Tiểu luận học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò
của văn hóa và sự vận dụng vào xây dựng, phát huy giá trị văn hóa
ở nước ta hiện nay”
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:
Khóa:
Giảng viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Kiều Ly
HÀ NÔI – 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa...............................................2
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa....................................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa..................................2
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.....................2
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận........................................................................4
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân................................................4
2. Liên hệ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa sự vận dụng vào
xây dựng, phát huy giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay.........................................5
2.1. Thực trạng xây dựng, phát huy giá trị của văn hóa ở nước ta hiện nay......5
2.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, phát huy vai trò của văn
hoá trong phát triển đất nước..........................................................................5
2.1.2. Về thành tựu........................................................................................11
2.1.3. Về hạn chế...........................................................................................12
2.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế...................................................13
2.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng, phát huy giá trị văn
hóa....................................................................................................................13
MỞ ĐẦU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị
trí quan trọng. sự chắt lọc, tổng hợp kết tinh những giá trị văn hóa của
Việt Nam, của Phương Đông Phương Tây, của truyền thống hiện đại, của
dân tộcquốc tế mà cốt lõi sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa,
bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang tạo ra những thay đổi lớn đối với thế
giới và làm biến đổi nhiều quan niệm truyền thống của con người thì các vấn đề
về văn hóa đang càng nhận được nhiều sự quan tâm hơn bao giờ hết. Không
ngoại lệ, ở Việt Nam, đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công
cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế, vấn đề văn hóa cũng được Đảng
Nhà nước xem trọng. Một trong những biểu hiện cụ thể đó chủ trương phát
triển hội đã ghi nhận được sự đổi mới trong duy luận của Đảng về vai
trò của con ngườivăn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”.
Xuất phát từ di sản tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, thực tiễn văn hóa Việt
Nam trong xu thế hội nhập, đề cao vai trò của văn hoá trong sự phát triển bền
vững sự tiến bộ hội, em đã lựa chọn chủ đề Trình bày quan điểm Hồ
Chí Minh về vai trò của văn hóa và sự vận dụng vào xây dựng, phát huy giá
trị văn hóa nước ta hiện nay để viết bài tiểu luận kết thúc môn học
Tưởng Hồ Chí Minh.
Rất mong thầy cô giáo bộ môn góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện cho
những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cám ơn!
1
NỘI DUNG
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: 1) Tiếp cận theo
nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; 2) Tiếp cận theo
nghĩa hẹp đời sống tinh thần của hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; 3) Tiếp
cận theo nghĩa hẹp hơn bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn
chữ, biết đọc biết viết (thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền
núi); 4) Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó tứcvăn hóa. Văn hóa
là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn
1
”.
Quan niệm văn hóa nêu trên của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một bối
cảnh thời gian không gian đặc biệt, khi UNESCO chưa thành lập, cả nước
đang tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đây quan niệm văn hóa duy
nhất theo nghĩa rộng. Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh bàn đến
văn hóa nhưng theo nghĩa hẹp, với ý nghĩa kiến trúc thượng tầng, toàn bộ
đời sống tinh thần của xã hội.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là mục tiêu. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
chủ nghĩa hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Như vậy,
cùng với chính trị, kinh tế, hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn
bộ tiến trình cách mạng. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa mục tiêu ,
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
2
nhìn một cách tổng quát là quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc;
khát vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó một hội dân
chủ - dân chủ dân làm chủ, công bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo
mặc, được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát
triển toàn diện.
Hồ Chí Minh đã đặt sở cho một hội phát triển bền vững với ba trụ
cột
là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Chúng ta có thể nhận thức ở những
mức độ khác nhau trong di sản Hồ Chí Minh về các mục tiêu của Chương trình
nghị sự XXII , một phần quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
2
Văn hóa là động lực. Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản
Hồ Chí Minh cho ta một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước, bao gồm
động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồngnhân; nội lực và ngoại
lực.
Tất cả quy tụ con người đều thể được xem xét dưới góc độ văn
hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tưởng Hồ Chí
Minh,
động lực có thể nhận thức ở các phương chủ yếu diện sau:
Văn hóa chính trị một trong những động lực ý nghĩa soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. duy
biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên một động lực lớn
dẫn đến tưởng hành động cách mạng chất lượng khoa học cách
mạng.
Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, tưởng, tình cảm
cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
2 Chương trình nghị sự XXI được 189 vị đứng đầu Nhà nước Chính phủ các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc thông qua vào thàng 9 năm 2000 có 8 mục tiêu cụ thể: (1) Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; (2) Đạt phổ
cập giáo dục tiểu học; (3) Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ ; (4) Giảm tỷ lệ tử vong
trẻ em; (5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; (6) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) Bảo đảm
bền vững về môi trường; (8) Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển.
3
Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy
luật phát triển của hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo
con người, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách
mạng.
Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh
hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt
do cán bộ thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Nhận thức như
vậy để thấy văn hóa đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận
Văn hóa một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - hội,
quan trọng ngang các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nói mặt trận văn hóa là
nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các
lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn
hóa. Mặt trận văn hóa cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa -
tưởng.
Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực
tưởng, đạo đức, lối sống... của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận,
đặc biệt là định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật.
Mặt trận văn hóa cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vậy anh chị
em văn nghệ là chiến trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến
nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến nghệ thuật phải lập trường tưởng
vững vàng; ngòi bút khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải
bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình nghiêm khắc
những thói
xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, ca tụng chân thật những
người
4
tốt việc tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay giáo dục con cháu đời
sau. Đó chính “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến.
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một
thời đại vẻ vang. vậy chiến văn nghệ phải những tác phẩm xứng đáng
với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư
tưởng văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi
hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh
được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân phải miêu tả cho hay, cho thật,
cho hùng hồn; phải trả lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài
liệu đâu viết? Cách viết như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết
rau muống ham dùng chữ. Nói cũng vậy. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía,
nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn. Tóm lại “từ trong quần chúng ra.
Về sâu trong quần chúng”. Trên cơ sở đó để định hướng giá trị cho quần chúng.
Chiến văn hóa phải hiểu đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng
những người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa
những liệu quý. chính họ những người thẩm định khách quan, trung
thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ. Nhân dân phải những người được
hưởng thụ các giá trị văn hóa.
2. Liên hệ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa và sự vận dụng
vào xây dựng, phát huy giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng xây dựng, phát huy giá trị của văn hóa ở nước ta hiện nay
2.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, phát huy vai trò của văn hoá
trong phát triển đất nước
Nhận thức tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, phát huy giá trị
văn hóa của Việt Nam, quán triệt tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã
5
có nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp về phát triển văn hóa qua các
thời kỳ, đã phát huy được những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam, tính ưu
việt của văn hóa xã hội chủ nghĩa được thể hiện, góp phần vào những thành tựu
to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định mục đích của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người gắn với
xây dựng một nền văn hoá của dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc làm hồi
sinh các giá trị văn hoá, thúc đẩy văn hoá dân tộc phát triển. Đó văn hoá yêu
nước, một nền văn hoá tiến bộ giàu giá trị nhân văn, văn hoá con người.
Sựn ghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựngphát triển văn
hoá.
Bước đột phá trong quan điểm của Đảng về lĩnh vực văn hoá gắn liền với
Đại hội VI (1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Đảng đã khẳng định vị trí
quan trọng của văn hoá trong việc xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho
con người. Yếu tố tinh thần của văn hoá một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân
của văn hoá tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng, Đảng đã cụ thể hoá
quan điểm ấy bằng hàng loạt Nghị quyết chỉ thị mang tính định hướng cho
quá trình phát huy hơn nữa vai trò của văn hoá đối với sự phát triển đất nước.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII diễn
ra từ ngày 6-7 đến 16-7- 1998, Đảng đã ra Nghị quyết xây dựng phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trở
thành văn bản mang tính pháp lý, việc thể chế hoá Nghị quyết tạo điều kiện
thuận lợi cho văn hoá phát triển sâu rộng, hiệu quả trên các mặt của đời sống
hội, đóng góp vai trò nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng phát triển đất
nước ổn định. Văn hoá trở thành nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng
cuộc sống, để xây dựng đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
hội. Hay nói cách khác, văn hoá trở thành nhân tố không thể thiếu trong mục
tiêu phát triển đất nước bền vững, toàn diện.
Trong Đại hội X, lần đầu tiên, vai trò của văn hoá - nền tảng tinh thần của
xã hội thành một mục tiêu riêng, “độc lập” với giáo dục, đào tạo, khoa học công
6
nghệ. Văn hoá nền tảng tinh thần của hội văn hoá chức năng định
hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống hội vai trò cốt tuỷ hệ
tưởng. Vai trò này của văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ phát huy
hiệu quả hơn nữa trong nhận thức cũng như trong hành động của các tổ chức, cá
nhân vì mục tiêu tiến bộ xã hội.
Đại hội XI, nhận định về vai trò của văn hoá được đúc kết đọng hơn,
cụ
thể hơn, tập trung vào các nội dung cụ thể. Văn hoá góp phần củng cố và tiếp tục
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục đinh
hướng việc đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh; cổ việc triển khai cuộc
vận động xây dựng gia đình Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Thứ nhất, văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.
Phát triển văn hóa nền tảng tinh thần cho sự phát triển của đất nước
quan điểm cơ bản trong ĐH lần thứ XIII của Đảng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta luôn quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) đã khẳng định “Phát triển toàn
diện các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa để văn hóa
thực sự nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh động lực đột phá cho phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”, nhằm tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững đất nước. Chính vậy, Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng sự kiện chính trị - văn hóa rất quan trọng,
phản ánh tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, thuật ngữ sức mạnh mềm
văn hóa xuất hiện. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định cần phải “Khẩn trương
triển khai phát triển trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa
dịch vụ văn hóa trên sở xác định phát huy sức mạnh mềm của văn hóa
Việt Nam, vận dụng hiệu quả các giá trị, tinh hoa thành tựu mới của văn
hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, gắn phát triển văn hóa với phát
7
triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ,
gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”.
3
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức, cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới khu vực như hiện nay, Đảng chỉ ra rằng cần tập trung vào
những giải pháp phát triển văn hóa thực sự nền tảng tinh thần, nguồn lực nội
sinh và là động lực đột phá cho phát triển kinh tế xã hội.
Gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá
thực hiện tiến bộ, công bằng hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng,
phát huy yếu tố văn hoá để thực sự đột phá phát triển kinh tế - hội, hội
nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để phát triển kinh tế, cải
thiện điều kiện và bảo đảm sự công bằng trong thụ hưởng các giá trị văn hóa của
nhân dân; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển đời sống văn hóa
giữa các vùng, miền, các giai tầng hội, các dân tộc thiểu số; xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, doanh nhân và văn hóa kinh doanh.
Thứ hai, văn hóa là một mặt trận.
Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định:
văn hóa là một mặt trận quan trọng, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi
4
”;
văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng. Trong thời kỳ Đổi
mới như hiện nay, Đảng luôn quan tâm, kế thừa, phát triển tư duy lý luận về văn
hóa và chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam, coi văn hóanền tảng
tinh thần vững chắc của hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và thực hiện
khát vọng xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa tiếp
tục được đổi mới trong giai đoạn hiện nay. chế phối hợp giữa các quan
của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể chính trị, hội trong
3 Đảng Cộng sản Việt Nam. Hà Nội, 2021, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, trang 145 - 146
4
Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, H, 1997, tr.11, 10, 11, 11, 320.
8
triển khai các nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người ngày càng chặt chẽ. Hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa từng bước được nâng lên. Nhà nước
ban hành nhiều chính sách, pháp luật, tạo sở pháp xây dựng phát triển
văn hóa, con người. Tạo cơ chế triển khai chính sách văn hóa trong kinh tế, xây
dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, văn hóa công sở, văn hóa gia
đình...
Đầu sở vật chất, kỹ thuật tiên tiến tập huấn nâng cao chất lượng
nhân lực cho hoạt động văn hóa đã được quan tâm. Nhân dân các vùng miền,
các dân tộc, các tôn giáo đóng góp sức người, sức của, tổ chức các hoạt động
văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa sở, bảo tồn phát huy di sản văn hóa
trên địa bàn... Việc Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
gắn với Cuộc vận động “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng
nếp sống văn hóa ứng xử nơi công cộng” được đẩy mạnh. Sự liên kết, phối
hợp giữa ba lĩnh vực: gia đình - nhà trường - hội trong xây dựng tưởng,
đạo đức, lối sống, nhân cách cho thế hệ trẻ được coi trọng.
Việc xây dựng thực hiện quy chế dân chủ sở, xây dựng quy ước
văn hóa khu dânđược quan tâm. Nhiệm vụ bảo tồnphát huy di sản văn
hóa dân tộc chuyển biến tích cực, tạo chế hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Đảng Nhà nước luôn
tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo gắn với trách nhiệm xã hội và đánh giá
cao sự đóng góp của văn nghệ sĩ, trí thức đối với sự nghiệp văn hóa dân tộc. Báo
chí, truyền thông khí tưởng, văn hóa sắc bén của Đảng, Nhà nước;
diễn đàn quan trọng góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân.
Việc xây dựng văn hóa trong chính trị được triển khai gắn với việc đẩy
mạnh học tập làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây
dựng văn hóa trong kinh tế bước đầuchuyển biến tốt hơn cả về nhận thức và
hành động, thể hiện ở văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh. Một số ngành
công nghiệp văn hóa của nước ta bước đổi mới, phát triển như điện ảnh, âm
nhạc, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, thời trang, du lịch văn hóa...
9
Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, góp phần
quảng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn thế giới, thúc đẩy
hội nhập, giao lưu quốc tế về văn hóa. Góp phần xây dựng văn hóa và con người
Việt Nam trước yêu cầu mới.
Thứ ba, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Mọi hoạt động văn hóa đều được Đảng Nhà nước hướng về với cuộc
sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tưởng khát vọng của quần
chúng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014) Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
thứ XII (1- 2016) của Đảng nêu phương hướng: “Xây dựng nền văn hóa con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của hội, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội XII nêu các nhiệm vụ cụ thể: 1.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện mục tiêu của chiến lược
phát triển. Tạo môi trường điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân,
ý thức tuân thủ pháp luật. Đấu tranh phê phán đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn,
lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây
dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. 2. Xây dựng môi trường văn hóa lãnh
mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn trong hệ thống chính trị,
trong các địa phương, làng bản...Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam. Phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh. 3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm
10
lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các quan nhà nước các đoàn thể,
coi đây nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. 4. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. 5. Làm tốt công tác lãnh đạo,
quản lý báo chí, xuất bản. 6. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng,
hoàn thiện thị trường dịch vụ sản phẩm văn hóa. 7. Chủ động hội nhập quốc
tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 8. Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực văn hóa.
2.1.2. Về thành tựu
Nhờ những định hướng đúng đắn của Đảng Nhà nước, việc xây dựng
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt
được nhiều kết quả tích cực.
Đến nay, cả nước trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó
3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa
thiên nhiên thế giới 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản liệu được
UNESCO công nhận. Đáng chú ý 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của
các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngoài nước được tổ chức, trong đó có
các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số; hệ thống
bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội dung hình thức
trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa,
khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm
xây dựng từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp xã,
bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc hơn 26.000 thư viện các quan nhà
nước, lực lượng trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành.
Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được mở rộng một số quốc gia,
trong nước cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trò của gia đình, nhà
trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, môi trường
văn hóa lành mạnh luôn được quan tâm.
11
Đầu cho sự nghiệp văn hóa không chỉ được coi trọng từ nguồn ngân
sách nhà nước còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn hội hóa; Đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó cả văn hóa quần
chúng, nghệ nhân văn hóa đỉnh cao; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa được mở rộng từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển
biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống
thông tin, báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương
với tất cả các loại hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc
tế cho người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong thời đại công nghệ
thông tin, mạng hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn
giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các
thông tin sai trái, thù địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền
liên quan, công nghiệp văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với
12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế
song phương đa phương, thông tin đối ngoại hợp tác quốc tế về văn hóa
tiếp tục phát triển sâu rộng.
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ ra: “Nhận thức về văn hóa, hội, con
người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn
hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống
hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn
và phát huy. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi
trọng phát huy hiệu quả, thiết thực. Hoạt động giao lưu, hợp táchội nhập
quốc tế về văn hóa nhiều khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam
từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - hội. Việc
phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm,
hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng”.
2.1.3. Về hạn chế
Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Chưa phát huy
12
hết vai trò, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển của đất nước,
một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ
chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa một số lĩnh vực, địa
phương còn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với
yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu
hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những nơi
khó khăn còn chậm. Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ
thuật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn còn không
ít tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…Thực tế trên
nhiều nguyên nhân, cả chủ quan khách quan, như: Tình hình trong nước
quốc tế có nhiều thay đổi, một số lĩnh vực chưa lường hết được tác động của tàn
văn hóa cũ, lạc hậu, của mặt trái chế thị trường, hội nhập quốc tế; nhận
thức việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa
một số địa phương, lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều kiện kinh
tế, hội của Việt Nam còn không ít khó khăn, do đó đầu cho phát triển văn
hóa còn hạn chế.
2.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế
Nâng cao nhận thức của toàn hội về vị trí, vai trò của văn hóa. Xác
định phát triển văn hóa sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để phát triển văn
hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh, gia đình, nhà trường
hội sẽ nơi hình thành, nuôi dưỡng, vun đắp nhân cách, văn hóa giáo
dục lối sống cho con người, để cái tốt, cái thiện được bảo vệ, nhân lên; cái xấu,
cái ác bị lên án, bài trừ.
Để văn hóa liên kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội phải
quan tâm xây dựng đời sống văn hóa sở, đầu cho văn hóa tinh hoa, tạo
điều kiện cho nhân cộng đồng được tham gia sáng tạo hưởng thụ văn
hóa.
13
Phát huy sứ mệnh của văn học nghệ thuật, vai trò của văn nghệ sĩ đối với
xây dựng đạo đức, văn hóa ứng xử. Tăng cường đầu xứng đáng cho văn hóa,
tương xứng với vai trò của văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực. Tăng cường hội
nhập về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời quảng bá văn hóa
Việt Nam ra bạn bè thế giới.
2.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng, phát huy giá trị văn
hóa
Mỗi nhân, mỗi người dân cần chung sức đồng lòng với Đảng Nhà
nước để xây dựng, phát huy những giá trị văn hóa. Riêng ới thế hệ trẻ, iệc này
còn quan trọng hơn bởi ì họ “người chủ tương lai của nước nhà”; cái cầu
nối giữa các thế hệ - “người tiếp ѕức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng
thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính ì ậу, chúng
em cần phải trách nhiệm, nghiêm túc trong việc xây dựng, phát huy giá trị
văn hóa. Để thực hiện được điều đó, trước hết, chúng em phải nhận thức bổn
phận, trách nhiệm trong việc xây dựng phát huy giá trị văn hóa. Phải nhận thức
rằng, việc này không chỉ trách nhiệm của cấp ủy Đảng, của cơ quan tuyên
giáo, mà là trách nhiệm của chính bản thân mình.
Là một sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi bản thân để
trở thành người căn hóa, lợi ích chung của cộng đồng chính sự phát
triển của nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa,
tìm hiểu, tiếp thu một cách ràng về những phong tục, truyền thống quý báu
của dân tộc, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không
lành mạnh. Ở trên trường, lớp cũng như trong những lúc rảnh rỗi cần nghiêm túc
chăm chỉ, tìm hiểu và học hỏi văn hóa Việt Nam thông qua các môn học, các tác
phẩm văn học hay qua các sự kiện lịch sử.
Tích cực tham gia các chương trình quảng giá trị di sản văn hóa dân
tộc, qua đó giúp bạn quốc tế hiểu hơn về vẻ đẹp đất nước con người Việt
Nam. Cần tự hào, giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc lên một tầm cao mới,
14
không ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới để văn hóa Việt Nam vẫn giữ
được “cốt cách” dân tộc, vừa theo kịp bước tiến chung của nhân loại.
KẾT LUẬN
Qua nội dung trên, có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng phát triển nền văn hóa Việt
Nam. Người còn một trong những nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhận loại,
có đóng góp lớn vào tiến trình phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển
hội. Sự nghiệp của Người gắn liền với việc nền văn hoá trong đó các giá trị
của được biểu đạt tác động một cách mạnh mẽ đến những tốt đẹp nhất
mà con người toàn nhân loại và các dân tộc trên thế giới khát khao vươn tới.
Do đó, quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua 35 đổi mới toàn
diện, trong đóđổi mới trên lĩnh vực văn hóa đã đạt nhiều kết quả quan trọng.
Kết quả đó là sự hiện thực hóa quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần, mục
tiêu, động lực của sự phát triển đất nước từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng đến
nay.
Chúng ta tin tưởng rằng, những giá trị của tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của văn hóa sẽ tiếp tục được Đảng phát huy trong sự nghiệp xây dựng, phát
huy giá trị văn hóa ở Việt Nam. Để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của văn
15
hoá đối với các mục tiêu của Đảng đề ra cũng như đối với sự phát triển đất
nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải kiên trì chiến lược xây dựng phát triển
nền văn hóa theo triết phát triển Hồ Chí Minh. Đồng thời, mỗi nhân, đặc
biệt những người trẻ cần phát huy tối đa vai trò của mình. như vậy, Đảng
và Nhà nước ta mới thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (7/2021), Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng luận Trung ương chỉ đạo biên soạn (2004, 2011), Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. https://vietnamnet.vn/van-hoa-la-dong-luc-muc-tieu-cua-su-nghiep-
cach-mang-viet-nam-823719.html
4. https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Chinh-sach-moi/tid/Van-hoa-vua-la-
muc-tieu-vua-la-dong-luc-phat-trien/newsid/6B38DF24-CA21-47A1-
80CD-AAF8011496F0/cid/2BEA0540-FCA4-4F81-99F2-
6E8848DC5F2F
5. https://www.vhna.edu.vn/vi-5/gioi-thieu-54/thuc-trang-va-giai-phap-
xay-dung-phat-trien-nen-van-hoa-viet-nam-tien-tien-dam-da-ban-sac-
dan-toc-trong-giai-doan-hien-nay-1660.aspx
6. https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Xay-dung-va-
16
phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-55?
fbclid=IwAR0JGmvcQSPToIU5A91M3cGpBdBBPv8AXDKnVcrUc
zzDsOGc-9FMUinBtlU
17
| 1/19

Preview text:

ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC ***** TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò
của văn hóa và sự vận dụng vào xây dựng, phát huy giá trị văn hóa
ở nước ta hiện nay” Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên: Lớp: Khóa:
Giảng viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Kiều Ly
HÀ NÔI – 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa...............................................2
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa....................................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa..................................2
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.....................2
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận........................................................................4
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân................................................4
2. Liên hệ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa và sự vận dụng vào
xây dựng, phát huy giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay.........................................5
2.1. Thực trạng xây dựng, phát huy giá trị của văn hóa ở nước ta hiện nay......5
2.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, phát huy vai trò của văn
hoá trong phát triển đất nước..........................................................................5
2.1.2. Về thành tựu........................................................................................11
2.1.3. Về hạn chế...........................................................................................12
2.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế...................................................13
2.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng, phát huy giá trị văn
hóa....................................................................................................................13 MỞ ĐẦU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị
trí quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của
Việt Nam, của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của
dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa,
bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang tạo ra những thay đổi lớn đối với thế
giới và làm biến đổi nhiều quan niệm truyền thống của con người thì các vấn đề
về văn hóa đang càng nhận được nhiều sự quan tâm hơn bao giờ hết. Không
ngoại lệ, ở Việt Nam, đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công
cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế, vấn đề văn hóa cũng được Đảng và
Nhà nước xem trọng. Một trong những biểu hiện cụ thể đó là chủ trương phát
triển xã hội đã ghi nhận được sự đổi mới trong tư duy lý luận của Đảng về vai
trò của con người và văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”.
Xuất phát từ di sản tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, thực tiễn văn hóa Việt
Nam trong xu thế hội nhập, đề cao vai trò của văn hoá trong sự phát triển bền
vững vì sự tiến bộ xã hội, em đã lựa chọn chủ đề “Trình bày quan điểm Hồ
Chí Minh về vai trò của văn hóa và sự vận dụng vào xây dựng, phát huy giá
trị văn hóa ở nước ta hiện nay” để viết bài tiểu luận kết thúc môn học Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Rất mong thầy cô giáo bộ môn góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện cho
những bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cám ơn! 1 NỘI DUNG
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: 1) Tiếp cận theo
nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; 2) Tiếp cận theo
nghĩa hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; 3) Tiếp
cận theo nghĩa hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù
chữ, biết đọc biết viết (thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền
núi); 4) Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa
là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn1”.
Quan niệm văn hóa nêu trên của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một bối
cảnh thời gian và không gian đặc biệt, khi UNESCO chưa thành lập, cả nước
đang tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đây là quan niệm văn hóa duy
nhất theo nghĩa rộng. Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh có bàn đến
văn hóa nhưng theo nghĩa hẹp, với ý nghĩa là kiến trúc thượng tầng, là toàn bộ
đời sống tinh thần của xã hội.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là mục tiêu. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn
bộ tiến trình cách mạng. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu ,
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458. 2
nhìn một cách tổng quát là quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc;
là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân
chủ - dân là chủ và dân làm chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo
mặc, được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho một xã hội phát triển bền vững với ba trụ cột
là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Chúng ta có thể nhận thức ở những
mức độ khác nhau trong di sản Hồ Chí Minh về các mục tiêu của Chương trình
nghị sự XXII2, một phần quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
Văn hóa là động lực. Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản
Hồ Chí Minh cho ta một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước, bao gồm
động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực.
Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn
hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
động lực có thể nhận thức ở các phương chủ yếu diện sau:
Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy
biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn
dẫn đến tư tưởng và hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm
cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
2 Chương trình nghị sự XXI được 189 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc thông qua vào thàng 9 năm 2000 có 8 mục tiêu cụ thể: (1) Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; (2) Đạt phổ
cập giáo dục tiểu học; (3) Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ ; (4) Giảm tỷ lệ tử vong
ở trẻ em; (5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; (6) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) Bảo đảm
bền vững về môi trường; (8) Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. 3
Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy
luật phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo
con người, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh
hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt
là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không. Nhận thức như
vậy để thấy văn hóa đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận
Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội,
quan trọng ngang các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nói mặt trận văn hóa là
nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các
lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn
hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.
Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, lối sống... của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận,
đặc biệt là định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật.
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị
em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ
nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng
vững vàng; ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải
bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình nghiêm khắc những thói
xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, và ca tụng chân thật những người 4
tốt việc tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu đời
sau. Đó chính là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến.
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một
thời đại vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng
với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư
tưởng văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi
hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh
được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật,
cho hùng hồn; phải trả lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài
liệu đâu mà viết? Cách viết như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết
rau muống mà ham dùng chữ. Nói cũng vậy. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía,
nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn. Tóm lại “từ trong quần chúng ra.
Về sâu trong quần chúng”. Trên cơ sở đó để định hướng giá trị cho quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là
những người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa
những tư liệu quý. Và chính họ là những người thẩm định khách quan, trung
thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những người được
hưởng thụ các giá trị văn hóa.
2. Liên hệ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa và sự vận dụng
vào xây dựng, phát huy giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng xây dựng, phát huy giá trị của văn hóa ở nước ta hiện nay
2.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, phát huy vai trò của văn hoá
trong phát triển đất nước
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, phát huy giá trị
văn hóa của Việt Nam, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã 5
có nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp về phát triển văn hóa qua các
thời kỳ, đã phát huy được những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam, tính ưu
việt của văn hóa xã hội chủ nghĩa được thể hiện, góp phần vào những thành tựu
to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định mục đích của cuộc cách
mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người gắn với
xây dựng một nền văn hoá của dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc làm hồi
sinh các giá trị văn hoá, thúc đẩy văn hoá dân tộc phát triển. Đó là văn hoá yêu
nước, một nền văn hoá tiến bộ và giàu giá trị nhân văn, văn hoá vì con người.
Sựn ghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.
Bước đột phá trong quan điểm của Đảng về lĩnh vực văn hoá gắn liền với
Đại hội VI (1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Đảng đã khẳng định vị trí
quan trọng của văn hoá trong việc xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho
con người. Yếu tố tinh thần của văn hoá một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân
của văn hoá tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng, Đảng đã cụ thể hoá
quan điểm ấy bằng hàng loạt Nghị quyết và chỉ thị mang tính định hướng cho
quá trình phát huy hơn nữa vai trò của văn hoá đối với sự phát triển đất nước.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII diễn
ra từ ngày 6-7 đến 16-7- 1998, Đảng đã ra Nghị quyết xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trở
thành văn bản mang tính pháp lý, việc thể chế hoá Nghị quyết tạo điều kiện
thuận lợi cho văn hoá phát triển sâu rộng, hiệu quả trên các mặt của đời sống xã
hội, đóng góp vai trò nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước ổn định. Văn hoá trở thành nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng
cuộc sống, để xây dựng đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Hay nói cách khác, văn hoá trở thành nhân tố không thể thiếu trong mục
tiêu phát triển đất nước bền vững, toàn diện.
Trong Đại hội X, lần đầu tiên, vai trò của văn hoá - nền tảng tinh thần của
xã hội thành một mục tiêu riêng, “độc lập” với giáo dục, đào tạo, khoa học công 6
nghệ. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vì văn hoá có chức năng định
hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội mà vai trò cốt tuỷ là hệ tư
tưởng. Vai trò này của văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ phát huy
hiệu quả hơn nữa trong nhận thức cũng như trong hành động của các tổ chức, cá
nhân vì mục tiêu tiến bộ xã hội.
Đại hội XI, nhận định về vai trò của văn hoá được đúc kết cô đọng hơn, cụ
thể hơn, tập trung vào các nội dung cụ thể. Văn hoá góp phần củng cố và tiếp tục
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục đinh
hướng việc đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh; cổ vũ việc triển khai cuộc
vận động xây dựng gia đình Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Thứ nhất, văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.
Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần cho sự phát triển của đất nước là
quan điểm cơ bản trong ĐH lần thứ XIII của Đảng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta luôn quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) đã khẳng định “Phát triển toàn
diện các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa để văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”, nhằm tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững đất nước. Chính vì vậy, Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị - văn hóa rất quan trọng,
phản ánh tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, thuật ngữ sức mạnh mềm
văn hóa xuất hiện. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định cần phải “Khẩn trương
triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và
dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa
Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn
hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, gắn phát triển văn hóa với phát 7
triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ,
gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”.3
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức, cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới và khu vực như hiện nay, Đảng chỉ ra rằng cần tập trung vào
những giải pháp phát triển văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội
sinh và là động lực đột phá cho phát triển kinh tế xã hội.
Gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá và
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng,
phát huy yếu tố văn hoá để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội
nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để phát triển kinh tế, cải
thiện điều kiện và bảo đảm sự công bằng trong thụ hưởng các giá trị văn hóa của
nhân dân; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa
giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, các dân tộc thiểu số; xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, doanh nhân và văn hóa kinh doanh.
Thứ hai, văn hóa là một mặt trận.
Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định:
văn hóa là một mặt trận quan trọng, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi4”;
văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng. Trong thời kỳ Đổi
mới như hiện nay, Đảng luôn quan tâm, kế thừa, phát triển tư duy lý luận về văn
hóa và chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam, coi văn hóa là nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và thực hiện
khát vọng xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa tiếp
tục được đổi mới trong giai đoạn hiện nay. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội trong
3 Đảng Cộng sản Việt Nam. Hà Nội, 2021, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, trang 145 - 146
4 Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, H, 1997, tr.11, 10, 11, 11, 320. 8
triển khai các nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người ngày càng chặt chẽ. Hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa từng bước được nâng lên. Nhà nước
ban hành nhiều chính sách, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý xây dựng và phát triển
văn hóa, con người. Tạo cơ chế triển khai chính sách văn hóa trong kinh tế, xây
dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, văn hóa công sở, văn hóa gia đình...
Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật tiên tiến và tập huấn nâng cao chất lượng
nhân lực cho hoạt động văn hóa đã được quan tâm. Nhân dân các vùng miền,
các dân tộc, các tôn giáo đóng góp sức người, sức của, tổ chức các hoạt động
văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
trên địa bàn... Việc Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
gắn với Cuộc vận động “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng
nếp sống và văn hóa ứng xử nơi công cộng” được đẩy mạnh. Sự liên kết, phối
hợp giữa ba lĩnh vực: gia đình - nhà trường - xã hội trong xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống, nhân cách cho thế hệ trẻ được coi trọng.
Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng quy ước
văn hóa ở khu dân cư được quan tâm. Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa dân tộc có chuyển biến tích cực, tạo cơ chế hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước luôn
tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo gắn với trách nhiệm xã hội và đánh giá
cao sự đóng góp của văn nghệ sĩ, trí thức đối với sự nghiệp văn hóa dân tộc. Báo
chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng, văn hóa sắc bén của Đảng, Nhà nước; là
diễn đàn quan trọng góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Việc xây dựng văn hóa trong chính trị được triển khai gắn với việc đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây
dựng văn hóa trong kinh tế bước đầu có chuyển biến tốt hơn cả về nhận thức và
hành động, thể hiện ở văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh. Một số ngành
công nghiệp văn hóa của nước ta có bước đổi mới, phát triển như điện ảnh, âm
nhạc, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, thời trang, du lịch văn hóa... 9
Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, góp phần
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới, thúc đẩy
hội nhập, giao lưu quốc tế về văn hóa. Góp phần xây dựng văn hóa và con người
Việt Nam trước yêu cầu mới.
Thứ ba, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Mọi hoạt động văn hóa đều được Đảng và Nhà nước hướng về với cuộc
sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
thứ XII (1- 2016) của Đảng nêu phương hướng: “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội XII nêu các nhiệm vụ cụ thể: 1.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là mục tiêu của chiến lược
phát triển. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân,
ý thức tuân thủ pháp luật. Đấu tranh phê phán đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn,
lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây
dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. 2. Xây dựng môi trường văn hóa lãnh
mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn trong hệ thống chính trị,
trong các địa phương, làng bản...Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam. Phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh. 3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm 10
lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể,
coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. 4. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. 5. Làm tốt công tác lãnh đạo,
quản lý báo chí, xuất bản. 6. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng,
hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa. 7. Chủ động hội nhập quốc
tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 8. Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. 2.1.2. Về thành tựu
Nhờ những định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, việc xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt
được nhiều kết quả tích cực.
Đến nay, cả nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó
có 3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được
UNESCO công nhận. Đáng chú ý là có 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của
các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngoài nước được tổ chức, trong đó có
các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số; hệ thống
bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội dung và hình thức
trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa,
khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm
xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp xã,
bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện các cơ quan nhà
nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành.
Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở
trong nước cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trò của gia đình, nhà
trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, môi trường
văn hóa lành mạnh luôn được quan tâm. 11
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ được coi trọng từ nguồn ngân
sách nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa; Đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần
chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển
biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống
thông tin, báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương
với tất cả các loại hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc
tế cho người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong thời đại công nghệ
thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn
giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các
thông tin sai trái, thù địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền
liên quan, công nghiệp văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với
12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế
song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa
tiếp tục phát triển sâu rộng.
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ ra: “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con
người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn
hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống xã
hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn
và phát huy. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi
trọng và phát huy hiệu quả, thiết thực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập
quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam
từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc
phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm,
hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng”. 2.1.3. Về hạn chế
Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Chưa phát huy 12
hết vai trò, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển của đất nước, ở
một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ
chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa ở một số lĩnh vực, địa
phương còn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với
yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu
hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những nơi
khó khăn còn chậm. Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ
thuật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn còn không
ít tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…Thực tế trên có
nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, như: Tình hình trong nước và
quốc tế có nhiều thay đổi, một số lĩnh vực chưa lường hết được tác động của tàn
dư văn hóa cũ, lạc hậu, của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; nhận
thức và việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa
ở một số địa phương, lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều kiện kinh
tế, xã hội của Việt Nam còn không ít khó khăn, do đó đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế.
2.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa. Xác
định phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để phát triển văn
hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh, gia đình, nhà trường
và xã hội sẽ là nơi hình thành, nuôi dưỡng, vun đắp nhân cách, văn hóa và giáo
dục lối sống cho con người, để cái tốt, cái thiện được bảo vệ, nhân lên; cái xấu,
cái ác bị lên án, bài trừ.
Để văn hóa liên kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội phải
quan tâm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đầu tư cho văn hóa tinh hoa, tạo
điều kiện cho cá nhân và cộng đồng được tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. 13
Phát huy sứ mệnh của văn học nghệ thuật, vai trò của văn nghệ sĩ đối với
xây dựng đạo đức, văn hóa ứng xử. Tăng cường đầu tư xứng đáng cho văn hóa,
tương xứng với vai trò của văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực. Tăng cường hội
nhập về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời quảng bá văn hóa
Việt Nam ra bạn bè thế giới.
2.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng, phát huy giá trị văn hóa
Mỗi cá nhân, mỗi người dân cần chung sức đồng lòng với Đảng và Nhà
nước để xây dựng, phát huy những giá trị văn hóa. Riêng ᴠới thế hệ trẻ, iệc này ᴠ
còn quan trọng hơn bởi ᴠì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”; là cái cầu
nối giữa các thế hệ - “người tiếp ѕức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng
thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính ᴠì ậу ᴠ , chúng
em cần phải có trách nhiệm, nghiêm túc trong việc xây dựng, phát huy giá trị
văn hóa. Để thực hiện được điều đó, trước hết, chúng em phải nhận thức rõ bổn
phận, trách nhiệm trong việc xây dựng phát huy giá trị văn hóa. Phải nhận thức
rõ rằng, việc này không chỉ là trách nhiệm của cấp ủy Đảng, của cơ quan tuyên
giáo, mà là trách nhiệm của chính bản thân mình.
Là một sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi bản thân để
trở thành người có căn hóa, vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát
triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa,
tìm hiểu, tiếp thu một cách rõ ràng về những phong tục, truyền thống quý báu
của dân tộc, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không
lành mạnh. Ở trên trường, lớp cũng như trong những lúc rảnh rỗi cần nghiêm túc
chăm chỉ, tìm hiểu và học hỏi văn hóa Việt Nam thông qua các môn học, các tác
phẩm văn học hay qua các sự kiện lịch sử.
Tích cực tham gia các chương trình quảng bá giá trị di sản văn hóa dân
tộc, qua đó giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về vẻ đẹp đất nước và con người Việt
Nam. Cần tự hào, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc lên một tầm cao mới, 14
không ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới để văn hóa Việt Nam vẫn giữ
được “cốt cách” dân tộc, vừa theo kịp bước tiến chung của nhân loại. KẾT LUẬN
Qua nội dung trên, có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam. Người còn là một trong những nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhận loại,
có đóng góp lớn vào tiến trình phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển xã
hội. Sự nghiệp của Người gắn liền với việc nền văn hoá mà trong đó các giá trị
của nó được biểu đạt và tác động một cách mạnh mẽ đến những gì tốt đẹp nhất
mà con người toàn nhân loại và các dân tộc trên thế giới khát khao vươn tới.
Do đó, quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là qua 35 đổi mới toàn
diện, trong đó có đổi mới trên lĩnh vực văn hóa đã đạt nhiều kết quả quan trọng.
Kết quả đó là sự hiện thực hóa quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục
tiêu, động lực của sự phát triển đất nước từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng đến nay.
Chúng ta tin tưởng rằng, những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của văn hóa sẽ tiếp tục được Đảng phát huy trong sự nghiệp xây dựng, phát
huy giá trị văn hóa ở Việt Nam. Để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của văn 15
hoá đối với các mục tiêu của Đảng đề ra cũng như đối với sự phát triển đất
nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải kiên trì chiến lược xây dựng và phát triển
nền văn hóa theo triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Đồng thời, mỗi cá nhân, đặc
biệt là những người trẻ cần phát huy tối đa vai trò của mình. Có như vậy, Đảng
và Nhà nước ta mới thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (7/2021), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ đạo biên soạn (2004, 2011), Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. https://vietnamnet.vn/van-hoa-la-dong-luc-muc-tieu-cua-su-nghiep -
cach-mang-viet-nam-823719.html 4. https://thuathienhue.gov
.vn/vi-vn/Chinh-sach-moi/tid/Van-hoa-vua-la-
muc-tieu-vua-la-dong-luc-phat-trien/newsid/6B38DF24-CA21-47A1-
80CD-AAF8011496F0/cid/2BEA0540-FCA4-4F81-99F2- 6E8848DC5F2F 5. https://www
.vhna.edu.vn/vi-5/gioi-thieu-54/thuc-trang-va-giai-phap-
xay-dung-phat-trien-nen-van-hoa-viet-nam-tien-tien-dam-da-ban-sac-
dan-toc-trong-giai-doan-hien-nay-1660.aspx 6. https://vass.gov
.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Xay-dung-va- 16
phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-55?
fbclid=IwAR0JGmvcQSPToIU5A91M3cGpBdBBPv8AXDKnVcrUc zzDsOGc-9FMUinBtlU 17