-
Thông tin
-
Quiz
Tiểu luận kết thúc học phần - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Tiểu luận kết thúc học phần - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Luật hình sự II 25 tài liệu
Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Tiểu luận kết thúc học phần - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Tiểu luận kết thúc học phần - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hình sự II 25 tài liệu
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:















Tài liệu khác của Đại Học Kiểm sát Hà Nội
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
----------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LUẬT HÌNH SỰ 2
ĐỀ TÀI 25: Anh/Chị hãy phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội nhận hối lộ theo
quy định tại Điều 354 BLHS? Người đưa hối lộ có bị truy cứu TNHS với vai trò đồng
phạm trong tội nhận hối lộ hay không và vấn đề định tội được giải quyết như thế nào?
Vì sao? Hãy nêu một số khó khăn, vướng mắc và hướng giải quyết trong thực tiễn
định tội danh với tội nhận hối lộ?
HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN LÊ THỊ KHÁNH LINH LỚP : K7D SBD : TKS000127 MSSV : 193801010047 Hà Nội - 2021 MỤC LỤC A.
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1 B.
NỘI DUNG...........................................................................................................2 I.
Phân tích các dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS).......2
1. Khái niệm Tội nhận hối lộ............................................................................2
2. Dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ..........................................................2
II. Người đưa hối lộ có bị truy cứu TNHS với vai trò đồng phạm trong tội
nhận hối lộ hay không và vấn đề định tội được giải quyết như thế nào? Vì sao?. .7
III. Một số khó khăn, vướng mắc và hướng giải quyết trong thực tiễn định tội
danh với Tội nhận hối lộ..............................................................................................8
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh với Tội nhận
hối lộ..........................................................................................................................8
2. Hướng giải quyết trong thực tiễn định tội danh với Tội nhận hối lộ........9 C.
KẾT LUẬN.........................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................13 1 A. MỞ ĐẦU
Việc bảo vệ hoạt động đúng đắn của tổ chức, cơ quan nhà nước là vấn đề
đáng được quan tâm hiện nay. Hoạt động bình thường tuân thủ các quy định của
pháp luật của cơ quan, tổ chức là cơ sở quan trọng bảo đảm kỷ cương pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao lòng
tin của nhân dân vào sự quản lý của Nhà nước. Nước ta hiện nay đang phải đối
mặt với hiện tượng tham nhũng – vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến bộ
máy chính trị, sự phát triển kinh tế, xã hội. BLHS đã quy định cụ thể các tội
phạm về chức vụ tại Chương XXIII, gồm các tội tham nhũng (Mục 1) và các tội
phạm khác về chức vụ (Mục 2) [1]. Trong đó, Tội nhận hối lộ là một trong
những tội phạm tham nhũng hết sức đáng chú ý được quy định tại Điều 354
BLHS. Để nhận thức rõ về các dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ cũng như
một số câu hỏi liên quan và vướng mắc của khi định tội danh này, em đã chọn đề
tài: “Anh/Chị hãy phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội nhận hối lộ theo quy
định tại Điều 354 BLHS? Người đưa hối lộ có bị truy cứu TNHS với vai trò
đồng phạm trong tội nhận hối lộ hay không và vấn đề định tội được giải quyết
như thế nào? Vì sao? Hãy nêu một số khó khăn, vướng mắc và hướng giải quyết
trong thực tiễn định tội danh với tội nhận hối lộ?” nhằm có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này. 2 B. NỘI DUNG
I. Phân tích các dấu hiệu pháp lý của
Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS)
1. Khái niệm Tội nhận hối lộ
Tội nhận hối lộ được quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS. Cụ thể,
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian
nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc
cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc
theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành
vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1
Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Lợi ích phi vật chất.”
Trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS ,có thể hiểu: Tội nhận hối lộ
là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực
tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác
hoặc lợi ích phi vật chất dưới bất kì hình thức nào cho chính bản thân người đó
hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
2. Dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho từng tội
phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự [2]. Các yếu tố của mỗi tội phạm
được quy định trong luật hình sự đều thể hiện bởi những dấu hiệu pháp lý nhất
định. Các dấu hiệu đó bao gồm: -
Dấu hiệu quan hệ xã hội cụ thể bị hành vi phạm tội xâm hại trong khách thể của tội phạm; -
Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm; -
Dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình
sự của chủ thể của tội phạm; 3 -
Dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm.
Như vậy, dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ gồm:
2.1 Khách thể của tội phạm
Theo Luật hình sự Việt Nam, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Căn cứ vào
cách thức quy định của luật hình sự về khách thể của tội phạm, thì khách thể của
tội phạm gồm ba loại: khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp.
Đối với khách thể của tội nhận hối lộ là tội phạm xâm phạm hoạt động đúng
đắn của cơ quan, danh nghiệp, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước. Làm cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
này bị suy yếu, mất uy tín; làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước [4].
Bên cạnh đó, đối tượng tác động của tội nhận hối lộ là hoạt động bình thường,
đúng đắn của chủ thể phạm tội (người có chức vụ, quyền hạn). Tiền của, tài sản
hoặc lợi ích vật chất hoặc phi vật chất khác (lợi ích về tình cảm, tinh thần, tình
dục...) trong tội phạm này đóng vai trò là phương tiện để thông qua đó tác động
đến đối tượng của tội phạm này.
2.2 Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội. a. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của người phạm tội thể hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Căn cứ khoản 1 Điều 354 BLHS, hành vi khách quan của Tội nhận hối lộ
được thể hiện qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung
gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó 4
hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ: -
Nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên; -
Nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới
2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ mà còn vi phạm.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 20 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011
của Chính phủ Quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức và khoản 3 Điều 19
Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính phủ Quy định về xử lý
kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức, thì bị coi là
đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ mà còn vi phạm nếu trước đó đã bị
người có thẩm quyền xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ nhưng chưa hết thời
hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luật (sau 12 tháng kể từ ngày quyết định kỷ
luật có hiệu lực, nếu công chức, viên chức không tiếp tục có hành vi vi phạm
đến mức phải xử lý kỷ luật) mà còn thực hiện hành vi nhận hối lộ. -
Nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới
2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1
Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Đã bị kết án về một trong các tội tham nhũng sau đây, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm: tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; tội giả mạo trong công tác (từ
Điều 353 đến Điều 359 BLHS) [1]. -
Nhận hoặc sẽ nhận lợi ích phi vật chất (điểm mới của BLHS). Đây là lợi
ích ngoài tiền, tài sản. Chẳng hạn, lợi ích liên quan đến việc thăng tiến chức vụ,
tặng thưởng danh hiệu cao quý, sự đồng thuận giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục... 5
Về hành vi nhận hối lộ một cách trực tiếp hay qua trung gian từ người đưa hối
lộ có thể được hiểu là:
Trực tiếp nhận bất kỳ lợi ích nào của người đưa hối lộ là tự thân người hối lộ
trực tiếp nhận của hối lộ mà không thông qua trung gian [7]. Ví dụ: như A đưa
hối lộ cho B là công an quận X bằng cách trực tiếp cầm tiền giao cho B hoặc
chuyển tiền vào tài khoản của B tại ngân hàng.
Qua trung gian nhận bất kỳ lợi ích nào của người đưa hối lộ là trường hợp
người nhận hối lộ không trực tiếp nhận hối lộ mà thông qua người thứ ba hoặc
qua nhiều người, nhiều khâu để cuối cùng của hối lộ đến người nhận hối lộ [7].
Ví dụ: Anh B thông qua A đưa tiền hối lộ cho C.
Về hành vi làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ có thể được hiểu là: làm một việc vì lợi ích của người đưa hối
lộ, tức
là người nhận hối lộ đã thực hiện một công việc nào đó có lợi ích cho
chính người đưa hối lộ; không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ,
nghĩa là người nhận hối lộ đã không thực hiện một công việc đáng lẽ phải thực
hiện theo quy định của pháp luật, từ đó mang lại lợi ích cho người đưa hối lộ;
làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, là người nhận hối lộ đã giải
quyết công việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ mà đáng lẽ không được làm,
qua đó mang lại lợi ích cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm; không
làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, ở đây được hiểu là người
nhận hối lộ không giải quyết công việc nào đó theo yêu cầu, từ đó lợi ích người
nhận hối lộ mang đến lại cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm.
b. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
Hậu quả của Tội nhận hối lộ là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội.
Theo quy định tại Điều 354 BLHS, Tội nhận hối lộ có cấu thành hình thức.
Theo đó, cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm mà trong đó, chỉ có
dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm. Như
vậy, hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt
khách quan của Tội nhận hối lộ. Từ đó, cho thấy thời điểm hoàn thành của Tội 6
nhận hối lộ là khi người nhận hối lộ “có ý định nhận hoặc sẽ nhận” lợi ích,
không đòi hỏi người đó đã nhận hay chưa.
Hậu quả của Tội nhận hối lộ chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt
hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
2.3 Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện
và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó, thể hiện ở dấu hiệu lỗi,
động cơ và mục đích. Cụ thể, mặt chủ quan của Tội nhận hối lộ cũng thể hiện
qua dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích như sau:
- Dấu hiệu về lỗi:
Tội nhận hối lộ được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Theo quy định tại khoản
1 Điều 10 BLHS, cố ý trực tiếp phạm tội là phạm tội trong trường hợp “người
phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”. Như vậy, về mặt
lý trí, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước được hậu quả nguy hiểm do hành vi mình gây ra. Tuy nhiên, vì tội
này là tội có cấu thành hình thức nên không cần thiết xác định xem người đó có
thấy trước hậu quả hay không. Về mặt ý chí, người phạm tội mong muốn cho
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên, đối với
Tội nhận hối lộ chỉ cần xác định người phạm tội mong muốn thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội của mình.
- Dấu hiệu về động cơ và mục đích:
Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội mong muốn đạt
được. Mục đích mà người phạm tội nhận hối lộ là kết quả giữa người có công
việc và người có chức vụ, quyền hạn đã thỏa thuận nhất định về việc người có
chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc cụ thể nào đó vì lợi ích hoặc
theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 7
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội. Theo đó, người phạm tội nhận hối lộ với động cơ là vụ lợi.
Người phạm tội mong muốn lợi ích cho chính bản thân hoặc cho người, tổ chức khác...
2.4 Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đã
đạt độ tuổi nhất định do luật hình sự quy định và có năng lực trách nhiệm hình
sự. Ngoài ra, pháp nhân thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện cũng là chủ
thể và chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm theo quy định của BLHS.
Chủ thể của tội nhận hối lộ phải là chủ thể đặc biệt, tức là người có chức vụ,
quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức
khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm
vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [1].
Cụ thể, chủ thể của Tội nhận hối lộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng
lực trách nhiệm hình sự, có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, danh nghiệp, tổ
chức trong nước, kể cả người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
Trong đó, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, theo quy định tại Điều 12,
Điều 354 BLHS, chủ thể phạm tội nhận hối lộ được quy định là người phạm tội
phải từ đủ 16 tuổi trở lên.
Về năng lực trách nhiệm hình sự, BLHS không quy định cụ thể về năng lực
trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều
12 và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21. Như vậy,
căn cứ vào quy định BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình.
II. Người đưa hối lộ có bị truy cứu TNHS với vai trò đồng phạm trong
Tội nhận hối lộ hay không và vấn đề định tội được giải quyết như thế nào? Vì sao? 8
Người đưa hối lộ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng
phạm trong Tội nhận hối lộ mà tùy từng trường hợp, sẽ bị truy cứu trách nhiệm
về Tội đưa hối lộ theo Điều 364 BLHS. Bởi vì:
Thứ nhất, BLHS đã quy định cụ thể về hành vi đưa hối lộ. Theo đó, hành vi
trực tiếp hoặc qua trung gian đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn
hoặc người khác hoặc tổ chức khác tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ
2.000.000 đồng hoặc lợi ích phi vật chất để người có chức vụ, quyền hạn làm
hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Như
vậy, nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm đưa hối lộ (mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể, khách thể) thì người đưa hối hộ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về Tội đưa hối lộ theo Điều 364 BLHS.
Thứ hai, theo khoản 1 Điều 17 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Căn cứ vào tính chất tham
gia của mỗi người thì bao gồm bốn loại người đồng phạm: -
Người thực hành là người giữ vai trò chủ đạo trong vụ án đồng phạm, trực
tiếp thực hiện tội phạm; -
Người tổ chức thường được coi là người nguy hiểm nhất trong số những
người đồng phạm. Họ là có thể chỉ là người chủ mưu hoặc cầm đầu hoặc chỉ huy
việc phạm tội. Nhưng cũng có thể vừa chỉ huy, vừa cầm đầu, vừa chủ mưu việc thực hiện tội phạm; -
Người xúi dục là người có hành vi tác động đến ý thức, tư tưởng của
người khác làm cho người bị xúi dục thực hiện tội phạm [2] như kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm; -
Người giúp sức là người tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần hoặc vật chất
cho người đồng phạm khác thực hiện tội phạm.
Vì thế, nếu xác định người đưa hối lộ là đồng phạm trong Tội nhận hối lộ thì
chưa phản ánh đúng tính chất của hành vi phạm tội.
III. Một số khó khăn, vướng mắc và hướng giải quyết trong thực tiễn
định tội danh với Tội nhận hối lộ 9
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh với Tội nhận hối lộ
Thứ nhất, trong những khó khăn, vướng mắc cho hoạt động định tội danh với
Tội nhận hối lộ là do sự thiếu rõ ràng, thiếu hợp lý trong quy định của luật hình
sự hiện hành về tội phạm này: -
Tại điểm b khoản 1 Điều 354 BLHS quy định về lợi ích phi vật chất chưa
quy định rõ ràng cụ thể, điều này gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố
tụng khi xem xét trách nhiệm hình sự quyết định tội danh vì không xác định
được tính chất, mức độ của lợi ích phi vật chất. -
Khó khăn trong việc xác định người có chức vụ, quyền hạn trong doanh
nghiệp và tổ chức nước ngoài. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn xác định
những người được coi là có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức
ngoài nhà nước, đây cũng là một trong những khó khăn trong việc xác định chủ thể của tội phạm. -
Quy định về hành vi nhận hối lộ trong lĩnh vực công và nhận hối lộ trong
lĩnh vực tư với cùng một tội danh, trong cùng một điều luật là chưa hợp lý [5],
bởi lẽ khách thể hành vi nhận hối lộ trong lĩnh vực công và lĩnh vực tư là khác
nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi trong hai lĩnh vực này cũng khác nhau.
Thứ hai, ngoài những khó khăn, vướng mắc trên, thì cũng có một số khó khăn
trong thực tế đời sống đã tác động đến công tác định tội chưa hiệu quả là: -
Do chủ thể của tội phạm này thường là cán bộ có chức vụ, quyền hạn nhất
định trong các cơ quan Đảng và Nhà nước đã có ít nhiều cống hiến. Vì thế, khi
xét xử các Thẩm phán thường bị chi phối bởi những thành tích, công lao đóng
góp của bị cáo mà chưa thấy hết những suy thoái, sa đọa và những hậu quả gây
ra làm ảnh hưởng đến Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. -
Hành vi nhận hối lộ của những người có chức vụ, quyền hạn rất tinh vi,
dùng thủ đoạn xảo quyệt. Chẳng hạn, chủ động yêu cầu, đòi người khác đưa
tiền, tài sản hay lợi ích cho mình để không làm một việc nào đó có lợi cho người
phạm tội, sau đó dùng thủ đoạn xảo quyệt để thực hiện che dấu hành vi phạm tội 10
của mình. Từ đó, khó có thể tìm ra chứng cứ chứng minh là họ nhận hối lộ để xác định tội danh.
2. Hướng giải quyết trong thực tiễn định tội danh với Tội nhận hối lộ
Từ cơ sở trên cho thấy, việc xác định chính xác hành vi khách quan của Tội
nhận hối lộ sẽ giúp cho công tác giải quyết định tội danh hiệu quả, tránh được
oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua đó, ta có thể đưa ra một số hướng giải quyết như sau:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn một cách
rõ ràng, đầy đủ, bổ sung cho những quy định của BLHS về tội danh này. Cụ thể: -
Cần phải có hướng dẫn thực hiện về trường hợp người phạm tội nhận
hoặc sẽ nhận lợi ích phi vật chất nhằm tránh việc đánh giá chủ quan, không
thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. -
Hướng dẫn về hành vi khách quan của Tội nhận hối lộ, trong lĩnh vực tư
[6]. Thực tế, trong lĩnh vực tư còn có những trường hợp nhận tiền như tiền hoa
hồng, tiền môi giới... (được pháp luật cho phép). Do đó, cần phải có văn bản
hướng dẫn rõ ràng để phân biệt trường hợp nào là phạm tội, trường hợp nào là không? -
Hướng dẫn cụ thể hơn hành vi “sẽ nhận hối lộ” để các cơ quan có thẩm
quyền xác định chính xác về thời điểm cấu thành tội phạm nhằm giúp việc định
tội danh một cách chính xác hơn. -
Cần sớm ban hành văn bản xác định cụ thể người nào là người có chức
vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận
lợi trong việc xác định chủ thể của tội phạm.
Thứ hai, từ những khó khăn trong thực tế việc định tội nhận hối lộ hiện nay,
cơ quan tố tụng nói chung và viện kiểm sát nói riêng cần có những biện pháp như sau: -
Cần trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đấu tranh, phòng chống
tội phạm một cách đầy đủ, đáp ứng với yêu cầu thực tế, bên cạnh đó cần trao dồi
thêm kỹ năng chuyên môn, trình độ, kiến thức, năng lực cho các cơ quan bảo vệ 11
pháp luật toàn diện nhằm định tội danh với Tội nhận hối lộ một cách triệt để, nghiêm minh. -
Qua những hành vi tinh vi, thủ đoạn xảo quyệt của người nhận hối lộ,
Đảng và Nhà nước ta phải có công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ
thường xuyên để các cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, tư duy nhằm đánh giá
chính xác các hành vi, phát hiện thủ đoạn của người phạm tội nhanh chóng mà
định tội danh một cách chuẩn xác, tránh bỏ lọt, oan sai tội phạm.
Có như vậy, công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung
và tội phạm nhận hối lộ nói riêng mới đạt được kết quả cao. 12 C. KẾT LUẬN
Tội nhận hối lộ là một trong những tội thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ
được quy định trong BLHS. Qua việc tìm hiểu và phân tích về tội danh này,
chúng ta có thể thấy hành vi nhận hối lộ được coi là một trong những hành vi
gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; bên
cạnh đó tội phạm này khá phổ biến, đa dạng về cách thức thực hiện nên đã gây
ảnh hưởng rất lớn đến bộ máy nhà nước. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật hình sự liên quan đến Tội nhận hối lộ có một ý nghĩa
quan trọng không chỉ về mặt nhận thức mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng có cơ sở pháp lý để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các hành vi
phạm tội nhận hối lộ [6]. Bài tiểu luận là những đánh giá quan điểm của cá nhân
em dựa trên cơ sở những nghiên cứu và thu thập tài liệu của bản thân, do vậy
không thể tránh khỏi sai sót nên em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ
sung và chỉnh sửa từ quý thầy cô để bài của em được hoàn chỉnh và chất lượng hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm, Tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
[2] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần
chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2019.
[3] Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017.
[4] Đỗ Đức Hồng Hà (2017), “Bình luận Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017 về Tội nhận hối lộ”. Tạp chí Kiểm sát, (23).
[5] Đào Phương Thanh (2021), “Quy định của Bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội
đối với Tội nhận hối lộ”. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (02).
[6] Nguyễn Ngọc Điền (2020). “Tội nhận hối lộ theo Bộ luật hình sự năm 2015 và
một số kiến nghị hoàn thiện”. Tạp chí khoa học Kiểm sát, (04).
[7] Dấu hiệu pháp lý của Tội nhận hối lộ theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), Diễn đàn trao đổi và giải đáp Đại học Kiểm Sát, Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội, ngày 1/4/2021.