



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759 MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học
Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử là một trong ba bộ phận hợp thành triết học Mác. Nó lý giải sự tiến hóa của xã hội loài
người bằng sự phát triển của trình độ sản xuất cũng như nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh
thể thống nhất để vạch ra những nét chung của sự phát triển xã hội, những động lực, những nguyên
nhân cơ bản của sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế -
xã hội khác, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những hiện tượng khác nhau của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng… Trước Mác đã có những quan điểm triết học mặc dù
rất có giá trị và được Mác kế thừa thế nhưng đều có một sai lầm chung là thiếu tính thực tiễn. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học chỉ ra những quy
luật, động lực phát triển xã hội một cách thực tiễn, đúng đắn và từ đó nó cũng đồng thời trở thành
phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn khác nhau như sử học, xã hội học...
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học
để nhận thức, cải tạo xã hội. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc nhưng lý
luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và giá trị thời đại. Ngày nay các
chính đảng và nhà nước vẫn dùng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong xác định cương lĩnh
của mình trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam và nó được coi là cơ sở khoa học của việc xác định
con đường phát triển của đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và
nhanh chóng đạt đến trình độ của các nước phát triển khác thì điều tất yếu là cần phải đổi mới. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định : “Xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao ,
quốc phòng an ninh vững chắc , dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh”. Mục tiêu đó
là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội và phản ánh hoàn cảnh cụ thể của xã
hội Việt Nam. Nó cũng chính là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta.
Đề tài “Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hôi và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam” là
một đề tài hay, có nội dung phức tạp và rộng nhưng lại mang tính áp dụng thực tiễn cao. Do trình
độ có hạn nên em không thể tránh khỏi khiếm khuyết trong việc nghiên cứu và em rất mong nhận
được những lời nhận xét và đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. 2 lOMoAR cPSD| 61432759
I, HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI MÁC – LÊNIN
Trước khi đi sâu vào phân tích học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Mác – Lênin, cần biết
rằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học
để nhận thức, cải tạo xã hội. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc nhưng lý
luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và giá trị thời đại. Đây là cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa
vận dụng sáng tạo trong xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng chủ
nghĩa xã hội; là cơ sở khoa học của việc xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lêninbao gồm một hệ thống các
quan điểm cơ bản sau đây:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã hội
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là hoạt động đặc trưng
của con người và xã hội loài người. Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật
chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của loài người. Theo
Ph.Ăngghen, “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật
may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”.
Quá trình sản xuất diễn ra trong xã hội loài người chính là sản xuất xã hộị, tức là sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác
nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, quyết định sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Cùng với sản xuất vật chất, con
người tiến hành đồng thời hai quá trình là sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người
nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại, phát triển cũng như duy trì nòi giống của mình. 3
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và lOMoAR cPSD| 61432759
phát triển của con người. Thuở sơ khai, hoạt động sản xuất vật chất của con người chỉ dừng lại ở
những việc đơn giản như nhóm lửa, hái lượm, săn thú, chặt cây,… thế nhưng thời điểm hiện tại
hoạt động này đã phức tạp hơn, mang nhiều sức sáng tạo hơn rất nhiều ví dụ như sản xuất thiết bị
điện tử thông minh, xây nhà, làm đường,…
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với những cái đã có sẵn trong
giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn
nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu
cầu khách quan của đời sống xã hội nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung
cũng như từng cá nhân nói riêng. Bằng việc "sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình"
Quá trình sản xuất ra của cải vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt
động tinh thần của con người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội.. Tất
cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,… đều hình thành,
biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Khái quát lịch sử phát triển của nhân loại, C.Mác đã kết luận:
"Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp … tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta
phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan
niệm tôn giáo của con người ta". Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội
với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã
hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển và nhờ hoạt
động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo
đức, phẩm chất xã hội riêng của chúng ta mà không giống loài nào khác có được. Nhờ lao động
sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng
tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a) Phương thức sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức
sản xuất nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. 4
Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên,
biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất.
Do đó phương thức sản xuất chính là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa lOMoAR cPSD| 61432759
con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của cải vật chất phục
vụ nhu cầu con người và xã hội ở các giai đoạn lịch sử nhất định.
b, Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết
là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho
cuộc sống của mình. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên hai mặt là mặt kinh tế - kỹ
thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Như vậy lực lượng sản xuất là
một hệ thống gồm các yếu tố cùng mối quan hệ, tạo ra thuộc tính đặc biệt để cải biến giới tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Chính người lao động là
chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư
liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của
cải vật chất. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, tỷ trọng lao động
cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con
người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng
của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó
để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu
cầu sản xuất của con người. Trong đó, tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao
động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao
động nhằm biến đổi chúng để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Công
cụ lao động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa", nó "nhân
lên" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh
nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến
và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn
bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn
phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Thế nên C.Mác từng khẳng định: “Những thời đại kinh
tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào,
với những tư liệu lao động nào”. 5 lOMoAR cPSD| 61432759
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao
động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Sở dĩ
như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Người lao động tạo
ra tư liệu sản xuất chứ tư liệu sản xuất ko thể tạo ra người lao động được. Trình độ của tư liệu sản
xuất được quyết định bởi người lao động tạo ra chúng. Năng suất của tư liệu sản xuất cũng được
quyết định bởi người lao động sử dụng chúng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất cũng không ngừng phát triển theo. Sự
phát triển này thể hiện ở 2 tính chất là tínhchất cá nhân và tính chất xã hội trong sử dụng tư liệu
sản xuất. Trong thời điểm hiện tại lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao.Sự phát
triển của lực lượng sản xuất cũng được thể hiện trên khia cạnh trình độ của lực lượng sản xuất
được thể hiện ở trình độ của người lao động, công cụ lao động, ứng dụng lao động vào sản xuất,...
Ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học trở thành nguyên nhân của
mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất,làm cho năng suất không ngừng gia tăng. Khoa học cũng đã
giải quyết các mâu thuẫn lực lượng sản xuất đặt ra nó thâm nhập vào mọi yếu tố và các khâu quan
trọng của quá trình sản xuất, ngày nay không có quá trình sản xuất nào không nhờ đến khoa học.
c, Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong
quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện trong 3 khía cạnh: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ giữa người với người trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ giữa người với người
trong phân phối sản phẩm.
Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người việc tổ chức sản xuất
và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả
của nền sản xuất, có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngày
nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả trình sản xuất.
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân
phối sản phẩm, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng.
Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người, là chất xúc tác
thúc đẩy kinh tế, sản xuất hoặc ngược lại, nó có thể làm đình trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng
lẫn nhau. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất
phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như
các quan hệ xã hội khác. 6 lOMoAR cPSD| 61432759
2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triển xã hội. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại nếu không phù hợp thì sẽ kìm hãm
lực lượng sản xuất. a, Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho
phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của
lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy
đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để
phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ
sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác
đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng
xã hội". Nhưng rồi quan hệ sản xuất mới này sẽ lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản
xuất đã phát triển hơn nữa; sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra. b, Sự tác động trở lại
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục
đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân
công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,…và do đó tác động đến
sự phát triển của lực lượng sản xuất 7 lOMoAR cPSD| 61432759
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn
một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy
luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
c, Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân
loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội,
trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất. Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quán triệt,
vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sự đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Muốn phát triển kinh tế phải phát triển lực lượng sản xuất trước.
- Ở Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường thành nhiều thành phần.
- Ở Việt Nam xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển lựclượng sản xuất.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực
của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quátrình sản xuất vật chất của xã
hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuấttồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó
hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ
yếu , quyết định mọi quan hệ xã hội khác. Ví dụ nền kinh tế Việt Nam hiện nay có 4 thành phần
kinh tế là: Kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế 100% vốn nước ngoài, kinh tế tập thể.
Các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Cấu trúc cơ sở hạ tầng bao gồm: QHSX tàn dư, QHSX thống trị, QHSX mầm mống. Trong đó
QHSX tàn dư là QHSX của xã hội cũ, QHSX thống trị giữ vai trò chủ đạo quyết định xu hướng
chung của cơ sở hạ tầng, QHSX mầm mống là QHSX của xã hội tương lai. lOMoAR cPSD| 61432759 8
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội
tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội và các tổ chức xã hội khác.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển
riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ
tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố
như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như triết học, tôn
giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang
tính giai cấp, trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị
của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của
mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
3.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản
của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc là hai mặt cơ bản của xã hội
gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. a) Vai trò quyết
định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện
chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ: mỗi
cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến
trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của
xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính
trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời
sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn
giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. 9 lOMoAR cPSD| 61432759
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ
tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: "Cơ sở
kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế xã hội. Tuy sự
thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực
lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm
thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,... Trong kiến trúc thượng tầng,
có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,... hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa
trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
b) Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng
tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động
phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên,
mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai
cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập
trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà
nước, pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải
bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là
xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu
hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế
chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến
trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội. lOMoAR cPSD| 61432759 10
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm
thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai
trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh
tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng
kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành từng bước với những hình thức, quy mô thích hợp. Cơ
sở hạ tầng còn mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen nhau của
nhiều loại hình kinh tế - xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và cần phải tránh
khuynh hướng chủ quan duy ý chí, nôn nóng bất chấp các quy luật khách quan.
3.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Giúp nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị._
- Giúp Đảng ta xác định được chủ trương đổi mới.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trìnhlịch sử - tự nhiên.
4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên kiểu quan hệ sản xuất đó.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định
bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng), kiến
trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển
của hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết
định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ
xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiệncác mối quan hệ giữa người với người trong
lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 61432759 11
4.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát
triển từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội nối
tiếp nhau: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện tại là
đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan
của xã hội. C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên"
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến
lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Đó là con đường
tất yếu của tiến bộ lịch sử. Mặt khác, sự phát triển của xã hội loài người còn mang tính lịch sử.
Các hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác nhau về chất trong tiến trình lịch sử, với
những điều kiện về không gian, thời gian cụ thể, với các tiêu chí về sự phát triển của lực lượng sản
xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu cấu trúc thượng tầng của từng xã hội cụ thể.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay
thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Song, con đường phát
triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các
điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế,... Chính vì vậy,
lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội
từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội
nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan ( cụ thể là phụ thuộc vào đặc điểm về lịch sử, không – thời gian ) của chính quốc gia đó )
Bản chất của sự phát triển rút ngắn đó chính là sự rút ngắn đi các giai đoạn, bước đi của nền
văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Từ đó ta có thể
thấy được tiến trình lịch sử - tự nhiên bao hàm cả sự phát triển tuần tự và phát triển “ bỏ qua ”
4.3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng lOMoAR cPSD| 61432759 12
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử
xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội, bác bỏ quan
niệm trừu tượng, duy vật tầm thường, duy tâm, phi lịch sử về xã hội trước đó, trở thành hòn đá
tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch
sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại
các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó đã thống
trị trong khoa học xã hội đồng thời chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một
lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con
người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới tác dộng của quy luật khách quan.
Học thuyết đó đã chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa
các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời
sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau
giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng
đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử
một cách đúng đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho
nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
* Ý nghĩa cách mạng của sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội: -
Là cơ sở khoa học cho việc xác định con đường phát triển của Việt Nam đó là quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. -
Là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học trong phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội. -
Là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học và cách mạng trong việc quán triệt quan
điểmđường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai
trái, phiến diện trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 13
II. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH
THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM. lOMoAR cPSD| 61432759
1. Các nội dung đã áp dụng.
a. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế -xã hội đã khẳng định: các quốc gia, dân tộc có
thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ
cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các
quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. Theo Lênin, có 2 hình thức quá
độ: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát
triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân
thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu và Đảng ta khẳng định
sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây:
+ Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột bất
công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
+ Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng mười Nga thắng lợi năm 1917 đã mở ra một thời
đại mới, làm bàn đạp tạo nên khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN, không
mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa
chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho
phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã
hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề căn bản của xã hội tư bản như sự bóc lột sức
lao động cũng như sự phân hóa giai cấp – giàu nghèo,… Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa
chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Quá trình đi lên CNXH đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1930: Cách mạng Việt Nam
sẽ trải qua 2 giai đoạn - Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (giành độc lập cho dân tộc, ruộng
đất cho nông dân), sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH. Nói cách
khác: mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã được xác định nhất quán từ ngày thành lập Đảng đến nay. 14
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, xu hướng của thời đại và điều
kiện cụ thể của đất nước. lOMoAR cPSD| 61432759
b. Hướng đi xây dựng xã hội.
Từ thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan
xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một nền
kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát
triển về mọi mặt, các dân tộc anh em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân
dân các nước trên thế giới. Đây là chính là nội dung “sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và
phát triển của xã hội” và “vai trò quyết đinh của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng”. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) của Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Mục tiêu đó chính là sự cụ thể hóa từ nội dung “biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội”.
2. Các thành tựu đạt được
* Về mặt kinh tế
Trong suốt gần 4 thập kỷ năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm
chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai
đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. 15
Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô,
trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020
đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ lOMoAR cPSD| 61432759
rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong gần 40 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải
thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020,
trong bối cảnh đại dịch Covid - 19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với
tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm
để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công
nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp...
Từ một nơi từng xảy ra tình trạng thiếu ăn, Việt Nam nay đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà
phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng
xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch
Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất
siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất
nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất
khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh
tế đều có bước phát triển mạnh mẽ. * Về mặt xã hội
Trong suốt quá trình 4 thập kỷ đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với
phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi
trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng
tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia
tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi
người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm
1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 16
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo
từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam
được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2
trong khu vực ASEAN); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt
92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. lOMoAR cPSD| 61432759
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng
tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú
trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số
ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều
kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều
dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng
bệnh, mới đây nhất là vắc - xin phòng Covid-19,...
3. Các hạn chế.
* Về nguồn nhân lực
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương
của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực
của Nhà nước và xã hội.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có
khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích
nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi
dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao
tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước
ngoài thì ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công
nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động còn chưa cao.
* Về kinh tế - xã hội
Năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức
độ thấp nếu so với các nước phát triển. Qua đó cho thấy, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với
thách thức rất lớn trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước trong
khu vực, và trên thế giới. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức
trung bình và có vị trí tăng/giảm không ổn định trong thời gian vừa qua. 17
Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới
sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa
vững chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy mô xuất khẩu còn nhỏ;
chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình trên thế giới. Xuất khẩu phụ
thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dẫn đến nền kinh tế và ngành công lOMoAR cPSD| 61432759
nghiệp Việt Nam nói riêng, gặp nhiều khó khăn trong việc chủ động phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn.
Trình độ công nghệ của nước ta so với thế giới còn thấp kém, không đồng bộ, do đó khả năng
cạnh tranh của hàng hoá nước ta so với nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém.
Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa; huy động nguồn lực của xã hội vào các hoạt động khoa học và
công nghệ còn yếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; thị
trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với
nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý xã hội.
Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế
xã hội, không đồng bộ, thiếu cân đối cũng như năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp nên
đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài; cản trở phát
triển kinh tế hàng hoá của đất nước.. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi
thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
* Về trao đổi xã hội
Một điểm hạn chế nữa là chúng ta dường như không để ý tới quan hệ trao đổi trong nền kinh
tế thị trường - điều mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đề cập. Cũng giống như quan
hệ sản xuất, quan hệ trao đổi của Việt Nam hiện nay cũng không thuần nhất, chúng không hoàn
toàn là tuân theo quy luật của thị trường và cũng không hoàn toàn là tuân theo những nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các thiết chế của kiến trúc thượng tầng của chúng ta như Nhà
nước, Đảng, quân đội, tòa án,… vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định khi vẫn còn diễn ra các
tình trạng tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây lãng phí tài sản quốc gia,.. với mức độ nghiêm trọng.
4. Biện pháp giải quyết.
* Giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực -
Tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước: Tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển
nguồnnhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả
hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực. -
Bảo đảm nguồn lực tài chính: Nhà nước cần đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường
huy độngcác nguồn vốn cho phát triển nhân lực bằng cách ban hành các cơ chế, chính sách
để phát triển nguồn nhân lực qua nhiều hình thức, cụ thể như : 18
+ Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao
+ Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy vai trò, đóng góp
của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực lOMoAR cPSD| 61432759
+ Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam -
Đẩy mạnh cải cách giáo dục: Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu, là quốc
sáchhàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong tất cả giai đoạn với các giải pháp cụ thể như:
+ Mở rộng giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng
ngày càng cao; phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp
+ Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình
đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo
hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung
vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ
+ Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên
cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo
* Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội -
Mở rộng phân công và phân công lao động xã hội: Để đẩy mạnh phát triển kinh tế
hànghoá, cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư
trong phạm cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hoá,
hợp tác hoá nhằm khai thác mọi quyền lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu
quả, cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng
phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới. -
Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Tiếp tục giữ vững môi trường hoà
bình và tạocác điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ
quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và dân chủ. Giải pháp của vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại là:
+ Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các
trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường 19 lOMoAR cPSD| 61432759
+ Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
láng giềng, các nước ASEAN cũng như tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước khác và các tổ chức quốc tế
+ Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và văn hoá đối ngoại.
+ Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
+ Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại và hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ:
+ Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng
tạo và gắn ứng dựng khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh, quản lý, dịch vụ.
+ Tăng đầu tư ngân sách và có chính sách và có chính sách khuyến khích, huy động các nguồn
lực khác để đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
- Xây dưng cơ sở hạ tầng: Cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấuđó.
Trước mắt, nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu nhất như
đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ, bảo hiểm.
* Giải pháp khắc phục các vấn đề trao đổi xã hội -
Phải hình thành và phát triển đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã
hộichủ nghĩa. Cần đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ
chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của
Nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cũng như
tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác để phát triển -
Cần đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, cụ thể là đổi
mớicông tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng xây dựng và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường thông tin kinh tế, ứng dụng các khoa học và công nghệ trong dự
báo, kiểm tra. Đồng thời cần tiếp tục cải thiện hệ thống thếu phù hợp theo hướng đơn giản, thống
nhất không phân biệt đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài; nuôi dưỡng nguồn thu, hiện đại hoá
công tác quản lý thuế của Nhà nước. 20 lOMoAR cPSD| 61432759 KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học và trong điều kiện hiện nay
nó vẫn còn giữ nguyên giá trị to lớn của mình. Nó đưa ra một phương pháp hữu hiệu để phân tích
các hiện tượng trong cuộc sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho
hoạt động thực tiễn. Lí luận về hình thái kinh tế -xã hội đã chỉ ra con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn. Từ đó chỉ rõ những
giải pháp đưa đất nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là
phương pháp luận khoa học để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng
được tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình
hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng của xã hội vừa phù hợp
với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy có thể
khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hộivẫn giữ nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại
của nó. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc
xây dựng đất nước hiện đại ở Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác Lênin.
2. Bài giảng trên lms của thầy Nguyễn Văn Thuân.
3. Nhiều nguồn khác nhau trên Internet ( các trang báo liên quanđến kinh tế -
xã hội, các trang web của chính phủ,….)