán triều, suýt chút khiến
cơ đồ nhà Hán bại vong, mà dòng họ Lữ sau khi hậu mất cũng gặp họa diệt tộc. 16 lOMoARcPSD| 10435767 17 lOMoARcPSD| 10435767
Nhà Đường có Tắc Thiên Võ hậu, cùng Lữ hậu xưng thành “Lữ Võ”, tuy bản thân
xưng đế, làm gián đoạn nhà Đường, vẫn hậu đãi trọng dụng người trong gia tộc mình,
nhưng bên cạnh đó bà vẫn ưu ái nhiều nhân tài khác, điển hình như Địch Nhân Kiệt, hơn
nữa lại biết thu phục nhân tài, kẻ nào không có năng lực thì tự động bãi chức, vì vậy người
tài trong thiên hạ đều có cơ hội được cất nhắc. 2.3.2. Hạn chế
Dù là việc hạn chế vai trò nữ giới và hướng phụ nữ noi theo những chuẩn mực đích
thực có vài mặt tích cực, nhưng cũng có nhiều vấn đề hạn chế vẫn tồn tại từ xã hội cổ cho đến hiện nay.
Đầu tiên là một vài hạn chế về các chuẩn mực giới, đưa ra vai trò tiêu cực để áp đặt
rằng người phụ nữ luôn thấp hơn đàn ông, bị coi thường, giới hạn vai trò ở trong chốn nội
trạch, ngược lại với người đàn ông thường vỗ ngực tự hào và được coi trọng hơn, điển hình
là sự việc của Tư thải Trần Thụy Trinh thời nhà Minh Thái tổ. Trần thị năm 20 tuổi nhập
cung, nhờ vào tài năng mà được tiến đến chức Tư thải thuộc Thượng Cung cục, được hoàng
gia khen ngợi, nhà họ Trần nhờ thị mà được liên hôn với danh gia vọng tộc, có được bổng
lộc lớn và miễn trừ các thuế dịch, mà bản thân thị cũng được cúng bái, dựng Từ đường
riêng như tổ tiên của dòng tộc. Nhưng đến thời Minh Thế tông, con cháu xét thấy Trần thị
là nữ nhân không cần phải quá đề cao nên đem bài vị ra Từ đường của cha bà thờ phụ, từ
một người đem lại vinh quang cho gia tộc, cuối cùng vì là phận nữ mà bị đối đãi thiệt thòi.
Tiếp theo là sự hạn chế về mặt phát triển và sự trưởng thành là khi người phụ nữ tin
vào những áp đặt trên thì họ trở nên cảm thấy tự ti, luôn nghĩ rằng nhiệm vụ của bản thân
cùng hành vi chỉ được giới hạn ở mức độ nào đó và chỉ nên ở nhà nuôi con cái. Bên cạnh
đó họ nghĩ rằng những việc lớn lao chỉ có người đàn ông mới làm được, thậm chí là coi
thường năng lực bản thân. Như những nữ nhạc, nhạc kỹ, mặc dù họ có tài ca nhạc, bản thân
họ cũng vẫn có người “bán nghệ chứ không bán thân”, nhưng vì định kiến áp đặt lên nên
họ cũng dần chấp nhận sự hèn mọn mà người khác quan niệm, gán ghép cho.
Chưa kể đến là có những trường hợp vì những chuẩn mực về hành vi, trinh tiết này
mà người phụ nữ phải chịu khổ sở thậm chí là vong mạng. Như nàng Bá Cơ, con gái của 18 lOMoARcPSD| 10435767
Lỗ Tuyên công, vợ góa của Tống Cung công, đến đời Cảnh công, cung thất của bà bị cháy
nhưng bà nhất quyết không chạy ra do lễ giáo quy định, phụ nữ khi ra ngoài phải có bảo
mẫu, phó mẫu đi cùng, giờ nếu họ chưa tới thì thà giữ lễ mà chết còn hơn thất lễ mà sống,
cuối cùng chết trong biển lửa. Hay như Trinh Khương, vợ Sở Chiêu vương, khi Chiêu
vương đi du ngoạn, bèn để Trinh Khương lại ở cái đài trên sông, nhưng không may nước
sông dâng cao, vương liền sai người rước bà nhưng họ quên mang tín vật làm tin, vì không
thấy tín vật của vương nên kiên quyết giữ tiết, sống chết cũng không đi, đến khi sứ giả
mang tín vật tới thì phu nhân đã bị nước sông dìm chết đuối.
Và cuối cùng là hạn chế về mặt tiếng nói trong gia đình. Phụ nữ chỉ được nói khi được
cho phép. Trong tất cả các vấn đề gia đình, quyền quyết định chung quy vẫn do cha, chồng
hoặc con trai trong nhà đưa ra, vợ và con gái chỉ có thể nghe mà không thể bàn bạc hoặc
đóng góp ý kiến. Ví như trong hoàng gia, vai trò của hoàng hậu đến thời MinhThanh chỉ
còn là ở hình thức lễ nghi tế tự, căn bản chuyện quyết định nhân số,... đều thuộc về các cơ
quan chuyên trách dưới sự điều hành của quân chủ, khi có sự vụ về nhân sự, nhiệm vụ của
các bà chỉ ở việc báo cáo cho hoàng đế định đoạt. Phần 3: Kết luận
Mặc dù Nho giáo là một triết học duy tâm, nhưng nó đặc biệt nhấn mạnh các giá trị
đạo đức. Ở những nội dung này, chúng vẫn có ý nghĩa nhân văn nhất định, vượt lên trên
những ràng buộc của đẳng cấp, giai cấp. Tuy nhiên việc thấu hiểu khác biệt ở mỗi thời đại
về các giáo lý của Nho giáo trong việc tề gia đã duy trì một nhận thức sai lầm về Nho giáo
là “trọng nam khinh nữ”, coi thường thân phận phụ nữ. Bằng những cách đánh giá lại cụm
từ trên lẫn các lý giải trong bối cảnh văn hóa và lịch sử hàng ngàn năm về trước thì rõ ràng
là mục đích của Nho giáo chung quy vẫn là tìm cách thiết lập sự hài hòa và cân bằng giữa
các giới tính và giai tầng khác nhau, nhưng nhiều người lại dựa vào các kẽ hở trong tư
tưởng mà làm điều trái quấy, coi thường kẻ dưới, đặc biệt là coi phụ nữ làm vật sở hữu,
làm xấu đi hình ảnh trật tự mà Nho giáo muốn đề ra. Vì vậy chung quy lại, Nho giáo chỉ 19 lOMoARcPSD| 10435767
nêu ra các đức tính và trách nhiệm cần có của nam nữ trong thời đại ấy, và việc tiếp thu,
chọn lọc những đức tính tốt và kế thừa nó là nhiệm vụ của các thế hệ khác nhau. Khi chúng
ta tiếp tục phát triển với tư cách là một xã hội, điều cần thiết là thúc đẩy sự hiểu biết nhiều
sắc thái, góc cạnh hơn về Nho giáo và chọn lọc có suy ngẫm, không dung nạp những thói
xấu, hạn chế, nên đúc kết lựa chọn chứ không nên hoàn toàn phán xét đúng hay sai dựa
trên bối cảnh văn hóa hoàn toàn khác nhau ở mỗi thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trọng nam khinh nữ - nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình. (2020, September 28).
From http://hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/104326/trong-nam-khinh-nunguyen-
nhan-sau-xa-cua-bao-luc-gia-dinh
Trọng nam khinh nữ - Một tư tưởng lạc hậu cần được thay đổi. (2015, December 24). From
https://hoanhap.vn/chi-tiet/trong_nam_khinh_nu___mot_tu_tuong_lac_hau_can_duoc_th ay_doi.html
Vũ, H. (2021, December 1). Tư tưởng trọng nam khinh nữ là một tư tưởng lạc hậu cần bị
xóa bỏ. From https://benhvienvuquang.vn/tu-tuong-trong-namkhinh-
nu/#Tu_tuong_“trong_nam_khinh_nu”_la_gi
Ngăn chặn và xóa bỏ bất bình đẳng giới trong gia đình. (2013, March 13). From
https://nhandan.vn/ngan-chan-va-xoa-bo-bat-binh-dang-gioi-trong-gia- dinhpost570824.html
Tại sao tư tưởng trọng nam khinh nữ gây hậu quả xấu cho xã hội hiện nay? (2022,
October 24). From https://voh.com.vn/song-dep/trong-nam-khinh-nu-452995.html Lễ ký, phần Nội tắc
Liệt Nữ truyện, Quyển 5: Tiết nghĩa truyện, Lưu Hướng
Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ 20 lOMoARcPSD| 10435767
Nguyễn Thánh tổ Tiệp dư Lê Thị Ái bia ký hành trạng Trịnh gia chính phả
Tư trị thông giám, Tư Mã Quang
Hậu Hán thư, Phạm Diệp 21