Tiểu luận "Đặc điểm làng người Việt truyền thống và những biến đổi văn hóa làng trong giai đoạn hiện nay"

Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam với đề tài: "Đặc điểm làng người Việt truyền thống và những biến đổi văn hóa làng trong giai đoạn hiện nay" của Học viện Báo chí và Tuyên truyềngiúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

lOMoARcPSD|3 7752136
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: SỞ N HOÁ VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG NHỮNG
BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Họ tên: Trịnh Yến Vi
sinh viên: 2052020046
Lớp: XDĐ K40
Nội, 2022
lOMoARcPSD|3 7752136
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA H CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUYÊN TRUYỀN
Ï & Ò
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: SỞ N HOÁ VIỆT NAM
ĐỀ I:
ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG NHỮNG
BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Họ tên: Trịnh Yến Vi
sinh viên: 2052020046
Lớp: XDĐ K40
Nội, 2022
lOMoARcPSD|3 7752136
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...........................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu…..........................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu….........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu…................................................................. 4
PHẦN 2: NỘI DUNG.......................................................................................5
1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống…..........................................5
2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay….........................7
3. Những hạn chế của làng người Việt..................................................14
4. Những giải pháp phát triển làng người Việt.....................................15
PHẦN 3: KẾT LUẬN....................................................................................16
Tài liệu tham khảo…......................................................................................25
lOMoARcPSD|3 7752136
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kế thừa phát huy bản sắc văn hoá ng truyền thống đang trở thành
vấn đ quan tâm của c cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu quản lý
văn hoá; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn h làng ,vùng đồng bằng ven biển. Văn
hoá làng một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; nền tảng
sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.
2. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống lại các thành quả của điều tra hội học, của các công trình
nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể v bản sắc
văn h dân tộc của làng để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tìm hiểu.
Trên sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy hiệu quả, có
chất lượng việc xây dựng làng văn hoá hiện nay, góp phần bảo tồn phát
huy bản sắc n h dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá
VIII) của Đảng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ thực tiễn chỉ ra những ưu điểm nhược điểm, nghiên cứu cơ sở
luận về làng , văn hoá làng những đặc điểm Văn hoá làng để tìm ra những
giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hoá làng tốt đẹp.
4. Phương pháp nghiên cứu
+Phương pháp thu thập thông tin: khảo sát, lập bảng hỏi, đọc tài liệu,…
+Phương pháp phân tích tổng hợp.
+Phương pháp lịch sử phương pháp logic.
+Phương pháp x thông tin.
lOMoARcPSD|3 7752136
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống:
Làng nơi từ bao đời nay dân người Việt trú, lao động, sản xuất
tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Văn hóa làng đã đi vào ức
người Việt với những giá trị vật chất tinh thần rất gần gũi, thân thương.
Sự hình thành làng gắn với việc phát triển của sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt nông nghiệp lúa nước. Bởi khi con người sống du canh du t
xóm làng chưa thể ra đời. Xét về phương diện hội t con người chuyển từ
quan hệ huyết thống sang quan hệ láng giềng- địa vực, đây chính nguyên
tắc bản hình thành nên làng Việt Nam. thế giáo Trần Quốc Vượng
đã khẳng định: “Trong quá khứ thậm chí đến gần đây văn minh- văn hiến
Việt Nam vẫn thuộc phạm t văn minh lúa nước, văn hóa Việt Nam văn
hóa xóm làng”.
Hai đặc trưng bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng truyền
thống Việt Nam chính là: tính cộng đồng tính tự trị. Biểu tượng truyền
thống của tính cộng đồng sân đình, bến nước, cây đa. Bất cứ làng nào cũng
một ngôi đình bởi đó trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc
quan trọng như hội họp, bàn việc làng, việc nước, thu sưu thuế. Sau đó, đình
làng một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, biểu diễn chèo,
tuồng hay ăn uống… Nhưng quan trọng nhất đình làng chính trung tâm về
tôn giáo, tâm linh. Thế đình, hướng đình được xem yếu tố quyết định đến
vận mệnh của cả làng. cuối cùng đình làng trung tâm tình cảm, nói đến
làng người ta nghĩ ngay đến ngôi đình với nhiều tình cảm gắn thân thương
nhất:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (tư tưởng Nho gia), đình
làng từ chỗ nơi tập trung của tất cả mọi người dần chỉ nơi lui tới của
lOMoARcPSD|3 7752136
cánh đàn ông. Khi bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ thường quần tụ nơi bến nước
(những làng không sông thì giếng nước), nơi hằng ngày chị em thường gặp
nhau chuyện trò, giặt giũ. Ngoài ra còn cây đa cổ thụ nằm đầu làng, dưới
gốc đa một miếu thờ, đó nơi hội tụ của thần thánh, “sợ thần sợ cả cây
đa”. Cây đa gắn liền với quán nước, nơi nghỉ chân, gặp gỡ những người
làm đồng, khách qua đường. Do vậy gốc đa trở thành cánh cửa liên kết làng
với thế giới bên ngoài.
Biểu tượng truyền thống của tính t trị lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh
làng trở thành một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre một
đặc điểm quan trọng làm cho xóm làng khác biệt hẳn ấp Trung Hoa,
thành quất bằng đất bao bọc.
Chính văn hóa làng đã tạo nên những đặc trưng văn hóa, những đức
tính tốt đẹp của người Việt Nam. Từ quan hệ ng giềng “bán bà con xa, mua
láng giềng gần” nên người Việt truyền thống đoàn kết, gắn yêu thương
xóm làng. Tình yêu xóm làng, quê hương được đẩy lên cao tình yêu quốc
gia, đất nước. Cặp đôi làng- nước cặp khái niệm thường trực trong duy
đời sống của người Việt. Công cuộc chống giặc ngoại xâm đòi hỏi phải
tinh thần đoàn kết toàn dân lòng yêu nước. Hai điều kiện này sản phẩm
sẵn của tính cộng đồng tính tự trị làng xã. Khởi nguồn từ cuộc sống
nông nghiệp, tính cộng đồng của mọi người trong làng đã chuyển thành ý
thức cộng đồng trong phạm vi quốc gia “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người
trong một nước phải thương nhau cùng”.
Tính cộng đồng trong phạm vi làng sở tạo nên tính đồng nhất
trong hàng loạt lĩnh vực như đồng tộc, đồng niên, đồng hương, đồng nghiệp
tất yếu dẫn đến sự đồng nhất trong phạm vi quốc gia: Đồng o (sinh ra từ
một bọc trứng). Tính đồng nhất (cùng hội, cùng cảnh ngộ) đã giúp cho người
Việt tính đoàn kết, gắn rất cao, luôn yêu thương, giúp đỡ nhau, coi
người trong cộng đồng như anh em trong nhà.
lOMoARcPSD|3 7752136
Truyền thống văn hóa nông nghiệp trọng tình, trọng văn, trọng đức nên
trong hội kẻ (văn sĩ) được coi trọng, đứng đầu danh mục các nghề trong
hội: sĩ, nông, công, thương. Nông dân tuy đứng hàng thứ hai nhưng suy
cho cùng vẫn nghề bản nuôi sống t thức, nuôi sống cả cộng đồng
kiến tạo nên truyền thống văn hóa nông nghiệp.
Văn hóa làng lấy hương ước, luận hội điều chỉnh hành vi đạo
đức con người. Do đó, nạn bạo hành, bạo lực trong gia đình, dòng họ, ng
rất hiếm xảy ra.
Hương ước là biểu hiện cụ thể của văn hóa làng xã nhằm p phần quan
trọng vào việc củng cố tính cộng đồng làng c thành viên trong làng
với nhiều đức tính truyền thống q báu. Hương ước của làng thường nêu
ra các mục tiêu chế định ràng như: mọi người phải ăn hòa thuận, giữ
đúng đạo hiếu, gìn giữ tình làng nghĩa m…; quy định các biện pháp cứu
trợ, tương trợ, xây dựng quỹ hương. Từ ý thức trách nhiệm đối với cộng
đồng làm cho người nông dân ý thức dân chủ làng xã. Mọi thành viên
trong làng đều quyền lợi (vật chất, đất công, tinh thần) giống nhau nên
phải trách nhiệm nghĩa vụ đối với xóm làng. Khi vi phạm điều cấm, đất
công đều bị lên án phải bồi thường thiệt hại. Nếu chức sắc vi phạm nặng
thì bị cách chức. Điều này giúp ngăn chặn bớt sự lũng đoạn, sách nhiễu của
các chức sắc trong ng, giữ sự ổn định một cách tương đối. Hương ước chú
trọng đến công tác sản xuất nông nghiệp, việc bảo vệ, xây dựng các công
trình công cộng; quy định về trật tự làng xóm, quy định khuyến khích tinh
thần hiếu học (chế độ học điền); ruộng đất giành cho học trò nghèo học giỏi.
2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay:
Văn hóa làng hình thái văn hóa đặc biệt, gắn liền với các làng t cổ
truyền nông thôn của người Việt, bao gồm tổng thể các giá trị vật chất và
tinh thần (phong tục, tập quán, lối sống, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo...)
do cộng đồng dân cư các làng quê sáng tạo ra, được biểu hiện trong xóm
lOMoARcPSD|3 7752136
làng hay được đặc trưng bằng kết cấu xóm làng (1). Theo học giả Trần Quốc
Vượng: “Văn hóa Việt Nam cổ truyền về bản chất một nền văn hóa xóm
làng” (2). Còn nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn nhấn mạnh: Văn hóa làng có
nội dung cực kỳ phong phú. Nhiều khi làng đã giải thể nhưng văn hóa làng thì
vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài” (3). Thực tế, các yếu tố, bộ phận trong văn hóa
làng không tồn tại riêng biệt mà hòa quyện vào nhau tạo nên bản sắc, đặc
trưng của cộng đồng làng; đồng thời văn hóa làng luôn vận động phát
triển, các thế hệ kế tiếp luôn ý thức sáng tạo, phát huy vốn văn hóa cổ
truyền để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Biến đổi văn hóa làng thể được hiểu những sự vận động, thay đổi
của bức tranh văn hóa làng nói chung cũng như sự biến đổi của các thành tố,
phương diện trong chỉnh thể đời sống văn hóa của cộng đồng dân làng. Quá
trình này diễn ra thể do những tác động của các nhân tố n kinh tế, chính
trị, hội… hoặc kết quả của vận động tự thân của văn hóa. Trong bối
cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng u rộng, nhanh chóng như
hiện nay, khi một phần đáng kể diện tích đất canh tác nông nghiệp nhiều
vùng nông thôn chuyển sang phục vụ cho việc xây dựng các nhà máy,
nghiệp, khu đô thị, khu dân mới… những biến đổi trong bức tranh văn hóa
của cộng đồng làng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Đó sự thay đổi t lối sống,
cách sinh hoạt, sáng tạo văn hóa, đến cách duy, nếp nghĩ, hệ g trị, các
phong tục tập quán… Một quá trình chuyển đổi cấu văn hóa tinh thần đang
diễn ra do những biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế, hội, với xu hướng
tiếp biến, đan xen giữa các yếu tố mới, nông nghiệp công nghiệp,
truyền thống hiện đại…
Biến đổi văn hóa làng do tác động ảnh hưởng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xu hướng mang tính quy luật trong sự vận động,
phát triển của văn hóa. Quá trình này diễn ra khi sự tác động của môi
trường sống thay đổi, dẫn đến ý thức văn hóa tộc người cũng dần biến đổi cho
phù hợp với cuộc sống hiện hữu. Đó kết quả của sự tiếp biến văn hóa một
lOMoARcPSD|3 7752136
cách tự nguyện, tự giác do vai trò tự điều chỉnh văn hóa của mỗi nhân, mỗi
nhóm người trong cuộc sống cộng cư của họ để cùng thích ứng với hội
hiện hữu.
Quá trình biến đổi văn hóa các làng quê sản phẩm tất yếu của tiến
trình hiện đại hóa nên nhìn chung tác động tích cực, đem lại sự tiến bộ
trong đời sống hội nói chung cũng n với phát triển văn hóa khu vực
nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, quá trình này cho thấy nhiều vấn đ phức tạp
nảy sinh, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống hội văn hóa của cộng đồng
làng: lối sống thực dụng, đôi khi đề cao thái quá các giá trị vật chất, nguy
mai một những giá trị truyền thống tốt đẹp, nạn ô nhiễm môi trường, an ninh
trật tự… cần được quan tâm.
Những biến đổi bản của văn hóa làng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
ta trong đó việc chuyển một phần đáng kể diện tích đất canh tác sang phục
vụ các mục tiêu phi nông nghiệp đã đưa tới những biến đổi mạnh mẽ trong
cấu nghề nghiệp nhiều vùng nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, tính trong giai đoạn 2009-2019, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số
lao động hội nước ta giảm từ 53,9% xuống còn 35,3% (4). Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cũng đưa đến những biến đổi căn bản trong đời sống hội
nhiều làng quê khi một bộ phận người dân không còn đ đất canh tác, phải
tìm đến các khu công nghiệp, khu đô thị để kiếm việc làm; ngược lại, những
nơi khu ng nghiệp hay cận khu công nghiệp… do nhu cầu lao động nên
ngoài dân gốc của làng đã xuất hiện thêm nhiều thành phần dân khác khiến
cho cấu dân của làng biến đổi theo hướng linh hoạt, mở hơn chứ không
mang tính cố định, đóng kín n trước kia (5).
Những biến đổi trong cấu kinh tế đời sống xã hội của người dân
các làng q tiền đề đưa tới những thay đổi trong đời sống văn hóa của
cộng đồng làng. Điều này thể hiện thu nhập mức sống của người nông
dân được nâng lên, đi cùng với điều kiện hạ tầng ngày càng được cải thiện đã
lOMoARcPSD|3 7752136
phá vỡ tính khép kín của các làng, đồng thời thúc đẩy sự giao u, tiếp biến v
văn hóa. Mặt khác, thể hiện xu hướng đa dạng hóa c thành phần, tầng lớp
dân tạo thành chất xúc tác giúp mở rộng, nâng cao trình độ dân trí, hội
giáo dục tiếp cận thông tin… cho người dân vùng nông thôn. Tuy nhiên,
bên cạnh tác động ảnh hưởng tích cực, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng cho thấy những hiệu ứng không mong muốn đối với đời sống hội
văn hóa của cộng đồng dân các làng quê hiện nay: việc sử dụng đất
nông nghiệp tùy tiện, lãng phí nhiều nơi dẫn tới tình trạng thừa lao động,
gây khó khăn cho sản xuất đời sống của một bộ phận người dân; tình trạng
san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng s yếu kém trong xử nước
thải, rác thải... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn đời sống, sức khỏe của nông dân (6).
Ngoài ra, thể thấy, nhiều làng quê, mặc bắt nhịp được với q trình
chuyển đổi, nhưng với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân
trong làng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an
toàn hội...
Thực tiễn cho thấy, quá trình biến đổi văn hóa làng diễn ra tập trung
một số phương diện bản sau:
Biến đổi không gian làng: Làng quê xưa, nhất các làng vùng châu
thổ Bắc Bộ, với đặc trưng không gian tương đối khép kín, lũy tre làng bao
quanh được xem như ranh giới giữa không gian trú không gian sản xuất
của làng. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với s thu
hẹp đáng kể của diện tích đất nông nghiệp đã làm không gian cảnh quan các
làng quê biến đổi rệt. Bên cạnh không gian t truyền thống được định
vị theo các xóm, ngõ những những hình thức tập trung dân mới theo
nghề nghiệp: những xóm mới, phố - làng mới… khiến cho không gian trú
không gian sản xuất các làng hiện nay gắn chặt chẽ với nhau, không
phân biệt ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng vai t quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp sinh hoạt của người nông dân xưa hiện
lOMoARcPSD|3 7752136
cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như
nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các công trình như trường học, n văn hóa,
sân chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao
thông quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị.
Nhìn chung, không gian cảnh quan các làng quê hiện đại đã không còn khép
kín ngày càng trở nên mở, linh hoạt hơn…
Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã: Gia đình, họ hàng, làng
những thiết chế xã hội - văn hóa đặc trưng các làng quê, thể hiện tập
trung tiêu biểu những đặc tính trong đời sống hội của cộng đồng làng.
Cùng với những tác động ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng những mối quan hệ hội liên
quan các ng quê hiện nay cũng đang chứng kiến những đổi thay nét.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, sợi dây gắn kết giữa các thế hệ, thành
viên trong gia đình nông thôn hiện nay đang chiều hướng suy giảm. Sự đa
dạng hóa khác biệt về lao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu
tiên riêng của các thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành
viên trong gia đình ngày càng ít đi (7). Bên cạnh sự gắn kết gia đình, mối
quan hệ họ hàng, làng - mạng lưới liên kết đặc trưng cho lối sống cộng
đồng, cũng đang chứng kiến s suy giảm đáng k do tác động ảnh hưởng
của những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự gắn bó, tương trợ lẫn
nhau giữa các thành viên, gia đình trong họ tộc, hàng xóm láng giềng, nhất
mỗi khi công việc quan trọng như tang ma, cưới xin… tuy vẫn được coi
trọng, duy trì nhưng không còn đóng vai trò nhân tố thiết yếu như trước
đây.
Trong bối cảnh kinh tế - hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động
nghề nghiệp, việc làm khiến cho nhiều người trở nên bận rộn với công việc
riêng, ít thời gian rảnh rỗi đ qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia… Bên cạnh
đó, khi đời sống vật chất không ngừng được nâng lên, s xuất hiện của những
ngôi nhà kiên cố, “kín cổng cao tường” ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt
lOMoARcPSD|3 7752136
động gặp gỡ, trò chuyện giữa những người hàng xóm láng giềng bị hạn chế.
Điều đó góp phần làm cho nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi, thân
tình trước kia, nay dần trở nên xa cách hơn. Ngoài ra, lối sống thói quen
tiêu dùng đô thị với mạng lưới dịch v ngày càng được mở rộng, phát triển
các làng quê hiện nay khiến cho nhiều người thói quen sử dụng các dịch
vụ, tiện ích sẵn mỗi khi công việc thay tìm kiếm sự giúp đỡ hỗ trợ
từ họ hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc,
ràng buộc của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những
người hàng xóm láng giềng xu hướng suy giảm.
Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội các phong tục tập quán: Đời sống
kinh tế ngày càng khởi sắc, người dân các làng quê điều kiện quan tâm
hơn đến việc bảo tồn, giữ gìn các di tích cũng n phục dựng các lễ tiết, lễ
hội của làng. Các di tích được đầu nhiều tiền của, công sức tu bổ, làm mới,
được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng
đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất lễ hội cổ truyền được tiếp
nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức
nhân lực tham gia không ngừng được tăng cường, hội hóa. Bên cạnh các
nghi lễ, t vui truyền thống, lễ hội làng cũng được b sung nhiều hoạt động
mới mang hơi thở cuộc sống đương đại, các trò chơi giải trí, hoạt động thể
dục thể thao, văn nghệ đặc sắc. ng với nỗ lực tiếp nối bảo lưu giá trị, ý
nghĩa của lễ hội làng, người dân các làng quê cũng đang ngày càng xu
hướng trở lại với những thực hành tín ngưỡng truyền thống khi điều kiện kinh
tế, đời sống vật chất có bước tiến đáng kể so với trước đây (8).
Các phong tục tập quán, lối sống của người dân làng q sự biến đổi
nét khi tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm ng
với đó là xu hướng đa dạng hóa trong cấu nghề nghiệp, việc làm. Một bộ
phận dân đã chuyển hẳn sang các hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm
dịch vụ, làm công nhân trong các khu công nghiệp… khiến cho nhịp sống, lối
sống của dân làng cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn; việc tuân thủ giờ
lOMoARcPSD|3 7752136
giấc được chú trọng với tác phong nhanh nhẹn, năng động. Cùng với sự mở
rộng, phát triển của mạng lưới dịch vụ, người dân c làng quê ngày càng
trở nên quen thuộc với kiểu duy cần là thể mua chứ không phải chạy
sang hàng xóm vay, mượn n trước kia; đi cùng với đó lối sống gắn với
sự nhanh nhạy bình đẳng của thị trường. Chính lẽ đó, bên cạnh lối sống
nghĩa tình vẫn được duy trì, xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ,
thị trường, coi trọng sự minh bạch, sòng phẳng. Nhìn chung bức tranh lối
sống nhiều làng quê hiện nay sự pha trộn, đan xen giữa nông nghiệp
công nghiệp, truyền thống hiện đại, nông thôn đô thị.
Các phong tục tập quán những yếu tố vốn tính ổn định, bền vững,
tuy nhiên cũng đang nhiều biến đổi do tác động của q trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhìn chung các phong tục tập quán truyền thống như ma
chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được coi trọng, tiếp nối truyền thống, nhưng
đã sự cải biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng n
những nghi lễ phức tạp, rườm đ phù hợp với nhịp sống, lối sống công
nghiệp, đô thị (9). Việc lựa chọn, sử dụng các loại hình dịch vụ thay trông
cậy vào sự trợ giúp của họ hàng, xóm giềng của người dân các hộ gia đình
mỗi khi công việc cũng xu hướng gia tăng. Những sự thay đổi đó dựa
trên nền tảng đời sống kinh tế ngày càng sung túc, dồi dào hơn, cũng như sự
gần gũi, giao thoa của các làng quê với khu vực đô thị, làm nên tính chất đan
xen văn hóa làng - phố rất đặc trưng nhiều làng quê Việt Nam hiện nay.
Những biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin giải t: Đi cùng
những đổi thay mạnh mẽ sâu sắc của đời sống kinh tế - hội, nhu cầu
các hoạt động, phương thức trao đổi thông tin, giải trí của người dân làng
quê cũng không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa. Bên cạnh các hoạt động
văn a quần chúng, hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng
thôn xóm, h thống thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa
dạng của người dân, hệ thống tiếp cận thông tin trong các gia đình cũng ngày
càng được mở rộng, hiện đại hóa với những phương tiện nghe nhìn hiện đại:
lOMoARcPSD|3 7752136
tivi, radio, điện thoại, máy vi tính kết nối internet... Nhiều kết quả khảo sát
cho thấy, tỷ lệ người tiêu dùng nông thôn sử dụng các sản phẩm công nghệ
dịch vụ kỹ thuật số kết nối internet đạt trên 90% và vẫn đang xu hướng
gia tăng (10). Bên cạnh các hoạt động giải trí, việc chăm sóc sức khỏe, hưởng
thụ cuộc sống của người dân cũng ngày càng được quan tâm hơn. Nhiều hoạt
động, loại hình câu lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao xuất hiện, thu
hút sự tham gia đông đảo của người dân tùy theo sự p hợp về s thích, nghề
nghiệp, lứa tuổi...; mức độ tin tưởng tham gia của người dân vào các tổ
chức, hội nhóm không ngừng tăng lên (11). Bên cạnh đó, những hình thức
giải trí, sử dụng thời gian nhàn rỗi vốn thường thấy các dân đô thị như
mua sắm, tham quan, du lịch… cũng xuất hiện ngày càng phổ biến trong
đời sống của cộng đồng dân các làng quê.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, kéo theo nhiều thay đổi trong đời sống văn hóa của người n khu
vực này. Trong thời gian tới, sự vận động, biến đổi này diễn ra ngày càng
phức tạp, đòi hỏi cần hệ thống chính sách can thiệp phù hợp, nhằm phát
huy những ảnh hưởng, xu hướng biến đổi tích cực, đồng thời hạn chế những
tác động tiêu cực, hướng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ gìn
phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng làng
trong bối cảnh chuyển đổi.
3. Những hạn chế của làng người Việt:
Những hạn chế đó xuất phát từ những đặc trưng của văn a làng như
tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, thế ý thức con người, ý
chí nhân bị thủ tiêu, luôn hòa tan vào các mối quan hệ hội; giải quyết
xung đột theo hướng “hòa cả làng”. Tính đồng nhất dẫn đến thói dựa dẫm,
lại “nước nổi, bèo nổi” kéo theo tưởng cầu an, cả nể, sợ “rút dây động
rừng” nên thường chủ trương đóng cửa dạy nhau. Tiếp nữa thói cào bằng,
đố kỵ không muốn ai hơn mình (xấu đều hơn tốt lõi; khôn độc không bằng
lOMoARcPSD|3 7752136
ngốc đàn). Tính tự trị nhấn mạnh vào sự khác biệt do đó sinh ra hữu,
ích kỷ. nhà ai người ấy chống; ai thân thì lo, “của mình thì giữ bo bo,
của người t để cho ăn”; “Trai làng quá còn đông, cớ sao em lại lấy
chồng ngụ cư”…Tiếp nữa óc gia trưởng, tôn ty. Tính tôn ty, sản phẩm của
nguyên tắc tổ chức nông thôn thôn theo huyết thống tự thân không phải
xấu nhưng khi gắn với tính gia trưởng tạo nên tâm ý quyền huynh thế phụ, áp
đặt ý muốn của mình vào người khác; tạo nên thế lực “sống lâu ra lão
làng”…
Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính duy cuộc sống nông
nghiệp lúa nước lối sống trọng tình, suy biện chứng dẫn đến sự hình
thành nguyên âm dương lối ứng xử nước đôi. Người Việt vừa tính
đoàn kết, tương trợ lại vừa óc hữu, ích kỷ, cào bằng. Vừa tính tập thể
hòa đồng lại vừa óc phái địa phương. Vừa nếp sống dân chủ bình
đẳng, vừa tính gia trưởng, tôn ty. Vừa tính cần cù, t cung tự cấp, vừa
thói dựa dẫm, lại. Tùy nơi, tùy lúc điều kiện tốt xấu được bộc lộ. Khi
gian nan, khó khăn, nguy đe dọa sự sống t đoàn kết, gắn bó; khi nguy
qua rồi thì trở về với hữu, phái địa phương.
4. Những giải pháp phát triển làng người Việt:
Chính từ những hạn chế nêu trên nên hiện nay trong quá trình hội nhập
chúng ta phải thay đổi một ch triệt để trong duy trong hành động. Phát
huy những đặc tính nhân văn, nhân bản, bản sắc của văn hóa Việt, con người
Việt. Khắc phục những nhược điểm của tưởng sản xuất nhỏ, sẵn sàng hội
nhập, tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại. Văn hóa làng một lần nữa trở
thành thành trì, pháo đài bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Trên s tiếp thu
một cách chọn lọc, đào thải những yếu tố văn hóa trái với thuần phong mỹ
tục của dân tộc để đưa đất nước hội nhập sâu trong công cuộc xây dựng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD|3 7752136
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, làng Việt đang chuyển mình
những diện mạo mới. Đó thể sự đổi mới các nghề thủ công truyền
thống, sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế đó, vai t của sản xuất nông
nghiệp dần được thay thế bởi các hoạt động phi nông nghiệp, hay cấu trúc
hội đang từng bước bị thay thế bởi những hệ thống mới xuất phát từ ảnh
hưởng của quá trình đô thị hóa… Một biểu hiện nét nhất cho sự thay đổi
của làng Việt sự mất đi của những di sản truyền thống những g trị cốt
lõi của làng được tích tụ, lưu truyền từ hàng trăm năm qua. Bảo tồn các g trị
truyền thống của làng Việt trong q trình phát triển thực sự một thách thức
lớn. Để tìm ra chìa khóa giải quyết vấn đề này, cần phân tích những vấn đề
cốt lõi chi phối sự tồn tại phát triển của làng Việt.
Làng trong tổ chức xã hội của người Việt. Làng đơn vị tụ truyền
thống lâu đời nông thôn Việt Nam, nơi bao đời nay người Việt trú, lao
động sản xuất tổ chức các hoạt động văn hóa tinh thần. Làng nơi cố kết
quan hệ dòng tộc, xóm giềng, hình thành nếp sống cộng đồng riêng có, tạo ra
văn hóa làng, một yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam.
Việt Nam, làng trở nên quan trọng gắn liền với mối liên kết cộng
đồng: ng họ, phe giáp, phường thợ. Làng cũng nơi tụ của một cộng
đồng về văn hóa hội với các phong tục, tập quán chặt chẽ, các g trị
chuẩn mực chung về sinh hoạt, lối sống, tâm lý, tưởng, đạo đức, phương
thức ứng x trong gia đình, cộng đồng cũng như phương thức ứng xử với tự
nhiên, môi trường sinh sống… Mỗi làng đều thờ một vị thần được tôn làm
Thành Hoàng làng, biểu trưng cho “sự thống nhất vận mệnh” của cả cộng
đồng, cai quản bảo vệ cho cuộc sống của tất cả mọi thành viên trong làng.
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, hội làng biểu hiện của tính toàn thể,
tính thống nhất, tính riêng biệt của cộng đồng làng.
lOMoARcPSD|3 7752136
Trong quá trình tồn tại của làng Việt, do ảnh hưởng của những tác động
từ bên ngoài hoặc do những nhu cầu biến đổi tự thân, làng luôn xu hướng
thay đổi chuyển hóa. thể nói không làng Việt bất biến chỉ làng
Việt biến đổi nhiều hay ít để thích nghi với những điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. thế không nên nhìn nhận làng Việt n một chế cố định,
lập bất biến phải coi làng Việt như một cấu trúc động luôn luôn chịu sự
tác động của các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, luôn luôn biến đổi,
chuyển hóa theo tiến trình lịch sử.
Làng Việt được nhận diện đánh giá bởi một hệ giá trị đa dạng, tổng
hòa, đã được tích tụ, lưu truyền trong suốt quá trình hình thành, tồn tại của nó.
Việc đó bắt nguồn từ việc nhận diện các giá trị của quá khứ tạo nên bản sắc,
đặc trưng của mỗi ngôi làng, đó hệ giá trị tổng hợp trong đó cấu trúc
không gian làng truyền thống, những công trình kiến trúc cảnh quan
cùng toàn bộ cuộc sống cộng đồng dân với mối quan hệ sinh thái bền
vững. Mỗi làng đều những đặc trưng riêng, phụ thuộc nhiều vào việc cải
tạo thích ứng với môi trường tự nhiên đó.
Bên cạnh việc lợi dụng các yếu tố, điều kiện thuận lợi của tự nhiên, thì
ngay từ xa xưa, các cộng đồng dân trong làng cũng luôn phải tìm cách
ứng phó thích nghi với những tác động bất lợi của tự nhiên (khí hậu, thời
tiết, gió bão, t lốc, lụt, hạn hán…) để bảo vệ sản xuất và cuộc sống của
chính họ. Trong quá trình ấy, các cộng đồng dân làng ngày càng tích lũy
kinh nghiệm để chung sống hài hòa tận dụng tốt hơn các điều kiện t
nhiên. Những tri thức đó cũng được ứng dụng vào các sinh hoạt xã hội, cộng
đồng các hoạt động khác như làm nhà, tổ chức không gian làng xóm, nghi
lễ… Đây chính những yếu tố tạo nên giá trị cho từng ngôi làng. Giá trị này
được ghi nhận, “kiểm chứng” sức sống trường tồn. chính mối quan
hệ mật thiết, hài hòa với tự nhiên trong sản xuất cũng như trong đời sống đã
lOMoARcPSD|3 7752136
tạo ra cho các cộng đồng dân những giá trị văn hóa, tinh thần hết sức
phong phú, sáng tạo. Thiên nhiên trở thành một phần trong đời sống văn a,
tinh thần, tín ngưỡng của con người. Sự gắn mật thiết với tự nhiên, tôn
trọng tự nhiên, vừa ứng phó vừa hòa hợp với tự nhiên để sinh tồn phát
triển một trong những triết làm điểm tựa cho sự tồn tại phát triển
của làng Việt.
Nhìn nhận góc độ khác, chính các không gian, kiến trúc làng truyền
thống do con người tạo nên trong quá trình thích nghi với tự nhiên lại tác
động lại tới con người, môi trường nuôi dưỡng, phát triển nhân cách, tạo ra
bản sắc của một cộng đồng sống trong môi trường đó. những bản sắc cộng
đồng hay còn gọi bản sắc vùng miền đó chính nhân tố quan trọng của
phát triển bền vững.
Những nguy phá vỡ hay làm mất mát các giá trị truyền thống. Sự
thay đổi mạnh mẽ trong quá trình phát triển tất yếu của làng đã mang lại
các tác động tích cực về đời sống kinh tế, sở hạ tầng hội và các giá trị
tinh thần theo xu hướng hội nhập. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng xuất hiện
những nguy phá vỡ cấu trúc và tác động tiêu cực tới g trị truyền thống
của làng từ nhiều góc độ khác nhau.
Tác động của xu thế “hiện đại hóa”, “đô thị hóa”, “toàn cầu hóa”
Văn hóa làng đã hình thành trong q trình lao động sản xuất sinh hoạt
văn hóa, xã hội của người dân với các giá trị vật chất như cấu trúc không
gian, h thống kiến trúc, đường làng, n xóm… g trị tinh thần như lệ
làng, hương ước, tín ngưỡng, lễ hội… đặc trưng riêng của mỗi làng. Mặc
văn hóa làng đã trở thành một phần bản sắc, nền móng của văn hóa Việt Nam,
nhưng nhu cầu đổi mới, phát triển hay xu thế hội nhập vẫn một quá trình tất
yếu, trong đó, các yếu tố của văn hóa công nghiệp văn hóa đô thị thể
chiếm ưu thế so với các yếu tố văn hóa truyền thống bản địa. Trong trường
lOMoARcPSD|3 7752136
hợp Việt Nam, đã những “đụng độ” nhất định trong việc hội nhập, bởi sự
trái ngược khá giữa văn hóa công nghiệp văn hóa làng (giữa tính
nguyên tắc, kỷ luật tính xuề xòa tùy tiện; giữa duy logic sự cảm tính;
giữa trọng với trọng tình…).
Tác động của các hoạt động phát triển kinh tế hội
Việc cải thiện, xây dựng “hiện đại hóa” các sở hạ tầng trong làng
truyền thống như thay thế đường gạch vỉa nghiêng bằng đường tông, xây
mới các kiến trúc cao tầng xen lẫn hay thay thế các ngôi nhà cổ, tông hóa
kiến trúc, “trẻ hóa” di tích, thu hẹp các không gian xanh, mặt nước… đã phá
vỡ cấu trúc cảnh quan không gian làng. Xây những ngôi n cao tầng kiểu
nhà phố khép kín với rất ít sân vườn, cây xanh, không chỉ lạc lõng trong
không gian làng, còn mất đi tính cộng đồng sự gắn bó hữu cơ với môi
trường thiên nhiên trong lối sống làng xã.
các ng nghề truyền thống, việc tổ chức sản xuất tập trung, khí hóa
các công đoạn trong quy trình sản xuất các sản phẩm thủ công đã làm thay đổi
khung cảnh sản xuất truyền thống, làm mất đi những giá trị đặc thù của các
sản phẩm, những giá trị văn hóa hiện hữu của làng. Bên cạnh đó, việc tập
kết vật liệu, xả chất thải sản xuất không được kiểm soát đã gây ảnh hưởng lớn
tới chất lượng môi trường của làng xã.
Tại những ngôi làng giàu bản sắc đã trở thành điểm đến của nhiều du
khách, các hoạt động dịch vụ du lịch tất yếu diễn ra một mặt yếu tố tích cực
để quảng văn hóa, tăng thu nhập của người dân phát triển kinh tế địa
phương, nhưng mặt khác cũng tạo ra nguy ảnh hưởng phá vỡ những
giá trị vốn của làng. Các s hạ tầng du lịch n đường giao thông mới,
nhà hàng, nơi lưu trú, bãi xe, nhà vệ sinh… đã đang xuất hiện nhanh
lOMoARcPSD|3 7752136
chóng, thiếu kiểm soát, đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến không gian, diện
mạo kiến trúc truyền thống của làng và giảm dần sức hút du khách.
Sự hạn chế trong nhận thức
Các giá trị truyền thống tốt đẹp của làng luôn được các tổ chức
trách nhiệm các nhà nghiên cứu đánh giá đầy đủ, trân trọng nỗ lực gìn
giữ, phát huy. Tuy nhiên, một số người dân chủ thể của văn hóa làng lại
không nhận thức đầy đ dẫn đến những hành vi tình xâm hại đến giá trị
truyền thống của chính nơi mình sinh sống. Lối sống thực dụng, chỉ chú trọng
lợi ích nhân hay lợi ích nhóm, dẫn đến các việc như: Lấn chiếm, xâm phạm
đất đai của di tích, xây dựng tùy tiện p vỡ cảnh quan làng, thương mại hóa
các hoạt động văn hóa tín ngưỡng, “buôn Thần bán Thánh” để trục lợi… vừa
tác động trực tiếp đến những yếu tố vật thể hiện hữu liên quan đến giá trị
truyền thống, vừa làm mất đi những hình ảnh, môi trường văn hóa tạo sắc thái
đặc trưng của làng.
Các hoạt động văn hóa truyền thống trong làng như lễ hội, sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo cũng nguy biến đổi, chuyển hóa nếu không nhận
thức đầy đủ. Những cách tổ chức chỉ nhằm mục đích kinh doanh, dịch vụ như
khoán thu, đấu thầu tổ chức lễ hội, không những không giữ được những giá
trị tinh thần cốt lõi còn làm thay đổi, biến dạng những hoạt động truyền
thống của địa phương theo hướng thế tục hóa. Kết quả giá trị truyền thống
bị suy giảm, sức hút đối với du khách cũng giảm sút theo.
Quản yếu kém, không kiểm soát được sự phát triển tùy tiện, tự phát
Sự yếu kém trong quản lý, sự phối hợp lỏng lẻo hay chồng chéo đều dẫn
đến nguy không kiểm soát được sự phát triển tự phát, tùy tiện của các
thể trong cộng đồng c g trị truyền thống dễ dàng bị p vỡ nhanh
lOMoARcPSD|3 7752136
chóng. Với mỗi loại hình làng khác nhau (làng nghề, làng khoa bảng, làng
ven sông, làng nội đô, làng cận đô…) cũng lại cần những chính sách,
phương thức, chiến lược, kế hoạch, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm,
tính chất, nét đặc trưng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế hội, phong tục, tập
quán của từng địa phương, thì mới giảm thiểu được những nguy thay đổi,
biến dạng những giá trị truyền thống vốn của làng.
Những nguy kể trên, mà thể vẫn còn nữa, hoàn toàn thể xảy ra
như những điều tất yếu trong sự tồn tại phát triển của làng hiện nay.
Vấn đề quan trọng nhận thức được những xu thế hiện hữu ấy để sự can
thiệp, điều chỉnh hợp sao cho vẫn duy trì được những giá trị truyền thống
tốt đẹp không cản trở sự phát triển của hội đương đại hướng tới
tương lai.
lOMoARcPSD|3 7752136
Bảo tồn những giá tr truyền thống của làng trong quá trình phát
triển. Sự tồn tại phát triển của làng luôn luôn như một dòng chảy không
ngừng nghỉ. Nhu cầu nâng cao chất lượng sống trong làng đòi hỏi tự nhiên
của một thể sống. Song nếu sự biến động tất yếu đó tạo ra nguy làm suy
giảm hay mất đi những giá trị tốt đẹp vốn của làng, thì cần s can thiệp
để chống lại xu hướng đó. Sẽ là phù hợp khi sự can thiệp ấy không đối kháng
với nhu cầu phát triển tự nhiên, không chặn đứng sự chuyển hóa tất yếu,
thiên về điều tiết để giải quyết mâu thuẫn giữa những đòi hỏi về bảo tồn
nhu cầu phát triển t nhiên. thể gọi phương thức đó “Bảo tồn giá trị
truyền thống trong sự phát triển” cách ứng xử thích hợp để duy trì những
giá trị truyền thống không ngăn cản sự phát triển. Quan điểm bản đây
không để mất mát những g trị truyền thống, nhưng cũng không cứng
hay đóng băng chúng tạo điều kiện để những g trị ấy thể được duy trì
trong sự cộng sinh với các nhân tố mới đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng
cuộc sống đương đại. Từ đó, các giá trị truyền thống sẽ “chung sống” với các
nhân tố được bổ sung tạo ra những giá trị mới các thế hệ tương lai lại
sứ mệnh bảo tồn chúng.
Để thể bảo tồn những giá trị của làng Việt trong sự phát triển, trước
hết cần sự nhận diện được những giá trị truyền thống căn bản, cái đã tạo nên
đặc trưng, bản sắc của mỗi ngôi làng, những tích lũy của các thế hệ trước về
lịch sử, văn hóa kiến trúc đ từ đó định ra cách tổ chức điều tiết sự phát
triển hợp lý. Những giá trị truyền thống của làng hiện diện trong một không
gian văn hóa kiến trúc của ng, bao gồm ba thành tố cấu trúc không gian,
diện mạo kiến trúc, cảnh quan các yếu tố năng động khác tạo ra bởi các
hoạt động trú, sinh hoạt, sản xuất. Nếu cấu trúc không gian làng được hình
thành từ đặc điểm vị trí, địa hình nhu cầu sống bản, thì diện mạo kiến
trúc, cảnh quan được tạo ra từ văn hóa, sở thích, ước muốn của cộng đồng,
còn các yếu tố năng động khác biểu hiện của những sự vận động để tồn tại
những nhu cầu đổi mới, phát triển. Cấu trúc không gian tạo ra hình dạng
lOMoARcPSD|3 7752136
bản của làng, diện mạo kiến trúc cảnh quan cùng với cấu trúc không gian
ấy tạo ra hình thái riêng khi các yếu tố năng động diễn ra trên nền cảnh ấy,
thì tất cả tạo nên sắc thái đặc trưng của mỗi ngôi làng ta vẫn gọi giá trị
truyền thống hay bản sắc của một vùng miền.
Phân tích tính chất của ba nhân t cấu thành không gian văn hóa kiến
trúc làng nêu trên, thể thấy cấu trúc không gian làng yếu tố tĩnh” (vì
bản không thay đổi), diện mạo kiến trúc cảnh quan yếu tố “tĩnh” “động”
(vì biến động mức đ nhất định) còn các hoạt động trong làng đương
nhiên yếu tố “động”. Nói một cách hình ảnh thì cấu trúc không gian
“nền”, diện mạo kiến trúc cảnh quan “khung” các yếu tố năng động
lớp “vỏ” bên ngoài. Trong q trình tồn tại phát triển, những xu hướng,
yếu tố mới xuất hiện nguy làm suy giảm hay phá vỡ g trị truyền thống
sẽ tác động vào thể làng bắt đầu từ phần “vỏ” hoặc chính phần “vỏ” ấy tự
thân biến đổi, làm lung lay phần “khung”, hay nếu mạnh hơn sẽ làm phần
“khung” mất ổn định dần dần tác động đến cái “nền” của không gian văn
hóa kiến trúc làng. Như vậy, nếu để mọi việc diễn ra một cách tùy tiện,
thiếu kiểm soát thì sẽ nguy không gian văn hóa kiến trúc làng các
giá trị truyền thống của làng sẽ bị phá vỡ. Diện mạo, sắc thái đặc trưng của
làng sẽ tan biến thay vào đó những bộ mặt mới, không “nền tảng”, thiếu
hồn cốt.
Bảo tồn những giá trị truyền thống của làng trong sự phát triển tiếp nối
cách “kháng cự” sức mạnh nhưng linh hoạt mềm mỏng. Trên sở
nhận diện định dạng chính xác, đầy đủ những yếu tố cấu thành không gian
văn hóa kiến trúc làng, những g trị đặc biệt, sắc thái đặc trưng tiêu biểu
của làng, từ đó sẽ bảo tồn gìn giữ những cấu trúc không gian cơ bản đã được
định hình một cách hợp ổn định theo lịch sử yếu tố “tĩnh”; duy trì
điều chỉnh diện mạo kiến trúc, cảnh quan yếu tố “tĩnh động”, p hợp
lOMoARcPSD|3 7752136
với các nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống; cuối cùng sự lồng ghép,
thích ng với các yếu t “động” luôn xu hướng biến đổi trong cuộc sống
đương đại tương lai. Trên thực tế, không gian văn hóa kiến trúc truyền
thống của làng đã được tích tụ, định hình trong q trình lâu dài từ quá khứ
đến hiện tại, sẵn trong mình những khả năng đồng hóa điều tiết trong
quá trình tiến hóa của làng. Vấn đề của chúng ta phải làm sao đ tạo ra
được sự tương tác phù hợp giữa chủ thể cái vốn với những yếu tố mới
trong môi trường tự nhiên môi trường hội luôn biến động. thể nói
rằng g trị truyền thống vai trò dẫn dắt trong việc tạo dựng quá khứ, nối
quá khứ với hiện tại thế vai trò tạo dựng tương lai. Chính những giá
trị truyền thống năng lực định hướng quá trình phát triển, nếu không sự
hiện diện của nó, sự phát triển, tiến a thể rơi vào tình trạng mất phương
hướng. Đồng thời những g trị đã được khẳng định cũng sẽ vai t làm
giảm gánh nặng cho việc tạo dựng những giá trị mới.
Như vậy, “tương lai của quá khứ” hay cụ thể hơn những giá trị của quá
khứ thể hiện diện, biến đổi hay biến mất trong tương lai không diễn ra một
cách tự thân tùy thuộc vào cách nhìn nhận nỗ lực điều tiết của chúng ta
những thế h đang thừa hưởng, nắm trong tay mình những di sản, giá trị của
quá khứ, những năng lực của hiện tại cả những hội tạo dựng tương lai.
Sự hiện diện ý nghĩa của giá trị truyền thống trong cách tiếp cận
phương thức tổ chức, điều tiết sự phát triển tiếp nối của những ngôi làng sẽ
giúp chúng ta một cách đắc lực hữu hiệu trong việc xây dựng một tương
lai bền vững vẫn bảo tồn được các giá trị truyền thống tốt đẹp.
lOMoARcPSD|3 7752136
Tài liệu tham khảo
1. Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn,
Nội, 2005, tr.35.
2. Trần Quốc Vượng, sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Nội,
2007, tr.80.
3. Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - hội - văn
hóa, Nxb Khoa học hội, Nội, 2001, tr.19.
4. Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí tình nh lao động việc làm
quý IV năm 2020, gso.gov.vn.
5. Nguyễn Thị Phương Châm, Biến đổi văn hóa các làng q hiện nay,
Nxb Văn hóa - Thông tin Viện Văn hóa, Nội, 2009, tr.109.
6. Phùng Hữu Phú, Đô thị hóa Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp,
nông thôn, nông dân, Tạp chí Tuyên giáo, số 3, 2009.
lOMoARcPSD|3 7752136
7. Nguyễn Thị Phương, Biến đổi của gia đình nông thôn trong quá trình
xây dựng nông thôn mới hiện nay, tapchicongsan.org.vn, 18-12-2020.
8. Thị Phương Hậu, Một số biến đổi trong văn hóa làng đồng bằng
Bắc Bộ, Tạp chí luận Chính trị, số 8, 2017.
9. Nguyễn Văn Thắng, Biến đổi văn hóa nông thôn giai đoạn 2011-
2020, Tạp c Văn hóa Nghệ thuật, số 321, tháng 3-2011.
10. Đỗ Phong, Người nông thôn “online” tăng vọt, tích cực mua sắm trực
tuyến, vneconomy.vn, 9-4-2021.
11. Phạm Văn Quyết, Những biến đổi của hội nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm đầu thế kỷ XXI,
Tạp chí Khoa học hội Nhân văn, số 28, 2012, tr.241.
| 1/26

Preview text:

lOMoARcPSD|37752136 BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐỀ TÀI:
ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG
BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Họ và tên: Trịnh Yến Vi Mã sinh viên: 2052020046 Lớp: XDĐ K40 Hà Nội, 2022 lOMoARcPSD|37752136
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN Ï & Ò BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐỀ TÀI:
ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG
BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Họ và tên: Trịnh Yến Vi Mã sinh viên: 2052020046 Lớp: XDĐ K40 Hà Nội, 2022 lOMoARcPSD|37752136 MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
1. Tính cấp thiết của đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
2. Mục đích nghiên cứu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
4. Phương pháp nghiên cứu…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
PHẦN 2: NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay…. . . . . . . . . . . . .7
3. Những hạn chế của làng người Việt. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14
4. Những giải pháp phát triển làng người Việt. . . . . . . . . . . . . . . . . . .15
PHẦN 3: KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
Tài liệu tham khảo…. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 25 lOMoARcPSD|37752136 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng xã truyền thống đang trở thành
vấn đề quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu và quản lý
văn hoá; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn hoá làng xã ,vùng đồng bằng và ven biển. Văn
hoá làng là một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; là nền tảng cơ
sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.
2. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống lại các thành quả của điều tra xã hội học, của các công trình
nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể về bản sắc
văn hoá dân tộc của làng xã để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tìm hiểu.
Trên cơ sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy có hiệu quả, có
chất lượng việc xây dựng làng văn hoá hiện nay, góp phần bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ thực tiễn chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm, nghiên cứu cơ sở lý
luận về làng , văn hoá làng và những đặc điểm Văn hoá làng để tìm ra những
giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hoá làng tốt đẹp.
4. Phương pháp nghiên cứu
+Phương pháp thu thập thông tin: khảo sát, lập bảng hỏi, đọc tài liệu,…
+Phương pháp phân tích và tổng hợp.
+Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
+Phương pháp xử lý thông tin. lOMoARcPSD|37752136 PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống:
Làng xã là nơi từ bao đời nay cư dân người Việt cư trú, lao động, sản xuất
và tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Văn hóa làng xã đã đi vào ký ức
người Việt với những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi, thân thương.
Sự hình thành làng xã gắn với việc phát triển của sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là nông nghiệp lúa nước. Bởi vì khi con người sống du canh du cư thì
xóm làng chưa thể ra đời. Xét về phương diện xã hội thì con người chuyển từ
quan hệ huyết thống sang quan hệ láng giềng- địa vực, đây chính là nguyên
tắc cơ bản hình thành nên làng xã Việt Nam. Vì thế giáo sư Trần Quốc Vượng
đã khẳng định: “Trong quá khứ và thậm chí đến gần đây văn minh- văn hiến
Việt Nam vẫn thuộc phạm trù văn minh lúa nước, văn hóa Việt Nam là văn hóa xóm làng”.
Hai đặc trưng cơ bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng xã truyền
thống Việt Nam chính là: tính cộng đồng và tính tự trị. Biểu tượng truyền
thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa. Bất cứ làng nào cũng
có một ngôi đình bởi đó là trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc
quan trọng như hội họp, bàn việc làng, việc nước, thu sưu thuế. Sau đó, đình
làng là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, biểu diễn chèo,
tuồng hay ăn uống… Nhưng quan trọng nhất đình làng chính là trung tâm về
tôn giáo, tâm linh. Thế đình, hướng đình được xem là yếu tố quyết định đến
vận mệnh của cả làng. Và cuối cùng đình làng là trung tâm tình cảm, nói đến
làng người ta nghĩ ngay đến ngôi đình với nhiều tình cảm gắn bó thân thương nhất:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (tư tưởng Nho gia), đình
làng từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần chỉ là nơi lui tới của lOMoARcPSD|37752136
cánh đàn ông. Khi bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ thường quần tụ nơi bến nước
(những làng không có sông thì giếng nước), nơi hằng ngày chị em thường gặp
nhau chuyện trò, giặt giũ. Ngoài ra còn có cây đa cổ thụ nằm ở đầu làng, dưới
gốc đa có một miếu thờ, đó là nơi hội tụ của thần thánh, “sợ thần sợ cả cây
đa”. Cây đa gắn liền với quán nước, là nơi nghỉ chân, gặp gỡ những người
làm đồng, khách qua đường. Do vậy gốc đa trở thành cánh cửa liên kết làng
với thế giới bên ngoài.
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh
làng trở thành một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre là một
đặc điểm quan trọng làm cho xóm làng khác biệt hẳn ấp lý Trung Hoa, có
thành quất bằng đất bao bọc.
Chính văn hóa làng xã đã tạo nên những đặc trưng văn hóa, những đức
tính tốt đẹp của người Việt Nam. Từ quan hệ láng giềng “bán bà con xa, mua
láng giềng gần” nên người Việt có truyền thống đoàn kết, gắn bó yêu thương
xóm làng. Tình yêu xóm làng, quê hương được đẩy lên cao là tình yêu quốc
gia, đất nước. Cặp đôi làng- nước là cặp khái niệm thường trực trong tư duy
và đời sống của người Việt. Công cuộc chống giặc ngoại xâm đòi hỏi phải có
tinh thần đoàn kết toàn dân và lòng yêu nước. Hai điều kiện này là sản phẩm
sẵn có của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã. Khởi nguồn từ cuộc sống
nông nghiệp, tính cộng đồng của mọi người trong làng đã chuyển thành ý
thức cộng đồng trong phạm vi quốc gia “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người
trong một nước phải thương nhau cùng”.
Tính cộng đồng trong phạm vi làng xã là cơ sở tạo nên tính đồng nhất
trong hàng loạt lĩnh vực như đồng tộc, đồng niên, đồng hương, đồng nghiệp
và tất yếu dẫn đến sự đồng nhất trong phạm vi quốc gia: Đồng bào (sinh ra từ
một bọc trứng). Tính đồng nhất (cùng hội, cùng cảnh ngộ) đã giúp cho người
Việt có tính đoàn kết, gắn bó rất cao, luôn yêu thương, giúp đỡ nhau, coi
người trong cộng đồng như anh em trong nhà. lOMoARcPSD|37752136
Truyền thống văn hóa nông nghiệp là trọng tình, trọng văn, trọng đức nên
trong xã hội kẻ sĩ (văn sĩ) được coi trọng, đứng đầu danh mục các nghề trong
xã hội: sĩ, nông, công, thương. Nông dân tuy đứng hàng thứ hai nhưng suy
cho cùng nó vẫn là nghề cơ bản nuôi sống trí thức, nuôi sống cả cộng đồng và
kiến tạo nên truyền thống văn hóa nông nghiệp.
Văn hóa làng xã lấy hương ước, dư luận xã hội điều chỉnh hành vi đạo
đức con người. Do đó, nạn bạo hành, bạo lực trong gia đình, dòng họ, làng xã rất hiếm xảy ra.
Hương ước là biểu hiện cụ thể của văn hóa làng xã nhằm góp phần quan
trọng vào việc củng cố tính cộng đồng làng xã và các thành viên trong làng
với nhiều đức tính và truyền thống quý báu. Hương ước của làng thường nêu
ra các mục tiêu chế định rõ ràng như: mọi người phải ăn ở hòa thuận, giữ
đúng đạo hiếu, gìn giữ tình làng nghĩa xóm…; quy định các biện pháp cứu
trợ, tương trợ, xây dựng quỹ xã hương. Từ ý thức trách nhiệm đối với cộng
đồng làm cho người nông dân có ý thức dân chủ làng xã. Mọi thành viên
trong làng đều có quyền lợi (vật chất, đất công, tinh thần) giống nhau nên
phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với xóm làng. Khi vi phạm điều cấm, đất
công đều bị lên án và phải bồi thường thiệt hại. Nếu là chức sắc vi phạm nặng
thì bị cách chức. Điều này giúp ngăn chặn bớt sự lũng đoạn, sách nhiễu của
các chức sắc trong làng, giữ sự ổn định một cách tương đối. Hương ước chú
trọng đến công tác sản xuất nông nghiệp, việc bảo vệ, xây dựng các công
trình công cộng; quy định về trật tự làng xóm, quy định khuyến khích tinh
thần hiếu học (chế độ học điền); ruộng đất giành cho học trò nghèo học giỏi.
2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay:
Văn hóa làng là hình thái văn hóa đặc biệt, gắn liền với các làng tụ cư cổ
truyền ở nông thôn của người Việt, bao gồm tổng thể các giá trị vật chất và
tinh thần (phong tục, tập quán, lối sống, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. .)
do cộng đồng dân cư ở các làng quê sáng tạo ra, được biểu hiện trong xóm lOMoARcPSD|37752136
làng hay được đặc trưng bằng kết cấu xóm làng (1). Theo học giả Trần Quốc
Vượng: “Văn hóa Việt Nam cổ truyền về bản chất là một nền văn hóa xóm
làng” (2). Còn nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn nhấn mạnh: “Văn hóa làng có
nội dung cực kỳ phong phú. Nhiều khi làng đã giải thể nhưng văn hóa làng thì
vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài” (3). Thực tế, các yếu tố, bộ phận trong văn hóa
làng không tồn tại riêng biệt mà hòa quyện vào nhau tạo nên bản sắc, đặc
trưng của cộng đồng làng; đồng thời văn hóa làng luôn vận động và phát
triển, các thế hệ kế tiếp luôn có ý thức sáng tạo, phát huy vốn văn hóa cổ
truyền để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Biến đổi văn hóa làng có thể được hiểu là những sự vận động, thay đổi
của bức tranh văn hóa làng nói chung cũng như sự biến đổi của các thành tố,
phương diện trong chỉnh thể đời sống văn hóa của cộng đồng dân làng. Quá
trình này diễn ra có thể do những tác động của các nhân tố như kinh tế, chính
trị, xã hội… hoặc là kết quả của vận động tự thân của văn hóa. Trong bối
cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày càng sâu rộng, nhanh chóng như
hiện nay, khi một phần đáng kể diện tích đất canh tác nông nghiệp ở nhiều
vùng nông thôn chuyển sang phục vụ cho việc xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp, khu đô thị, khu dân cư mới… những biến đổi trong bức tranh văn hóa
của cộng đồng làng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Đó là sự thay đổi từ lối sống,
cách sinh hoạt, sáng tạo văn hóa, đến cách tư duy, nếp nghĩ, hệ giá trị, các
phong tục tập quán… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang
diễn ra do những biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế, xã hội, với xu hướng
tiếp biến, đan xen giữa các yếu tố cũ và mới, nông nghiệp và công nghiệp,
truyền thống và hiện đại…
Biến đổi văn hóa làng do tác động và ảnh hưởng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng mang tính quy luật trong sự vận động,
phát triển của văn hóa. Quá trình này diễn ra khi có sự tác động của môi
trường sống thay đổi, dẫn đến ý thức văn hóa tộc người cũng dần biến đổi cho
phù hợp với cuộc sống hiện hữu. Đó là kết quả của sự tiếp biến văn hóa một lOMoARcPSD|37752136
cách tự nguyện, tự giác do vai trò tự điều chỉnh văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi
nhóm người trong cuộc sống cộng cư của họ để cùng thích ứng với xã hội hiện hữu.
Quá trình biến đổi văn hóa ở các làng quê là sản phẩm tất yếu của tiến
trình hiện đại hóa nên nhìn chung nó có tác động tích cực, đem lại sự tiến bộ
trong đời sống xã hội nói chung cũng như với phát triển văn hóa ở khu vực
nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, quá trình này cho thấy nhiều vấn đề phức tạp
nảy sinh, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng
làng: lối sống thực dụng, đôi khi đề cao thái quá các giá trị vật chất, nguy cơ
mai một những giá trị truyền thống tốt đẹp, nạn ô nhiễm môi trường, an ninh
trật tự… cần được quan tâm.
Những biến đổi cơ bản của văn hóa làng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta trong đó có việc chuyển một phần đáng kể diện tích đất canh tác sang phục
vụ các mục tiêu phi nông nghiệp đã đưa tới những biến đổi mạnh mẽ trong cơ
cấu nghề nghiệp ở nhiều vùng nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, tính trong giai đoạn 2009-2019, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số
lao động xã hội ở nước ta giảm từ 53,9% xuống còn 35,3% (4). Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cũng đưa đến những biến đổi căn bản trong đời sống xã hội
nhiều làng quê khi một bộ phận người dân không còn đủ đất canh tác, phải
tìm đến các khu công nghiệp, khu đô thị để kiếm việc làm; ngược lại, ở những
nơi có khu công nghiệp hay cận khu công nghiệp… do nhu cầu lao động nên
ngoài dân gốc của làng đã xuất hiện thêm nhiều thành phần dân cư khác khiến
cho cơ cấu dân cư của làng biến đổi theo hướng linh hoạt, mở hơn chứ không
mang tính cố định, đóng kín như trước kia (5).
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội của người dân ở
các làng quê là tiền đề đưa tới những thay đổi trong đời sống văn hóa của
cộng đồng làng. Điều này thể hiện ở thu nhập và mức sống của người nông
dân được nâng lên, đi cùng với điều kiện hạ tầng ngày càng được cải thiện đã lOMoARcPSD|37752136
phá vỡ tính khép kín của các làng, đồng thời thúc đẩy sự giao lưu, tiếp biến về
văn hóa. Mặt khác, thể hiện ở xu hướng đa dạng hóa các thành phần, tầng lớp
dân cư tạo thành chất xúc tác giúp mở rộng, nâng cao trình độ dân trí, cơ hội
giáo dục và tiếp cận thông tin… cho người dân ở vùng nông thôn. Tuy nhiên,
bên cạnh tác động và ảnh hưởng tích cực, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng cho thấy những hiệu ứng không mong muốn đối với đời sống xã hội
và văn hóa của cộng đồng dân cư ở các làng quê hiện nay: việc sử dụng đất
nông nghiệp tùy tiện, lãng phí ở nhiều nơi dẫn tới tình trạng dư thừa lao động,
gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của một bộ phận người dân; tình trạng
san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng sự yếu kém trong xử lý nước
thải, rác thải. . đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn và đời sống, sức khỏe của nông dân (6).
Ngoài ra, có thể thấy, ở nhiều làng quê, mặc dù bắt nhịp được với quá trình
chuyển đổi, nhưng với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân cư
trong làng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. .
Thực tiễn cho thấy, quá trình biến đổi văn hóa làng diễn ra tập trung ở
một số phương diện cơ bản sau:
Biến đổi không gian làng: Làng quê xưa, nhất là các làng ở vùng châu
thổ Bắc Bộ, với đặc trưng không gian tương đối khép kín, lũy tre làng bao
quanh được xem như ranh giới giữa không gian cư trú và không gian sản xuất
của làng. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với sự thu
hẹp đáng kể của diện tích đất nông nghiệp đã làm không gian cảnh quan ở các
làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không gian cư trú truyền thống được định
vị theo các xóm, ngõ là những những hình thức tập trung dân cư mới theo
nghề nghiệp: những xóm mới, phố - làng mới… khiến cho không gian cư trú
và không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với nhau, không
phân biệt rõ ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng có vai trò quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa hiện lOMoARcPSD|37752136
cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như
nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các công trình như trường học, nhà văn hóa,
sân chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao
thông quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị.
Nhìn chung, không gian cảnh quan ở các làng quê hiện đại đã không còn khép
kín mà ngày càng trở nên mở, linh hoạt hơn…
Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã: Gia đình, họ hàng, làng xã
là những thiết chế xã hội - văn hóa đặc trưng ở các làng quê, thể hiện tập
trung và tiêu biểu những đặc tính trong đời sống xã hội của cộng đồng làng.
Cùng với những tác động và ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng xã và những mối quan hệ xã hội liên
quan ở các làng quê hiện nay cũng đang chứng kiến những đổi thay rõ nét.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, sợi dây gắn kết giữa các thế hệ, thành
viên trong gia đình nông thôn hiện nay đang có chiều hướng suy giảm. Sự đa
dạng hóa và khác biệt về lao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu
tiên riêng của các thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành
viên trong gia đình ngày càng ít đi (7). Bên cạnh sự gắn kết gia đình, mối
quan hệ họ hàng, làng xã - mạng lưới liên kết đặc trưng cho lối sống cộng
đồng, cũng đang chứng kiến sự suy giảm đáng kể do tác động và ảnh hưởng
của những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự gắn bó, tương trợ lẫn
nhau giữa các thành viên, gia đình trong họ tộc, hàng xóm láng giềng, nhất là
mỗi khi có công việc quan trọng như tang ma, cưới xin… tuy vẫn được coi
trọng, duy trì nhưng không còn đóng vai trò là nhân tố thiết yếu như trước đây.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động
nghề nghiệp, việc làm khiến cho nhiều người trở nên bận rộn với công việc
riêng, ít thời gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia… Bên cạnh
đó, khi đời sống vật chất không ngừng được nâng lên, sự xuất hiện của những
ngôi nhà kiên cố, “kín cổng cao tường” ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt lOMoARcPSD|37752136
động gặp gỡ, trò chuyện giữa những người hàng xóm láng giềng bị hạn chế.
Điều đó góp phần làm cho nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi, thân
tình trước kia, nay dần trở nên xa cách hơn. Ngoài ra, lối sống và thói quen
tiêu dùng đô thị với mạng lưới dịch vụ ngày càng được mở rộng, phát triển ở
các làng quê hiện nay khiến cho nhiều người có thói quen sử dụng các dịch
vụ, tiện ích có sẵn mỗi khi có công việc thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ
từ họ hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc,
ràng buộc của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những
người hàng xóm láng giềng có xu hướng suy giảm.
Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán: Đời sống
kinh tế ngày càng khởi sắc, người dân ở các làng quê có điều kiện quan tâm
hơn đến việc bảo tồn, giữ gìn các di tích cũng như phục dựng các lễ tiết, lễ
hội của làng. Các di tích được đầu tư nhiều tiền của, công sức tu bổ, làm mới,
được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng
đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất là lễ hội cổ truyền được tiếp
nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức và
nhân lực tham gia không ngừng được tăng cường, xã hội hóa. Bên cạnh các
nghi lễ, trò vui truyền thống, lễ hội làng cũng được bổ sung nhiều hoạt động
mới mang hơi thở cuộc sống đương đại, các trò chơi giải trí, hoạt động thể
dục thể thao, văn nghệ đặc sắc. Cùng với nỗ lực tiếp nối và bảo lưu giá trị, ý
nghĩa của lễ hội làng, người dân ở các làng quê cũng đang ngày càng có xu
hướng trở lại với những thực hành tín ngưỡng truyền thống khi điều kiện kinh
tế, đời sống vật chất có bước tiến đáng kể so với trước đây (8).
Các phong tục tập quán, lối sống của người dân ở làng quê có sự biến đổi
rõ nét khi tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm và cùng
với đó là xu hướng đa dạng hóa trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Một bộ
phận dân cư đã chuyển hẳn sang các hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm
dịch vụ, làm công nhân trong các khu công nghiệp… khiến cho nhịp sống, lối
sống của dân làng cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn; việc tuân thủ giờ lOMoARcPSD|37752136
giấc được chú trọng với tác phong nhanh nhẹn, năng động. Cùng với sự mở
rộng, phát triển của mạng lưới dịch vụ, người dân ở các làng quê ngày càng
trở nên quen thuộc với kiểu tư duy cần gì là có thể mua chứ không phải chạy
sang hàng xóm vay, mượn như trước kia; và đi cùng với đó là lối sống gắn với
sự nhanh nhạy và bình đẳng của thị trường. Chính vì lẽ đó, bên cạnh lối sống
nghĩa tình vẫn được duy trì, xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ,
thị trường, coi trọng sự minh bạch, sòng phẳng. Nhìn chung bức tranh lối
sống ở nhiều làng quê hiện nay có sự pha trộn, đan xen giữa nông nghiệp và
công nghiệp, truyền thống và hiện đại, nông thôn và đô thị.
Các phong tục tập quán là những yếu tố vốn có tính ổn định, bền vững,
tuy nhiên cũng đang có nhiều biến đổi do tác động của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhìn chung các phong tục tập quán truyền thống như ma
chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được coi trọng, tiếp nối truyền thống, nhưng
đã có sự cải biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng như
những nghi lễ phức tạp, rườm rà để phù hợp với nhịp sống, lối sống công
nghiệp, đô thị (9). Việc lựa chọn, sử dụng các loại hình dịch vụ thay vì trông
cậy vào sự trợ giúp của họ hàng, xóm giềng của người dân và các hộ gia đình
mỗi khi có công việc cũng có xu hướng gia tăng. Những sự thay đổi đó dựa
trên nền tảng đời sống kinh tế ngày càng sung túc, dồi dào hơn, cũng như sự
gần gũi, giao thoa của các làng quê với khu vực đô thị, làm nên tính chất đan
xen văn hóa làng - phố rất đặc trưng ở nhiều làng quê Việt Nam hiện nay.
Những biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin và giải trí: Đi cùng
những đổi thay mạnh mẽ và sâu sắc của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu và
các hoạt động, phương thức trao đổi thông tin, giải trí của người dân ở làng
quê cũng không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa. Bên cạnh các hoạt động
văn hóa quần chúng, hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng
thôn xóm, hệ thống thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa
dạng của người dân, hệ thống tiếp cận thông tin trong các gia đình cũng ngày
càng được mở rộng, hiện đại hóa với những phương tiện nghe nhìn hiện đại: lOMoARcPSD|37752136
tivi, radio, điện thoại, máy vi tính có kết nối internet. . Nhiều kết quả khảo sát
cho thấy, tỷ lệ người tiêu dùng nông thôn sử dụng các sản phẩm công nghệ và
dịch vụ kỹ thuật số có kết nối internet đạt trên 90% và vẫn đang có xu hướng
gia tăng (10). Bên cạnh các hoạt động giải trí, việc chăm sóc sức khỏe, hưởng
thụ cuộc sống của người dân cũng ngày càng được quan tâm hơn. Nhiều hoạt
động, loại hình câu lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao xuất hiện, thu
hút sự tham gia đông đảo của người dân tùy theo sự phù hợp về sở thích, nghề
nghiệp, lứa tuổi. .; mức độ tin tưởng và tham gia của người dân vào các tổ
chức, hội nhóm không ngừng tăng lên (11). Bên cạnh đó, những hình thức
giải trí, sử dụng thời gian nhàn rỗi vốn thường thấy ở các cư dân đô thị như
mua sắm, tham quan, du lịch… cũng xuất hiện và ngày càng phổ biến trong
đời sống của cộng đồng dân cư ở các làng quê.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, kéo theo nhiều thay đổi trong đời sống văn hóa của người dân khu
vực này. Trong thời gian tới, sự vận động, biến đổi này diễn ra ngày càng
phức tạp, đòi hỏi cần có hệ thống chính sách can thiệp phù hợp, nhằm phát
huy những ảnh hưởng, xu hướng biến đổi tích cực, đồng thời hạn chế những
tác động tiêu cực, hướng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ gìn
và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng làng
trong bối cảnh chuyển đổi.
3. Những hạn chế của làng người Việt:
Những hạn chế đó xuất phát từ những đặc trưng của văn hóa làng xã như
tính cộng đồng là nhấn mạnh vào sự đồng nhất, vì thế mà ý thức con người, ý
chí cá nhân bị thủ tiêu, luôn hòa tan vào các mối quan hệ xã hội; giải quyết
xung đột theo hướng “hòa cả làng”. Tính đồng nhất dẫn đến thói dựa dẫm, ỷ
lại “nước nổi, bèo nổi” kéo theo tư tưởng cầu an, cả nể, sợ “rút dây động
rừng” nên thường chủ trương đóng cửa dạy nhau. Tiếp nữa là thói cào bằng,
đố kỵ không muốn ai hơn mình (xấu đều hơn tốt lõi; khôn độc không bằng lOMoARcPSD|37752136
ngốc đàn). Tính tự trị nhấn mạnh vào sự khác biệt do đó mà sinh ra tư hữu,
ích kỷ. Bè nhà ai người ấy chống; ai có thân thì lo, “của mình thì giữ bo bo,
của người thì để cho bò nó ăn”; “Trai làng ở quá còn đông, cớ sao em lại lấy
chồng ngụ cư”…Tiếp nữa là óc gia trưởng, tôn ty. Tính tôn ty, sản phẩm của
nguyên tắc tổ chức nông thôn thôn theo huyết thống tự thân nó không phải là
xấu nhưng khi gắn với tính gia trưởng tạo nên tâm ý quyền huynh thế phụ, áp
đặt ý muốn của mình vào người khác; tạo nên thế lực vô lý “sống lâu ra lão làng”…
Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy cuộc sống nông
nghiệp lúa nước và lối sống trọng tình, tư suy biện chứng dẫn đến sự hình
thành nguyên lý âm dương và lối ứng xử nước đôi. Người Việt vừa có tính
đoàn kết, tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỷ, cào bằng. Vừa có tính tập thể
hòa đồng lại vừa có óc bè phái địa phương. Vừa có nếp sống dân chủ bình
đẳng, vừa có tính gia trưởng, tôn ty. Vừa có tính cần cù, tự cung tự cấp, vừa
có thói dựa dẫm, ỉ lại. Tùy nơi, tùy lúc mà điều kiện tốt xấu được bộc lộ. Khi
gian nan, khó khăn, nguy cơ đe dọa sự sống thì đoàn kết, gắn bó; khi nguy cơ
qua rồi thì trở về với tư hữu, bè phái địa phương.
4. Những giải pháp phát triển làng người Việt:
Chính từ những hạn chế nêu trên nên hiện nay trong quá trình hội nhập
chúng ta phải thay đổi một cách triệt để trong tư duy và trong hành động. Phát
huy những đặc tính nhân văn, nhân bản, bản sắc của văn hóa Việt, con người
Việt. Khắc phục những nhược điểm của tư tưởng sản xuất nhỏ, sẵn sàng hội
nhập, tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại. Văn hóa làng xã một lần nữa trở
thành thành trì, pháo đài bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở tiếp thu
một cách có chọn lọc, đào thải những yếu tố văn hóa trái với thuần phong mỹ
tục của dân tộc để đưa đất nước hội nhập sâu trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. lOMoARcPSD|37752136 PHẦN 3: KẾT LUẬN
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, làng Việt đang chuyển mình
và có những diện mạo mới. Đó có thể là sự đổi mới các nghề thủ công truyền
thống, là sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế mà ở đó, vai trò của sản xuất nông
nghiệp dần được thay thế bởi các hoạt động phi nông nghiệp, hay cấu trúc xã
hội đang từng bước bị thay thế bởi những hệ thống mới xuất phát từ ảnh
hưởng của quá trình đô thị hóa… Một biểu hiện rõ nét nhất cho sự thay đổi
của làng Việt là sự mất đi của những di sản truyền thống và những giá trị cốt
lõi của làng được tích tụ, lưu truyền từ hàng trăm năm qua. Bảo tồn các giá trị
truyền thống của làng Việt trong quá trình phát triển thực sự là một thách thức
lớn. Để tìm ra chìa khóa giải quyết vấn đề này, cần phân tích những vấn đề
cốt lõi chi phối sự tồn tại và phát triển của làng Việt.
Làng trong tổ chức xã hội của người Việt. Làng là đơn vị tụ cư truyền
thống lâu đời ở nông thôn Việt Nam, nơi bao đời nay người Việt cư trú, lao
động sản xuất và tổ chức các hoạt động văn hóa tinh thần. Làng là nơi cố kết
quan hệ dòng tộc, xóm giềng, hình thành nếp sống cộng đồng riêng có, tạo ra
văn hóa làng, một yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Ở Việt Nam, làng trở nên quan trọng vì nó gắn liền với mối liên kết cộng
đồng: Dòng họ, phe giáp, phường thợ. Làng cũng là nơi tụ cư của một cộng
đồng về văn hóa xã hội với các phong tục, tập quán chặt chẽ, các giá trị và
chuẩn mực chung về sinh hoạt, lối sống, tâm lý, tư tưởng, đạo đức, phương
thức ứng xử trong gia đình, cộng đồng cũng như phương thức ứng xử với tự
nhiên, môi trường sinh sống… Mỗi làng đều thờ một vị thần được tôn làm
Thành Hoàng làng, biểu trưng cho “sự thống nhất vận mệnh” của cả cộng
đồng, cai quản và bảo vệ cho cuộc sống của tất cả mọi thành viên trong làng.
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, hội làng là biểu hiện của tính toàn thể,
tính thống nhất, tính riêng biệt của cộng đồng làng. lOMoARcPSD|37752136
Trong quá trình tồn tại của làng Việt, do ảnh hưởng của những tác động
từ bên ngoài hoặc do những nhu cầu biến đổi tự thân, làng luôn có xu hướng
thay đổi và chuyển hóa. Có thể nói không có làng Việt bất biến mà chỉ có làng
Việt biến đổi nhiều hay ít để thích nghi với những điều kiện và hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Vì thế không nên nhìn nhận làng Việt như một cơ chế cố định, cô
lập và bất biến mà phải coi làng Việt như một cấu trúc động luôn luôn chịu sự
tác động của các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, và luôn luôn biến đổi,
chuyển hóa theo tiến trình lịch sử.
Làng Việt được nhận diện và đánh giá bởi một hệ giá trị đa dạng, tổng
hòa, đã được tích tụ, lưu truyền trong suốt quá trình hình thành, tồn tại của nó.
Việc đó bắt nguồn từ việc nhận diện các giá trị của quá khứ tạo nên bản sắc,
đặc trưng của mỗi ngôi làng, đó là hệ giá trị tổng hợp trong đó có cấu trúc
không gian làng xã truyền thống, những công trình kiến trúc và cảnh quan
cùng toàn bộ cuộc sống cộng đồng dân cư với mối quan hệ sinh thái bền
vững. Mỗi làng đều có những đặc trưng riêng, phụ thuộc nhiều vào việc cải
tạo và thích ứng với môi trường tự nhiên ở đó.
Bên cạnh việc lợi dụng các yếu tố, điều kiện thuận lợi của tự nhiên, thì
ngay từ xa xưa, các cộng đồng dân cư trong làng xã cũng luôn phải tìm cách
ứng phó và thích nghi với những tác động bất lợi của tự nhiên (khí hậu, thời
tiết, gió bão, tố lốc, lũ lụt, hạn hán…) để bảo vệ sản xuất và cuộc sống của
chính họ. Trong quá trình ấy, các cộng đồng cư dân làng xã ngày càng tích lũy
kinh nghiệm để chung sống hài hòa và tận dụng tốt hơn các điều kiện tự
nhiên. Những tri thức đó cũng được ứng dụng vào các sinh hoạt xã hội, cộng
đồng và các hoạt động khác như làm nhà, tổ chức không gian làng xóm, nghi
lễ… Đây chính là những yếu tố tạo nên giá trị cho từng ngôi làng. Giá trị này
được ghi nhận, “kiểm chứng” và có sức sống trường tồn. Và chính mối quan
hệ mật thiết, hài hòa với tự nhiên trong sản xuất cũng như trong đời sống đã lOMoARcPSD|37752136
tạo ra cho các cộng đồng dân cư những giá trị văn hóa, tinh thần hết sức
phong phú, sáng tạo. Thiên nhiên trở thành một phần trong đời sống văn hóa,
tinh thần, tín ngưỡng của con người. Sự gắn bó mật thiết với tự nhiên, tôn
trọng tự nhiên, vừa ứng phó vừa hòa hợp với tự nhiên để sinh tồn và phát
triển – là một trong những triết lý làm điểm tựa cho sự tồn tại và phát triển của làng Việt.
Nhìn nhận ở góc độ khác, chính các không gian, kiến trúc làng truyền
thống do con người tạo nên trong quá trình thích nghi với tự nhiên lại tác
động lại tới con người, là môi trường nuôi dưỡng, phát triển nhân cách, tạo ra
bản sắc của một cộng đồng sống trong môi trường đó. Và những bản sắc cộng
đồng hay còn gọi là bản sắc vùng miền đó chính là nhân tố quan trọng của phát triển bền vững.
Những nguy cơ phá vỡ hay làm mất mát các giá trị truyền thống. Sự
thay đổi mạnh mẽ trong quá trình phát triển tất yếu của làng xã đã mang lại
các tác động tích cực về đời sống kinh tế, cơ sở hạ tầng xã hội và các giá trị
tinh thần theo xu hướng hội nhập. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng xuất hiện
những nguy cơ phá vỡ cấu trúc và tác động tiêu cực tới giá trị truyền thống
của làng từ nhiều góc độ khác nhau. 
Tác động của xu thế “hiện đại hóa”, “đô thị hóa”, “toàn cầu hóa”
Văn hóa làng đã hình thành trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt
văn hóa, xã hội của người dân với các giá trị vật chất như cấu trúc không
gian, hệ thống kiến trúc, đường làng, ngõ xóm… và giá trị tinh thần như lệ
làng, hương ước, tín ngưỡng, lễ hội… đặc trưng riêng của mỗi làng. Mặc dù
văn hóa làng đã trở thành một phần bản sắc, nền móng của văn hóa Việt Nam,
nhưng nhu cầu đổi mới, phát triển hay xu thế hội nhập vẫn là một quá trình tất
yếu, mà trong đó, các yếu tố của văn hóa công nghiệp và văn hóa đô thị có thể
chiếm ưu thế so với các yếu tố văn hóa truyền thống bản địa. Trong trường lOMoARcPSD|37752136
hợp Việt Nam, đã có những “đụng độ” nhất định trong việc hội nhập, bởi sự
trái ngược khá rõ giữa văn hóa công nghiệp và văn hóa làng (giữa tính
nguyên tắc, kỷ luật và tính xuề xòa tùy tiện; giữa tư duy logic và sự cảm tính;
giữa trọng lý với trọng tình…). 
Tác động của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội
Việc cải thiện, xây dựng và “hiện đại hóa” các cơ sở hạ tầng trong làng
truyền thống như thay thế đường gạch vỉa nghiêng bằng đường bê tông, xây
mới các kiến trúc cao tầng xen lẫn hay thay thế các ngôi nhà cổ, bê tông hóa
kiến trúc, “trẻ hóa” di tích, thu hẹp các không gian xanh, mặt nước… đã phá
vỡ cấu trúc và cảnh quan không gian làng. Xây những ngôi nhà cao tầng kiểu
nhà phố khép kín với rất ít sân vườn, cây xanh, không chỉ lạc lõng trong
không gian làng, mà còn mất đi tính cộng đồng và sự gắn bó hữu cơ với môi
trường thiên nhiên trong lối sống ở làng xã.
Ở các làng nghề truyền thống, việc tổ chức sản xuất tập trung, cơ khí hóa
các công đoạn trong quy trình sản xuất các sản phẩm thủ công đã làm thay đổi
khung cảnh sản xuất truyền thống, làm mất đi những giá trị đặc thù của các
sản phẩm, là những giá trị văn hóa hiện hữu của làng. Bên cạnh đó, việc tập
kết vật liệu, xả chất thải sản xuất không được kiểm soát đã gây ảnh hưởng lớn
tới chất lượng môi trường của làng xã.
Tại những ngôi làng giàu bản sắc đã trở thành điểm đến của nhiều du
khách, các hoạt động dịch vụ du lịch tất yếu diễn ra một mặt là yếu tố tích cực
để quảng bá văn hóa, tăng thu nhập của người dân và phát triển kinh tế địa
phương, nhưng mặt khác nó cũng tạo ra nguy cơ ảnh hưởng và phá vỡ những
giá trị vốn có của làng. Các cơ sở hạ tầng du lịch như đường giao thông mới,
nhà hàng, nơi lưu trú, bãi xe, nhà vệ sinh… đã và đang xuất hiện nhanh lOMoARcPSD|37752136
chóng, thiếu kiểm soát, đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến không gian, diện
mạo kiến trúc truyền thống của làng và giảm dần sức hút du khách. 
Sự hạn chế trong nhận thức
Các giá trị truyền thống tốt đẹp của làng xã luôn được các tổ chức có
trách nhiệm và các nhà nghiên cứu đánh giá đầy đủ, trân trọng và nỗ lực gìn
giữ, phát huy. Tuy nhiên, một số người dân là chủ thể của văn hóa làng lại
không có nhận thức đầy đủ dẫn đến những hành vi vô tình xâm hại đến giá trị
truyền thống của chính nơi mình sinh sống. Lối sống thực dụng, chỉ chú trọng
lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm, dẫn đến các việc như: Lấn chiếm, xâm phạm
đất đai của di tích, xây dựng tùy tiện phá vỡ cảnh quan làng, thương mại hóa
các hoạt động văn hóa tín ngưỡng, “buôn Thần bán Thánh” để trục lợi… vừa
tác động trực tiếp đến những yếu tố vật thể hiện hữu liên quan đến giá trị
truyền thống, vừa làm mất đi những hình ảnh, môi trường văn hóa tạo sắc thái đặc trưng của làng.
Các hoạt động văn hóa truyền thống trong làng như lễ hội, sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo cũng có nguy cơ biến đổi, chuyển hóa nếu không có nhận
thức đầy đủ. Những cách tổ chức chỉ nhằm mục đích kinh doanh, dịch vụ như
khoán thu, đấu thầu tổ chức lễ hội, không những không giữ được những giá
trị tinh thần cốt lõi mà còn làm thay đổi, biến dạng những hoạt động truyền
thống của địa phương theo hướng thế tục hóa. Kết quả là giá trị truyền thống
bị suy giảm, sức hút đối với du khách cũng giảm sút theo. 
Quản lý yếu kém, không kiểm soát được sự phát triển tùy tiện, tự phát
Sự yếu kém trong quản lý, sự phối hợp lỏng lẻo hay chồng chéo đều dẫn
đến nguy cơ không kiểm soát được sự phát triển tự phát, tùy tiện của các cá
thể trong cộng đồng và các giá trị truyền thống dễ dàng bị phá vỡ nhanh lOMoARcPSD|37752136
chóng. Với mỗi loại hình làng xã khác nhau (làng nghề, làng khoa bảng, làng
ven sông, làng nội đô, làng cận đô…) cũng lại cần có những chính sách,
phương thức, chiến lược, kế hoạch, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm,
tính chất, nét đặc trưng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội, phong tục, tập
quán của từng địa phương, thì mới giảm thiểu được những nguy cơ thay đổi,
biến dạng những giá trị truyền thống vốn có của làng.
Những nguy cơ kể trên, mà có thể vẫn còn nữa, hoàn toàn có thể xảy ra
như những điều tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của làng xã hiện nay.
Vấn đề quan trọng là nhận thức được những xu thế hiện hữu ấy để có sự can
thiệp, điều chỉnh hợp lý sao cho vẫn duy trì được những giá trị truyền thống
tốt đẹp mà không cản trở sự phát triển của xã hội đương đại và hướng tới tương lai. lOMoARcPSD|37752136
Bảo tồn những giá trị truyền thống của làng trong quá trình phát
triển. Sự tồn tại và phát triển của làng luôn luôn như một dòng chảy không
ngừng nghỉ. Nhu cầu nâng cao chất lượng sống trong làng là đòi hỏi tự nhiên
của một cơ thể sống. Song nếu sự biến động tất yếu đó tạo ra nguy cơ làm suy
giảm hay mất đi những giá trị tốt đẹp vốn có của làng, thì cần có sự can thiệp
để chống lại xu hướng đó. Sẽ là phù hợp khi sự can thiệp ấy không đối kháng
với nhu cầu phát triển tự nhiên, không chặn đứng sự chuyển hóa tất yếu, mà
thiên về điều tiết để giải quyết mâu thuẫn giữa những đòi hỏi về bảo tồn và
nhu cầu phát triển tự nhiên. Có thể gọi phương thức đó là “Bảo tồn giá trị
truyền thống trong sự phát triển” – cách ứng xử thích hợp để duy trì những
giá trị truyền thống mà không ngăn cản sự phát triển. Quan điểm cơ bản ở đây
là không để mất mát những giá trị truyền thống, nhưng cũng không bó cứng
hay đóng băng chúng mà tạo điều kiện để những giá trị ấy có thể được duy trì
trong sự cộng sinh với các nhân tố mới đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng
cuộc sống đương đại. Từ đó, các giá trị truyền thống sẽ “chung sống” với các
nhân tố được bổ sung và tạo ra những giá trị mới mà các thế hệ tương lai lại
có sứ mệnh bảo tồn chúng.
Để có thể bảo tồn những giá trị của làng Việt trong sự phát triển, trước
hết cần sự nhận diện được những giá trị truyền thống căn bản, cái đã tạo nên
đặc trưng, bản sắc của mỗi ngôi làng, những tích lũy của các thế hệ trước về
lịch sử, văn hóa và kiến trúc để từ đó định ra cách tổ chức và điều tiết sự phát
triển hợp lý. Những giá trị truyền thống của làng hiện diện trong một không
gian văn hóa – kiến trúc của làng, bao gồm ba thành tố là cấu trúc không gian,
diện mạo kiến trúc, cảnh quan và các yếu tố năng động khác tạo ra bởi các
hoạt động cư trú, sinh hoạt, sản xuất. Nếu cấu trúc không gian làng được hình
thành từ đặc điểm vị trí, địa hình và nhu cầu sống cơ bản, thì diện mạo kiến
trúc, cảnh quan được tạo ra từ văn hóa, sở thích, ước muốn của cộng đồng,
còn các yếu tố năng động khác là biểu hiện của những sự vận động để tồn tại
và những nhu cầu đổi mới, phát triển. Cấu trúc không gian tạo ra hình dạng lOMoARcPSD|37752136
cơ bản của làng, diện mạo kiến trúc cảnh quan cùng với cấu trúc không gian
ấy tạo ra hình thái riêng và khi các yếu tố năng động diễn ra trên nền cảnh ấy,
thì tất cả tạo nên sắc thái đặc trưng của mỗi ngôi làng mà ta vẫn gọi là giá trị
truyền thống hay bản sắc của một vùng miền.
Phân tích tính chất của ba nhân tố cấu thành không gian văn hóa – kiến
trúc làng nêu trên, có thể thấy cấu trúc không gian làng là yếu tố “tĩnh” (vì cơ
bản không thay đổi), diện mạo kiến trúc cảnh quan là yếu tố “tĩnh” và “động”
(vì có biến động ở mức độ nhất định) còn các hoạt động trong làng đương
nhiên là yếu tố “động”. Nói một cách hình ảnh thì cấu trúc không gian là
“nền”, diện mạo kiến trúc cảnh quan là “khung” và các yếu tố năng động là
lớp “vỏ” bên ngoài. Trong quá trình tồn tại và phát triển, những xu hướng,
yếu tố mới xuất hiện có nguy cơ làm suy giảm hay phá vỡ giá trị truyền thống
sẽ tác động vào cơ thể làng bắt đầu từ phần “vỏ” hoặc chính phần “vỏ” ấy tự
thân biến đổi, làm lung lay phần “khung”, hay nếu mạnh hơn sẽ làm phần
“khung” mất ổn định và dần dần tác động đến cái “nền” của không gian văn
hóa – kiến trúc làng. Như vậy, nếu để mọi việc diễn ra một cách tùy tiện,
thiếu kiểm soát thì sẽ có nguy cơ không gian văn hóa – kiến trúc làng và các
giá trị truyền thống của làng sẽ bị phá vỡ. Diện mạo, sắc thái đặc trưng của
làng sẽ tan biến và thay vào đó là những bộ mặt mới, không “nền tảng”, thiếu hồn cốt.
Bảo tồn những giá trị truyền thống của làng trong sự phát triển tiếp nối là
cách “kháng cự” có sức mạnh nhưng linh hoạt và mềm mỏng. Trên cơ sở
nhận diện và định dạng chính xác, đầy đủ những yếu tố cấu thành không gian
văn hóa – kiến trúc làng, những giá trị đặc biệt, sắc thái đặc trưng tiêu biểu
của làng, từ đó sẽ bảo tồn gìn giữ những cấu trúc không gian cơ bản đã được
định hình một cách hợp lý và ổn định theo lịch sử – yếu tố “tĩnh”; duy trì và
điều chỉnh diện mạo kiến trúc, cảnh quan – yếu tố “tĩnh và động”, phù hợp lOMoARcPSD|37752136
với các nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống; và cuối cùng là sự lồng ghép,
thích ứng với các yếu tố “động” luôn có xu hướng biến đổi trong cuộc sống
đương đại và tương lai. Trên thực tế, không gian văn hóa – kiến trúc truyền
thống của làng đã được tích tụ, định hình trong quá trình lâu dài từ quá khứ
đến hiện tại, có sẵn trong mình những khả năng đồng hóa và điều tiết trong
quá trình tiến hóa của làng. Vấn đề của chúng ta là phải làm sao để tạo ra
được sự tương tác phù hợp giữa chủ thể là cái vốn có với những yếu tố mới
trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội luôn biến động. Có thể nói
rằng giá trị truyền thống có vai trò dẫn dắt trong việc tạo dựng quá khứ, nối
quá khứ với hiện tại và vì thế có vai trò tạo dựng tương lai. Chính những giá
trị truyền thống có năng lực định hướng quá trình phát triển, nếu không có sự
hiện diện của nó, sự phát triển, tiến hóa có thể rơi vào tình trạng mất phương
hướng. Đồng thời những giá trị đã được khẳng định cũng sẽ có vai trò làm
giảm gánh nặng cho việc tạo dựng những giá trị mới.
Như vậy, “tương lai của quá khứ” hay cụ thể hơn là những giá trị của quá
khứ có thể hiện diện, biến đổi hay biến mất trong tương lai không diễn ra một
cách tự thân mà tùy thuộc vào cách nhìn nhận và nỗ lực điều tiết của chúng ta
– những thế hệ đang thừa hưởng, nắm trong tay mình những di sản, giá trị của
quá khứ, những năng lực của hiện tại và cả những cơ hội tạo dựng tương lai.
Sự hiện diện và ý nghĩa của giá trị truyền thống trong cách tiếp cận và
phương thức tổ chức, điều tiết sự phát triển tiếp nối của những ngôi làng sẽ
giúp chúng ta một cách đắc lực và hữu hiệu trong việc xây dựng một tương
lai bền vững mà vẫn bảo tồn được các giá trị truyền thống tốt đẹp. lOMoARcPSD|37752136 Tài liệu tham khảo
1. Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.35.
2. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.80.
3. Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn
hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr.19.
4. Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm
quý IV và năm 2020, gso.gov.vn.
5. Nguyễn Thị Phương Châm, Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay,
Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2009, tr.109.
6. Phùng Hữu Phú, Đô thị hóa ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp,
nông thôn, nông dân, Tạp chí Tuyên giáo, số 3, 2009. lOMoARcPSD|37752136
7. Nguyễn Thị Phương, Biến đổi của gia đình nông thôn trong quá trình
xây dựng nông thôn mới hiện nay, tapchicongsan.org.vn, 18-12-2020.
8. Vũ Thị Phương Hậu, Một số biến đổi trong văn hóa làng ở đồng bằng
Bắc Bộ, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8, 2017.
9. Nguyễn Văn Thắng, Biến đổi văn hóa ở nông thôn giai đoạn 2011-
2020, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 321, tháng 3-2011.
10. Đỗ Phong, Người nông thôn “online” tăng vọt, tích cực mua sắm trực
tuyến, vneconomy.vn, 9-4-2021.
11. Phạm Văn Quyết, Những biến đổi của xã hội nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm đầu thế kỷ XXI,
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 28, 2012, tr.241.
Document Outline

  • BÀI TIỂU LUẬN
    • ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG BIẾ
  • HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN B
  • BÀI TIỂU LUẬN
    • ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG BIẾ
    • MỤC LỤC
    • PHẦN 1: MỞ ĐẦU
    • 1.Tính cấp thiết của đề tài:
    • 2.Mục đích nghiên cứu:
    • 3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
    • 4.Phương pháp nghiên cứu
    • PHẦN 2: NỘI DUNG
    • 1.Đặc điểm làng người Việt truyền thống:
    • 2.Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay:
    • 3.Những hạn chế của làng người Việt:
    • 4.Những giải pháp phát triển làng người Việt:
    • PHẦN 3: KẾT LUẬN
    • Tài liệu tham khảo