BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. TỪ ĐÓ
RÚT RA Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG VIỆC NHẬN THỨC
VẬN DỤNG ĐỐI VỚI NGÀNH HỌC CỦA EM
HỌ VÀ TÊN : TRẦN THỊ CẨM LY
MÃ SINH VIÊN : 11224002
LỚP : MARKETING 64C
KHOA : MARKETING
GIÁO VIÊN : NGHIÊM THỊ CHÂU GIANG
Hà Nội, 2023
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
I.NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI......3
1.Các khái niệm............................................................................................3
1.1. Khái niệm về chất..............................................................................3
1.2. Khái niệm về lượng...........................................................................4
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng............................................5
2.1. Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy..................................................5
2.2. Mối quan hệ biện chứng....................................................................5
2.3. Các hình thức nhảy vọt......................................................................6
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VIỆC VẬN DỤNG VÀO
NGÀNH HỌC CỦA BẢN THÂN....................................................................7
1.Ý nghĩa phương pháp luận........................................................................7
2.Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào ngành học của bản thân...........8
2.1. Quá trình từ học sinh trở thành sinh viên..........................................8
2.2. Thực trạng của nhiều sinh viên hiện nay và biện pháp khắc phục....9
2.3. Liên hệ bản thân trong việc nhận thức vận dụng vào ngành học
Marketing................................................................................................11
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống thường ngày, đằng sau sự muôn hình muôn vẻ của các sự
vật hiện tượng tồn tại một trật tự nhất định lặp đi lặp lại. Con người
dần nhận thức được điều đó và hình thành nên khái niệm “quy luật”. Quy luật là
mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối
tượng nhất định tác động khi các điều kiện phù hợp. Các quy luật, bao
gồm cả quy luật tự nhiên, hội tư duy đều chỉ mang tính khách quan. Con
người không thể tạo ra hay xóa bỏ được các quy luật chỉ nhận thức tích
cực vận dụng vào thực tiễn.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất ngược lại quy luật bản, phổ biến về phương thức chung
của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật
chỉ ra phương thức, cách thức vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Đó cũng chính là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong
mọi quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.
Để được lượng lớn kiến thức, con người phải trải qua quá trình tích
lũy để không ngừng phát triển bản thân. Sinh viên cũng phải trải qua quá trình
này mới thể tiếp thu được nhiều kiến thức mới để vận dụng vào ngành học,
công việc trong tương lai. Quá trình này tuân theo quy luật lượng chất.
Trong quá trình tích lũy, sinh viên rất dễ gặp phải tưởng tả khuynh, hữu
khuynh do nhận thức không đúng về quy luật. Hiểu tầm quan trọng của quy
luật cũng như những vấn đề sinh viên đang gặp phải, vậy nên bài tiểu luận
này em xin lựa chọn đề tài “Phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất ngược lại. Từ
đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong việc nhận thức và vận dụng đối
với ngành học của em”. Do còn nhiều thiếu sót nên bài tiểu luận của em vẫn
2
còn một vài lỗi sai, hạn chế,vậy rất mong nhận được nhận xét của giáo viên
để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
3
PHẦN NỘI DUNG
I.NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất ngược lại một trong những quy luật bản của phép biện chứng
duy vật. Nội dung quy luật được làm rõ thông qua việc phân tích các khái niệm
và phạm trù liên quan.
1.Các khái niệm.
1.1. Khái niệm về chất.
Chất phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
của sự vật, hiện tượng ; sự thống nhất hữu của các thuộc tính, yếu tố tạo
nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật,
hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ một chất thể
có nhiều chất. Một ví dụ điển hình về chất có thể kể đến các nguyên tố hóa học.
Nguyên tử Đồng (Cu) khối lượng nguyên tử 63,546 đvC, số hiệu nguyên
tử 29, độ dẫn điện, dẫn nhiệt cao, Những thuộc tính này nói lên chất
riêng của Đồng, phân biệt Đồng với các loại nguyên tử khác.
Chất của sự vật được quy định bởi hai yếu tố. Thứ nhất, chất được quy
định bởi yếu tố cấu thành sự vật. Tức chất được biểu hiện qua những thuộc
tính của nó, song không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự
vật. Lý do là bởi thuộc tính của sự vật bao gồm thuộc tínhbản và thuộc tính
không bản. Những thuộc tính bản thuộc tính được tổng hợp lại tạo
thành chất của sự vật, quy định sự tồn tại, vận động phát triển của sự vật ;
thuộc tính không bản thì ngược lại. Tuy nhiên, sự phân chia các loại thuộc
tính chỉ mang tính chất tương đối. Thứ hai, chất được quy định bởi phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành, hay kết cấu sự vật. Trong thực tế, các sự vật
4
tuy hoàn toàn khác nhau nhưng chúng lại được tạo thành bởi những yếu tố
giống nhau, đó chính do sự khác nhau về phương thức liên kết. Tùy vào khả
năng liên kết vững mạnh hay yếu kém chất cũng biến đổi, tạo thành những
sự vật khác nhau với những chất khác nhau.
1.2. Khái niệm về lượng.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốncủa sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện số lượng
các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, các đại lượng, tốc độ và nhịp điệu vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài
hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc
độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt… Mộtdụ về lượng đó
chính cấu tạo phân tử nước. Mỗi phân tử nước đều được tạo thành từ 2
nguyên tử Hidro một nguyên tử Oxi, đó chính lượng của thuộc tính cấu
thành phân tử nước.
Lượng một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định
trong không giantồn tại trong thời gian nhất định, do vậyđặc điểm
tính khách quan. thể thấy, một sự vật thể tồn tại nhiều loại lượng khác
nhau, được xác định bằng cách phương thức khác nhau phù hợp với từng sự vật.
lượng yếu tố quy định bên trong, lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài
của sự vật, hiện tượng. Lượng có thể đo,thể đếm được, nhưng trong một số
trường hợp lượng có đo được bằng số liệu cụ thể chỉ thể nhận biết được
bằng năng lực trừu tượng hóa.
Như vậy, chất lượng hai phương diện khác nhau nhưng đều tồn tại
khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất lượng chỉ ý nghĩa tương
đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng đâu là chất. Bởi vì cái
là lượng trong mối quan hệ này nhưng lại có thể là chất trong mối quan hệ khác
5
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
2.1. Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất với lượng ; giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng trong đó sự
thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất ; sự vật, hiện tượng vẫn
nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Độ được giới hạn bởi hai
điểm nút
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới,
là thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất
của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, bước
ngoặt bản trong sự thay đổi về lượng, sự gián đoạn trong quá trình vận
động liên tục của sự vật, hiện tượng.
dụ trong tự nhiên, nước tồn tại dạng lỏng từ 0ºC đến 100ºC, đây
chính độ của nó, tại 0ºC 100ºC chính hai điểm nút. Khi nhiệt độ thấp
hơn 0ºC hoặc cao hơn 100ºC, nước chuyển thành dạng tồn tại khác, cụ thể
dạng rắn hoặc dạng khí, đây chính là hai bước nhảy của nước.
2.2. Mối quan hệ biện chứng
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự
vật, hiện tượng một thể thống nhất giữa hai mặt chất lượng, chúng tác
động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất
và lượng thống nhất với nhau ở một độ ; nhưng cũng trong phạm vi độ đó, chất
và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi.
6
Thứ nhất, lượng đổi dẫn đến chất đổi. Lượng yếu tố động, luôn thay
đổi. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng tăng hoặc giảm nhưng
không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Biến đổi về
lượng thường xu hướng tích lũy. Khi đạt tới điểm nút, biến đổi về lượng
chuyển hóa thành sự nhảy vọt về chất, dẫn đến sự ra đời của chất mới. Như vậy,
sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quảsự vật, hiện tượng
cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới cao hơn, phức tạp hơn ra đời thay thế cho cái
cũ.
Thứ hai, chất đổi làm cho lượng đổi. Chất yếu tố tương đối ổn định,
khó biến đổi hơn lượng. Khi biến đổi về lượng đạt tới điểm nút chuyển hóa
thành sự nhảy vọt về chất, dẫn đến sự ra đời của chất mới. Chất mới lại tiếp tục
biến đổi sinh ra sự vật mới mang lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi, cứ
như thế cho đến vô cùng tận.
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ
dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy ; đồng thời, chất mới sẽ tác
động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng.
Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên
tục, đồng thời tạo thành phương thức bản, phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.3. Các hình thức nhảy vọt
Căn cứ vào quy nhịp độ của bước nhảy, bước nhảy toàn bộ
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi
một số mặt, yếu tố, bộ phận của chúng. Sự phân biệt này chỉ ý nghĩa
tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.
7
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất, bước nhảy tức thời
bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm cho chất của sự vật, hiện tượng
biến đổi mau chóng tất cả các bộ phận. Bước nhảy dần dần quá trình thay
đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ
dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi
chậm hơn.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VIỆC VẬN DỤNG VÀO
NGÀNH HỌC CỦA BẢN THÂN.
1.Ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích
lũy về lượng để biến đổi về chất ; không được nôn nóng cũng như không
được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức
tất yếu của mọi sự vận động phát triển ; nhưng sự thay đổi về chất do thực
hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến
điểm nút. Vậy nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích lũy
năng lượng.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu
cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng. tư tưởngTả khuynh
nôn nóng, thường biểu hiện chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về
lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy
liên tục. Ngược lại, tưởng bảo thủ thường biểu hiện chỗhữu khuynh
không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ những thay đổi về
lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phảithái độ khách quan,
khoa học quyết tâm thực hiện bước nhảy. Trong hoạt động thực tiễn, không
8
những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa
học, chống giáo điều, rập khuôn,còn phải quyết tâm và nghị lực để thực
hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện
kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa
sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng ; do
đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
2.Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào ngành học của bản thân.
Từ những phân tích về nội dung quy luật, ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất ngược lại, ta thể rút ra một số kết luận về ý nghĩa của quy luật đối
với sinh viên hiện nay cũng như đối với bản thân. Để làm rõ những kết luận đó,
ta phân tích một số khía cạnh như sau :
2.1. Quá trình từ học sinh trở thành sinh viên.
Trước khi trở thành sinh viên, ai cũng đã trải qua quá trình 12 năm học
tập các bậc phổ thông. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường đó, mỗi học
sinh đều được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh
vực cơ bản là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh
lại tự trang bị cho mình những kĩ năng mềm, những hiểu biết riêng về cuộc sống
xung quanh mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của mỗi người một quá
trình dài, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng từ chính bản thân người học cũng như
từ phía gia đình và nhà trường.
Quy luật lượng chất được thể hiện qua việc tích lũy một khối lượng
kiến thức nhất định của mỗi học sinh thông qua việc học tập và rèn luyện ở trên
9
lớp cũng như nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các bài thi,
trước hết các kì thi học kì, sau đó là kì thi chuyển cấp học và cuối cùng là
thi tốt nghiệp, kết thúc 12 năm học phổ thông. Khi tích lũy đủ lượng kiến thức
cần thiết, học sinh sẽ vượt qua kì thi và chuyển sang giai đoạn học mới.
Như vậy, có thể thấy rằng, quá trình tích lũy kiến thức chính là độ ; các kì
thi chính là điểm nút, điểm nút quan trọng nhất chínhthi đại học ; việc
vượt qua các thi chính thực hiện bước nhảy làm cho quá trình tiếp thu tri
thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, hơn hết, vượt qua được thi đại
học chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt,
mở ra một thời phát triển mởi của lượng chất, từ học sinh trở thành sinh
viên, tức là đã có sự thay đổi về chất.
2.2. Thực trạng của nhiều sinh viên hiện nay và biện pháp khắc phục.
Thứ nhất, nhiều sinh viên chưa thích nghi được với phương pháp học tập
giảng dạy cấp bậc Đại học. So với các cấp bậc phổ thông, những môn học
Đại học chỉ học vào một kỳ duy nhất, nhưng ngược lại, số lượng kiến thức
mỗi người học cần tiếp thu lớn hơn rất nhiều so với các cấp học dưới. Ngoài ra,
việc tiếp cận một kiến thức mới cũng có nhiều phương pháp hơn. Bên cạnh việc
giáo viên giảng dạy trên lớp, sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu từ giáo trình
môn học, hoặc cũng có thể tiếp thu kiến thức mới từ việc đi làm thêm, thực tập,
đây là cách các bạn sinh viên thực hành các lý thuyết từ trong giáo trình, từ thầy
giảng dạy ra ngoài thực tế, giúp cho các bạn hiểu rõ kiến thức cũng như học
hỏi thêm nhiều kiến thức mới từ đời sống hội. Những điều đó đều khác biệt
hoàn toàn so với việc học tập ở phổ thông. Chính sự tăng lên về lượng kiến thức
đó khiến nhiều bạn sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức, thậm
chí có nhiều bạn cảm thấy chán nản, muốn từ bỏ việc học. Vì vậy, sinh viên cần
phải chủ động tiếp thu kiến thức, chủ động trong việc tìm hiểu kiến thức môn
học trước khi lên lớp nghe giảng, nâng cao năng tự học, tự rèn luyện. Ngoài
10
ra, cần phải kế hoạch học tập cụ thể, phù hợp với từng môn học, hoàn cảnh
cá nhân, hình thành những kĩ năng cần thiết để đạt được kết quả tốt nhất.
Thứ hai, nhiều bạn tân sinh viên đang có tư tưởng nghỉ ngơi sau kì thi tốt
nghiệp căng thẳng, ngủ quên trên chiến thắng. Kì thi tốt nghiệp là mộtthi rất
quan trọng, việc đỗ vào trường Đại học danh giá lại là một chuyện đáng tự hào.
Chính vậy, nhiều bạn sinh viên sau khi đỗ vào Đại học đã tưởng chủ
quan, tự mãn với những gì mình đã có, ngủ quên trên chiến thắng, không nỗ lực
trong học tập rèn luyện. Thực tế, Đại học là cấp bậc cao hơn, nhiều kiến
thức cao hơn, sâu rộng hơn, vì vậy chúng ta phải không ngừng học hỏi, trau dồi
kiến thức để không chỉ điểm số cao hơn còn để vận dụng vào công việc
trong tương lai.
Thứ ba, tưởng tả khuynh khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã
thực hiện bước nhảy. Rất nhiều sinh viên trong quá trình học tập. Suốt cả
kì học, sinh viên mải mê làm thêm, kiếm tiền ; mất quá nhiều thời gian cho việc
tham gia các hoạt động ngoại khóa, mải vui chơiquên mất nhiệm vụ chính
của bản thân, không chú trọng vào việc học. Điều đó dẫn đến các bạn không
tích lũy nhiều kiến thức môn học trong suốt kỳ học, khi kỳ thi gần đến mới bắt
đầu ôn tập. Nhưng lúc đó thời gian gấp rút lượng kiến thức lại rất nhiều,
điều đó dẫn đến lượng kiến thức các bạn tiếp thu rất ít, hay thậm chí còn dẫn
đến việc gian lận trong thi cử chỉ để đạt điểm cao hoặc để vượt qua môn học.
Những điều này khiến cho lượng kiến thức mà các bạn tiếp thu chưa đầy đủ về
mặt số lượng cũng như chưa đảm bảo được chất lượng. Khi những kiến thức cơ
bản các bạn chưa được thì khi học các môn chuyên ngành sâu hơn, khó hơn
các bạn sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp thu. Như vậy, muốn tiếp thu được càng
nhiều tri thức đạt được kết quả cao, người học cần phải nỗ lực học hỏi, học
từ thấp đến cao, học từ dễn đến khó, những vấn đề chưa hiểu thì không được bỏ
cuộc, phải hiểu từng khía cạnh của môn học thì mới thể học tốt môn học
đó.
11
Tóm lại, việc học là cả một quá trình, không được nóng vội, đốt cháy giai
đoạn. Chỉ khi tích lũy đủ về lượng, đến một giới hạn nhất định mới làm thay đổi
về chất. Do đó, trong quá trình học tập sinh viên cần phải tích lũy dần về lượng
kiến thức, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi điều
kiện chín muồi để thực hiện biến đổi về chất. Những việc làm đại của con
người bao giờ cũng được tổng hợp từ những việc làm bình thường. Vì vậy mỗi
sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập rèn
luyện của mình để phát triển bản thân.
2.3. Liên hệ bản thân trong việc nhận thức vận dụng vào ngành
học Marketing.
Ngành Marketing là một ngành rất năng động, đòi hỏi sự sáng tạo không
ngừng, sự quan sát nhạy bén. Sinh viên trong ngành Marketing ngoài việc
không ngừng phát triển bản thân thì còn cần phải rèn luyện tư duy sáng tạo, liên
tục cập nhật xu thế để bắt kịp xu hướng thị trường, hiểu thị trường muốn
và biết được bản thân cần làm gì để có thể thành công trong lĩnh vực này.
Ngành Marketing rất đa dạng phong phú nhưng không phải ai cũng
phù hợp thể theo đuổi lâu dài, bởi đòi hỏi người trong ngành cần
phải có một số yếu tố và phẩm chất nhất định. duy sáng tạo khôngThứ nhất,
ngừng sự đầu chất xám vào chiến lược. Để thể tăng doanh thu sản
phẩm cũng như cạnh tranh với các đối thủ, người làm Marketing phải đảm bảo
được sự mới mẻ, thậm chí là khác biệt so với các sản phẩm khác thì mới thu hút
được khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Để làm được điều đó, bạn cần phải
chiến lược Marketing cụ thể đúng đắn, luôn phải làm mới các nội dung, tạo
những câu chuyện thú vị… để tiếp cận tới khách hàng. thể thấy rằng, sự
sáng tạo là kim chỉ nam giúp bạn đứng vững trong ngành Marketing vốn đòi hỏi
cao nhất về ý tưởng các chiến lược truyền thông. linh hoạt bắt kịpThứ hai,
xu hướng mới. Bởi Marketing một ngành năng động nên luôn sự
12
thay đổi không ngừng, liên tục tạo ra những xu hướng mới. Người trong ngành
cần phải thường xuyên theo dõi và nghiên cứu những tin tức, sự kiện đã và đang
diễn ra để bắt kịp xu hướng, cập nhật những liệu phục vụ cho công việc
quá trình nghiên cứu của mình. Muốn thành công và thu hút được nhiều người
thì cần phải sự đổi mới một cách linh hoạt nhất. Đây cũng chính cách để
tránh bị đào thải tránh bị các đối thủ lấn át. chịu khó, chăm chỉ Thứ ba,
nhiệt huyết. Những chiến lược Marketing thường phải thực hiện trong một thời
gian dài, đôi khi thời gian đầu thực hiện chiến lược chưa thể đạt được thành
công mong muốn. vậy phải kiên trì theo đuổi quyết tâm thực hiện dự án
đến cùng, không bỏ cuộc giữa chừng thì mới thể hoàn thành chiến lược đã
đưa ra. phải chịu được áp lực. Bất kể ngành nghề nào cũng phải chịu ápThứ tư,
lực, nhưng công việc của ngành Marketing lại công việc chịu nhiều áp lực
nhất. Ngoài những áp lực như bao ngành nghề khác, người trong ngành
Marketing còn phải chịu áp lực từ khách hàng, đối thủ cạnh tranh, làm sao để
xây dựng thương hiệu, làm sao để tăng hiệu quả bán hàng. BởiMarketing
bộ phận quan trọng nhất trong doanh nghiệp. Nếu chỉ sản phẩm tốt thì chưa
đủ. Sự thành công hay thất bại của sản phẩm nằm chiến lược bộ phận
Marketing đề ra để quảng sản phẩm tiếp cận khách hàng. vậy, người
trong ngành phải chịu áp lực vô hình từ nhiều phía, đôi khi còn đến từ chính sự
kì vọng bản thân.
Tuy nhiên, những yếu tố phẩm chất nêu trên đều thể tích lũy qua
quá trình học tập trong môi trường Đại học. Trên giảng đường Đại học, ngoài
việc được tiếp thu những thuyết từ sách vở, sinh viên ngành Marketing nói
chung và bản thân em nói riêng còn được rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho
công việc sau này. Đầu tiên phải kể đến đó là kĩ năng tư duy sáng tạo. Bên cạnh
việc giảng dạy thuyết trên lớp, giảng viên thường đưa ra các bài tập, những
câu hỏi mang tính thực tế và đòi hỏi sáng tạo cho sinh viên nghiên cứu. Để giải
quyết những câu hỏi đó, bắt buộc sinh viên phải nắm vững lý thuyết trong giáo
13
trình khả năng duy sáng tạo để vận dụng những thuyết học được vào
thực tế. Ngoài ra, để làm tốt những bài tập mang tính ứng dụng thực tế như vậy,
sinh viên ngành Marketing còn phải nắm được xu hướng thị trường, phân tích
và nghiên cứu những xu hướng đó để giải quyết bài tập giảng viên cho một cách
tốt nhất. Tiếp theo, tính chịu khó, chăm chỉ, chịu được áp lực. Con đường tích
lũy kiến thức trên giảng đường Đại học một con đường dài, tưởng chừng dễ
nhưng không phải ai cũng vượt qua được, bởi vì trên con đường ấy có rất nhiều
thử thách, cám dỗ, chông gai. Nếu người học không có đủ quyết tâm và ý chí thì
rất dễ nản lòng, đi sai hướng và thậm chí là bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng ngược
lại, nếu sinh viên thể vượt qua những thử thách ấy thì không chỉ tích lũy
được lượng kiến thức còn rèn luyện được sự chịu khó, chăm chỉ cũng như
sự chịu đựng áp lực. Vậy nên, bản thân em thấy rằng, môi trường đại học là môi
trường hoàn hảo nhất để phát triển bản thân một cách toàn diện nhất thể
rèn luyện cho em những năng bản và cần thiết để áp dụng vào cuộc sống
cũng như công việc sau này.
14
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, từ những kiến thức liên hệ đã nêu trên, thể rút ra kết luận
cho quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại đó là mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất
của hai mặt đối lập chất lượng, những thay đổi dần dần về lượng vượt qua
giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời tác động trở lại và duy trì sự thay đổi của lượng. Do đó, mọi sự vận động và
phát triển của các sự vật, hiện tượng cần phải biết lựa chọn thời cơ chín muồi để
thực hiện bước nhảy hiệu quả nhất.
Trong thực tế, quá trình học tập nói chung và con đường học tập của sinh
viên nói riêng cũng phải tuân theo quy luật lượng – chất. Quy luật được thể hiện
ở việc sinh viên tự tiếp thu, tích lũy kiến thức cho mình thông qua nhiều phương
pháp. Những tri thức sinh viên tiếp thu được sẽ được thể hiện qua các bài
thi, bài kiểm tra. Khi đã tích lũy đủ kiến thức cần thiết cho môn học cơ bản, sinh
viên sẽ được học các môn học chuyên ngành sâu hơn, nâng cao hơn. Và khi sinh
viên đã đủ tri thứcnăng chuyên ngành cần thiết thì sẽ được tốt nghiệp
và vận dụng những điều đó vào công việc trong tương lai. Để làm được điều đó,
bản thân em cũng như các bạn sinh viên ngay từ bây giờ phải phấn đấu, tập
trung học tập rèn luyện năng cần thiết ; không được nóng vội, đốt cháy
giai đoạn, càng không được trì trệ, chậm trễ trong việc tiếp thu các kiến thức
của môn học, như vậy thì mới thể chinh phục được các môn học cũng như
thành công trong công việc tương lai.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác - nin. (2011). Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
Giáo trình Triết học Mác - nin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên).
(2021). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
16

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. TỪ ĐÓ
RÚT RA Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG VIỆC NHẬN THỨC VÀ
VẬN DỤNG ĐỐI VỚI NGÀNH HỌC CỦA EM
HỌ VÀ TÊN : TRẦN THỊ CẨM LY
MÃ SINH VIÊN : 11224002 LỚP : MARKETING 64C KHOA : MARKETING
GIÁO VIÊN : NGHIÊM THỊ CHÂU GIANG Hà Nội, 2023 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
I.NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI......3
1.Các khái niệm............................................................................................3
1.1. Khái niệm về chất..............................................................................3
1.2. Khái niệm về lượng...........................................................................4
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng............................................5
2.1. Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy..................................................5
2.2. Mối quan hệ biện chứng....................................................................5
2.3. Các hình thức nhảy vọt......................................................................6
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO
NGÀNH HỌC CỦA BẢN THÂN....................................................................7
1.Ý nghĩa phương pháp luận........................................................................7
2.Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào ngành học của bản thân...........8
2.1. Quá trình từ học sinh trở thành sinh viên..........................................8
2.2. Thực trạng của nhiều sinh viên hiện nay và biện pháp khắc phục....9
2.3. Liên hệ bản thân trong việc nhận thức và vận dụng vào ngành học
Marketing................................................................................................11
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15 1 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống thường ngày, đằng sau sự muôn hình muôn vẻ của các sự
vật và hiện tượng tồn tại một trật tự nhất định mà nó lặp đi lặp lại. Con người
dần nhận thức được điều đó và hình thành nên khái niệm “quy luật”. Quy luật là
mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối
tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp. Các quy luật, bao
gồm cả quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy đều chỉ mang tính khách quan. Con
người không thể tạo ra hay xóa bỏ được các quy luật mà chỉ nhận thức và tích
cực vận dụng vào thực tiễn.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung
của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật
chỉ ra phương thức, cách thức vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng.
Đó cũng chính là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong
mọi quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.
Để có được lượng lớn kiến thức, con người phải trải qua quá trình tích
lũy để không ngừng phát triển bản thân. Sinh viên cũng phải trải qua quá trình
này mới có thể tiếp thu được nhiều kiến thức mới để vận dụng vào ngành học,
công việc trong tương lai. Quá trình này tuân theo quy luật lượng – chất.
Trong quá trình tích lũy, sinh viên rất dễ gặp phải tư tưởng tả khuynh, hữu
khuynh do nhận thức không đúng về quy luật. Hiểu rõ tầm quan trọng của quy
luật cũng như những vấn đề mà sinh viên đang gặp phải, vậy nên bài tiểu luận
này em xin lựa chọn đề tài “Phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Từ
đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong việc nhận thức và vận dụng đối
với ngành học của em”. Do còn nhiều thiếu sót nên bài tiểu luận của em vẫn 2
còn một vài lỗi sai, hạn chế, vì vậy rất mong nhận được nhận xét của giáo viên
để bài tiểu luận hoàn thiện hơn. 3 PHẦN NỘI DUNG
I.NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nội dung quy luật được làm rõ thông qua việc phân tích các khái niệm và phạm trù liên quan. 1.Các khái niệm.
1.1. Khái niệm về chất.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng ; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo
nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật,
hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể
có nhiều chất. Một ví dụ điển hình về chất có thể kể đến các nguyên tố hóa học.
Nguyên tử Đồng (Cu) có khối lượng nguyên tử là 63,546 đvC, số hiệu nguyên
tử là 29, có độ dẫn điện, dẫn nhiệt cao, … Những thuộc tính này nói lên chất
riêng của Đồng, phân biệt Đồng với các loại nguyên tử khác.
Chất của sự vật được quy định bởi hai yếu tố. Thứ nhất, chất được quy
định bởi yếu tố cấu thành sự vật. Tức là chất được biểu hiện qua những thuộc
tính của nó, song không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự
vật. Lý do là bởi thuộc tính của sự vật bao gồm thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản là thuộc tính được tổng hợp lại tạo
thành chất của sự vật, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật ;
thuộc tính không cơ bản thì ngược lại. Tuy nhiên, sự phân chia các loại thuộc
tính chỉ mang tính chất tương đối. Thứ hai, chất được quy định bởi phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành, hay kết cấu sự vật. Trong thực tế, các sự vật 4
tuy hoàn toàn khác nhau nhưng chúng lại được tạo thành bởi những yếu tố
giống nhau, đó chính là do sự khác nhau về phương thức liên kết. Tùy vào khả
năng liên kết vững mạnh hay yếu kém mà chất cũng biến đổi, tạo thành những
sự vật khác nhau với những chất khác nhau.
1.2. Khái niệm về lượng.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng
các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, các đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài
hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc
độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt… Một ví dụ về lượng đó
chính là cấu tạo phân tử nước. Mỗi phân tử nước đều được tạo thành từ 2
nguyên tử Hidro và một nguyên tử Oxi, đó chính là lượng của thuộc tính cấu thành phân tử nước.
Lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định
trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định, do vậy nó có đặc điểm là
tính khách quan. Có thể thấy, một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác
nhau, được xác định bằng cách phương thức khác nhau phù hợp với từng sự vật.
Có lượng là yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài
của sự vật, hiện tượng. Lượng có thể đo, có thể đếm được, nhưng trong một số
trường hợp lượng có đo được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được
bằng năng lực trừu tượng hóa.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau nhưng đều tồn tại
khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương
đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng đâu là chất. Bởi vì cái
là lượng trong mối quan hệ này nhưng lại có thể là chất trong mối quan hệ khác 5
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
2.1. Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất với lượng ; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất ; sự vật, hiện tượng vẫn là
nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới,
là thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất
của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước
ngoặt cơ bản trong sự thay đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận
động liên tục của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ trong tự nhiên, nước tồn tại ở dạng lỏng từ 0ºC đến 100ºC, đây
chính là độ của nó, tại 0ºC và 100ºC chính là hai điểm nút. Khi nhiệt độ thấp
hơn 0ºC hoặc cao hơn 100ºC, nước chuyển thành dạng tồn tại khác, cụ thể là
dạng rắn hoặc dạng khí, đây chính là hai bước nhảy của nước.
2.2. Mối quan hệ biện chứng
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự
vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác
động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất
và lượng thống nhất với nhau ở một độ ; nhưng cũng trong phạm vi độ đó, chất
và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi. 6
Thứ nhất, lượng đổi dẫn đến chất đổi. Lượng là yếu tố động, luôn thay
đổi. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng tăng hoặc giảm nhưng
không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Biến đổi về
lượng thường có xu hướng tích lũy. Khi đạt tới điểm nút, biến đổi về lượng
chuyển hóa thành sự nhảy vọt về chất, dẫn đến sự ra đời của chất mới. Như vậy,
sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng
cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới cao hơn, phức tạp hơn ra đời thay thế cho cái cũ.
Thứ hai, chất đổi làm cho lượng đổi. Chất là yếu tố tương đối ổn định,
khó biến đổi hơn lượng. Khi biến đổi về lượng đạt tới điểm nút và chuyển hóa
thành sự nhảy vọt về chất, dẫn đến sự ra đời của chất mới. Chất mới lại tiếp tục
biến đổi sinh ra sự vật mới mang lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi, cứ
như thế cho đến vô cùng tận.
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ
dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy ; đồng thời, chất mới sẽ tác
động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng.
Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên
tục, đồng thời tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.3. Các hình thức nhảy vọt
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố … của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi
một số mặt, yếu tố, bộ phận … của chúng. Sự phân biệt này chỉ có ý nghĩa
tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng. 7
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất, có bước nhảy tức thời và
bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm cho chất của sự vật, hiện tượng
biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận. Bước nhảy dần dần là quá trình thay
đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ
dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO
NGÀNH HỌC CỦA BẢN THÂN.
1.Ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích
lũy về lượng để có biến đổi về chất ; không được nôn nóng cũng như không
được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức
tất yếu của mọi sự vận động và phát triển ; nhưng sự thay đổi về chất do thực
hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến
điểm nút. Vậy nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích lũy năng lượng.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu
cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng. Tả khuynh là tư tưởng
nôn nóng, thường biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về
lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy
liên tục. Ngược lại, hữu khuynh là tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ
không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về
lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan,
khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy. Trong hoạt động thực tiễn, không 8
những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa
học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực
hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện
kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa
sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng ; do
đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
2.Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào ngành học của bản thân.
Từ những phân tích về nội dung quy luật, ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại, ta có thể rút ra một số kết luận về ý nghĩa của quy luật đối
với sinh viên hiện nay cũng như đối với bản thân. Để làm rõ những kết luận đó,
ta phân tích một số khía cạnh như sau :
2.1. Quá trình từ học sinh trở thành sinh viên.
Trước khi trở thành sinh viên, ai cũng đã trải qua quá trình 12 năm học
tập ở các bậc phổ thông. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường đó, mỗi học
sinh đều được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh
vực cơ bản là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh
lại tự trang bị cho mình những kĩ năng mềm, những hiểu biết riêng về cuộc sống
xung quanh mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của mỗi người là một quá
trình dài, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng từ chính bản thân người học cũng như
từ phía gia đình và nhà trường.
Quy luật lượng – chất được thể hiện qua việc tích lũy một khối lượng
kiến thức nhất định của mỗi học sinh thông qua việc học tập và rèn luyện ở trên 9
lớp cũng như ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các bài thi,
trước hết là các kì thi học kì, sau đó là kì thi chuyển cấp học và cuối cùng là kì
thi tốt nghiệp, kết thúc 12 năm học phổ thông. Khi tích lũy đủ lượng kiến thức
cần thiết, học sinh sẽ vượt qua kì thi và chuyển sang giai đoạn học mới.
Như vậy, có thể thấy rằng, quá trình tích lũy kiến thức chính là độ ; các kì
thi chính là điểm nút, và điểm nút quan trọng nhất chính là kì thi đại học ; việc
vượt qua các kì thi chính là thực hiện bước nhảy làm cho quá trình tiếp thu tri
thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, hơn hết, vượt qua được kì thi đại
học chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt,
mở ra một thời kì phát triển mởi của lượng và chất, từ học sinh trở thành sinh
viên, tức là đã có sự thay đổi về chất.
2.2. Thực trạng của nhiều sinh viên hiện nay và biện pháp khắc phục.
Thứ nhất, nhiều sinh viên chưa thích nghi được với phương pháp học tập
và giảng dạy ở cấp bậc Đại học. So với các cấp bậc phổ thông, những môn học
ở Đại học chỉ học vào một kỳ duy nhất, nhưng ngược lại, số lượng kiến thức
mỗi người học cần tiếp thu lớn hơn rất nhiều so với các cấp học dưới. Ngoài ra,
việc tiếp cận một kiến thức mới cũng có nhiều phương pháp hơn. Bên cạnh việc
giáo viên giảng dạy trên lớp, sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu từ giáo trình
môn học, hoặc cũng có thể tiếp thu kiến thức mới từ việc đi làm thêm, thực tập,
đây là cách các bạn sinh viên thực hành các lý thuyết từ trong giáo trình, từ thầy
cô giảng dạy ra ngoài thực tế, giúp cho các bạn hiểu rõ kiến thức cũng như học
hỏi thêm nhiều kiến thức mới từ đời sống xã hội. Những điều đó đều khác biệt
hoàn toàn so với việc học tập ở phổ thông. Chính sự tăng lên về lượng kiến thức
đó khiến nhiều bạn sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức, thậm
chí có nhiều bạn cảm thấy chán nản, muốn từ bỏ việc học. Vì vậy, sinh viên cần
phải chủ động tiếp thu kiến thức, chủ động trong việc tìm hiểu kiến thức môn
học trước khi lên lớp nghe giảng, nâng cao kĩ năng tự học, tự rèn luyện. Ngoài 10
ra, cần phải có kế hoạch học tập cụ thể, phù hợp với từng môn học, hoàn cảnh
cá nhân, hình thành những kĩ năng cần thiết để đạt được kết quả tốt nhất.
Thứ hai, nhiều bạn tân sinh viên đang có tư tưởng nghỉ ngơi sau kì thi tốt
nghiệp căng thẳng, ngủ quên trên chiến thắng. Kì thi tốt nghiệp là một kì thi rất
quan trọng, việc đỗ vào trường Đại học danh giá lại là một chuyện đáng tự hào.
Chính vì vậy, nhiều bạn sinh viên sau khi đỗ vào Đại học đã có tư tưởng chủ
quan, tự mãn với những gì mình đã có, ngủ quên trên chiến thắng, không nỗ lực
trong học tập và rèn luyện. Thực tế, Đại học là cấp bậc cao hơn, có nhiều kiến
thức cao hơn, sâu rộng hơn, vì vậy chúng ta phải không ngừng học hỏi, trau dồi
kiến thức để không chỉ có điểm số cao hơn mà còn để vận dụng vào công việc trong tương lai.
Thứ ba, tư tưởng tả khuynh – khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã
thực hiện bước nhảy. Rất nhiều sinh viên lơ là trong quá trình học tập. Suốt cả
kì học, sinh viên mải mê làm thêm, kiếm tiền ; mất quá nhiều thời gian cho việc
tham gia các hoạt động ngoại khóa, mải vui chơi mà quên mất nhiệm vụ chính
của bản thân, không chú trọng vào việc học. Điều đó dẫn đến các bạn không
tích lũy nhiều kiến thức môn học trong suốt kỳ học, khi kỳ thi gần đến mới bắt
đầu ôn tập. Nhưng lúc đó thời gian gấp rút mà lượng kiến thức lại rất nhiều,
điều đó dẫn đến lượng kiến thức các bạn tiếp thu rất ít, hay thậm chí còn dẫn
đến việc gian lận trong thi cử chỉ để đạt điểm cao hoặc để vượt qua môn học.
Những điều này khiến cho lượng kiến thức mà các bạn tiếp thu chưa đầy đủ về
mặt số lượng cũng như chưa đảm bảo được chất lượng. Khi những kiến thức cơ
bản các bạn chưa có được thì khi học các môn chuyên ngành sâu hơn, khó hơn
các bạn sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp thu. Như vậy, muốn tiếp thu được càng
nhiều tri thức và đạt được kết quả cao, người học cần phải nỗ lực học hỏi, học
từ thấp đến cao, học từ dễn đến khó, những vấn đề chưa hiểu thì không được bỏ
cuộc, phải hiểu rõ từng khía cạnh của môn học thì mới có thể học tốt môn học đó. 11
Tóm lại, việc học là cả một quá trình, không được nóng vội, đốt cháy giai
đoạn. Chỉ khi tích lũy đủ về lượng, đến một giới hạn nhất định mới làm thay đổi
về chất. Do đó, trong quá trình học tập sinh viên cần phải tích lũy dần về lượng
kiến thức, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều
kiện chín muồi để thực hiện biến đổi về chất. Những việc làm vĩ đại của con
người bao giờ cũng được tổng hợp từ những việc làm bình thường. Vì vậy mỗi
sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn
luyện của mình để phát triển bản thân.
2.3. Liên hệ bản thân trong việc nhận thức và vận dụng vào ngành học Marketing.
Ngành Marketing là một ngành rất năng động, đòi hỏi sự sáng tạo không
ngừng, và sự quan sát nhạy bén. Sinh viên trong ngành Marketing ngoài việc
không ngừng phát triển bản thân thì còn cần phải rèn luyện tư duy sáng tạo, liên
tục cập nhật xu thế để bắt kịp xu hướng thị trường, hiểu rõ thị trường muốn gì
và biết được bản thân cần làm gì để có thể thành công trong lĩnh vực này.
Ngành Marketing rất đa dạng và phong phú nhưng không phải ai cũng
phù hợp và có thể theo đuổi lâu dài, bởi vì nó đòi hỏi người trong ngành cần
phải có một số yếu tố và phẩm chất nhất định. Thứ nhất, tư duy sáng tạo không
ngừng và sự đầu tư chất xám vào chiến lược. Để có thể tăng doanh thu sản
phẩm cũng như cạnh tranh với các đối thủ, người làm Marketing phải đảm bảo
được sự mới mẻ, thậm chí là khác biệt so với các sản phẩm khác thì mới thu hút
được khách hàng và tiêu thụ sản phẩm. Để làm được điều đó, bạn cần phải có
chiến lược Marketing cụ thể và đúng đắn, luôn phải làm mới các nội dung, tạo
những câu chuyện thú vị… để tiếp cận tới khách hàng. Có thể thấy rằng, sự
sáng tạo là kim chỉ nam giúp bạn đứng vững trong ngành Marketing vốn đòi hỏi
cao nhất về ý tưởng và các chiến lược truyền thông. Thứ hai, linh hoạt bắt kịp
xu hướng mới. Bởi vì Marketing là một ngành năng động nên nó luôn có sự 12
thay đổi không ngừng, liên tục tạo ra những xu hướng mới. Người trong ngành
cần phải thường xuyên theo dõi và nghiên cứu những tin tức, sự kiện đã và đang
diễn ra để bắt kịp xu hướng, cập nhật những tư liệu phục vụ cho công việc và
quá trình nghiên cứu của mình. Muốn thành công và thu hút được nhiều người
thì cần phải có sự đổi mới một cách linh hoạt nhất. Đây cũng chính là cách để
tránh bị đào thải và tránh bị các đối thủ lấn át. Thứ ba, chịu khó, chăm chỉ và
nhiệt huyết. Những chiến lược Marketing thường phải thực hiện trong một thời
gian dài, đôi khi thời gian đầu thực hiện chiến lược chưa thể đạt được thành
công mong muốn. Vì vậy phải kiên trì theo đuổi và quyết tâm thực hiện dự án
đến cùng, không bỏ cuộc giữa chừng thì mới có thể hoàn thành chiến lược đã
đưa ra. Thứ tư, phải chịu được áp lực. Bất kể ngành nghề nào cũng phải chịu áp
lực, nhưng công việc của ngành Marketing lại là công việc chịu nhiều áp lực
nhất. Ngoài những áp lực như bao ngành nghề khác, người trong ngành
Marketing còn phải chịu áp lực từ khách hàng, đối thủ cạnh tranh, làm sao để
xây dựng thương hiệu, làm sao để tăng hiệu quả bán hàng. Bởi vì Marketing là
bộ phận quan trọng nhất trong doanh nghiệp. Nếu chỉ có sản phẩm tốt thì chưa
đủ. Sự thành công hay thất bại của sản phẩm nằm ở chiến lược mà bộ phận
Marketing đề ra để quảng bá sản phẩm và tiếp cận khách hàng. Vì vậy, người
trong ngành phải chịu áp lực vô hình từ nhiều phía, đôi khi còn đến từ chính sự kì vọng bản thân.
Tuy nhiên, những yếu tố và phẩm chất nêu trên đều có thể tích lũy qua
quá trình học tập trong môi trường Đại học. Trên giảng đường Đại học, ngoài
việc được tiếp thu những lý thuyết từ sách vở, sinh viên ngành Marketing nói
chung và bản thân em nói riêng còn được rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho
công việc sau này. Đầu tiên phải kể đến đó là kĩ năng tư duy sáng tạo. Bên cạnh
việc giảng dạy lý thuyết trên lớp, giảng viên thường đưa ra các bài tập, những
câu hỏi mang tính thực tế và đòi hỏi sáng tạo cho sinh viên nghiên cứu. Để giải
quyết những câu hỏi đó, bắt buộc sinh viên phải nắm vững lý thuyết trong giáo 13
trình và khả năng tư duy sáng tạo để vận dụng những lý thuyết học được vào
thực tế. Ngoài ra, để làm tốt những bài tập mang tính ứng dụng thực tế như vậy,
sinh viên ngành Marketing còn phải nắm được xu hướng thị trường, phân tích
và nghiên cứu những xu hướng đó để giải quyết bài tập giảng viên cho một cách
tốt nhất. Tiếp theo, tính chịu khó, chăm chỉ, chịu được áp lực. Con đường tích
lũy kiến thức trên giảng đường Đại học là một con đường dài, tưởng chừng dễ
nhưng không phải ai cũng vượt qua được, bởi vì trên con đường ấy có rất nhiều
thử thách, cám dỗ, chông gai. Nếu người học không có đủ quyết tâm và ý chí thì
rất dễ nản lòng, đi sai hướng và thậm chí là bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng ngược
lại, nếu sinh viên có thể vượt qua những thử thách ấy thì không chỉ tích lũy
được lượng kiến thức mà còn rèn luyện được sự chịu khó, chăm chỉ cũng như
sự chịu đựng áp lực. Vậy nên, bản thân em thấy rằng, môi trường đại học là môi
trường hoàn hảo nhất để phát triển bản thân một cách toàn diện nhất và có thể
rèn luyện cho em những kĩ năng cơ bản và cần thiết để áp dụng vào cuộc sống
cũng như công việc sau này. 14 PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, từ những kiến thức và liên hệ đã nêu trên, có thể rút ra kết luận
cho quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại đó là mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất
của hai mặt đối lập chất và lượng, những thay đổi dần dần về lượng vượt qua
giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời tác động trở lại và duy trì sự thay đổi của lượng. Do đó, mọi sự vận động và
phát triển của các sự vật, hiện tượng cần phải biết lựa chọn thời cơ chín muồi để
thực hiện bước nhảy hiệu quả nhất.
Trong thực tế, quá trình học tập nói chung và con đường học tập của sinh
viên nói riêng cũng phải tuân theo quy luật lượng – chất. Quy luật được thể hiện
ở việc sinh viên tự tiếp thu, tích lũy kiến thức cho mình thông qua nhiều phương
pháp. Những tri thức mà sinh viên tiếp thu được sẽ được thể hiện qua các bài
thi, bài kiểm tra. Khi đã tích lũy đủ kiến thức cần thiết cho môn học cơ bản, sinh
viên sẽ được học các môn học chuyên ngành sâu hơn, nâng cao hơn. Và khi sinh
viên đã có đủ tri thức và kĩ năng chuyên ngành cần thiết thì sẽ được tốt nghiệp
và vận dụng những điều đó vào công việc trong tương lai. Để làm được điều đó,
bản thân em cũng như các bạn sinh viên ngay từ bây giờ phải phấn đấu, tập
trung học tập và rèn luyện kĩ năng cần thiết ; không được nóng vội, đốt cháy
giai đoạn, càng không được trì trệ, chậm trễ trong việc tiếp thu các kiến thức
của môn học, như vậy thì mới có thể chinh phục được các môn học cũng như
thành công trong công việc tương lai. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin. (2011). Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
Giáo trình Triết học Mác - Lê nin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên).
(2021). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật. 16