lOMoARcPSD| 23136115
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN
KHOA KINH TẾ
------------- -------------
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ KINH TẾ
Đề tài: Các cuộc cách mạng công nghiệp qua các giai đoạn phát triển kinh tế
các quốc gia trên thế giới
GVHD Hoàng Thị Hồng Đào
Lớp 114231
Sinh viên Đặng Khánh Ly
Mã sinh viên 11423226
Hưng Yên, 12/2023
lOMoARcPSD| 23136115
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến khoa Kinh tế Trường ĐHSPKT Hưng
Yên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Hoàng Thị Hồng Đào đã dày
công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn em trong quá trình làm bài.
Em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kqua để hoàn
thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế không nhiều kinh nghiệm thực
tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và trình bày. Rất
kính mong sự góp ý của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
lOMoARcPSD| 23136115
MỤC LỤC
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ....................................................................... 3
1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 3
1.2. Bố cục của bài nghiên cứu ........................................................................................ 4
CHƯƠNG II. THỜI KỲ ĐỔI MỚI ................................................................................ 4
2.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................................ 4
2.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước ............ 6
2.2. Đường lối đổi mới của Đảng ...................................................................................... 8
CHƯƠNG III. THÀNH TỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI ..................................................... 9
3.1.1. Đổi mới chính tr ....................................................................................................... 9
3.1.2. Thành tựu đổi mới chính trị ..................................................................................... 9
3.2. Thành tựu về kinh tế ................................................................................................. 13
3.2.1. Đường lối đổi mới về kinh tế ................................................................................. 13
3.3. Thành tựu về ngoại giao ........................................................................................... 19
3.4. Thành tựu về văn hóa ............................................................................................... 23
3.4.1. Về chủ trương, đường lối ....................................................................................... 23
3.4.2. Định hướng đối với các chính sách văn hoá ........................................................ 25
3.4.3. Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa ...................................... 27
3.5. Thành tựu đổi mới xã hội ......................................................................................... 28
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN ............................................................................................ 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 34
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta cùng kkhăn. Chúng ta bị các nước bao
vây cấm vận. Liên Đông Âu bắt đầu cải cách mcửa nên cắt giảm viện trợ.
Trong nước sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực
lOMoARcPSD| 23136115
kinh tế cùng nhỏ bé. Trước tình đó, Tổng thư Trường Chinh tiến hành các cuộc
khảo sát thực tế tập hợp các nhà khoa học để vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc
phải đổi mới duy về luận cũng như duy kinh tế. Đó phải xóa bỏ chế
quan liêu bao cấp, phải chế tự hoặch toán, tchủ tài chính, phải bắt đầu áp
dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt
đầu từ việc đổi mới tư duy, “trước hết duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như nguyên nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế -
hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ hiện đại của những
chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài “Những thành tựu và hạn chế trong phát triển
kinh tế Việt Nam từ khi đổi mới cho tới nay” để đánh gnhững sau đổi mới mang
lại cho đất nước và rút ra bài học cho phát triển kinh tế xã hội sau này.
1.2. Bố cục của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu gồm 3 phần
- Chương I. Tổng quan về đề tài
- Chương II. Thời kỳ đổi mới
- Chương III. Thành tựu thời kỳ đổi mới
- Chương IV. Kết luận
CHƯƠNG II. THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
2.1.1. Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình
diện quốc tế
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các
nước xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách,
đổi mới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu
trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ
nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường
phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại.
lOMoARcPSD| 23136115
Vào đầu những năm 1980, chế quảntập trung quan liêu, bao cấp của các
nước hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ slạc hậu. Trong xây dựng kinh
tế, các quốc gia này chỉ duy tquan hệ khép kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế
(Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế đang phát
triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa
cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã
hội ch nghĩa bỏ qua sự khác nhau vlịch sử, hội, địa lý, văn hóa cũng như
điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực
tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước
xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự
khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội giảm sút nghiêm trọng. Thực tiễn đó, đặt ra yêu
cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, Việt Nam phải tiến hành cải
cách, đổi mới đất nước toàn diện.
Sự sụp đổ
CNXH của các nước Đông Âu (Nguồn-nghiencuulichsu.com)
lOMoARcPSD| 23136115
Nhận thức tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế
sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng sản cầm
quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước như Đảng Cộng
sản Trung Quốc từ năm 1978, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên,
Đảng Cộng sản Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Thực tiễn cho thấy
Trung Quốc, Việt Nam, Cuba từng bước vượt qua khủng hoảng, đạt được nhiều thành
tựu đáng kể về chính trị, xã hội, kinh tế sau thời gian cải cách, đổi mới đất nước. Tuy
vậy, do nhiều nguyên nhân nên kết quả mỗi nước hội chủ nghĩa không hoàn toàn
giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một số Đảng Cộng sản không tìm ra lối đi
thích hợp, dao động hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng chủ nghĩa hội, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa
đế quốc nên công cuộc cải tổ, đổi mới đất nước lâm vào bế tắc và thất bại. Sự sụp đổ
của chế độ hội chủ nghĩa Đông Âu Liên vào cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng sinh động cho nhận định này.
2.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất
nước
Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, n định đời sống của người dân,
Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa đòi hỏi bức thiết của đất nước thời đại. Quá trình này
đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo
có tính cách mạng.
lOMoARcPSD| 23136115
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam 1986 (Nguồn-daihoi13.dangcongsan.vn)
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được
đánh giá mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới chế quản kinh tế nước ta.
Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương bản này, Đảng Nhà nước
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển
sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nông dân được
nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm lao động người lao động trong hợp tác nông nghiệp”.
Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện
nay đòi hỏi phải một chế quản năng động, khả năng bãi bỏ chế tập
trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân
chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung
ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay phải kiên quyết nhanh
chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 23136115
2.2. Đường li đổi mới của Đảng
Đường lối đổi mới đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), được điều
chỉnh, bổ sung và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), VIII (6 - 1996), IX (4 2001).
Quan điểm đối mới của Đảng:
- Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, mà
làm chonhững mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm
đúng đắn về Chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
- Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức,
tư tưởng, văn hóa. Đổi mới kinh tế và chính trị gắn bó mật thiết, nhưng trọng tâm
là đổi mới kinh tế.
- Về đổi mới kinh tế:
+ Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, hình thànhchế thị trường
+ Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô,
trình độ công nghệ.
+ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng hội chủ
nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Về đổi mới chính trị:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
+ Xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hữu
nghị, hợp tác.
lOMoARcPSD| 23136115
CHƯƠNG III. THÀNH TỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Về chính trị
3.1.1. Đổi mới chính trị
Đổi mới, theo quan điểm chung nhất là từ cái vốn có của thế giới (tự nhiên, xã
hội tư duy), nhằm làm cho cái trở thành cái mới tốt hơn, đó hành động để
phát triển, phương thức phát triển, hành động của con người trong xã hội diễn
ra không ngừng. Mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc luôn phải tự đổi
mới để phát triển lên trình độ mới, cao hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sdụng thuật ngữ đổi mới”, thể hiện trong các tác
phẩm: Đường kách mệnh (1927), Sửa đổi lề lối làm việc (1947), Đời sống mới (1947),
Dân vận (1949) và các bản Di chúc (1965-1969). Từ 1927, Người quan niệm “Kách
mệnh” là “phá cái cũ, đổi ra cái mới”, “phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Năm 1949, Người
cho rằng “công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự
cần thiết phải không ngừng đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới,
trong nước, Người cho rằng: “Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng
tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới
bản chất của một cuộc cách mạng hội, nên Người cho rằng: “xã hội… càng phát
triển”, “tư tưởng hành động càng phát triển”, “nếu cứ gilấy cách cũ, không thay
đổi là không đi đến đâu cả”.
Trước tình hình đất nước trong những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên 80
thế kỷ XX, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhấn mạnh: Đổi mới vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Sau khi nêu nội dung đổi mới cơ chế quản kinh tế, đổi mới chính sách
hội, Đại hội tập trung nêu bật nội dung đổi mới Đảng: đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh
đạo công tác của Đảng. Sau đại hội VI, “đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các
văn kiện của Đảng, trong sách báo, cũng như trong ngôn ngữ hàng ngày của nhân
dân ta.
3.1.2. Thành tựu đổi mới chính trị
Sau hơn 30 năm đổi mới, với tầm nhìn chiến lược trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận chính trị
khá hoàn chỉnh, lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
lOMoARcPSD| 23136115
quốc. Đó một trong những nguồn gốc của những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch
sử. Có thể khái quát một số vấn đề cơ bản về đổi mới tư duy lý luận chính trị sau:
Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về con đường quá độ lên
CNXH.
Mặc thế giới nhiều biến động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Những chủ trương giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân tộc
CNXH, qua lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn con đường đã chọn. Bài học chung
cho mọi quyết sách trong thời đại hiện nay tiếp tục m sâu sắc hệ giá trị phát triển
Việt Nam theo con đường đã chọn; tìm ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử tốt nhất
trong mọi tình huống, bước ngoặt chiến lược của cách mạng trong tình hình mới; để
tiếp tục kiến giải một cách khoa học con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
bản chủ nghĩa mang bản sắc Việt Nam.
Thứ hai, những nội dung luận chính trị bản góp phần hoạch định các quyết
sách chính trị của Đảng trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng HChí Minh làm nền tảng
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Từ đó, định hướng, định hình định tính CNXH
mà nhân dân ta xây dựng. Công tác lý luận đã xác định mô hình (định hình) CNXH
mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng và 8 mối quan hệ lớn. Theo đó, công tác lý
luận đã định tính CNXH trên từng lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới như kinh
tế, chính trị, văn hóa, hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… Đồng thời chỉ
những khía cạnh cần đề phòng chệch hướng hội chủ nghĩa… Định hướng, định
mô hình và định tính CNXH của Đảng ta là bước khởi nguyên và cũng là quan điểm
chỉ đạo quán xuyến toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH.
Bước vào công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta đã xác định, xây dựng kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất là tư
duy kinh tế. Theo đó công tác lý luận của Đảng tập trung mọi kiến giải, xác lập, thực
thi nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa - hình nền kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa chủ trương
đúng đắn, phợp quy luật, hợp với lòng dân theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, hợp
lOMoARcPSD| 23136115
với xu thế phát triển của thời đại, của Đảng ta, một đóng góp lớn, mới mẻ đối với
công tác lý luận.
Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững
mạnh, trong sạch, ngang tầm với yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây
dựng luận nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa sự phát triển mới về nhận thức
chính trị, đồng thời đó là mục tiêu, nội dung căn bản, bước tiến lớn về thực tiễn đổi
mới về chính trị của Đảng ta.
Xây dựng lý luận nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam
thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định nền văn hóa Việt Nam mới mục tiêu, nền tảng,
động lực của công cuộc đổi mới, nhằm đưa nước ta khỏi nước kém phát triển, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phấn đấu đến năm 2020, nước ta
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vấn đề mới, Đảng ta nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện quyết liệt là tạo sự
phát triển hài hòa giữa kinh tế văn hóa nhằm phát triển đất nước. Đảng ta chủ
trương tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí,
giáo dục đào tạo con người, xây dựng phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng nền
văn hoá Việt Nam với chủ thể là con người là một bước tiến nổi bật trong nhận thức,
thực tiễn đổi mới văn hóa góp phần quan trọng để phát triển trong chiến lược tiếp
theo.
Xây dựng luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của công cuộc đổi mới xu thế của thời đại, hơn 30 năm qua, Đảng ta đã chủ
động xây dựng một nền luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất nước hội
nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Quan điểm chung tập hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước, sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để khẳng định v trí độc lập, vai trò tích cực, chủ động của đấtớc ta
trước cộng đồng quốc tế vì một thế giới hòa bình, phát triển và tiến bộ.
Phát triển luận về Đảng cộng sản Việt Nam. thể khái quát qua các phương
diện: Quan niệm về cầm quyền, Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong
điều kiện quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cơ sở cầm quyền gồm cơ sở lý luận, cơ sở kinh
lOMoARcPSD| 23136115
tế và cơ sở xã hội. Về lý luận, nền tảng để mọi hoạt động của Đảng diễn ra đúng quy
luật, hợp lòng dân, hợp thời đại, là chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh.
Về kinh tế là tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ, bền vững với xung lực là kinh tế tri thức.
Về xã hội là nhân dân muốn bảo đảm được quyền lực của mình phải có sự lãnh đạo
của Đảng; đến lượt Đảng, muốn giữ vững vị thế và vai trò cầm quyền của mình cần
phải có cái nền nhân dân, phải coi trọng “dân là gốc”, “lấy dân làm gốc”.
Nguyên tắc, phương châm, chiến, sách lược cầm quyền, về nguyên tắc Đảng
không được phép chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ ai hoặc buông lỏng quyền đó
quyền mà lịch sử và nhân dân đã giao cho Đảng là đứng mũi chịu sào trước lịch sử.
Về phương hướng là đưa nước Việt Nam độc lập, tự do tiến lên CNXH. Về phương
châm đnhân dân chủ nhân nhân dân làm chủ thông qua Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về chiến lược và sách lược là vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến mục tiêu chiến lược của
Đảng: độc lập dân tộc CNXH. Theo mục tiêu tưởng của Đảng, Đảng hoạch
định Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ, hoạch định
chính sách theo từng giai đoạn.
Nội dung cầm quyền là sự bao quát, chi phối một cách toàn diện, triệt để và sâu
sắc toàn bộ đời sống hoạt động của đất nước theo mục tiêu CNXH. chế cầm
quyền là sự vận hành và phát triển không ngừng mối quan hệ giữa Đảng Nhà nước -
Nhân dân mối quan hệ máu thịt không thể tách rời, không thể phá vỡ vì mục tiêu
độc lập và CNXH.
Phương thức cầm quyền là, về nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện,
trọng tâm trên sở phân định ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng Nhà
nước. Không ngừng xây dựng các đoàn thể chính trị - hội vững mạnh trên sở
đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế vai tcủa các tổ chức này trong hệ thống
chính trị.
Nguồn lực cm quyền, có ba nguồn lực chính bảo đảm sự cầm quyền của Đảng
vững chắc đó nguồn lực con người, tổ chức bộ máy nhân tố vật chất. Môi trường
cầm quyền, một trong những mục đích của sự cầm quyền là đảm bảo sổn định chính
trị - xã hội để phát triển đất nước, đến lượt nó, mọi sự phát triển đều nhằm tới đảm
bảo sự ổn định cao hơn về chính trị - xã hội. Cùng với đó là cần xác lập, bảo vệ môi
lOMoARcPSD| 23136115
trường pháp luật vững bền nhằm bảo đảm triệt đcách pháp nhân của Đảng với
vị thế là một chủ thể, chính trị.
3.2. Thành tựu về kinh tế
3.2.1. Đường lối đổi mới về kinh tế
Từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều
tìm tòi, đổi mới tư duy phát triển kinh tế nhằm đưa đất nước vượt qua những khó
khăn, khủng khoảng do hậu quả của chiến tranh để lại, những tác động tiêu cực của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, sự bao vây cấm vận…; thúc đẩy phát triển kinh tế - hội, đưa đất nước
vững bước trên con đường Đảng nhân dân ta đã lựa chọn. Thực tiễn hơn 36
năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hộinước ta cho phép khẳng định những
giá trị cốt lõi, phản ánh tư duy đột phá, sáng tạo của Đảng trong lý luận về đường lối
đổi mới, phát triển kinh tế, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột plý luận rất
cơ bản và sáng tạo
(1)
, mang tính chất nền tảng, then chốt trongluận về đường lối
đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng ta, bắt nguồn từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Đây là thành quả lý luận quan trọng của công cuộc thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI của Đảng, sự đúc kết xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Thứ hai, chủ trương bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ công bằng hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ công bằng hội ngay trong từng bước, từng chính sách trong
suốt quá trình phát triển.
Trong suốt tiến trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới (tính từ thời điểm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến trước tháng 12-1986), việc giải quyết
vấn đề tiến bộ, công bằng hội nước ta còn mang tưởng nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế, mang tính bình quân, bao cấp.
Điều đó đã triệt tiêu động lực và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các mục tiêu
lOMoARcPSD| 23136115
về tiến bộ, công bằng xã hội đặt ra lại chậm được hiện thực hóa, thậm chí có lúc sai
lệch
Thứ ba, chủ trương kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới, hợp tác bình đẳng cùng lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại
hoà bình nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phát triển đất nước.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội sau
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã rút ra bài học kinh
nghiệm quý báu: “Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới”
(9)
để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa
hội, đồng thời khẳng định, nhiệm vụ phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước “tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan
trọng vào việc mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”
(10)
. Trên sở đó,
Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại;
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên sở các nguyên tắc bản của
Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng lợi;
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực,
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
3.2.2. Thành tựu về kinh tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Ch
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng
4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công
nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -
14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,
lOMoARcPSD| 23136115
… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp
hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước
quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng
sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đi cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch
vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu
tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990 (2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt
nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(3).
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -
1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư
nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng
5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” (5).
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau
cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm
2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu
lOMoARcPSD| 23136115
người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
nước đang phát triển thu nhập thấp (500 USD) (6). Từ một nước thiếu ăn, mỗi
năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới
về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về
cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn đnh chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách
và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và
chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so
với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng
vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải
ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế
đạt 101,6 t USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (7).
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1
lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
lOMoARcPSD| 23136115
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn
thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước
tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số
giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và
bằng 33,5% GDP. Xuất, nhâp k ẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch
xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến
tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong
đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng
đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao
khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong
nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành
công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình
thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững
chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và
liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005
lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm
2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
lOMoARcPSD| 23136115
xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát
triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phn,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực
lOMoARcPSD| 23136115
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại
song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế
đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu
tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. Việc
kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt
một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn
tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
3.3. Thành tựu về ngoại giao
Qua 30 năm đổi mới theo đường lối của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, trong
đó có thành tựu quan trọng về đối ngoại.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng ta đề ra
đường lối đổi mới toàn diện, coi đây vấn đý nghĩa sống còn. Trên lĩnh vực đối
ngoại, Đảng ta thể hiện quan điểm mới, như cho rằng: Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự hình thành thị trường thế giới,…sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn là “thi đua về kinh tế”; xu thế mở rộng phân công hợp tác giữa
các nước, kể cả các nước chế độ kinh tế - hội khác nhau, điều kiện quan
trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng đã chủ trương:
Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sau gần hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tháng 5/1988, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, khẳng
định mục tiêu chiến lược lợi ích cao nhất của Việt Nam giữ vững hòa bình và
phát triển kinh tế; đồng thời nêu quyết tâm, chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ
tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. Bộ chính trị
lOMoARcPSD| 23136115
xác định, đổi mới về duy đối ngoại bao gồm: Đổi mới tư duy cho kịp với sự phát
triển nhanh chóng của tình hình thế giới, kết hợp sức mạnh của thời Đại trong điều
kiện mới của tình hình thế giới. Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới tư duy về công
tác đối ngoại. Đây sở hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VII của Đảng (6/1991) tiếp tục chủ trương mở rộng quan
hệ đối ngoại. Đại hội khẳng định mạnh mẽ: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với
tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - hội khác nhau, trên sở
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Đại hội còn nhấn mạnh: Cần nhạy bén dự báo được những diễn biến phức
tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù
hợp. Như vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội VII đã
chuyển biến lớn trong nhận thức; chuyển từ đường lối đối ngoại mang đậm
tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia và tư tưởng chính
trị thực tế.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Đảng chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại theo phương châm: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã kế thừa những nội dung cơ
bản của đường lối đối ngoại được thông qua tại các kỳ Đại hội trước, đặc biệt là Đại
hội XI và những bổ sung, phát triển mới. Đại hội chủ trương tiếp tục thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động tích cực hội nhập
quốc tế; bạn, là đối tác tin cậy thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác
đi vào chiều sâu.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23136115
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN KHOA KINH TẾ ------------- ------------- TIỂU LUẬN LỊCH SỬ KINH TẾ
Đề tài: Các cuộc cách mạng công nghiệp qua các giai đoạn phát triển kinh tế
các quốc gia trên thế giới GVHD Hoàng Thị Hồng Đào Lớp 114231 Sinh viên Đặng Khánh Ly Mã sinh viên 11423226
Hưng Yên, 12/2023 lOMoAR cPSD| 23136115 LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến khoa Kinh tế Trường ĐHSPKT Hưng
Yên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Hoàng Thị Hồng Đào đã dày
công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn em trong quá trình làm bài.
Em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế và không có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và trình bày. Rất
kính mong sự góp ý của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. lOMoAR cPSD| 23136115 MỤC LỤC
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ....................................................................... 3
1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 3
1.2. Bố cục của bài nghiên cứu ........................................................................................ 4
CHƯƠNG II. THỜI KỲ ĐỔI MỚI ................................................................................ 4
2.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................................ 4
2.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước ............ 6
2.2. Đường lối đổi mới của Đảng ...................................................................................... 8
CHƯƠNG III. THÀNH TỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI ..................................................... 9
3.1.1. Đổi mới chính trị ....................................................................................................... 9
3.1.2. Thành tựu đổi mới chính trị ..................................................................................... 9
3.2. Thành tựu về kinh tế ................................................................................................. 13
3.2.1. Đường lối đổi mới về kinh tế ................................................................................. 13
3.3. Thành tựu về ngoại giao ........................................................................................... 19
3.4. Thành tựu về văn hóa ............................................................................................... 23
3.4.1. Về chủ trương, đường lối ....................................................................................... 23
3.4.2. Định hướng đối với các chính sách văn hoá ........................................................ 25
3.4.3. Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa ...................................... 27
3.5. Thành tựu đổi mới xã hội ......................................................................................... 28
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN ............................................................................................ 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 34
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI 1.1.
Lý do chọn đề tài
Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Chúng ta bị các nước bao
vây cấm vận. Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ.
Trong nước sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực lOMoAR cPSD| 23136115
kinh tế vô cùng nhỏ bé. Trước tình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc
khảo sát thực tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc
phải đổi mới tư duy về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế
quan liêu bao cấp, phải có cơ chế tự hoặch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp
dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt
đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những
chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài “Những thành tựu và hạn chế trong phát triển
kinh tế Việt Nam từ khi đổi mới cho tới nay” để đánh giá những gì sau đổi mới mang
lại cho đất nước và rút ra bài học cho phát triển kinh tế xã hội sau này.
1.2. Bố cục của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu gồm 3 phần
- Chương I. Tổng quan về đề tài
- Chương II. Thời kỳ đổi mới
- Chương III. Thành tựu thời kỳ đổi mới - Chương IV. Kết luận
CHƯƠNG II. THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
2.1.1. Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các
nước xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách,
đổi mới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu
trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ
nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường
phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại. lOMoAR cPSD| 23136115
Vào đầu những năm 1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu. Trong xây dựng kinh
tế, các quốc gia này chỉ duy trì quan hệ khép kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế
(Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế đang phát
triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa
cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã
hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa cũng như
điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực
tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước
xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự
khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng. Thực tiễn đó, đặt ra yêu
cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải tiến hành cải
cách, đổi mới đất nước toàn diện. Sự sụp đổ
CNXH của các nước Đông Âu (Nguồn-nghiencuulichsu.com) lOMoAR cPSD| 23136115
Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và
sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng sản cầm
quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước như Đảng Cộng
sản Trung Quốc từ năm 1978, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên,
Đảng Cộng sản Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Thực tiễn cho thấy
Trung Quốc, Việt Nam, Cuba từng bước vượt qua khủng hoảng, đạt được nhiều thành
tựu đáng kể về chính trị, xã hội, kinh tế sau thời gian cải cách, đổi mới đất nước. Tuy
vậy, do nhiều nguyên nhân nên kết quả ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa không hoàn toàn
giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một số Đảng Cộng sản không tìm ra lối đi
thích hợp, dao động hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng chủ nghĩa xã hội, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa
đế quốc nên công cuộc cải tổ, đổi mới đất nước lâm vào bế tắc và thất bại. Sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng sinh động cho nhận định này.
2.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước
Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người dân,
Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại. Quá trình này
đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng. lOMoAR cPSD| 23136115
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam 1986 (Nguồn-daihoi13.dangcongsan.vn)
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được
đánh giá là mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta.
Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển
sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nông dân được
nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”.
Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện
nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng bãi bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân
chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung
ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là phải kiên quyết nhanh
chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 23136115
2.2. Đường lối đổi mới của Đảng
Đường lối đổi mới đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), được điều
chỉnh, bổ sung và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), VIII (6 - 1996), IX (4 2001).
Quan điểm đối mới của Đảng: -
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, mà
làm chonhững mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm
đúng đắn về Chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. -
Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức,
tư tưởng, văn hóa. Đổi mới kinh tế và chính trị gắn bó mật thiết, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế. -
Về đổi mới kinh tế:
+ Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường
+ Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ.
+ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. -
Về đổi mới chính trị:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. lOMoAR cPSD| 23136115
CHƯƠNG III. THÀNH TỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI 3.1. Về chính trị
3.1.1. Đổi mới chính trị
Đổi mới, theo quan điểm chung nhất là từ cái vốn có của thế giới (tự nhiên, xã
hội và tư duy), nhằm làm cho cái cũ trở thành cái mới tốt hơn, đó là hành động để
phát triển, là phương thức phát triển, là hành động của con người trong xã hội diễn
ra không ngừng. Mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc luôn phải tự đổi
mới để phát triển lên trình độ mới, cao hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ “đổi mới”, thể hiện trong các tác
phẩm: Đường kách mệnh (1927), Sửa đổi lề lối làm việc (1947), Đời sống mới (1947),
Dân vận (1949) và các bản Di chúc (1965-1969). Từ 1927, Người quan niệm “Kách
mệnh” là “phá cái cũ, đổi ra cái mới”, “phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Năm 1949, Người
cho rằng “công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự
cần thiết phải không ngừng đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới,
trong nước, Người cho rằng: “Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng
tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới
là bản chất của một cuộc cách mạng xã hội, nên Người cho rằng: “xã hội… càng phát
triển”, “tư tưởng hành động càng phát triển”, “nếu cứ giữ lấy cách cũ, không thay
đổi là không đi đến đâu cả”.
Trước tình hình đất nước trong những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên 80
thế kỷ XX, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhấn mạnh: Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Sau khi nêu nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới chính sách
xã hội, Đại hội tập trung nêu bật nội dung đổi mới Đảng: đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh
đạo và công tác của Đảng. Sau đại hội VI, “đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các
văn kiện của Đảng, trong sách báo, cũng như trong ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân ta.
3.1.2. Thành tựu đổi mới chính trị
Sau hơn 30 năm đổi mới, với tầm nhìn chiến lược trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận chính trị
khá hoàn chỉnh, lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ lOMoAR cPSD| 23136115
quốc. Đó là một trong những nguồn gốc của những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử. Có thể khái quát một số vấn đề cơ bản về đổi mới tư duy lý luận chính trị sau:
Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về con đường quá độ lên CNXH.
Mặc dù thế giới có nhiều biến động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Những chủ trương và giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH, qua lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn con đường đã chọn. Bài học chung
cho mọi quyết sách trong thời đại hiện nay là tiếp tục làm sâu sắc hệ giá trị phát triển
Việt Nam
theo con đường đã chọn; tìm ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử tốt nhất
trong mọi tình huống, bước ngoặt chiến lược của cách mạng trong tình hình mới; để
tiếp tục kiến giải một cách khoa học con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa mang bản sắc Việt Nam.
Thứ hai, những nội dung lý luận chính trị cơ bản góp phần hoạch định các quyết
sách chính trị của Đảng trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Từ đó, định hướng, định hình và định tính CNXH
mà nhân dân ta xây dựng.
Công tác lý luận đã xác định mô hình (định hình) CNXH
mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng và 8 mối quan hệ lớn. Theo đó, công tác lý
luận đã định tính CNXH trên từng lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới như kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… Đồng thời chỉ rõ
những khía cạnh cần đề phòng chệch hướng xã hội chủ nghĩa… Định hướng, định
mô hình và định tính CNXH của Đảng ta là bước khởi nguyên và cũng là quan điểm
chỉ đạo quán xuyến toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH.
Bước vào công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta đã xác định, xây dựng kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất là tư
duy kinh tế. Theo đó công tác lý luận của Đảng tập trung mọi kiến giải, xác lập, thực
thi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình nền kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương
đúng đắn, phù hợp quy luật, hợp với lòng dân theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, hợp lOMoAR cPSD| 23136115
với xu thế phát triển của thời đại, của Đảng ta, một đóng góp lớn, mới mẻ đối với công tác lý luận.
Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững
mạnh, trong sạch, ngang tầm với yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây
dựng lý luận nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự phát triển mới về nhận thức
chính trị, đồng thời đó là mục tiêu, nội dung căn bản, bước tiến lớn về thực tiễn đổi
mới về chính trị của Đảng ta.
Xây dựng lý luận nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam
thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định nền văn hóa Việt Nam mới là mục tiêu, nền tảng,
động lực
của công cuộc đổi mới, nhằm đưa nước ta khỏi nước kém phát triển, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vấn đề mới, Đảng ta nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện quyết liệt là tạo sự
phát triển hài hòa giữa kinh tế văn hóa nhằm phát triển đất nước. Đảng ta chủ
trương tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí,
giáo dục và đào tạo con người, xây dựng phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng nền
văn hoá Việt Nam với chủ thể là con người là một bước tiến nổi bật trong nhận thức,
thực tiễn đổi mới văn hóa góp phần quan trọng để phát triển trong chiến lược tiếp theo.
Xây dựng lý luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của công cuộc đổi mới và xu thế của thời đại, hơn 30 năm qua, Đảng ta đã chủ
động xây dựng một nền lý luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất nước hội
nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Quan điểm chung là tập hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước, sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để khẳng định vị trí độc lập, vai trò tích cực, chủ động của đất nước ta
trước cộng đồng quốc tế vì một thế giới hòa bình, phát triển và tiến bộ.
Phát triển lý luận về Đảng cộng sản Việt Nam. Có thể khái quát qua các phương
diện: Quan niệm về cầm quyền, Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong
điều kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cơ sở cầm quyền gồm cơ sở lý luận, cơ sở kinh lOMoAR cPSD| 23136115
tế và cơ sở xã hội. Về lý luận, nền tảng để mọi hoạt động của Đảng diễn ra đúng quy
luật, hợp lòng dân, hợp thời đại, là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về kinh tế là tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ, bền vững với xung lực là kinh tế tri thức.
Về xã hội là nhân dân muốn bảo đảm được quyền lực của mình phải có sự lãnh đạo
của Đảng; đến lượt Đảng, muốn giữ vững vị thế và vai trò cầm quyền của mình cần
phải có cái nền nhân dân, phải coi trọng “dân là gốc”, “lấy dân làm gốc”.
Nguyên tắc, phương châm, chiến, sách lược cầm quyền, về nguyên tắc Đảng
không được phép chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ ai hoặc buông lỏng quyền đó
quyền mà lịch sử và nhân dân đã giao cho Đảng là đứng mũi chịu sào trước lịch sử.
Về phương hướng là đưa nước Việt Nam độc lập, tự do tiến lên CNXH. Về phương
châm là để nhân dân là chủ nhân và nhân dân làm chủ thông qua Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về chiến lược và sách lược là vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến là mục tiêu chiến lược của
Đảng: độc lập dân tộc và CNXH. Theo mục tiêu lý tưởng của Đảng, Đảng hoạch
định Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ, hoạch định
chính sách theo từng giai đoạn.
Nội dung cầm quyền là sự bao quát, chi phối một cách toàn diện, triệt để và sâu
sắc toàn bộ đời sống và hoạt động của đất nước theo mục tiêu CNXH. Cơ chế cầm
quyền là sự vận hành và phát triển không ngừng mối quan hệ giữa Đảng Nhà nước -
Nhân dân là mối quan hệ máu thịt không thể tách rời, không thể phá vỡ vì mục tiêu độc lập và CNXH.
Phương thức cầm quyền là, về nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện,
có trọng tâm trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước. Không ngừng xây dựng các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh trên cơ sở
đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế và vai trò của các tổ chức này trong hệ thống chính trị.
Nguồn lực cầm quyền, có ba nguồn lực chính bảo đảm sự cầm quyền của Đảng
vững chắc đó là nguồn lực con người, tổ chức bộ máy và nhân tố vật chất. Môi trường
cầm quyền
, một trong những mục đích của sự cầm quyền là đảm bảo sự ổn định chính
trị - xã hội để phát triển đất nước, đến lượt nó, mọi sự phát triển đều nhằm tới đảm
bảo sự ổn định cao hơn về chính trị - xã hội. Cùng với đó là cần xác lập, bảo vệ môi lOMoAR cPSD| 23136115
trường pháp luật vững bền nhằm bảo đảm triệt để tư cách pháp nhân của Đảng với
vị thế là một chủ thể, chính trị.
3.2. Thành tựu về kinh tế
3.2.1. Đường lối đổi mới về kinh tế
Từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều
tìm tòi, đổi mới tư duy phát triển kinh tế nhằm đưa đất nước vượt qua những khó
khăn, khủng khoảng do hậu quả của chiến tranh để lại, những tác động tiêu cực của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, sự bao vây cấm vận…; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước trên con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Thực tiễn hơn 36
năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta cho phép khẳng định những
giá trị cốt lõi, phản ánh tư duy đột phá, sáng tạo của Đảng trong lý luận về đường lối
đổi mới, phát triển kinh tế, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “đột phá lý luận rất
cơ bản và sáng tạo”(1), mang tính chất nền tảng, then chốt trong lý luận về đường lối
đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng ta, bắt nguồn từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Đây là thành quả lý luận quan trọng của công cuộc thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI của Đảng, sự đúc kết xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Thứ hai, chủ trương bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển.

Trong suốt tiến trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới (tính từ thời điểm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến trước tháng 12-1986), việc giải quyết
vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta còn mang tư tưởng nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế, mang tính bình quân, bao cấp.
Điều đó đã triệt tiêu động lực và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các mục tiêu lOMoAR cPSD| 23136115
về tiến bộ, công bằng xã hội đặt ra lại chậm được hiện thực hóa, thậm chí có lúc sai lệch
Thứ ba, chủ trương kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại
hoà bình nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phát triển đất nước.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã rút ra bài học kinh
nghiệm quý báu: “Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới”(9) để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đồng thời khẳng định, nhiệm vụ phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước “tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan
trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”(10). Trên cơ sở đó,
Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại;
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi;
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực,
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
3.2.2. Thành tựu về kinh tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng
4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công
nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -
14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, lOMoAR cPSD| 23136115
… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp
hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước
quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng
sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch
vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu
tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990 (2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt
nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(3).
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -
1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư
nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng
5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” (5).
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau
cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm
2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu lOMoAR cPSD| 23136115
người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) (6). Từ một nước thiếu ăn, mỗi
năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới
về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách
và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và
chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so
với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng
vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải
ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế
đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (7).
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1
lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm). lOMoAR cPSD| 23136115
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn
thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước
tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số
giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và
bằng 33,5% GDP. Xuất, nhâp kḥ
ẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch
xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến
tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong
đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng
đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao
khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong
nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành
công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình
thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và
liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005
lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; lOMoAR cPSD| 23136115
xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát
triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực lOMoAR cPSD| 23136115
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại
song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu
tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. Việc
kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt
một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn
tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
3.3. Thành tựu về ngoại giao
Qua 30 năm đổi mới theo đường lối của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong
đó có thành tựu quan trọng về đối ngoại.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng ta đề ra
đường lối đổi mới toàn diện, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Trên lĩnh vực đối
ngoại, Đảng ta thể hiện quan điểm mới, như cho rằng: Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự hình thành thị trường thế giới,…sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn là “thi đua về kinh tế”; xu thế mở rộng phân công hợp tác giữa
các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, là điều kiện quan
trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng đã chủ trương:
Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sau gần hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tháng 5/1988, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, khẳng
định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Việt Nam là giữ vững hòa bình và
phát triển kinh tế
; đồng thời nêu rõ quyết tâm, chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ
tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. Bộ chính trị lOMoAR cPSD| 23136115
xác định, đổi mới về tư duy đối ngoại bao gồm: Đổi mới tư duy cho kịp với sự phát
triển nhanh chóng của tình hình thế giới, kết hợp sức mạnh của thời Đại trong điều
kiện mới của tình hình thế giới.
Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới tư duy về công
tác đối ngoại. Đây là cơ sở hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam
.
Đại hội Đảng lần thứ VII của Đảng (6/1991) tiếp tục chủ trương mở rộng quan
hệ đối ngoại. Đại hội khẳng định mạnh mẽ: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với
tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình
”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển
”.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.

Đại hội còn nhấn mạnh: Cần nhạy bén và dự báo được những diễn biến phức
tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù
hợp. Như vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội VII đã
có chuyển biến lớn trong nhận thức; chuyển từ đường lối đối ngoại mang đậm tư
tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia và tư tưởng chính trị thực tế.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Đảng chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại theo phương châm: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã kế thừa những nội dung cơ
bản của đường lối đối ngoại được thông qua tại các kỳ Đại hội trước, đặc biệt là Đại
hội XI và có những bổ sung, phát triển mới. Đại hội chủ trương tiếp tục thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu.